Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Chó Dẫn Đường - Đại Gia Và Nhân Quả

Trong ngày quyến luyến chia tay với Việt Nam – Mikhail Samarsky đã chính thức ra mắt quyển sách thứ 3 được yêu thích nhất ở Nga xuất bản tại Việt Nam. Bạn đọc Việt Nam đã rất thân quen với chú chó dễ thương Trison, chú chó dẫn đường cho người khiếm thị thông qua bộ sách “Cầu Vồng Trong Đêm” của nhà văn nhỏ tuổi được mệnh danh là thần đồng văn học đến từ nước Nga - Mikhail Samarsky. Câu chuyện lần này không xoay quanh cách chú chó và người khiếm thị, mà xoay quanh việc chú chó Trison suýt bị…giết chết! Câu chuyện cực kỳ hấp dẫn và lôi cuốn ngay từ những dòng đầu bởi chú chó Trison nhỏ bé và vì tác giả vô cùng thông minh đã viết nên những câu thoại cho Trison cực kỳ hấp dẫn, lôi cuốn và cả vui nhộn. Mikhail Samarsky với văn phong quen thuộc: trong trẻo, hồn nhiên, tươi sáng, nhưng cũng không kém phần chững chạc trong tư duy logic và bay bổng trong tư duy hình tượng. Nếu Cầu vồng trong đêm là kết quả của sự xử lý tinh tế nguồn tư liệu thực tế dồi dào mà Mikhail Samarsky đã dày công sưu tập cộng với các chi tiết hư cấu được đưa vào khá nhuần nhuyễn thì ở Chó dẫn đường cho đại gia, ngoài những yếu tố trên, trí tưởng tượng phong phú của tác giả đã góp phần quyết định làm nên thành công cho tác phẩm. Những tình tiết ly kỳ, những chi tiết hấp dẫn đắt giá không thể có được trong bất cứ tư liệu thực tế nào, chỉ có thể là sản phẩm của năng lực tưởng tượng phi thường mà thôi. Tưởng tượng đấy, hư cấu đấy, nhưng rất sinh động, rất đời, rất thực. Và quan trọng nhất – rất nhân ái, nhân văn, nhân bản. Một con chó bị lừa đưa ra khỏi Trường đào tạo chó dẫn đường ư? Bình thường! Nhưng mục đích cú lừa này là gì? Để lấy buồng gan của nó cấy ghép cho con chó cưng của một đại gia. Khác thường! Đại gia nọ vô cùng độc đoán, hung dữ, nhưng bà vợ của ông ta là người nhân hậu, đã tìm cách cứu thoát con chó vô tội, dù biết rằng mình có thể sẽ phải đối đầu với ông chồng “bạo chúa”. Đó là chuyện bình thường. Nhưng phương cách cứu chó của bà ấy mới thực sự khác thường . Khi “âm mưu lừa dối” bị bại lộ, trong cơn tức giận, đại gia “bạo chúa” nọ đã ra lệnh bắn chết con chó. Chuyện không bình thường, vì con chó chẳng có tội lỗi gì trong “âm mưu” này cả. Nhưng người thực thi mệnh lệnh đã tìm cách qua mặt ông chủ để cứu sống con chó. Âu cũng chuyện bình thường, vì đó là “mệnh lệnh” của lương tâm. Nhưng bước ngoặt khác thường lớn nhất là khi vị đại gia nọ gặp tai nạn, bị mù, chính con chó mà ông ta từng ra lệnh giết chết lại trở thành chó dẫn đường cho ông, trở thành một người bạn bốn chân trung thành và thân thiết nhất của ông. Lời sám hối của vị đại gia ở cuối sách cho thấy lòng nhân luôn tiềm ẩn trong mỗi con người, dù có khi họ độc ác, tàn nhẫn đến đâu đi nữa. Chính vì vậy, Chó dẫn đường, đại gia và nhân quả được độc giả và giới phê bình văn học Nga đánh giá cao. Chó dẫn đường, đại gia và nhân quả không chỉ là một cuốn truyện hành động đầy gay cấn, hấp dẫn, với những pha thoát hiểm ngoạn mục trong đường tơ kẽ tóc mà còn là một câu chuyện tình người, một lời cảnh tỉnh đối với những ai đã lỡ đánh mất lòng nhân chớ nên nhắm mắt chạy theo đồng tiền và niềm vui vật chất mà quên mất rằng sống trên đời cần quan tâm giúp đỡ cộng đồng, giúp đỡ những số phận đáng thương, bất hạnh. Gieo nhân nào ắt gặt quả ấy. *** Lời khen tặng dành cho tác phẩm “Chó dẫn đường, đại gia và nhân quả”:  “Chó dẫn đường, đại gia và nhân quả là một tuyệt tác. Tác giả Mikhail Samarsky là một con người đặc biệt. Tài năng văn chương và ý thức thiện nguyện phục vụ cộng đồng người khiếm thị của Mikhail rất đáng khâm phục. Tác phẩm của Mikhail không chỉ thuyết phục tuyệt đối giới phê bình văn học mà còn đánh động được con tim người đọc. Đó chính là phần thưởng lớn nhất cho người sáng tác.” - Nghệ sĩ nhân dân Philipp Kirkorov “Một quyển sách tuyệt vời! Một món quà vô giá cho những ai biết thương yêu, quý mến những “người bạn bốn chân” của loài người. Tác phẩm ngập tràn nhiệt huyết và lòng yêu thương. Mikhail Samarsky – một tâm hồn nhân bản, một tài năng đang phát triển, thăng hoa.” Nhà văn công huân A. Y. Skazhinsky,P. Chủ tịch hội nhà văn LB Nga, Ủy viên Hội nhà báo LB Nga. “Một tác phẩm giàu kịch tính và đầy chất nhân văn. Tác giả ở tuổi vị thành niên mà viết được như vậy quả là rất đáng khen, rất đáng trân trọng.” - Hội viên Hội nhà văn Nga, Ủy viên Hội nhà báo quốc tế, Nhà văn Vadim Kozlov “Đọc cuốn sách Chó dẫn đường, đại gia và nhân quả thật hứng thú. Ta cười đó, rồi có khi khóc đó. Thật nhiều cung bậc cảm xúc. Nhưng điều dễ nhận thấy nhất trong tác phẩm là tấm lòng nhân ái của tác giả nhỏ tuổi Mikhail Samarsky dành cho chó dẫn đường, dành cho người khiếm thị và dành cho tất cả mọi người.” -Nghệ sĩ công huân Tachiana Makarova “Là người khiếm thị, tôi thưởng thức tác phẩm Chó dẫn đường, đại gia và nhân quả qua sách nói. Đó là cuốn sách hay nhất mà tôi từng được nghe (và từng được đọc bằng mắt trước đây, khi tôi chưa bị mù). Xin cảm ơn tác giả Mikhail Samarsky. -Một độc giả khiếm thị   ***   Ngay cả trong những cơn ác mộng kinh hoàng nhất tôi cũng chưa bao giờ nằm mơ thấy những điều đáng sợ đến như vậy. Giả dụ bây giờ tôi thách các bạn đoán xem lúc này tôi đang nằm ở đâu, chắc chẳng ai đoán ra. Ôi, tôi chủ quan quá, có lẽ cũng sẽ có người đoán đúng, rằng tôi đang nằm trên bàn mổ - quả thực, loài chó thỉnh thoảng cũng mắc phải những căn bệnh mà muốn điều trị dứt điểm, đôi khi cũng cần đến sự can thiệp bằng phẫu thuật. Nhưng nếu các bạn nghĩ rằng tôi mắc phải căn bệnh hiểm nghèo nào đó thì quả là lầm to. Tôi khỏe như bò mộng. Hay như lời một bài hát nào đó, tôi “khỏe bằng hai con bò cộng lại”. Không phải tự tôi thích nằm ườn ra trên bàn mổ. Thực ra, gọi là “nằm ườn” thì chẳng mấy chính xác, vì tôi bị trói chặt đến nỗi muốn vẫy tai còn khó chứ nói chi đến chuyện cử động bốn chân và cả thân mình. Tôi rầu nẫu ruột khi viết về chuyện này, thật đấy, rất buồn và rất đáng sợ: có ai đó đang cần đến buồng gan của tôi. Ôi, ngày trước tôi từng ước ao được hưởng cảnh hưu trí an nhàn sau khi thực hiện xong bổn phận của một con chó dẫn đường, nào có bao giờ nghĩ rằng đời mình sẽ phải kết thúc một cách đớn đau và… vô bổ dưới lưỡi dao mổ của một viên bác sĩ thú y nào đó. Ôi, tức thật, tức