Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Những Năm Tháng Của Tôi ở General Motors - Alfred P. Sloan, Jr

Cuốn sách đã được nhiều người công nhận là một trong những quyển sách về quản trị hay nhất mọi thời đại, trong đó có chuyên gia Peter Drucker và tỷ phú Bill Gates. Trong Những năm tháng của tôi ở General Motors, Sloan đã mô tả sự nghiệp của ông một cách vô cùng chân thực, không khoa trương hay màu mè. Ông trình bày các suy nghĩ của mình, nhấn mạnh về việc quản trị, cách tổ chức và dẫn dắt một doanh nghiệp lớn, cũng như cách ông biến suy nghĩ của mình thành hành động ra sao. Bên cạnh đó, đây còn là một cuốn sách về lịch sử kinh tế của một trong những giai đoạn biến động nhất lịch sử, với cuộc Đại suy thoái, Chiên tranh thế giới thứ II, ... Hơn hết, độc giả sẽ biết được General Motors đã vượt qua mọi trở ngại to lớn đó để vươn lên dẫn đầu như thế nào, mà trong đó công lao to lớn đó để vươn lên dẫn đầu như thế nào, mà trong đó công lao to lớn nhất đương nhiên không thuộc về ai khác - chính là Alfred Sloan. *** Cuốn sách các bạn đang cầm trên tay mô tả rất chi tiết về quá trình hình thành và phát triển của General Motors. Có rất nhiều điều để nói về doanh nghiệp tư nhân lớn nhất thế giới này. Lịch sử của nó kéo dài cả thế kỷ, hiện hữu ở nhiều khu vực trên thế giới, xuất hiện ở bất cứ đâu có đường đi. Nó liên quan chặt chẽ đến sự phát triển mau lẹ của nghệ thuật chế tạo máy. Rõ ràng, tên tuổi của tập đoàn được viết nên bằng các dòng xe Chevrolet, Pontiac, Oldsmobile, Buick, Cadillac và GMC Truck & Coach cùng với các nhà sản xuất của khoảng một nửa lượng xe lữ hành và xe tải được sản xuất tại Mỹ và Canada ngày nay. Các cơ sở tại nước ngoài của chúng tôi – gồm Vauxhall ở Anh, Adam Opel ở Đức, General Motors-Holden’s ở Úc và các nhà máy sản xuất của chúng tôi ở Argentina và Brazil – chiếm khoảng 1/10 số lượng xe lữ hành và xe tải được sản xuất ngoài Mỹ và Canada năm 1962 trong thế giới tự do. Tập đoàn cũng sản xuất ra một lượng ổn định các đầu máy, động cơ diesel, tua-bin khí và nhiều đồ gia dụng trên toàn thế giới. Từ khi General Motors tập trung chủ yếu vào sản xuất các sản phẩm ô tô – chiếm khoảng 90% mảng kinh doanh dân dụng hiện tại – thì tôi đa phần ở trong lĩnh vực này. Tuy nhiên, tôi cũng dành riêng một vài chương cho lĩnh vực phi ô tô và vai trò của GM trong chiến tranh và quốc phòng. Những ấn tượng của tôi về khoảng thời gian hơn 65 năm hoạt động trong ngành công nghiệp ô tô – với 45 năm ở GM – là mạch nguồn của cuốn sách này. Tuy nhiên, bởi câu chuyện diễn ra trong một thời gian quá dài, chủ đề phức tạp và những hạn chế về tư duy nên câu chuyện của tôi chủ yếu dựa trên những ghi chép và hồi ức về quá khứ. Tôi cũng thường xuyên nhờ đến trí nhớ của các cộng sự của mình. Để không bị dàn trải, tôi phải tập trung vào các nhân tố cụ thể mà theo tôi, có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của tập đoàn – cụ thể là nguồn gốc và sự phát triển một tổ chức phi tập trung như GM, hệ thống kiểm soát tài chính, cũng như quan điểm về hoạt động kinh doanh được thể hiện qua cách tiếp cận với thị trường ô tô đầy cạnh tranh trên toàn cầu. Theo tôi, có 3 nhân tố làm nền tảng đường hướng phát triển cho hoạt động kinh doanh của GM trên thị trường. Về lịch sử, tôi đã phác thảo ra toàn bộ vòng đời phát triển của GM, từ khi được thành lập bởi thiên tài công nghiệp W.C. Durant vào năm 1908 – với những sự kiện thời kỳ đầu – cho đến nay. Nhưng tôi tập trung chủ yếu vào giai đoạn sau năm 1920, hay thứ mà tôi gọi là tập đoàn hiện đại và cụ thể hơn là giai đoạn từ năm 1923 đến năm 1946, giai đoạn mà tôi là tổng giám đốc, rồi sau đó là chủ tịch, kiêm CEO của tập đoàn. Trong suốt giai đoạn này, tập đoàn đã định hình nên một vài đặc điểm cơ bản vẫn tồn tại cho đến ngày nay. Tôi đã mô tả một tập đoàn thời cũ trước năm 1921 để các bạn thấy được xuất phát điểm mà từ đó chúng tôi đã bắt tay vào xây dựng một tập đoàn hiện đại như ngày nay. Về phần tự truyện, tôi sẽ kể lại thời gian đầu mới vào ngành và mối lương duyên của tôi đối với tập đoàn trong năm 1918. GM và Hyatt Roller Bearing Company, một doanh nghiệp mà tôi là giám đốc kiêm cổ đông trước khi nó trở thành một phần của United Motors Corportation và sau đó là GM, chiếm một phần rất quan trọng trong cuộc đời sự nghiệp của tôi. Tôi là một cổ đông quan trọng của tập đoàn từ ngày gia nhập và trong một thời gian dài, tôi đã là một trong những cổ đông cá nhân lớn nhất với khoảng 1% cổ phần của tập đoàn. Gần như toàn bộ số tiền mà lượng cổ phần đó đại diện đã biến mất và đến với tổ chức từ thiện dưới tên tôi và rồi từ đó, vào giáo dục và nghiên cứu khoa học trong lĩnh vực y khoa và các lĩnh vực khác. Vì thế, tôi đưa ra quan điểm ở cương vị một cổ đông