thật! Tức muốn chết đi được! Giá chi các bạn biết được rằng trong căn phòng mổ chật hẹp này nồng nặc những thứ mùi vô cùng khó chịu – nào mùi ê-te, mùi thuốc khử trùng, mùi từ những thiết bị y tế quái quỷ gì đó… Những mùi ấy có thể giết chết tôi trước khi ông bác sĩ thú y kịp rạch mũi dao tử thần vào cái hông của tôi. Tôi nằm đó, trên bàn mổ, và cuộc đời tôi diễu qua trước mắt như một cuốn phim chiếu chậm. Qua những cuốn sách trước đây của tôi, hẳn các bạn biết, tôi đã hút chết biết bao lần. Bọn trộm chó đã nhét tôi vào cốp xe hơi rồi sau đó giam trong một nhà kho tối tăm, ẩm thấp. Một đám trẻ bắn tôi bằng ná cao su, may mà không vỡ đầu, lòi mắt. Rồi đám trẻ bụi đời suýt xả thịt tôi làm món nướng xiên que. Thậm chí tôi còn bị săn lùng bằng súng đạn ria. Mỗi lần như vậy, tôi đều may mắn thoát chết. Chứng tỏ, số tôi hên. Nhưng chỉ hên được đến thế thôi, còn bây giờ là… chấm hết. Ông bác sĩ thú y bảo rằng chỉ khoảng 15 – 20 phút nữa là ông ấy sẽ bắt tay thực hiện công việc. Hừm, “công việc”! “Giết chóc” thì có chứ “công việc” cái nỗi gì! Chỉ được cái khéo đánh tráo khái niệm! Thử nghĩ xem, có thể gọi là “công việc” được hay không khi mà người ta mổ bụng, moi gan một con chó khỏe mạnh bình thường, có khả năng lao động? Có thể điên lên được với những thứ gọi là “công việc” như vậy. Nhưng thôi, biết làm sao bây giờ? Thôi thì còn chút ít thời gian, nếu các bạn muốn, tôi xin tranh thủ kể các bạn nghe chuyện gì đã xảy ra và tại sao tôi lại bị trói cả bốn chân quẳng lên cái bàn mổ chết tiệt này. Lần gần đây nhất tôi phục vụ ông Vladimir Petrovich, nhân viên cứu hộ thuộc Bộ các tình trạng khẩn cấp. Ông bị mù cả hai mắt trong một lần tham gia cứu nạn. Nhưng rồi sau đó ít lâu, các đồng nghiệp của ông quyên tiền đưa ông sang Đức làm phẫu thuật mắt và kết quả là một con mắt đã phục hồi thị lực. Tôi được trả về trường đào tạo chó dẫn đường. Sau đó, tôi lại được giao cho một chàng thanh niên mù. Ở trong nhà chàng trai này, tôi cảm thấy không thích thú gì cả, thậm chí còn linh cảm sẽ xảy ra chuyện gì đó không ổn. Khi tham gia huấn luyện cùng với tôi ở trường, anh ta được gọi tên là Vichia, vậy mà khi vừa về nhà, anh ta lại có tên là Koschia. Tôi nghe anh ta gọi điện thoại cho ai đó, nói: “Tao đây, Koschia đây, đến ngay đi, có hàng rồi”. Sau đó anh ta tháo cặp kính đen ra, ném vào xó nhà, ngồi phịch xuống ghế bành, cáu kỉnh lẩm bẩm: - Đóng kịch bấy nhiêu đó đủ rồi. Chán quá đi thôi. Tôi nhìn anh ta và hiểu ngay rằng đó là người sáng mắt chứ chẳng phải mù lòa gì cả. Vài phút sau, anh ta quay lại, nhìn tôi trừng trừng rồi quát: - Nhìn cái gì thế? Người ta sắp đến bắt mày đi đấy. Chuyện gì thế này? Hóa ra anh ta dùng chữ “hàng” để gọi tôi. Ối cha cha!!! Từ đáy con tim, tôi cảm nhận rằng chuyện này lành ít dữ nhiều. Người ta sắp đến bắt tôi đưa đi đâu? Có nghĩa, họ đâu có cần đến chó dẫn đường? Anh chàng Vichia-Koschia này đích thực là người sáng mắt. Nhưng từ sâu thẳm lòng mình, tôi vẫn nuôi chút hi vọng là người ta sẽ đưa tôi đến với một người mù nào đó. Tôi cũng thoáng nghĩ, hay là người ta sẽ đưa tôi ra nước ngoài? Nhưng trường tôi là trường quốc gia, chỉ đào tạo chó dẫn đường cho công dân Nga mà thôi. Tuy nhiên, khi những nhân vật mới xuất hiện trong căn hộ, mọi niềm hi vọng của tôi đều tan biến hết. Giá như các bạn được nhìn thấy những bộ mặt dữ dằn ấy. Đúng là những bộ mặt thú dữ. Nắm đấm của chúng còn to hơn cả cái đầu chó của tôi. Một gã đặt tôi nằm ngửa trên lưng và đưa tay sờ nắn gì đó ở vùng bụng của tôi rồi hỏi anh chàng Vichia-Koschia: - Nó mạnh khỏe bình thường chứ? Không bị bệnh gì chứ? - Tất nhiên là nó mạnh khỏe. Sản phẩm của Trường đào tạo chó dẫn đường quốc gia mà lại. Ở trường ấy, đời nào người ta lại đi nuôi nấng, đào tạo thứ chó bệnh? Nói cho mà biết, ở trường còn có cả bệnh viện thú y. Việc tiêm chủng được thực hiện định kỳ, đều đặn theo lịch. Tóm lại, việc chăm sóc sức khỏe cho lũ chó ở đấy luôn được thực hiện trên tầm cao quốc tế. - Giấy tờ tùy thân của nó đâu? - Đây, có đây, đầy đủ. – Vichia-Koschia đưa ra các loại giấy tờ. - Tốt! – Gã trai có bộ mặt hầm hố xoa tay thỏa mãn. – Quan trọng nhất là buồng gan của nó còn xài được, chứ nếu không, sếp sẽ xé xác chúng ta ra làm trăm mảnh. – Rồi hắn quay sang gã trai đi cùng, nói: - Nào, chuẩn bị lồng rọ đi. Chỉ phút sau, tôi đã phải ngồi trong một cái lồng to vật, bản thân chẳng hiểu đầu cua tai nheo gì cả. Ông sếp nào của họ mà dữ dằn đến thế? Tại sao ông ấy lại cần đến buồng gan của tôi? Ông ấy là người thích xơi món lạ hay sao? Ôi! Bất giác tôi cảm thấy đau nhói bên hông. Nếu ông ấy thường xuyên xơi món gan chó thì không biết đã có bao nhiêu con chó oan mạng. Lạ thật đấy. Đúng là đồ quái vật! Lát sau, tôi, giống như một con báo con beo man dã nào đó, bị nhốt trong cái lồng to tướng và chắc chắn, được người ta đưa ra ngoài sân rồi tống lên một chiếc xe hơi 16 chỗ đã dẹp bớt những hàng ghế sau. Thời gian di chuyển rất lâu, không phải vì đường xa, mà vì kẹt xe liên tục. Tôi ngủ gà ngủ gật, nhưng vẫn nghe được câu chuyện của những tên “lính” áp tải. - Ông chủ của chúng ta quả là một người cực quái. Nhiều lúc cứ như trẻ con. Thật đấy. – Gã lái xe nói. - Tại sao mày nói thế? - Thì đấy. Ông ấy cứ thích phải có được con chó Labrador to vật này cơ. Phải chi cứ chọn lấy một chú cún con, rồi nuôi dạy từ từ, tùy thích. - Ôi, mày nói gì vậy? – Gã hộ pháp phản đối. – Con chó của ông ấy đang gặp vấn đề gì đó. Mọi chuyện không đơn giản như mày nghĩ đâu. - Ôi dào, - một gã khác phẩy tay, - chó với chẳng má. Một khi giàu có thì người ta có thể nghĩ ra đủ mọi chuyện điên. - Nhìn chung thì mày nói đúng đấy, - gã tài xế gật đầu biểu đồng tình. – Nếu không có tiền, bố bảo cũng chẳng ai dám làm những trò điên như vậy. Một ca phẫu thuật như thế này tốn tiền tấn chứ ít sao, tao biết chứ. - Thôi đi cha nội ơi, việc quái gì mà cứ phải đếm tiền trong túi người khác. – Một tên trong bọn cười phá. - Vấn đề không phải là tiền. – Một tên khác chen vào. – Có ai thương xót con chó này không? – Hắn hất hàm về phía tôi. – Lát nữa đây người ta sẽ rạch bụng một con chó vô tội, và thế là xong đời nó… Tôi nghe những lời ấy mà giật mình. Nhưng cho đến lúc đó tôi vẫn chưa thể nào hình dung ra được người ta cần cái gì ở tôi. Và bỗng nhiên một trong những kẻ áp giải tôi tiết lộ bí mật: - Thật đáng tiếc nếu lá gan của nó không được cơ thể con chó của ông chủ chấp nhận. Chẳng chắc gì con chó của ông ấy sống được với lá gan của con chó này. - Ghê nhỉ, - tay tài xế huýt gió ngạc nhiên, - vậy hóa ra chẳng có gì bảo đảm thành công cả sao? - Tất nhiên là chẳng có gì bảo đảm cả! - Một gã trong bọn gật đầu. - Ông bác sĩ nói rồi - năm mươi/ năm mươi. Việc cấy ghép gan thì ông ấy vẫn tiến hành, nhưng không dám hứa chắc con chó của ông chủ sẽ sống được. - Bác sĩ gì mà lạ thế! Như vậy là lừa đảo. – Gã tài xế tỏ vẻ bất bình. - Tại sao mày nói vậy? - Năm mươi / năm mươi là thế quái nào? Chẳng có chút trách nhiệm nào về lời nói của mình cả. Chẳng khác gì dự báo thời tiết theo kiểu “có thể sẽ mưa, cũng có thể sẽ nắng”. Dự đoán như thế thì ai mà chẳng dự đoán được. Trong trường hợp này cũng vậy. Cả bọn cười ồ. Nhưng tôi bắt đầu hiểu chuyện gì đang xảy ra. Chuyện là sao? Phải chăng một tay nhà giàu nào đó muốn lấy buồng gan của tôi cấy ghép cho con chó đang bị bệnh của mình hòng cứu sống nó. Thật nhân đức làm sao! Cứu một con chó bằng cách tống tiễn một con chó khác qua thế giới bên kia. Nhưng điều đáng buồn nhất là thậm chí bác sĩ cũng không xác quyết là con chó nọ sẽ sống nổi sau khi được cấy ghép gan. Và họ đã dối gạt nhà trường bằng cách nào để được nhận tôi về? Khi đến nơi, người ta chẳng cho tôi ra khỏi lồng. Ông bác sĩ chích cho tôi một mũi thuốc gì đó khiến đầu óc tôi trở nên lơ mơ, lơ mơ, nhìn thấy mọi sự việc xung quanh diễn ra y như trong một cuốn phim chiếu chậm. Tóm lại tôi đã kịp kể các bạn nghe tại sao tôi lại có mặt trên bàn mổ. Tôi thầm từ biệt cuộc đời, thầm gửi lời tạ lỗi đến tất cả những ai mà tôi vô tình xúc phạm, sủa oan. Các bạn biết không, tôi tiếc cuộc sống này quá, chỉ muốn tru lên như chó sói. Xin đừng nghĩ là tôi đớn hèn, tham sống sợ chết. Không, tôi đã chấp nhận số phận. Chỉ buồn là phải chết một cách vô nghĩa và chết như một con chó vô danh… Ôi!!! Khoan! Hình như có một cơ hội dành cho tôi chăng? Một người đàn ông và một phụ nữ bước vào phòng mổ và nhìn ngắm tôi một cách chăm chú. Người đàn ông chính là ông bác sĩ, còn người phụ nữ là… là ai tôi không biết. Nhưng trước hết hãy nghe họ nói gì với nhau: - Bác sĩ Anton, nếu không có bất cứ sự bảo đảm thành công nào thì liệu ca phẫu thuật này có ý nghĩa gì? – Người phụ nữ vung tay, hỏi giọng cáu gắt. – Nuôi một con chó khác có phải hơn không? - Ôi, thưa bà Olga Semionovna, tôi cũng đã đề nghị như vậy với ông Alexander Mikhailovich rồi đấy ạ. - Rồi ông ấy nói sao? – Bà Olga nhìn chăm chú vào mắt ông bác sĩ. - Phản đối thẳng thừng. – Ông bác sĩ chém bàn tay vào không khí. – Ông ấy bảo: “Tôi không biết, ông làm gì thì làm nhưng phải cứu bằng được con chó Grin của tôi”. Ông ấy dứt khoát không chịu nghe bất cứ ý kiến nào khác. - Nếu sau khi được ghép gan, con Grin vẫn không sống nổi thì sao? - Có Chúa biết được chuyện gì sẽ xảy ra, - ông bác sĩ nhún vai. – Nếu bà muốn, tôi xin nói thật: cơ hội được tiếp tục sống của con chó Grin là vô cùng thấp. - Nghe này, nếu… - bà Olga ngừng lời, đắn đo một lát rồi bật ra: - Nếu ta biến con chó này thành con Grin thì sao? - Như thế nghĩa là thế nào? – Ông bác sĩ há hốc mồm. - Rất đơn giản! – Bà Olga xoa xoa hai bàn tay vào nhau. – Một con chó cần bao nhiêu thời gian nghỉ ngơi tĩnh dưỡng sau phẫu thuật cấy ghép gan? - Bà nghĩ ra điều gì thế? – Ông bác sĩ tỏ ra lo sợ. - Chúng ta có thể giấu nó đi trong khoảng một tháng không? – Bà Olga hỏi. - Trước hết bà hãy cho biết, bà đã nghĩ ra kế gì? – Ông bác sĩ vẫn khăng khăng ý mình. - Tóm lại là thế này, - bà Olga nói dứt khoát: - Chúng ta sẽ hủy bỏ ca mổ! Ông bác sĩ giật mình, xua tay lia lịa. - Ối, ối, thưa bà Olga Semionovna, làm sao có thể như vậy được? Ông Alexander Mikhailovich lại chẳng moi buồng gan của tôi ra làm món pa-tê chứ ông ấy tha cho à? Không, không được đâu. Tôi không dám chơi trò mạo hiểm ấy đâu. - Bao nhiêu? – Bà Olga sầm mặt hỏi. - “Bao nhiêu” gì cơ? – Ông bác sĩ nhíu mày, co rúm người. - Ông cần bao nhiêu tiền cho sự im lặng của mình? – Bà Olga rít lên. - Thưa bà Olga Semionovna, xin bà tha cho tôi đi ạ. – Ông bác sĩ lập cập van lơn. – Xin bà hiểu cho... - Yên tâm đi, bác sĩ Anton, tôi sẽ lãnh nhận mọi hậu quả về mình nếu xảy ra điều tồi tệ. Ngày mai ông sẽ nhận một triệu rúp! - Vậy rồi chúng ta sẽ làm gì với con Grin? – Ông bác sĩ run rẩy hỏi. - Thì ông cứ hãy cứu chữa cho nó! – Bà Olga trả lời. – Trong những trường hợp tương tự, người ta sẽ phải làm gì với con chó bệnh? - Thông thường thì người ta chỉ còn cách đem chôn nó đi mà thôi. – Bác sĩ thở dài nặng nhọc. - Không! – Bà Olga nói dứt khoát. – Chúng ta sẽ không làm điều ác đó. Ông hãy cứ cứu chữa, tiêm thuốc giảm đau cho nó. Vạn bất đắc dĩ nếu nó không qua khỏi thì hãy để nó chết bằng cái chết tự nhiên. Tuyệt đối không được đem chôn khi nó chưa chết hẳn. Tôi không cho phép làm điều đó! - Tôi hiểu, – ông bác sĩ gật đầu. – Như vậy là mọi chuyện đã rõ. - Nó còn cầm cự được bao lâu nữa? – Bà Olga hỏi. - Nhiều nhất là một tuần, - bác sĩ trả lời, - nhưng chắc chỉ một hai ngày là cùng. Ông bác sĩ ngồi phịch xuống cái ghế giữa phòng, hai tay ôm đầu. - Bây giờ thế này, - bà Olga nói giọng ra lệnh, – ông sẽ nói với ông Alexander Mikhailovich rằng ca phẫu thuật đã thành công, nhưng hiện tại không được làm phiền con chó, phải để cho nó nghỉ ngơi, tĩnh dưỡng. Sau đó, mọi chuyện hãy đẩy hết qua cho tôi. Hãy nói rằng bà Olga đã đưa con chó Grin ra nhà nghỉ ngoại ô cho nó dưỡng bệnh, nghỉ ngơi sau ca mổ cấy ghép. Những gì tiếp theo hãy để mặc tôi ứng phó với ông Alexander Mikhailovich. Tôi sẽ tìm cách giải thích hợp lý nhất. Còn bây giờ, ông hãy cải trang con chó này – bà Olga chỉ tay về phía tôi – thành một con chó “hậu phẫu”, băng bó kín mít, bôi máu me lên mình nó thật nhiều, khiến ngay mẹ đẻ của nó cũng không nhận ra. Tôi sẽ trở lại sau hai hoặc ba tiếng đồng hồ. Cứ thế mà làm, không được rút lui đâu đấy. Hiểu chưa? - Thưa bà Olga Semionovna kính mến, nói thực lòng, tôi rất sợ. – Ông bác sĩ run rẩy nói. - Ông sợ ai? – Bà Olga cười khẩy. - Tôi sợ ông Alexander Mikhailovich. – Bác sĩ Anton thì thào đáp. - Điều đó cũng tốt, thậm chí rất tốt! – Bà Olga gật đầu. – Nhưng trong trường hợp này, tốt hơn hết ông phải sợ tôi. Chớ có mà làm hỏng chuyện! – Bà Olga đưa ngón