rất tự nhiên. Tôi luôn giữ một vị trí quan trọng với cương vị một cổ đông, đặc biệt là với các vấn đề như quyền đại diện trong ban giám đốc và các ủy ban hay việc phân chia cổ tức. Thế nhưng, tôi cũng coi mình là một trong những giống loài mà giờ đây chúng ta gọi là “giám đốc.” Chuyên môn của tôi là quản lý. Trong thời gian là CEO, thi thoảng tôi được quyền đưa ra các chính sách. Tuy nhiên, ở GM, đã trở thành thông lệ: Chính sách có thể được đưa ra từ bất cứ đâu, nhưng nó phải được các ủy ban nhất trí phê duyệt trước khi được các cá nhân thực thi. Nói theo cách khác, GM được quản lý theo nhóm được tạo nên từ nhiều cá nhân có năng lực. Và vì thế, tôi thường dùng đại từ nhân xưng “chúng tôi” thay cho “tôi,” và mặc dù thi thoảng tôi cũng dùng “tôi,” nhưng nó cũng vẫn hàm ý là “chúng tôi.” Xét đến sự phát triển của GM, chúng tôi cần phải nhìn nhận đến rất nhiều các nhân tố đa dạng xuất hiện ở nền tảng của tổ chức. Hiếm ai nghĩ, với đội ngũ doanh nhân năng động; với các nguồn lực khoa học, công nghệ, kinh doanh cũng như phương pháp sản xuất công nghiệp; với các không gian lớn, đường sá và thị trường màu mỡ; với những đặc điểm như dễ thay đổi, cơ động và sản xuất đại trà; với việc mở rộng mạnh mẽ trong thế kỷ này cũng như với hệ thống tự do nói chung và doanh nghiệp cạnh tranh tự do nói riêng, GM có thể tồn tại ở đâu đó ngoài quốc gia này. Việc thích ứng với đặc tính chuyên biệt của thị trường ô tô tại Mỹ là một nhân tố rất quan trọng và khá phức tạp trong quá trình phát triển của GM. Nếu chúng tôi đóng góp vào phong cách Mỹ như đóng góp vào ngành ô tô, thì hẳn là kết quả có được nhờ sự tương tác. Ví dụ, sự sống sót trong ngành công nghiệp ô tô tại Mỹ dựa chủ yếu vào việc giành được thiện ý của người mua ô tô mới mỗi năm. Một phần là nhờ mẫu mới hàng năm, khuyến khích tổ chức phải đổi mới hoặc chết. GM được thúc đẩy bởi sự cấp thiết của việc làm thỏa mãn yêu cầu này. Rất nhiều yếu tố về sự phát triển của doanh nghiệp và ngành đã “đâu vào đó” nhờ ý tưởng về mẫu xe mới hàng năm – nguồn gốc và sự phát triển của nó; quan điểm liên đới về các loại xe đang được nâng cấp trong đó GM đóng vai trò tiên phong đối lập với tổ chức Ford ban đầu. Tôi cũng không quên việc nhấn mạnh rằng ô tô đại diện cho một trong những cơ hội công nghiệp lớn nhất trong thời hiện đại. GM đã thật may mắn khi tiên phong trong lĩnh vực này. Suy nghĩ này đã làm nảy sinh quan điểm liên quan đến hai chương đầu tiên – chủ yếu tập trung vào thời kỳ đầu trong quá trình phát triển của GM. Hơn thế nữa, bằng cách trao cho GM mối liên kết gần gũi với sự phát triển của động cơ đốt trong, ô tô đã khuyến khích chúng tôi tham gia vào việc ứng dụng nguồn năng lượng kiểu này cho các loại máy móc cần sử dụng năng lượng khác, điển hình là máy bay và đầu máy xe lửa. Tỷ lệ tăng trưởng của chúng tôi phần lớn là nhờ việc sản xuất hàng loạt các phương tiện được lắp động cơ đốt trong. Không có gì ngạc nhiên khi tôi cảm thấy lạc quan về GM và hoạt động hiệu quả của tập đoàn. Nhưng đó chỉ là quan điểm chủ quan của riêng tôi khi nói rằng GM đã biến cơ hội mang tính lịch sử của mình thành sự hài lòng xét về quyền lợi của tập đoàn, từ cổ đông đến nhân viên, từ nhà cung cấp đến người tiêu dùng cuối. Tuy nhiên, với vị thế của một doanh nghiệp lớn nhất – với hơn 1 triệu cổ đông, khoảng 600.000 nhân viên, 9,2 tỷ đô-la tài sản; 14,6 tỷ đô-la doanh thu và 1,46 tỷ đô-la lợi nhuận trong năm 1962 – GM nổi lên như một điểm khác biệt và đôi lúc khiến tập đoàn trở thành mục tiêu chính trị. Tôi rất vui khi đề cập đến vấn đề về quy mô, đối với tôi, quy mô của một doanh nghiệp cạnh tranh là kết quả của hiệu suất cạnh tranh và khi doanh nghiệp sản xuất những thứ như ô tô, đầu máy xe lửa với số lượng lớn cho một cường quốc và thị trường thế giới, thì quy mô lớn là điều dễ hiểu. Cũng phải nhớ rằng giá cả của những sản phẩm này rất cao, thậm chí một nhà sản xuất ô tô “nhỏ” cũng có thể nằm trong hàng ngũ hàng trăm các tập đoàn công nghiệp lớn nhất nước Mỹ. Tôi tin rằng tăng trưởng là nguồn sống cho sự phát triển của một doanh nghiệp. Ngừng tăng trưởng đồng nghĩa với chết. Chúng tôi có thể đưa ra đầy rẫy các ví dụ điển hình minh chứng cho điều đó trong nền công nghiệp Mỹ. Trong ngành công nghiệp ô tô và rất nhiều ngành khác, quá trình tăng trưởng đã mang đến cho chúng ta những doanh nghiệp quy mô lớn vốn được cho là nét đặc trưng của xã hội. Chúng ta làm mọi thứ một cách rầm rộ tại Mỹ. Tôi luôn tin vào việc lập kế hoạch lớn và cũng luôn khám phá ra sự thật sau đó rằng, dù là gì đi chăng nữa, chúng ta cũng làm chưa tới. Thế nhưng, tôi đã không tiên đoán quy mô của GM hay đặt quy mô là một mục tiêu trong đầu. Đơn giản bởi tôi nghĩ rằng, chúng ta nên tập trung vào công việc hiện tại và