tay điểm mặt, hăm dọa. - Có chết tôi cũng không dám, thưa bà! – Ông bác sĩ run run thề thốt. – Tôi còn có lối thoát nào nữa đâu. - Giỏi. Biết thế là tốt! – Bà Olga khen một câu rồi tiến về phía cửa, nhưng ở ngay ngưỡng cửa, bà ấy quay ngoắt lại hỏi: - Hi vọng, trong vòng một tháng, chúng ta có thể biến con chó này thành con Grin chứ? Làm được không? - Làm được! – Ông bác sĩ trả lời, giọng đã có phần tự tin. – Hai con khá giống nhau. Thực ra cũng cần “cải trang” lại đôi chút, tô màu mấy vệt lông cho giống, cắt xẻ đôi chỗ, kiểu như phẫu thuật thẩm mỹ, chỉnh hình ấy mà. Tai của con Grin có bị sứt sẹo đôi chỗ vì từng cắn nhau với một con chó Stafford, bà nhớ chứ, vì vậy phải chỉnh tai của con chó này sao cho giống. Nhưng mọi công việc ấy chỉ là chuyện vặt. Tôi thuộc từng sợi lông trên mình con Grin mà. - Được rồi, cứ thế tiến hành đi. Sáng mai tôi với ông Alexander Mikhailovich sẽ đến. Ông hãy liệu làm sao để chồng tôi không hề tỏ ý nghi ngờ gì cả. Nhớ băng bó thật kỹ con chó “hiến tặng nội tạng” này đấy nhé, – bà Olga mỉm cười và hất hàm về phía tôi, – vì nó sẽ phải đóng vai con Grin sau ca mổ cấy ghép. - Mọi chuyện sẽ “trên cả tuyệt vời”, thưa bà chủ! – Ông bác sĩ hứa. - Tôi rất hi vọng ở ông, bác sĩ Anton ạ. – Bà Olga vẫy tay chào rồi bước ra khỏi phòng, khép cửa lại. Ôi, cuối cùng thì đã có thể thở phào nhẹ nhõm. Như vậy có nghĩa là án tử dành cho tôi một lần nữa lại được hoãn chăng? Hình như số tôi luôn may mắn gặp được những người tốt bụng như bà Olga Semionovna. Cầu Chúa cho bà sống lâu, bà quả là một người phụ nữ tuyệt vời. Tôi sẽ chịu được ba cái vụ “cải trang” kia, xin bà đừng lo. Sơn sửa màu lông chỉ là chuyện nhỏ. Cần xẻ vành tai một chút cho giống vết thương do bị chó cắn ư? Cũng là chuyện nhỏ! Có xẻ te tua nham nhở ra cũng chẳng sao. Thậm chí cứ việc biến tôi thành giống chó doberman hay chó chăn cừu Trung Á cũng được. Tôi chấp nhận tuốt. Đã có ai nhìn thấy những giống chó ấy chưa? Chúng hoàn toàn không có vành tai, nhưng vẫn sống khỏe như thường. Quan trọng nhất là buồng gan vẫn còn nguyên trong bụng tôi và tôi tiếp tục được sống trên cõi đời này. Như vậy, tôi sẽ phải sống dưới một cái tên khác. Tên gì ấy nhỉ? Ờ, Grin. Thì đã sao nào. Một cái tên không đến nỗi tồi. Tuy nhiên, nếu tôi tìm được cách trốn thoát và trở về trường, không biết các thầy cô huấn luyện viên có nhận ra tôi không, vì lúc đó tôi đã bị tô lông thành màu khác, có khi trông sặc sỡ như con vẹt chứ chẳng chơi. Nhưng hình như tôi đã thả hồn đi quá xa. Chớ có vội mơ về ngày được trở lại trường. Để còn xem, liệu cái ông… ông gì ấy nhỉ, ờ ông Alexander Mikhailovich bạo chúa ấy có chấp nhận mi là con chó Grin của ông ấy hay không. Nhỡ chẳng may ông ấy phát hiện ra tôi chỉ là con Grin giả, nghĩa là bị đánh tráo thay cho con Grin thật của ông ấy, thì sao? Thôi thì phó mặc rủi may. Giờ đây, mọi sự chỉ có thể trông mong vào bà Olga Semionovna kính mến mà thôi. Một khi đã trót cưỡi lên lưng cọp thì ráng cưỡi cho khéo, chớ để ngã xuống, cọp nó xơi mất. Dĩ nhiên, trong chuyện này, tôi chẳng có tội lỗi gì cả. Người ta nghĩ ra những trò lừa dối gì đó, còn tôi thì lãnh hậu quả. Nhưng biết làm sao giờ, kiểu gì thì giờ đây tôi cũng sẽ phải trở thành con chó mang tên Grin của một đại gia nào đó. Dù sao thì như vậy cũng còn tốt hơn so với việc bị mổ bụng moi gan. Hai người đàn ông bước vào phòng mổ. Về sau tôi hiểu rằng đó là các phụ tá của ông bác sĩ. Cuộc “lột xác” của tôi bắt đầu.   Mời các bạn đón đọc Chó Dẫn Đường - Đại Gia Và Nhân Quả của tác giả Mikhail Samarsky & Phạm Bá Thủy (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Tuổi Già Tập 2 - Simone de Beauvoir
Simone de Beauvoir (1908 - 1986) là nhà văn, nhà triết học và một nhà đấu tranh cho nữ quyền người Pháp. Là một nhà văn từng được giải Goncourt nhưng cũng là một học giả uyên bác, các tác phẩm của bà được lấy cảm hứng từ chính cuộc đời mình đồng thời đầy ắp các dữ kiện khoa học, lịch sử, thống kê… Hai tác phẩm non-fiction được biết ở Việt Nam nhiều nhất của bà là Giới tính thứ nhì và Tuổi già. Giới tính thứ nhì (xuất bản năm 1949), được xem là một trong những quyển sách hay nhất của thế kỷ 20, là một cuốn bách khoa toàn thư về các giai đoạn của cuộc đời phụ nữ từ lúc sinh ra, dậy thì, lấy chồng, làm mẹ; đồng thời vạch ra con đường giành quyền lợi cho nữ giới. Với tác phẩm này, bà được xem là “Bà mẹ của phong trào nữ quyền". Tuổi già được viết lúc Beauvoir hơn 50 tuổi, mô tả chi tiết cuộc sống của người già và đấu tranh giành quyền cho họ. Người ta chỉ có thể hiểu được thân phận người già khi ở tuổi đó. “50 tuổi, tôi giật nảy mình khi một nữ sinh viên Mỹ kể lại với mình câu nói của một cô bạn: "Nhưng Simone de Beauvoir là một bà già chứ sao!" Cả một truyền thống dồn cho từ ngữ này một cái nghĩa xấu; nó vang lên như một lời thoá mạ. Vì vậy, người ta phản ứng, thường bằng giận dữ, khi nghe người khác bảo mình già. Tôi có biết nhiều người phụ nữ được biết tuổi tác của mình một cách khó chịu qua một kinh nghiệm giống như kinh nghiệm Marie Dormoy: một người đàn ông, bị vẻ trẻ trung của hình bóng bà đánh lừa, đi theo bà trên đường phố; đến khi đi vượt qua bà và trông thấy gương mặt bà, thì thay vì bắt chuyện, ông ta rảo bước.” "Bạn có biết khuyết tật nào lớn nhất trong các khuyết tật không? Đó là tuổi trên 55" – Tourgueniev. Vào tuổi 55, Trotsky phàn nàn người mệt mỏi, mất ngủ, hay quên; ông có cảm giác sức lực sút kém; và lo lắng. Ông gợi lại quá khứ: "Anh buồn bã nhớ lại tấm ảnh của em, tấm ảnh của chúng ta, trong đó chúng ta trẻ trung biết chừng nào”. Già đi – đó là một điều không thể tránh khỏi và cũng là một quá trình chấp nhận đầy đau đớn. "Wagner kinh hãi thấy mình già đi, 80 tuổi, ông viết: “Hình hài tôi làm người ta khiếp sợ và khiến tôi u sầu một cách xót xa”. Sự suy sụp về thể chất khiến người già không còn có thể tham gia sản xuất hay xây dựng, do đó họ bị xem như gánh nặng, phải phụ thuộc vào người khác. Beauvoir viết về những trại dưỡng lão ở ngoại ô Paris với những người già như bị xã hội bỏ quên, sống mòn mỏi chờ đợi những cuộc viếng thăm của con cháu. Theo Beauvoir, đối đãi công bằng với người già là cách ứng xử có trước có sau mà nếu khác đi là làm lung lay gốc rễ của xã hội hiện đại. Mời các bạn đón đọc Tuổi Già Tập 2 của tác giả Simone de Beauvoir.
Tuổi Già Tập 1 - Simone de Beauvoir
Simone de Beauvoir (1908 - 1986) là nhà văn, nhà triết học và một nhà đấu tranh cho nữ quyền người Pháp. Là một nhà văn từng được giải Goncourt nhưng cũng là một học giả uyên bác, các tác phẩm của bà được lấy cảm hứng từ chính cuộc đời mình đồng thời đầy ắp các dữ kiện khoa học, lịch sử, thống kê… Hai tác phẩm non-fiction được biết ở Việt Nam nhiều nhất của bà là Giới tính thứ nhì và Tuổi già. Giới tính thứ nhì (xuất bản năm 1949), được xem là một trong những quyển sách hay nhất của thế kỷ 20, là một cuốn bách khoa toàn thư về các giai đoạn của cuộc đời phụ nữ từ lúc sinh ra, dậy thì, lấy chồng, làm mẹ; đồng thời vạch ra con đường giành quyền lợi cho nữ giới. Với tác phẩm này, bà được xem là “Bà mẹ của phong trào nữ quyền". Tuổi già được viết lúc Beauvoir hơn 50 tuổi, mô tả chi tiết cuộc sống của người già và đấu tranh giành quyền cho họ. Người ta chỉ có thể hiểu được thân phận người già khi ở tuổi đó. “50 tuổi, tôi giật nảy mình khi một nữ sinh viên Mỹ kể lại với mình câu nói của một cô bạn: "Nhưng Simone de Beauvoir là một bà già chứ sao!" Cả một truyền thống dồn cho từ ngữ này một cái nghĩa xấu; nó vang lên như một lời thoá mạ. Vì vậy, người ta phản ứng, thường bằng giận dữ, khi nghe người khác bảo mình già. Tôi có biết nhiều người phụ nữ được biết tuổi tác của mình một cách khó chịu qua một kinh nghiệm giống như kinh nghiệm Marie Dormoy: một người đàn ông, bị vẻ trẻ trung của hình bóng bà đánh lừa, đi theo bà trên đường phố; đến khi đi vượt qua bà và trông thấy gương mặt bà, thì thay vì bắt chuyện, ông ta rảo bước.” "Bạn có biết khuyết tật nào lớn nhất trong các khuyết tật không? Đó là tuổi trên 55" – Tourgueniev. Vào tuổi 55, Trotsky phàn nàn người mệt mỏi, mất ngủ, hay quên; ông có cảm giác sức lực sút kém; và lo lắng. Ông gợi lại quá khứ: "Anh buồn bã nhớ lại tấm ảnh của em, tấm ảnh của chúng ta, trong đó chúng ta trẻ trung biết chừng nào”. Già đi – đó là một điều không thể tránh khỏi và cũng là một quá trình chấp nhận đầy đau đớn. "Wagner kinh hãi thấy mình già đi, 80 tuổi, ông viết: “Hình hài tôi làm người ta khiếp sợ và khiến tôi u sầu một cách xót xa”. Sự suy sụp về thể chất khiến người già không còn có thể tham gia sản xuất hay xây dựng, do đó họ bị xem như gánh nặng, phải phụ thuộc vào người khác. Beauvoir viết về những trại dưỡng lão ở ngoại ô Paris với những người già như bị xã hội bỏ quên, sống mòn mỏi chờ đợi những cuộc viếng thăm của con cháu. Theo Beauvoir, đối đãi công bằng với người già là cách ứng xử có trước có sau mà nếu khác đi là làm lung lay gốc rễ của xã hội hiện đại. *** Khi còn là thái tử Siddharta, bị vua cha nhốt trong một tòa lâu đài tráng lệ, nhiều lần Thích Ca trốn đi dạo chơi bằng xe ngựa trong vùng. Trong lần dạo chơi đầu tiên, thái tử gặp một người tàn tật, tóc bạc, răng rụng, da nhăn nheo, cúi gập người trên một cây gậy, miệng lập cập, hai tay run rẩy. Chàng lấy làm ngạc nhiên và người xà ích giải thích đó là một ông già. Thái tử liền thốt: “Những kẻ hèn yếu và dốt nát, chuếnh choáng vì niềm kiêu hãnh của tuổi trẻ, không thấy được tuổi già. Khốn khổ biết chừng nào! Hãy trở nhanh về nhà thôi. Các trò chơi và niềm vui mà làm gì, vì ta là nơi ẩn náu của tuổi già mai sau”. Qua một ông già Thích Ca nhận ra số phận của chính mình, sinh ra để cứu vớt loài người, Thích Ca muốn chia sẻ hoàn toàn với số phận của họ. Và về điểm này, Người khác họ: họ lẩn tránh những gì không làm họ vui lòng. Và đặc biệt là tuổi già. Châu Mỹ đã loại trừ ra khỏi từ vựng của họ từ: người chết: mà chỉ nói người khuất bóng thân yêu; cũng giống như vậy, họ tránh liên hệ tới tuổi già. Ở nước Pháp ngày nay, đó là một đề tài cấm kỵ. Khi bắt buộc phải vi phạm điều cấm kỵ ấy, tôi đã bị người ta la ó! Chấp nhận mình đã bước vào ngưỡng cửa của tuổi già, tức là cho rằng nó rình rập tất cả mọi người phụ nữ, rằng nó đã tóm cổ nhiều người. Với thái độ dễ thương hay giận dữ, nhiều người, nhất là người già, không ngớt nhắc đi nhắc lại với tôi rằng làm gì có tuổi già! Có những người không trẻ bằng những người khác, chỉ thế thôi! Đối với xã hội, tuổi già xuất hiện như một điều bí ẩn đáng xấu hổ, mà nói tới là điều khiếm nhã. Trong mọi lĩnh vực, văn học viết rất nhiều về phụ nữ, về trẻ em, về thiếu niên; ngoài các công trình chuyên môn, người ta rất ít ám chỉ tới tuổi già. Một tác giả băng hoạt hình đã phải làm lại cả một loạt tác phẩm vì trước đó ông ta đã đưa vào trong số các nhân vật một cặp vợ chồng đáng tuổi làm ông làm bà: “Hãy loại bỏ người già đi!” - người ta hạ lệnh cho ông ta[1]. Khi tôi nói mình viết một cuốn tiểu luận về tuổi già, người ta thường thốt lên: “Sao lại kỳ thế!... Bà đâu có già!... Đề tài ấy, ngán lắm...” Chính vì lý do ấy mà tôi viết cuốn sách này: để phá tan sự đồng tình im lặng. Theo Marcuse, xã hội tiêu thụ đem một ý thức tốt đẹp thay thế cho ý thức xấu xa và bài xích mọi ý nghĩ tội phạm. Cần khuấy động sự yên ổn của nó. Đối với người có tuổi, nó chẳng những là phạm tội, mà còn là một tội ác. Ẩn náu phía sau các huyền thoại bành trướng và phong túc, nó cho người già là những kẻ khốn cùng. Ở Pháp, nơi tỷ lệ người già cao nhất thế giới - 12% dân số trên 65 tuổi - họ bị dồn vào cảnh khốn cùng, cô đơn, tàn tật, thất vọng. Ở Mỹ, số phận của họ cũng không sung sướng hơn. Nhằm dung hòa sự man rợ này với thứ đạo lý nhân văn chủ nghĩa mà họ thuyết giáo, giai cấp thống trị có cách đơn giản là không xem họ là những con người; nếu nghe tiếng nói của họ, người ta bắt buộc phải thừa nhận đó là một tiếng nói của con người; tôi sẽ buộc độc giả của mình nghe tiếng nói ấy. Tôi sẽ miêu tả hoàn cảnh của họ và cách họ sống; tôi sẽ nói những gì diễn ra thực sự trong đầu óc và trong con tim họ - những thứ bị dối trá, huyền thoại và những lời sáo rỗng của nền văn hóa tư sản xuyên tạc. Vả lại, thái độ của xã hội đối với họ mang tính chất đồng lõa sâu sắc. Nói chung, xã hội không coi tuổi già là một lớp tuổi rõ rệt. Cuộc khủng hoảng về tuổi dậy thì cho phép vạch ra giữa một thiếu niên và người trưởng thành một đường ranh giới chỉ mang tính võ đoán trong những giới hạn chật hẹp; ở tuổi 18, 21, thanh niên được chấp nhận vào xã hội con người. Hầu như bao giờ xung quanh sự thăng tiến ấy cũng có những “nghi thức chuyển giai đoạn”. Còn thời điểm bắt đầu tuổi già thì không được xác định rõ rệt, nó thay đổi theo từng lúc, từng nơi. Không ở đâu, người ta bắt gặp “nghi thức chuyển giai đoạn” thiết lập một quy chế mới[2], về chính trị, suốt đời, cá nhân giữ nguyên những quyền lợi và nghĩa vụ giống nhau. Luật Dân sự không mảy may phân biệt giữa một cụ già trăm tuổi và một người tuổi bốn mươi. Các nhà làm luật cho rằng ngoài những trường hợp bệnh lý ra, trách nhiệm hình sự của người có tuổi cũng hoàn toàn đầy đủ như của thanh niên[3]. Trong thực tiễn, người ta không coi họ là một lớp người riêng, vả lại, họ cũng không muốn như vậy; có sách, báo, sân khấu, những buổi truyền hình và truyền thanh dành cho trẻ em và thiêu niên: còn đối với người già thì không[4]. Trên tất cả những bình diện này, người ta đồng hóa họ với lớp người lớn tuổi trẻ hơn. Nhưng khi quyết định quy chế kinh tế của họ, hình như người ta cho là họ thuộc một lớp người xa lạ: họ không có những nhu cầu cũng như những tình cảm giống như những người khác, nếu chỉ cần ban cho họ một chút bố thí khốn khổ là cảm thấy hết nợ đối với họ. Các nhà kinh tế học, các nhà làm luật tin vào cái ảo ảnh thuận tiện ấy khi phàn nàn cái gánh nặng những người không hoạt động gây nên cho những người hoạt động: như thể những người này không phải là những người không hoạt động trong tương lai và không bảo đảm chính ngày mai của mình trong lúc xây dựng việc nhận lấy trách nhiệm đối với những người có tuổi. Còn các nhà hoạt động công đoàn thì không nhầm lẫn: khi đưa ra những đòi hòi, bao giờ họ cũng coi trọng vấn đề hưu trí. Những người già không tạo nên một lực lượng kinh tế nào thì không có cách gì để đòi hỏi quyền lợi của mình: lợi ích của những kẻ bóc lột, là tiêu diệt tình đoàn kết giữa người lao động và người không sản xuất, sao cho không một ai bênh vực những người này. Những huyền thoại và lời sáo rỗng theo tư duy tư sản tìm cách chỉ ra một con người khác trong người già. “Chính với những thiếu niên sống khá nhiều năm mà cuộc đời tạo nên lớp người già” - Proust từng nhận định như vậy - họ giữ lại những nết tốt và những tật xấu của con người trong họ. Điều đó, dư luận không muốn biết tới. Nếu biểu thị những ham muốn, những tình cảm, những đòi hỏi giống như những người trẻ tuổi, thì người già làm người ta công phẫn; ở họ, tình yêu nam nữ, lòng ghen tuông hình như là bỉ ổi hay lố bịch, còn tình dục thì đáng ghê tởm và bạo lực thì