bỏ qua mọi hạn chế. Tôi không giới hạn đà tăng trưởng của tập đoàn. Tăng trưởng và phát triển có mối liên hệ mật thiết với nhau bởi một doanh nghiệp không được phép nghỉ ngơi hay lơ là trong một nền kinh tế cạnh tranh. Những trở ngại, xung đột, các vấn đề mới nảy sinh ở mọi hình dạng và những giới hạn mới gia tăng liên tục đã khuấy đảo hình dung và sự liên tục của quá trình tăng trưởng ngành. Tuy nhiên, thành công có thể mang đến sự tự mãn. Lúc đó, sự cạnh tranh sinh tồn, động lực kinh tế mạnh mẽ nhất, sẽ bị làm lu mờ. Tinh thần mạo hiểm trôi tuột, thay vào đó là tâm lý ngại thay đổi. Khi những ảnh hưởng như thế nảy sinh, tăng trưởng có thể ngừng lại hoặc suy giảm, nguyên nhân là do doanh nghiệp không nhận ra công nghệ đã được nâng cao hoặc nhu cầu của khách hàng thay đổi, hay có lẽ là do cạnh tranh ngày càng gay gắt và mạnh mẽ. Trong bất cứ ngành công nghiệp nào, việc liên tục duy trì được thành công hoặc tiêu chuẩn cao bất thường về khả năng lãnh đạo đôi khi còn khó khăn hơn nhiều so với việc đạt được thành công hoặc khả năng lãnh đạo ban đầu. Đó là một thách thức cần GM đáp ứng trong tương lai. Cần phải làm rõ rằng tôi không coi quy mô là một rào cản. Đối với tôi, đó chỉ là một vấn đề về quản lý. Những suy nghĩ của tôi vốn xoay quanh một quan điểm ẩn chứa sự phức tạp rất lớn cả về lý thuyết lẫn thực tế – khái niệm được đưa ra với cái tên đã được đơn giản hóa: Phi tập trung. Tổ chức kiểu GM – phối hợp trong chính sách, phi tập trung trong quản lý – không chỉ hiệu quả đối với chúng tôi mà còn trở thành tiêu chuẩn trong phần lớn các ngành công nghiệp Mỹ. Khi được kết hợp với sáng kiến hợp lý về tài chính, khái niệm này là bước đệm chắc chắn cho chính sách về tổ chức của GM. Một khía cạnh cần thiết liên quan đến triết lý quản lý của chúng tôi là cách tiếp cận thực tế đối với hoạt động đánh giá kinh doanh. Đương nhiên, hành động cuối cùng trong đánh giá kinh doanh chỉ mang tính trực giác. Có lẽ, có rất nhiều cách chính thống để cải thiện tính hợp lý của chiến lược kinh doanh hay hoạch định chính sách. Nhưng phần quan trọng đằng sau đánh giá kinh doanh là tìm kiếm và thừa nhận những sự thực và tình huống liên quan đến công nghệ, thị trường, v.v… với các dạng thức thay đổi liên tục. Tốc độ thay đổi công nghệ hiện đại đã khiến việc tìm kiếm những sự thật trở thành một tính năng rất cần thiết trong ngành. Điều đó có vẻ rõ ràng, thế nhưng, một vài thay đổi lớn nhất về vị thế trong ngành xuất hiện một phần bởi ai đó đã đưa ra ý tưởng mà anh ta cho là bất biến. Tuy nhiên, để đảm bảo cho hoạt động quản lý có cơ sở vững vàng, phải cần hơn một sơ đồ tổ chức. Không có ai tổ chức hợp lý hơn những người điều hành nó và ủy quyền cho người khác điều hành nó. Họ là những người “cầm cân, nảy mực” trong một tổ chức phi tập trung hướng đến sự tập trung và thậm chí là quy tắc một-người. GM trụ được lâu trên thương trường đến như vậy là nhờ được điều hành bằng cả tinh thần và sự ổn định của hoạt động phi tập trung. Có vẻ hợp lý khi nói GM là một thể chế. Tập đoàn có môi trường hoạt động khách quan và tinh thần đoàn kết doanh nghiệp. Một trong những thế mạnh lớn nhất của tập đoàn nằm ở sự khách quan, khác hẳn kiểu tổ chức đắm mình trong chủ nghĩa chủ quan cá nhân. Tuy nhiên, kinh nghiệm của tôi cho thấy, không có công thức đơn giản nào về vấn đề này của tổ chức. Vai trò của tính cá thể quan trọng đến mức đôi lúc nó là nhân tố cần thiết để xây dựng tổ chức hoặc một phần tổ chức theo một hoặc một vài cá nhân thay vì ép các cá nhân phải phù hợp với tổ chức. Xét dưới góc độ phát triển đội ngũ nhân viên kỹ thuật thời kỳ đầu của chúng tôi, điều đó xuất hiện dưới dạng rất ấn tượng. Tuy nhiên, khi bất cứ phần nào của tập đoàn bị gò theo một cá nhân nào đó, thì áp lực nặng nề gia tăng bởi mỗi quy trình đều có những hạn chế riêng. Và như tôi đã nói ở trên, để tồn tại và phát triển, mỗi tổ chức phải luôn thường trực xu hướng vượt lên trên tính chủ quan cá nhân của mình. Nếu đề cập hoặc ám chỉ đến thứ được gọi là ý thức hệ trong cuốn sách này, thì đó là bởi tôi cho rằng cạnh tranh như một tín điều, một phương tiện tiến bộ và một cách sống. Cạnh tranh xuất hiện ở nhiều dạng: Ví dụ, GM cạnh tranh với các doanh nghiệp khác trên cương vị một tổ chức (phi tập trung) và trong các hoạt động kinh doanh lâu dài (nâng cấp các dòng sản phẩm), cũng như trong các hoạt động kinh doanh thường nhật. Mặt khác, Henry Ford lại đặt niềm tin của mình vào cơ cấu tổ chức tập quyền và kiểu mẫu không có gì thay đổi. Cuộc cạnh tranh về chính sách cơ bản như thế đôi lúc rất dứt khoát. Chúng tôi cũng tiếp tục tiến lên với niềm tin vào sự thay đổi, điều thể hiện rõ trong hoạt động hoạch định đầu tư cho tương lai. Chúng tôi sản xuất hàng hóa không phải cho số ít khách hàng chọn lọc mà cho thị trường đại chúng dựa trên mức sống ngày càng tăng cao của người dân. Nhận thức của chúng tôi về mức sống ngày càng tăng đã làm nên sự khác biệt mang tính quyết định giữa chúng tôi và các đối thủ trong thuở sơ khai làm nên thị trường hiện đại. Lĩnh vực thuộc GM mà tôi tập trung trong cuốn sách này không phải là thứ lúc nào cũng hữu hình. Nó bắt nguồn từ ban giám đốc đến các bộ phận sản xuất, gồm cả hành chính tổng hợp, các giám đốc điều hành, các ủy ban chính sách, tổ chức chuyên môn và năng lực và các mối quan hệ giữa các bộ phận sản xuất; nói cách khác, lĩnh vực mà trong đó bộ phận bổ sung cho tổ chức còn tổ chức hỗ trợ các bộ phận. Vì thế không phải các bộ phận sản xuất mà là sự tổng hòa của mọi bộ phận làm nên General Motors – chủ đề của tôi trong cuốn sách này. Cuốn sách được chia thành hai phần. Phần I là một câu chuyện liên tục, thống nhất với nội dung chính liên quan đến quá trình phát triển của GM, đề cập đến nguồn gốc và sự phát triển của những quan điểm về quản lý cơ bản của tập đoàn trong các lĩnh vực tổ chức, tài chính và sản phẩm. Phần II đi vào các thông tin chi tiết và chuyên biệt như kỹ thuật, phân phối, các hoạt động ở nước ngoài, chiến tranh và các sản phẩm quốc phòng, bồi thường khuyến khích và nhiều khía cạnh khác cũng như các chi nhánh của tập đoàn. Tuy nhiên, tôi không cố gắng liệt kê ra mọi thông tin. Việc cố gắng kể lại chi tiết một câu chuyện về GM với quá trình hình thành và phát triển trong hơn một nửa thế kỷ là điều không tưởng. Tôi đã chọn lọc – hầu hết các tác giả đều làm vậy – dựa trên phần lớn kinh nghiệm của bản thân và các đồng sự để đưa ra những phán đoán hợp lý. Cuốn sách này ra đời nhằm phân tích các hoạt động kinh doanh dựa trên một quan điểm logic, kết hợp các ý tưởng với lịch sử. Cấu trúc của cuốn sách này, cụ thể là thứ tự các chương trong phần I, là kết quả của sự cân nhắc về tính logic trong quản lý liên đới với các sự kiện của ngành công nghiệp ô tô. Đương nhiên, cũng có những cách tiếp cận tiềm năng khác, về tâm lý, xã hội, chủ quan, v.v… nhưng tôi vẫn lựa chọn cách tiếp cận logic bởi nó giúp diễn giải một lượng lớn các tài liệu phức tạp trong không gian hạn chế. Nó cũng giúp hiện thực hóa việc đưa ra quan điểm rõ ràng về hoạt động kinh doanh trên cương vị một doanh nghiệp. Cách tiếp cận như vậy khá phù hợp đối với mục tiêu của GM, bởi một khía cạnh trong chiến lược kinh doanh của tập đoàn là nỗ lực luôn khách quan trong suốt quá trình theo đuổi các mục tiêu kinh doanh. Vậy nên, tôi đã tập trung vào những gì đã đạt được trong quá khứ, khi rất nhiều các chính sách cơ bản, lâu dài lần đầu tiên được đưa ra. Tuy nhiên, tôi cũng nhận ra rằng trong suốt những năm tháng thăng trầm của tập đoàn, đội ngũ cán bộ và công nhân viên ở đây đã luôn nỗ lực trong việc định hình và làm mới các chính sách ban đầu. Hơn nữa, các chính sách mới cũng được đưa ra để đáp ứng với các điều kiện trong tình hình mới. Như tôi từng nói, thay đổi đồng nghĩa với thách thức và khả năng xử lý những thách thức là một dấu hiệu cho thấy hoạt động quản lý hiệu quả. Những thay đổi khó khăn về sản phẩm, nhu cầu và áp lực từ bên ngoài phải được đáp ứng mau lẹ để duy trì sự tăng trưởng và thịnh vượng của GM. Thực tế, ban quản lý hiện tại của GM đang đáp ứng và bao quát được gần như toàn bộ các vấn đề mới nảy sinh vốn làm đau đầu các thế hệ nhà quản lý của tập đoàn này. Mời các bạn đón đọc Những Năm Tháng Của Tôi ở General Motors của tác giả Alfred P.sloan, Jr.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Những Thách Thức Của Quản Lý Trong Thế Kỷ 21 - Peter F. Drucker
Những thách thức của quản lý trong thế kỷ XXI là một trong những cuốn sách đột phá về các giả định trong quản lý của Peter F. Drucker. Cuốn sách đề cập một cách thẳng thắn, logic và sâu sắc tới các vấn đề quản lý vượt qua tầm nhìn của hiện tại, đưa ra những đề tài nóng bỏng của ngày mai. Cuốn sách không hẳn đưa ra các giải pháp cho tương lai mà tập trung đưa ra các vấn đề thực tế và đặt ra những câu hỏi nhằm giải quyết vấn đề đó. "Những thách thức của quản lý trong thế kỷ XXI - Là ý tưởng mới, mang tính cách mạng và có tầm nhìn về các vấn đề quản lý trọng tâm trong tương lai. Peter F. Drucker thể hiện là một nhà tư tưởng quản lý quan trọng nhất trong thời đại của chúng ta" (Warren Bennis). Một cách tổng quát, Peter F. Drucker đã trông vào những vấn đề của thế kỷ XX nhằm xác định, đánh giá và phân tích các vấn đề của thế kỷ XXI. Drucker chỉ ra rằng, những doanh nghiệp đã và đang làm việc trong những thách thức của ngày hôm nay sẽ trở thành người tiên phong và nắm giữ nền kinh tế của ngày mai. 5 hiện tượng nổi bật trên thế giới được Peter F. Drucker đưa vào như một yếu tố làm ảnh hưởng tới