chẳng có nghĩa lý gì. Họ phải là tấm gương về mọi đức tính. Trước hết, người ta đòi hỏi ở họ sự thanh thản; người ta khẳng định họ có lòng thanh thản ấy, nên cho phép người ta không quan tâm tới nỗi bất hạnh của họ. Cái hình ảnh người ta tô vẽ về họ là hình ảnh một nhà Hiền triết trong ánh hào quang của một mái tóc bạc trắng, giàu kinh nghiệm và khả kính, vượt lên rất xa thân phận con người; nếu rời khỏi hình ảnh ấy, là họ rơi xuống phía dưới; cái hình ảnh đối lập với hình ảnh trên đây, là hình ảnh một lão già điên lẩm cẩm, lố lăng, bị trẻ em chế giễu. Dẫu sao, do đức độ hay do sự đê tiện của họ, họ ở ngoài nhân loại. Vì vậy, người ta có thể không ngại ngần khước từ đối với họ những gì tối thiểu được coi là cần thiết cho một cuộc sống con người. Người ta đẩy xa sự loại thải này tới mức làm cho nó quay trở lại chống chính bản thân mình; người ta sẽ không công nhận bản thân mình trong hình ảnh ông già mà chính mình là ông già đó. Proust nhận xét một cách xác đáng: “Trong mọi hiện thực, (tuổi già) có lẽ là hiện thực mà chúng ta giữ lại một khái niệm thuần túy trừu tượng lâu bền nhất trong đời”. Tất thảy mọi người đều khả tử: họ nghĩ tới điều đó. Nhiều người trong số họ trở thành người già: hầu như không một ai hình dung trước sự biến đổi ấy. Người ta không chờ đón, không dự kiến một cái gì khác ngoài tuổi già. Khi được hỏi về tương lai của họ, thanh niên, nhất là nữ thanh niên, cho đời mình kéo dài nhiều nhất đến tuổi 60. Một số cô gái bảo: “Em không chờ đến ngày ấy, em sẽ ra đi trước đó”. Và thậm chí, một vài cô nói: “Em sẽ tự sát trước ngày ấy”. Người trưởng thành hành động như thế không bao giờ phải trở thành người già. Thông thường, người lao động kinh hoàng khi điểm giờ nghỉ hưu: thời hạn nghỉ hưu vốn đã được ấn định trước, người đó biết thời hạn ấy, nhẽ ra họ phải chuẩn bị sẵn. Sự thật là sự hiểu biết ấy vẫn xa lạ đối với họ cho tới giây phút cuối cùng - trừ phi nó thực sự mang tính chất chính trị. Đến ngày đó, và khi đã bước tới gần, thông thường, người ta thích tuổi già hơn là cái chết. Tuy vậy, đứng cách xa, người ta xem xét cái chết sáng suốt hơn cả. Cái chết nằm trong phạm vi những khả năng trực tiếp của chúng ta, uy hiếp chúng ta ở mọi lứa tuổi; có lúc chúng ta suýt chết; thông thường, chúng ta sợ chết. Con người ta không trở nên già nua trong chốc lát; ở tuổi thanh niên hay lúc tráng niên, chúng ta không nghĩ là tuổi già tương lai đã tiềm ẩn trong con người mình như Thích Ca: tuổi già ấy cách xa chúng ta tới mức khoảng cách ấy lẫn lộn trước mắt mình với sự vĩnh hằng: tương lai đối với chúng ta như thể phi hiện thực. Vả lại, cái chết không là gì cả; người ta có thể cảm thấy một nỗi bàng hoàng siêu hình trước cái hư vô ấy, nhưng bằng một cách nào đó, nó làm người ta yên lòng, nó không đặt thành vấn đề. “Ta sẽ không còn nữa”. : ta giữ hình tích của mình trong sự tiêu vong ấy[5]. Ở tuổi 20, hay 40, tôi nghĩ mình già, tức là nghĩ mình là người khác. Trong mọi sự biến đổi, đều có một cái gì đó khủng khiếp. Ở tuổi ấu thơ, tôi bàng hoàng, và thậm chí kinh hoàng khi hiểu ra sẽ có ngày mình sẽ trở thành người lớn. Nhưng ý muốn mình vẫn là bản thân mình, thường được bù đắp ở buổi thiếu thời bởi những lợi thế của quy chế người trưởng thành. Còn tuổi già thì xuất hiện như một nỗi bất hạnh: ngay cả ở những người mà người ta cho là vẫn giữ được vẻ quắc thước, sự suy sụp về thể chất mà tuổi già kéo theo cũng vẫn lồ lộ trước mắt. Vì ở loài người, sự đổi thay do năm tháng là nổi bật nhất. Loài vật thì gầy đi, yếu đi, nhưng không biến đổi. Còn con người thì có. Người ta se lòng khi nhìn thấy bên cạnh một thiếu phụ trẻ, phảng phất trong gương hình ảnh chính mình những năm tháng sau này: tức là mẹ mình. Theo Lévi-Strauss, người Da đỏ Namblikwara chỉ có một từ để nói “trẻ và đẹp” và một từ để nói “già và xấu”. Trước hình ảnh người già gợi ý với chúng ta về tương lai của mình, chúng ta không tin; một tiếng nói nội tâm thầm thì một cách phi lý với chúng ta rằng điều đó sẽ không đến với mình: sẽ không còn là chúng ta nữa khi điều đó xảy tới. Trước khi nó ập xuống chúng ta, tuổi già là cái chỉ liên quan tới ngườl khác. Vì vậy, có thể hiểu vì sao xã hội có thể khiến chúng ta không coi người già là đồng loại của mình. Thôi, chúng ta đừng tự lừa dối mình nữa; ý nghĩa cuộc sống chúng ta nằm trong tương lai đang đón đợi mình; chúng ta không biết mình là ai, nếu không muốn biết mình sẽ là người thế nào: chúng ta hãy tự nhận biết mình ở ông lão kia, ở bà già nọ. Cần phải như vậy nếu chúng ta muốn đảm nhận thân phận con người của mình một cách trọn vẹn. Chỉ có như vậy, chúng ta mới không còn chấp nhận một cách thờ ơ nỗi bất hạnh của lứa tuổi cuối cùng, chúng ta sẽ cảm thấy mình ở trong cuộc: và quả chúng ta ở trong cuộc. Nỗi bất hạnh ấy tố cáo một cách vang dội chế độ bóc lột chúng ta đang sống. Người ta không thể tự mình thỏa mãn nhu cầu của mình, bao giờ cũng bị coi là một gánh nặng. Nhưng trong những tập thể có một sự bình đẳng nào đó - trong lòng một cộng đồng nông thôn, ở một số dân tộc nguyên thủy - người đứng tuổi, tuy không muốn biết, vẫn biết ngày mai thân phận của mình sẽ là thân phận mà ngày hôm nay người đó quy cho người già. Đấy là ý nghĩa truyện cổ tích của Grim, được thuật lại ở mọi miền thôn dã. Một gã nông dân bắt người cha già ăn riêng, trong một cái máng gỗ nhỏ; hắn bất chợt thấy đứa con trai đang ghép những miếng ván. Nó bảo ông bố: “Cho bố đấy, khi bố về già”. Thế là ông già lại ngồi vào bàn ăn cùng cả nhà. Trước lợi ích lâu dài và lợi ích trước mắt, các thành viên còn hoạt động trong tập thể sáng tạo nên những sự thỏa hiệp. Tình trạng cấp bách của nhu cầu buộc một số người nguyên thủy giết chết bố mẹ, dù về sau, có phải chịu một số phận như thế. Trong những trường hợp ít căng thẳng hơn, sự phòng xa và tình cảm gia đình chế ngự tính ích kỷ. Trong thế giới tư bản, lợi ích dài hơn không còn tác dụng: những kẻ có đặc quyền và quyết định số phận của đám đông không sợ phải nếm trải số phận ấy. Còn những tình cảm nhân văn chủ nghĩa thì không bao giờ can thiệp tới, mặc dù những lời huyênh hoang dối trá. Cơ sở của nền kinh tế là lợi nhuận; trên thực tiễn, toàn bộ nền văn minh phụ thuộc vào nó: người ta chỉ quan tâm tới tập thể người trong một doanh nghiệp trong chừng mực tập thể ấy có lợi. Sau đó, họ bị vứt bỏ. Tại một hội nghị gần đây, tiến sĩ Leach, nhà nhân chủng học ở Cambritgiơ tuyên bố: “Trong một thế giới đang chuyển động, trong đó máy móc có những cuộc đời rất ngắn ngủi, con người không nên phục vụ quá lâu. Tất cả những gì vượt qua 55 năm tuổi đều phải loại bỏ”[6]. Cái từ “đồ bỏ đi” nói đúng điều nó muốn nói. Người ta kể lể với chúng ta rằng nghỉ hưu là thời gian của tự do và giải trí; có những nhà thơ ca ngợi “lạc thú nghỉ ngơi”. Đó là những lời dối trá vô liêm sỉ. Xã hội áp đặt cho số đông người già mức sống khốn khổ tới mức từ ngữ “già nua và đói nghèo” trở thành hầu như một từ thừa (pléonasme); ngược lại, số đông người bần cùng là người già. Nhàn rỗi không mở ra cho người nghỉ hưu những khả năng mới; vào lúc cá nhân, đến phút cuối cùng, được giải thoát khỏi những sự ràng buộc, người ta tước đoạt của họ mọi phương tiện sử dụng quyền tự do. Họ buộc phải sống lay lắt trong cô đơn và phiền muộn, như một vật phế thải không hơn không kém. Khi trong mười lăm hay hai mươi năm cuối đời, một con người chỉ còn là một vật chẳng ai đoái hoài, thì đó là sự thất bại của nền văn minh chúng ta: sự thật hiển nhiên ấy khiến chúng ta nghẹn ngào nếu chúng ta coi người già là những con người từng có một cuộc sống con người phía sau họ, chứ không phải là những xác chết dật dờ. Những ai tố cáo cái chế độ đọa đày vốn là chế độ chúng ta, phải đưa điều điếm nhục ấy ra ánh sáng. Chính bằng cách tập trung nỗ lực của mình vào thân phận những người xấu số nhất, người ta có thể làm lay chuyển một xã hội. Để phá hủy hệ thống đẳng cấp, Gandhi tìm cách giải quyết thân phận tầng lớp Tiện dân (parias); nhằm tiêu hủy gia đình phong kiến, nước Trung Hoa cộng sản giải phóng phụ nữ. Đòi hỏi con người cứ phải là con người ở lứa tuổi cuối cùng của họ bao hàm một sự đảo lộn triệt dể. Không thể thu được kết quả ấy với một vài cải cách hạn hẹp không đụng chạm tới hệ thống: chính nạn bóc lột người lao động, chính quá trình phân hủy xã hội và sự khốn cùng của một nền văn hóa chỉ dành riêng cho tầng lớp quan lại, dẫn tới những cảnh già nua phi-nhân văn ấy. Chúng chỉ ra rằng cần làm lại tất cả, từ đầu. Chính vì vậy, vấn đề này bị nhấn chìm trong im lặng hết sức kỹ lưỡng; và chính vì vậy, cần phá tan sự im lặng ấy: tôi mong đợi độc giả giúp đỡ tôi trong công việc này.   Mời các bạn đón đọc Tuổi Già Tập 1 của tác giả Simone de Beauvoir.