việc xây dựng chiến lược trong tương lai. Với cách tiếp cận xây dựng chiến lược mới và khá bất ngờ, Peter F. Drucker cho rằng: “Mọi chiến lược, tức là sự giao phó các nguồn lực của ngày hôm nay cho sự kỳ vọng trong tương lai, cần phải xuất phát từ yếu tố dân số học…” Theo ông, “trong vòng 20 hoặc 30 năm tới đây dân số học sẽ là vấn đề chính trị bao trùm tất cả các nước phát triển. Và điều không tránh khỏi là nó sẽ trở thành vấn đề bất ổn lớn về chính trị”. Các đảng phái chính trị sẽ phải liên kết với nhau để đối phó với vấn đề dân số học. Với ông, tương lai không còn là cuộc cách mạng về công nghệ (T) mà là cuộc cách mạng của thông tin (I) thông qua việc hình thành các “khái niệm mới”. Sự bất mãn của các nhà quản lý cấp cao đối với dữ liệu mà công nghệ thông tin đem lại đã kích hoạt một cuộc cách mạng thông tin mới tiếp theo. Một thách thức nữa là đội ngũ lao động trí thức, việc thoả mãn lao động trí thức không dừng lại ở tiền lương mà là những thách thức và môi trường làm việc. Họ làm chủ “phương tiện sản xuất” của mình - đó là tri thức. Do đó, họ rất cơ động có thể ra đi tuỳ ý. Bởi vậy họ cần phải được quản lý như những người tình nguyện. Ở đây tác giả đặt ra một câu hỏi “sự nổi lên của lao động trí thức và năng suất lao động tri thức có ý nghĩa gì đối với quyền điều khiển doanh nghiệp? Nó có ý nghĩa gì với tương lai và cấu trúc của hệ thống kinh tế?” Sự xuất hiện người lao động trí thức, người có thể và cần phải quản lý bản thân mình đang làm chuyển đổi mọi xã hội. "Các ý tưởng của Peter F. Drucker chứng minh sự xuất chúng của ông trong lĩnh vực quản lý. Không thể có những thấu hiểu về con người như vậy nếu không có quá trình tìm hiểu và học tập say mê" (Fortune Magazine). Không ai khác mà chính là Drucker đã đưa ra một khái niệm rất mới: “nửa cuộc đời còn lại”. Theo phân tích của ông, lần đầu tiên trong lịch sử loài người các cá nhân có thể sống lâu hơn các tổ chức nơi họ làm việc. Điều này sẽ đẫn đến một thách thức hoàn toàn mới mẻ: Bạn sẽ làm gì trong nửa cuộc đời còn lại của mình? Trong cuốn sách này, tác giả cố tình chỉ giới hạn trong phạm vi "những thách thức của quản lý". Nhưng ông cũng không hề bỏ qua quản lý cá nhân, tức người lao động trí thức. Những sự thay đổi nêu ra trong cuốn sách không những vượt xa phạm vi lĩnh vực quản lý, phạm vi cá nhân và nghề nghiệp của cá nhân mà đã đề cập đến một vấn đề nóng bỏng đó là: Với 6 chương sách tác giả đã đem lại cho chúng ta một cái nhìn hoàn toàn mới mẻ vào xã hội tương lai, đồng thời đưa ra được một loạt các khái niệm mới với tầm quan trọng không thể chối cãi của nó. Tạp chí Business Week đánh giá Peter F. Drucker là một nhà lý luận sắc bén về thực hành quản lý và quản lý kinh tế xã hội. Vì lẽ đó, độc giả sẽ thấy rằng, cuốn sách này không đơn thuần chỉ là cung cấp thông tin và những phân tích khoa học, mà quan trọng hơn, nó còn kêu gọi hành động. Trong dòng chảy của thời đại, hiếm có ai dám đánh giá thấp những giá trị mà công nghệ thông tin mang lại cho cuộc sống. Nhưng một cuốn sách của một người được coi là bậc thầy của tư tưởng quản lý hiện đại, ngang hàng với những nhà tư tưởng hàng đầu thế giới trước đó về quản lý như Taylor, Henry Fayol, Mc. Gregor, hay William Ouchi… lại chứng minh một điều ngược lại: chỉ ra sự thất bại của công nghệ thông tin! Theo ông, giá trị gia tăng của thông tin không phải là công nghệ mà là những thông tin hữu ích trong kinh doanh, bao gồm cả những quyết định kinh doanh đúng đắn. Và đây chính là một trong nhiều điều thú vị bất ngờ mà Peter F. Drucker mang lại cho chúng ta trong cuốn sách cuối cùng của cuộc đời viết sách "Những thách thức của quản lý trong thế kỷ XXI". ***  Peter F. Drucker sinh ra tại Vienna (Áo) tháng 11/1909. Sau khi nhận bằng tiến sĩ luật quốc tế tại đại học Frankfurt Đức, ông nghiên cứu kinh tế học và làm báo tại Luân Đôn trước khi di cư sang Mỹ vào năm 1937. Là một nhà viết sách, nhà tư vấn quản lý và giáo sư đại học, Peter F. Drucker đã viết 35 cuốn sách với 15 cuốn về quản lý, 16 cuốn về các vấn đề kinh tế, chính trị, xã hội, 2 cuốn tiểu thuyết và 1 cuốn tự truyện. Xuyên suốt sự nghiệp của mình, ông đã tư vấn cho rất nhiều các tổ chức, tập đoàn lớn nhất thế giới trong quá trình quản lý doanh nghiệp cũng như tham gia tư vấn quản lý các tổ chức phi chính phủ và các quốc gia và được các chuyên gia kinh tế ghi nhận như cha đẻ của học thuyết nghiên cứu về quản lý. Tác phẩm: Quản Trị Trong Thời Khủng Hoảng Nhà Quản Trị Thành Công Những Thách Thức Của Quản Lý Trong Thế Kỷ 21 Những Nguyên Lý Quản Trị Bất Biến Mọi Thời Đại Tinh Thần Doanh Nhân Khởi Nghiệp Và Sự Đổi Mới Tinh Hoa Quản Trị Của Drucker ... Mời các bạn đón đọc Những Thách Thức Của Quản Lý Trong Thế Kỷ 21 của tác giả Peter F. Drucker.