Tuyệt Mật Trong Buồng Lái - Patrick Smith
Hơn bao giờ hết, đi máy bay là tâm điểm của sự tò mò, thích thú, lo lắng, và tức giận. Trong các chương sau đây, tôi sẽ cố gắng hết sức để đưa ra câu trả lời cho những ai tò mò, làm yên lòng những ai lo lắng, và những sự thật không ngờ dành cho những ai bị đánh lừa. Có lẽ các bạn khi cầm trên tay cuốn sách này đều nhận biết rõ đây là một tác phẩm kiến thức phổ thông, bình thường như mọi cuốn sách giáo khoa hay cẩm nang khoa học thường thức. Nhưng tôi tin là cuốn sách này phi thường hơn thế. Để làm được điều vĩ đại trên, cần nhiều hơn những năm miệt mài thực tập căng thẳng trong buồng lái và những chuyến bay thực nghiệm nguy hiểm, nhiều hơn những tố chất cần có của một phi công, nhiều hơn cả một cái đầu lạnh và một trái tim gan dạ, và thật nhiều hơn những may mắn không tên. Không thể hiểu rõ được những điều trên nếu ta chưa từng đọc qua cuốn sách này. *** “Tuyệt mật trong buồng lái là tài liệu nên nằm trong túi lưới đằng sau mỗi ghế ngồi.” —David Pogue, thông tín viên tờ The New York Times và tổng biên tập chương trình PBS “Là một cây viết xuất sắc, Patrick Smith mang đến một chuyến du lịch đầy tiếng cười trong một ngành vốn bị hiểu lầm—một chuyến đi vào thế giới hàng không, chẳng hề có những thuật ngữ rắc rối mà đầy ắp sự hài hước và hiểu biết sâu sắc.” —Christine Negroni, nhà văn chuyên viết về hàng không và tác giả của cuốn sách Flying Lessons “Đặc sắc và cung cấp kiến thức tuyệt vời. Một thành tựu cao xa, một cuốn sách không thể thiếu được dành cho bất kỳ ai di chuyển bằng đường hàng không, nghĩa là tất cả mọi người. —James Kaplan “Patrick Smith cực kỳ thông hiểu về ngành hàng không hiện đại và truyền tải thông tin xuất sắc bằng tiếng Anh, chứ không bằng tiếng phi công. Smith là người bạn cùng buồng lái, bạn đồng hành, cây viết, và người giải thích lý tưởng.” —Alex Beam, Boston Globe “Thật vui thích làm sao khi được đọc những lời giải thích và bình luận tao nhã đến ngạc nhiên của Patrick Smith. Thế giới cần có một người viết thật đơn giản và hợp lý kiểu E. B. White về chủ đề mà tất cả mọi người đều thắc mắc.” —Berke Breathed “Thực tế một cách xuất sắc và thật khiến người ta vững tâm.” —Cath Urquhart, The Times (London) “Giá mà tôi có thể gấp gọn Patrick Smith rồi cất anh ta vào vali của mình. Dường như anh ta biết mọi điều đáng để biết về ngành hàng không.” —Stephen J. Dubner, đồng tác giả cuốn Kinh tế học hài hước “Sắc sảo và sâu sắc.” —Joe Sharkey, The New York Times “Tuyệt vời.” —Rudy Maxa, the Savvy Traveler “Ask the Pilot thực sự khiến cho việc đi máy bay trở nên vui vẻ. Patrict Smith làm sáng tỏ được trải nghiệm này và nhắc chúng ta nhớ đến sự kỳ diệu của hàng không. Anh cũng có óc hài hước tuyệt vời—đây là điều rất quan trọng khi mà bạn bị nhồi nhét vào ghế 14D trên một chiếc máy bay tầm khu vực.” —Chris Bohjalian, tác giả cuốn sách The Night Strangers và Midwives Mời các bạn đón đọc Tuyệt Mật Trong Buồng Lái của tác giả Patrick Smith.
Ikigai - Đi Tìm Lý Do Thức Dậy Mỗi Sáng
Ý nghĩa cuộc đời mình là gì? Phải chăng mục đích chỉ là để sống lâu hơn, hay nên tìm kiếm một mục đích lớn lao? Tại sao có những người biết rõ điều họ muốn và sống trọn đam mê cả cuộc đời, trong khi số khác lại héo mòn trong lú lẫn? Trong cuộc trò chuyện của chúng tôi, từ bí ẩn ikigai được nhắc đến. Trong tiếng Nhật, Ikigai có nghĩa là “đi tìm mục đích sống của đời bạn” hoặc là “một lý do để thức dậy mỗi sáng”. Người Nhật quan niệm rằng mỗi người đều có một ikigai – mục đích sống. Và theo người dân của ngôi làng sống thọ nhất thế giới tại Nhật Bản, tìm ikigai là chìa khóa để có được cuộc sống hạnh phúc và lâu dài. Sở hữu một ikigai rõ rãng tức là mỗi sáng thức giấc, bạn có thể vùng dậy với cảm giác vui sướng, sẵn sàng sống một ngày thật năng động, hạnh phúc và đầy ý nghĩa. Trong cuốn sách Ikigai - Đi Tìm Lý Do Thức Dậy Mỗi Sáng này, các tác giả đã tiến hành phỏng vấn người dân sống tại làng Ogimi, ngôi làng có tỷ lệ người thọ trên trăm tuổi cao nhất thế giới. Từ đó, hé lộ bí quyết hạnh phúc và trường thọ của họ, đồng thời đem đến cho bạn những công cụ thực tiễn để khám phá ikigai của bản thân. Cuộc sống không phải là một vấn đề cần giải quyết. Chỉ cần nhớ rằng phải có thứ gì đó khiến bạn bận rộn làm những điều mình yêu thích trong khi có những người yêu quý bạn ở bên. Ikigai của mỗi người là khác nhau, nhưng có một điểm chung là tất cả chúng ta đều đang tìm kiếm ý nghĩa của cuộc sống. Khi dành nhiều ngày để gắn kết với thứ có ý nghĩa với bản thân, chúng ta sẽ sống hạnh phúc hơn.  Hãy tìm ra và theo đuổi ikigai của mình, để mỗi sớm thức dậy, bạn biết mình đang sống vì điều gì. *** Điều gì mang lại ý nghĩa cho cuộc sống? Lý do tồn tại của bạn là gì? Tại sao có những người biết rõ điều họ muốn và sống trọn đam mê cả cuộc đời, trong khi số khác lại giạt trôi trong một thế giới đầy mơ hồ và mỏi mệt? Người Nhật quan niệm rằng mỗi người đều có một ikigai - mục đích sống. Và theo người dân của ngôi làng sống thọ nhất thế giới tại Nhật Bản, tìm ra ikigai là chìa khóa để có được cuộc sống hạnh phúc và lâu dài. Sở hữu một ikigai rõ ràng tức là mỗi sống thức giấc, bạn có thể vùng dậy với cảm giác vui sướng, sẵn sàng sống một ngày thật năng động, hạnh phúc và đầy ý nghĩa. Trong cuốn sách này, các tác giả đã tiến hành phỏng vấn người dân sống tại Ogimi, ngôi làng có tỷ lệ người thọ trên trăm tuổi cao nhất thế giới. Từ đó, hé lộ bí quyết hạnh phúc và trường thọ của họ, đồng thời đem đến cho bạn những công cụ thực tiễn để khám phá ikigai của bản thân. Hãy tìm ra và theo đuổi ikigai của mình, để mỗi sớm mai thức dậy, bạn biết mình đang sống vì điều gì. *** HÉCTOR GARCÍA Sinh ra tại Tây Ban Nha, ông đồng thời có thêm quốc tịch Nhật Bản, nơi ông đã sống hơn mười năm. Ông từng làm kỹ sư phần mềm cho Tổ chức Nghiên cứu Hạt nhân châu Âu tại Thụy Sĩ. Sau đó, ông chuyển đến Nhật Bản và phát triển phần mềm nhận dạng giọng nói cũng như công nghệ phục vụ cho các công ty khởi nghiệp của thung lũng Silicon muốn tiến vào thị trường Nhật Bản. Ông là chủ trang blog nổi tiếng kirainet.com và là tác giả của A Geek in Japan, một cuốn sách bán chạy hàng đầu tại Nhật Bản. FRANCESC MIRALLES Sinh ra và lớn lên tại Barcelona, ông theo học chuyên ngành báo chí, văn học Anh và tiếng Đức. Hiện ông làm công việc biên tập, dịch thuật, viết thuê và cả sáng tác nhạc. Ông là một tác giả nổi tiếng với nhiều đầu sách bán chạy. Tiểu thuyết Love In Lowercase của ông đã được dịch sang 20 thứ tiếng. *** LỜI NÓI ĐẦU IKIGAI: Một từ bí ẩn Mối lương duyên hình thành nên cuốn sách này bắt đầu từ một đêm mưa ở Tokyo, khi chúng tôi lần đầu trò chuyện tại một quán bar nhỏ trong thành phố. Do khoảng cách địa lý xa xôi giữa Barcelona và thủ đô của Nhật Bản, chúng tôi chưa bao giờ gặp mặt dù từng đọc tác phẩm của nhau. Thế rồi, một người bạn chung kết nối hai chúng tôi, khởi đầu cho một tình bạn dẫn đến dự án này và dường như tình bạn đó được định trước để tồn tại suốt đời. Trong lần gặp gỡ tiếp theo, diễn ra một năm sau đó, chúng tôi đi dạo quanh một công viên ở trung tâm thành phố Tokyo, bàn luận về các xu hướng trong tâm lý học phương Tây, đặc biệt là liệu pháp ý nghĩa (logotherapy), liệu pháp giúp mọi người tìm ra mục đích sống trong cuộc đời mình. Chúng tôi nhận thấy rằng liệu pháp ý nghĩa của Viktor Frankl đã trở nên lỗi thời trong giới trị liệu tâm lý, họ ưa chuộng các trường phái tâm lý học khác, dẫu cho mọi người vẫn đang không ngừng tìm kiếm ý nghĩa trong những việc họ làm và cách họ sống. Chúng ta tự hỏi bản thân những điều như: Ý nghĩa cuộc đời mình là gì? Phải chẳng mục đích chỉ là để sống lâu hơn, hay nên tìm kiếm một mục đích lớn lao? Tại sao có những người biết rõ điều họ muốn và sống trọn đam mê cả cuộc đời, trong khi số khác lại héo mòn trong lú lẫn? Trong cuộc trò chuyện của chúng tôi, từ bí ẩn ikigai được nhắc đến. Khái niệm này của người Nhật, dịch nôm na là “niềm hạnh phúc của việc luôn bận rộn”, cũng tương tự liệu pháp ý nghĩa, nhưng còn đi sâu hơn nữa. Đây có lẽ cũng là một lý giải cho tuổi thọ phi thường của người Nhật, đặc biệt là trên đảo Okinawa, nơi cứ 100.000 dân lại có 24,55 người sống trên 100 tuổi - vượt xa tuổi thọ trung bình toàn cầu. Về lý do cư dân trên hòn đảo phía Nam Nhật Bản này sống lâu hơn cư dân tại bất cứ đâu trên toàn thế giới, các nhà nghiên cứu cho rằng một trong những bí quyết - bên cạnh chế độ ăn uống lành mạnh, cuộc sống bình dị nơi thôn dã, trà xanh cùng khí hậu cận nhiệt đới (với nhiệt độ trung bình tương đương Hawaii) - chính là ikigai, thứ định hình nên cuộc sống của họ. Khi nghiên cứu khái niệm này, chúng tôi khám phá ra rằng chưa có bất kỳ cuốn sách nào trong lĩnh vực tâm lý học hay phát triển cá nhân được dành riêng để truyền tải triết lý này tới phương Tây. Liệu ikigai có phải là lý do Okinawa có nhiều người sống lâu trăm tuổi hơn bất kỳ nơi nào khác? Bằng cách nào ikigai thúc đẩy mọi người sống năng động cho tới tận cuối đời? Bí quyết để sống lâu và hạnh phúc là gì? Khỉ tìm hiểu sâu hơn, chúng tôi khám phá ra một nơi đặc biệt, Ogimi, một thị trấn nông thôn nằm ở tận cùng phía Bắc hòn đảo với dân số khoảng ba nghìn người, tự hào là nơi có tuổi thọ trung bình cao nhất thế giới và được mệnh danh là “Làng Trường thọ”. Okinawa là nơi trồng shikuwasa nhiều nhất Nhật Bản - một loại quả họ Chanh (hay còn gọi là chanh lõm) chứa hàm lượng lớn chất chống ô xi hóa. Bí quyết sống thọ của người dân Ogimi là đây chăng? Hay là thứ nước tinh khiết được dùng để pha loại trà Moringa của họ? Chúng tôi quyết định gặp gỡ trực tiếp những người sống lâu trăm tuổi Nhật Bản để tìm hiểu bí quyết của họ. Sau một năm chuẩn bị, đem theo máy quay và thiết bị ghi âm, chúng tôi tới ngôi làng - nơi người dân nói thổ ngữ cổ và theo tôn giáo duy linh tôn thờ các tinh linh rừng có mái tóc dài được gọi là bunagaya. Ngay khi đặt chân đến, chúng tôi đã cảm nhận được sự thân thiện đáng kinh ngạc của người dân nơi đây, họ cười đùa không ngớt giữa những ngọn đồi xanh tươi được tưới tắm từ nguồn nước thanh khiết. Khi thực hiện phỏng vấn những cụ già lớn tuổi nhất làng, chúng tôi nhận thấy một thứ còn mạnh mẽ hơn cả những nguồn tài nguyên thiên nhiên đang hiển hiện nơi đây: một niềm vui khác thường chảy trong người dân bản địa và dẫn dắt họ suốt chặng đường đời dài lâu và lý thú. Một lần nữa, lại là từ ikigai bí ẩn. Nhưng nó chính xác là cái gì? Làm thế nào để có được? Chúng tôi chẳng bao giờ hết kinh ngạc khi biết rằng thiên đường của cuộc sống gần như vĩnh cửu này lại tọa lạc chính ở Okinawa, nơi 200.000 sinh mạng vô tội bị tước đoạt vào cuối Thế chiến thứ hai. Vậy nhưng, thay vì dung dưỡng lòng hận thù đối với người ngoại quốc, người Okinawa lại sống theo tôn chỉ ichariba chode, một thành ngữ địa phương mang ý nghĩa “đối xử với mọi người như anh em, cho dù bạn chưa từng gặp họ”. Hóa ra một trong những bí quyết hạnh phúc của người dân Ogimi chính là cảm nhận bản thân là một phần của cộng đồng. Ngay từ nhỏ họ đã thực hành yuimaaru, hay còn gọi là làm việc nhóm, và quen với việc giúp đỡ người khác. Nuôi dưỡng tình bạn, hấp thụ ánh sáng, nghỉ ngơi điều độ và rèn luyện cơ thể thường xuyên đều là những yếu tố để có được sức khỏe tốt, nhưng cốt lõi của joie de vivre,[1] thứ truyền cảm hứng cho những con người trăm tuổi nơi đây tiếp tục hưởng niềm vui sinh nhật và trân trọng mỗi ngày mới, chính là ikigai. Mục đích của cuốn sách này là hé lộ bí quyết của những người trăm tuổi tại Nhật Bản và cung cấp công cụ để bạn tìm ra ikigai của chính mình. Bởi lẽ, người tìm thấy ikigai của bản thân sẽ có được tất cả những gì mình cần cho hành trình dài lâu và hạnh phúc suốt chặng đường đời. Chúc bạn có một cuộc hành trình hạnh phúc!   Héctor García và Francesc Miralles Mời bạn đón đọc Ikigai - Đi Tìm Lý Do Thức Dậy Mỗi Sáng của tác giả Héctor García & Francesc Miralles.