Tạo Lập Mô Hình Doanh Nghiệp Bất Bại
Phiên bản sách đáng mong đợi nhất theo sau hai tác phẩm bán chạy nhất thế giới, Tạo lập mô hình kinh doanh và Thiết kế giải pháp giá trị. Tạo lập mô hình doanh nghiệp bất bại: ● Giúp các công ty lớn và nhỏ xây dựng chiến lược tăng trưởng thần tốc đồng thời quản lý hiệu quả hoạt động cốt lõi của họ ● Phân tích các mô hình kinh doanh đã và đang thành công nhất thế giới ● Cung cấp các công cụ để đánh giá mô hình kinh doanh, mức độ sẵn sàng đổi mới và mọi dự án đổi mới của bạn. Được trình bày với 4 màu nổi bật, cùng các hình ảnh và công cụ thiết thực, Tạo lập mô hình doanh nghiệp bất bại xứng đáng là cẩm nang “gối đầu giường” của các nhà lãnh đạo doanh nghiệp, doanh nhân và các chuyên gia đổi mới. *** Bộ sách Binh Pháp Cho Doanh Nghiệp gồm có: Kiểm Chứng Ý Tưởng Kinh Doanh Tạo Lập Mô Hình Kinh Doanh Thiết Kế Giải Pháp Giá Trị Tạo Lập Mô Hình Doanh Nghiệp Bất Bại ------ Thông tin tác giả: Tiến sĩ Alexander Osterwalder (www.strategyzer.com) là tác giả chính của các cuốn sách bán chạy nhất thế giới, Tạo lập mô hình kinh doanh và Thiết kế giải pháp giá trị, đồng thời là doanh nhân, diễn giả đầy nhiệt huyết. Ông đồng sáng lập Strategyzer, công ty phần mềm chuyên về các công cụ và nội dung quản lý chiến lược và đổi mới. Tiến sĩ Osterwalder đã phát minh ra “Mô hình kinh doanh giản lược”, công cụ quản lý chiến lược để thiết kế, kiểm tra, xây dựng và quản lý các mô hình kinh doanh, được sử dụng bởi các công ty như Coca Cola, GE, P&G, Mastercard, Ericsson, LEGO hoặc 3M. Ông thường xuyên là diễn giả chính trong các tổ chức và các trường đại học hàng đầu trên thế giới, đồng thời là giáo sư thỉnh giảng năm 2018 tại Stanford. Yves Pigneur là đồng tác giả của Tạo lập mô hình kinh doanh và là giáo sư về quản lý và hệ thống thông tin tại Đại học Lausanne. Yves cũng là một diễn giả thường xuyên về các mô hình kinh doanh trong các trường đại học, các tập đoàn lớn, các sự kiện khởi nghiệp và hội nghị quốc tế. Alan Smith đã cùng tạo ra Khung đề xuất giá trị với Alex Osterwalder và Yves Pigneur, đồng thời là nhà thiết kế đột phá cho cuốn sách Tạo lập mô hình kinh doanh. Ông đồng sáng lập Strategyzer. *** [REVIEW] SÁCH TẠO LẬP MÔ HÌNH DOANH NGHIỆP BẤT BẠI: Liệu có công thức chung cho doanh nghiệp theo đuổi sự bất bại? Ý tưởng thành lập hoặc duy trì một công ty bất bại khiến ta phải suy ngẫm. Đúng thế, không có công ty nào có thể trường tồn mãi mãi. Ngay tại Mỹ, các báo cáo thống kê cho thấy độ tuổi trung bình của các doanh nghiệp đã giảm từ gần 60 tuổi trong những năm 1950 xuống con số 20 ở thời điểm hiện tại. Tuổi thọ của top Fortune 500 công ty lớn nhất hiện nay tại Mỹ là từ 40 đến 50 tuổi. Đặc biệt, gần 50% công ty thuộc top Fortune 500 vào năm 1999 đã biến mất chỉ 10 năm sau đó. Các công ty này đã bị mua lại, sáp nhập hoặc chia tách thành các công ty khác. Dù thực tế khắc nghiệt, nhưng vẫn có những công ty được coi là tiến gần đến sự bất bại. Họ liên tục tự làm mới mình trước những thanh đổi ngoạn mục của bối cảnh và sử hữu một danh mục mô hình kinh doanh liên tục được khai thác và cải tiến. Đồng thời, họ cũng quản lý và khai thác có hệ thống một doanh mục mô hình kinh doanh mới mẻ để tạo ra động lực tăng trưởng mới. Làm thế nào để trở thành một doanh nghiệp bất bại và trở nên giá trị hơn? Cuốn sách Tạo lập mô hình doanh nghiệp bất bại sẽ là chiếc chìa khóa mở cánh cửa đến sự “bất bại” mà bạn kiếm tìm. Về cuốn sách Tạo lập mô hình doanh nghiệp bất bại Kể từ khi các cuốn sách Tạo lập mô hình kinh doanh (Business Model Generation), Thiết kế giải pháp giá trị (Value Proposition Design) và Kiểm chứng ý tưởng kinh doanh (Testing Business Ideas) lần lượt được phát hành vào 2009, 2017 và 2019, tác giả Alex Osterwalder, Yves Pigneur cùng các đồng tác giả đã biến các khung mô hình trực quan của họ thành bộ công cụ kinh doanh phổ biến và hiệu quả dành cho những doanh nhân khởi nghiệp và các doanh nghiệp start-ups.  Nhưng làm thế nào công cụ này có thể hỗ trợ hàng triệu các doanh nghiệp hiện nay đang khẩn thiết cần đổi mới chính mình trước khi bị đối thủ cạnh tranh và những người mới gia nhập thị trường loại khỏi cuộc chơi? Và cuốn sách này, Tạo lập mô hình doanh nghiệp bất bại, đã ra đời để trả lời câu hỏi đó. Tạo lập mô hình doanh nghiệp bất bại là cuốn thứ tư trong loạt sách của Strategyzer, thuộc bộ sách “Binh pháp cho doanh nghiệp” do Alpha Books xuất bản. Nó bổ sung cho những cuốn sách trước đó và xác định một số vấn đề cần giải quyết cho các nhóm đổi mới sáng tạo, doanh nhân và lãnh đạo cấp cao quản lý toàn bộ tổ chức. Những nội dung trong sách dựa trên những gì nhóm tác giả đã tích lũy được khi làm việc với các tổ chức hàng đầu thế giới và từ việc nghiên cứu một số công ty bất bại trên toàn cầu. Bạn có thể tìm hiểu thêm về trọn bộ 4 cuốn sách “Binh pháp doanh nghiệp” tại đây. Tạo lập mô hình doanh nghiệp bất bại có gì độc đáo và tại sao các doanh nhân nên đọc? Cuốn sách Tạo lập mô hình doanh nghiệp bất bại đưa ra hai khái niệm hấp dẫn và vô cùng đơn giản: tìm kiếm và phát triển. Một công ty muốn tồn tại lâu dài và duy trì tính cạnh tranh cần đầu tư nhiều nguồn lực nhất có thể vào hành trình khám phá các mảng kinh doanh mới, đồng thời khai thác hiệu quả các mảng đang có.  Tại phần mở đầu, tác giả ngay lập tức đưa ra câu trả lời đơn giản cho câu hỏi “Làm thế nào để trở thành doanh nghiệp bất bại?” Liên tục làm mới mình: Để đi trước mọi người và đánh bại các rủi ro phá vỡ, bạn phải liên tục đổi mới bản thân. Các mô hình kinh doanh sớm trở nên lỗi thời cùng với đà suy giảm của chúng. Sự cạnh tranh ngày càng đến từ những bối cảnh khó đoán như các công ty khởi nghiệp mới nổi bên cạnh các đối thủ truyền thống. Các công ty bất bại liên tục làm mới mình theo các cách họ là ai, ở đâu, đặc biệt là cách họ cạnh tranh để duy trì sự phù hợp và dẫn đầu. Cạnh tranh dựa trên các mô hình kinh doanh ưu việt: Cuộc đua ngày càng gấp rút khi các thương hiệu gia tăng cạnh tranh về sản phẩm, dịch vụ, giá cả và công nghệ mới. Bỏ lại đối thủ cạnh tranh trong khi tận dụng tối đa các cơ hội thị trường, các nhu cầu khách hàng mới và các công nghệ mới bằng cách đưa chúng và các mô hình kinh doanh ưu việt. Thiết kế, thử nghiệm và kiến tạo các mô hình kinh doanh vượt trội có thể tạo hiệu ứng đổi mới phá vỡ những đối thủ khác trong khi bản thân các mô hình đó lại khó phá vỡ. Vượt ra khỏi ranh giới các ngành: Các tổ chức thành công nhất không bị ranh giới ngành hoặc các áp lực trong ngành định hình. Trên thực tế, họ thường phá vỡ các ranh giới ngành và tạo ra hiệu ứng đổi mới phá vỡ cách làm của tổ chức khác. Mô hình kinh doanh hoặc danh mục kinh doanh của họ không phải là kết quả của một tổ chức không ngừng khám phá những cách thức mới để tạo ra giá trị xoay quanh các cơ hội thị trường. Khác với những cuốn sách thông thường chỉ lật giở đọc từng trang, cuốn sách này độc đáo ở chỗ chỉ ra một “bản đồ” đọc tùy thuộc vào bạn là ai. Với từng vị trí “Nhà lãnh đạo cấp cao”, “nhà lãnh đạo và các đội nhóm đổi mới sáng tạo” hay “các doanh nhân” lại có những nội dung đặc biệt cần nghiên cứu kỹ ở các phần. Điều này giúp bạn tiết kiệm thời gian đọc, nghiên cứu và thực hành trong việc tạo ra một mô hình kinh doanh thích hợp. Cuốn sách được chia làm 05 phần, bên cạnh những chỉ dẫn cụ thể là hàng loạt case-study đắt giá của những doanh nghiệp thành công nhất hiện nay. Công cụ Phần này cung cấp cho bạn một công cụ đặc biệt: Bản đồ khám phá và khai thác. Các công ty bất khả chiến bại không ưu tiên khai thác hơn khám phá. Họ rất giỏi trong việc liên tục khám phá các mảng kinh doanh hiện hữu. Họ sở hữu văn hóa “ngày đầu tiên”, duy trì tinh thần khởi nghiệp trong khi quản lý hàng nghìn, hàng trăm nghìn người cùng các đơn vị kinh doanh trị giá nhiều tỷ đô-la. Khả năng quản lý khám phá và khai thác kiểu này không còn giới hạn ở các công ty quy mô lớn mà đã trở thành vấn đề sống còn đối với những doanh nghiệp vừa và nhỏ, cùng các đơn vị khởi nghiệp với các mô hình kinh doanh có vòng đờn ngày càng ngắn xuyên suốt các ngành.  Quản lý Các công ty bất khả chiến bại triển khai các chiến lược chỉ dẫn, đa dạng hóa đo lường và hành động đồng thời trên 02 danh mục kinh doanh: hiện hữu và tiềm năng. - Chỉ dẫn: Cung cấp hướng dẫn về danh mục đầu tư chiến lược cần thiết nhằm làm rõ loại dự án, đổi mới sáng tạo, cải tiến hoặc hành động nào cần duy trì hoặc loại bỏ. - Đa dạng hóa: Tạo ra phễu đổi mới sáng tạo, phân tán rủi ro nhằm hạn chế tối đa rủi ro sáng tạo. Tạo điều kiện cho sự ra đời của những đội nhóm và dự án xuất sắc nhất. Tăng cường đầu tư cho các nhóm chứng minh được hiệu quả.  - Đo lường: Đo lường có hệ thống và trực quan hóa đổi mới và rủi ro sáng tạo của tất cả các mảng kinh doanh cũng như cơ hội đi kèm . Hiểu được tính phù hợp của danh mục đầu tư trong tương lai. - Hành động: Sử dụng một tập hợp hành động liên quan đến danh mục nhằm tối ưu chúng. Phát triển các mảng kinh doanh nội tại, mua lại và thoái vốn, hoặc thực hiện đồng thời cả hai tùy vào bối cảnh. Thư viện dạng thức sáng chế Các dạng thức mô hình kinh doanh có thể khởi nguồn từ giai đoạn Tiền kỳ (lấy khách hàng làm trọng tâm), giai đoạn Hậu kỳ (chú trọng vào nguồn lực) hay Công thức tạo lợi nhuận (tập trung vào tài chính) của một mô hình kinh doanh. Thư viện dạng thức cải tiến Các mô hình kinh doanh hiện hữu vốn dĩ thường sớm bị lỗi thời, suy giảm và cần cải tổ triệt để. Trong phần này, nhóm tác giả để cập để những công ty điển hình khởi điểm từ mô hình kinh doanh hiệu hữu, từ đó họ áp dụng 12 dạng thức chuyển đổi khác nhau để cải tiến, đồng thời gia tăng hiệu quả của mô hình kinh doanh hiện hữu. Các tác giả đặc biệt mô tả kỹ để bạn có thể sử dụng chúng như một “thư viện tham khảo”. Trong phần này đề cập đến 04 sự dịch chuyển: Dịch chuyển Đề xuất Giá trị, dịch chuyển do Tiền kỳ tác động, dịch chuyển do Hậu kỳ tác động và dịch chuyển do Công thức tạo lợi nhuận tác động. Văn hóa Để xây dựng một công ty bất bại, bạn cần phải tạo ra, quản lý và kết hợp hài hòa hai nền văn hóa hoàn toàn đối nghịch nhau dưới một mái nhà - cả hai đều có vai trò quan trọng. Bạn cần khám phá và khai thác đồng thời cả hai. Văn hóa khám phá nuôi dưỡng việc tạo ra, khám phá, xác thực và tăng tốc những ý tưởng hoàn toàn mới lạ đối với một tổ chức.  Văn hóa khai thác đề cao hoạt động quản lý, cải tiến hệ thống và tăng trưởng của các mảng kinh doanh hiện tại. Lời kết Một tổ chức phải liên tục đổi mới trước khi trở nên lỗi thời. Doanh nghiệp bất bại khám phá tương lai trong khi khai thác hiện tại một cách xuất sắc. Họ nuôi dưỡng nền văn hóa đổi mới sáng tạo và thực thi hòa hợp dưới cùng một mái nhà, đồng thời cạnh tranh dựa trên các mô hình kinh doanh ưu việt vượt qua ranh giới ngành truyền thống. Nếu doanh nghiệp bạn đang trên đà phục hồi sau đại dịch Covid, thì đây chắc chắn là thời điểm thích hợp để đọc và thực hành theo những gì “Tạo lập mô hình doanh nghiệp bất bại” truyền tải, hãy tận dụng nó để tái tạo một mô hình bất bại cho doanh nghiệp bạn! Bạn có thể sở hữu cuốn sách Tạo lập mô hình doanh nghiệp bất bại tại đây. Mời các bạn đón đọc Tạo Lập Mô Hình Doanh Nghiệp Bất Bại của tác giả Alexander Osterwalder & Yves Pigneur & Alan Smith & Đoàn Đức Thuận (dịch).   
Marketing Theo Phong Cách Sao Kim - Hermawan KartaJaya
Marketing tại Sao Kim là đầu sách, công trình nghiên cứ u chuyên sâu nhất về khai thác tính nữ trong mỗi khách hàng tiềm năng của chúng ta. Những hiểu biết, đúc kết của tác giả giúp đọc giả có được tầm nhìn của một chiếc máy bay trực thăng, để nắm được những giá trị tổng thể về khách hàng của mình trên hành tinh sao Kim. Để sự khôn khéo của các nhà tiếp thị ngày càng rộng lớn và sâu sắc hơn. Các nghiên cứu, câu chuyện về chinh phục thị trường ngoạn mục ở nhiều ngành hàng trong đầu sách cho thấy, hãy chinh phục trái tim của khách hàng thuộc cả hai giới bằng khả năng thấu cảm những thang bậc cảm xúc và mong muốn của khách hàng. Bằng những hiểu biết về tâm lý học, xã hội học, nhân chủng học và rất nhiều khoa học khác để làm giàu kiến thức cũng như cách nhìn của bạn về công nghệ tiếp thị bằng cảm xúc ! Về bản chất Tình cảm có sức lan tỏa, vì vậy các nhà tiếp thị hãy bước đi một cách thận trọng ! nhưng hãy lắng nghe, hãy tin vào bản năng, giác quan thứ 6 về sự từng trãi của mình để sáng tạo ra những giải pháp tiếp thị đột phá trong không gian và thế giới cảm xúc, tình cảm của khách hàng! Những người mang tính nữ luôn chú ý tới chi tiết! Khách hàng đang trở nên ngày càng phức tạp và đánh giá mọi thứ rất tỉ mỉ. Vì vậy, nếu không muốn làm khách hàng thất vọng, tác giả khuyến cáo chúng ta đừng bao giờ bỏ qua thứ gì bất kể nó nhỏ bé đến đâu. Bắt đầu từ chính sách của công ty cho tới các sản phẩm của bạn! Như vậy là bạn đã cung cấp cho khách hàng cả những lợi ích cảm xúc tích cực, hãy đảm bảo chắc chắn rằng bạn và cả tất cả các nhân viên của bạn cũng cảm thấy thoải mái để thực hiện chiến lược này…lấy lợi ích cảm xúc làm vũ khí mới để chiến thắng, chinh phục thị trường và thượng đế của bạn. Trong số những phương thức và giải pháp đề cập, tình Mẫu Tử, tình cảm, giá trị gia đình, tình yêu, tính nhân bản, ý thức trách nhiệm cộng đồng xã hội là những suối nguồn ý tưởng, cơ hội lớn để tạo sự khác biệt đột phá trong mục tiêu chinh phục thị trường và khách hàng của các thương hiệu. Tác giả cũng giới thiệu đem đến cho đọc giả những câu chuyện, công cụ để phát huy cao nhất khả năng quảng bá nhờ sử dụng công nghệ thông tin để truyền tải các  thông điệp cảm xúc tới khách hàng của bạn. Bằng cách này, họ sẽ có một mối liên hệ cũng như sự gắn kết, sức hút về tình cảm với công ty và thương hiệu của bạn. Hãy tiếp cận tình cảm của khách hàng bằng những thấu cảm và giải pháp cá thể hoá, thông điệp cá nhân, mọi chuyện sẽ trở nên dễ dàng hơn. Hermawan Kartajaya, chủ tịch Hiệp hội Tiếp thị Thế giới là một trong “50 chuyên gia hình thành nên tương lai của tiếp thị” do Viện Hiến Chương Tiếp thị - Vương quốc Anh (CIM-UK) bầu chọn. Ông là sự kết hợp độc đáo giữa một nhà nghiên cứu chiến lược kinh doanh, tư vấn cao cấp đặc biệt trong lĩnh vực tiếp thị. Đầu sách Marketing tại sao Kim của ông khái quát và đút kết 18 nguyên tắc giúp các nhà tiếp thị định hướng và tầm nhìn để xây dựng các chương trình kế hoạch tiếp thị một cách hiệu quả nhất trong không gian cảm xúc tinh tế và nhiều cung bậc này. Chúc các Bạn sẽ tiếp tục khám phá thêm nhiều điều thú vị đang chờ đợi trong những trang sách tiếp sau, chắc chắn rằng những hiểu biết mới này không chỉ giúp các nhà tiếp thị hoàn thiện công việc mà còn giúp mỗi người chúng ta thêm niềm vui, sự lãng mạn và thăng hoa trong cuộc sống, tình yêu và sự nghiệp của mình. TRẦN HOÀNG Chủ tịch Hội Marketing TP.HCM Chủ tịch VietnamMarcom  *** Hermawan Kartajaya, chủ tịch Hiệp hội Tiếp thị Thế giới là một trong “50 chuyên gia hình thành nên tương lai tiếp thị” do Viện Hiến Chương Tiếp thị - Vương quốc Anh (CIM-UK) bầu chọn. Ông là sự kết hợp độc đáo giữa một nhà nghiên cứu chiến lược kinh doanh, đặc biệt trong lĩnh vực tiếp thị, với một nhà hoạt động. Ông gia nhập liên đoàn các chuyên gia tiếp thị quốc tế với mô hình được thừa nhận bởi giáo sư Philip Kotler, chuyên gia tiếp thị và giáo sư Warren J.Keegan, chuyên gia tiếp thị toàn cầu. Năm 1989, Hermawan Kartajaya thành lập MarkPlus&Co - hãng tư vấn tiếp thị hàng đầu ở Đông Nam Á. Áp dụng khung chiến lược tiếp thị của Hermawan Kartajaya, MarkPlus&Co đã đổi mới thành công chiến lược tiếp thị của nhiều công ty (công ty trong nước, khu vực và toàn cầu) và nâng cao đáng kể hoạt động của họ. Một số khách hàng chính của MarkPlus&Co như: Singapore Tourism Board, SembCorpParks Holdings, Hewlett-Packard, Microsoft, Yamaha, Goodyear, Indofood, United Tractors, Telkom Indonesia và Bank Rakyat Indonesia. Gần đây, MarkPlus&Co là một hiện tượng trong AsiaCase.com do Nanyang Business School và Ivey Business School thiết lập.  Hermawan Kartajaya là một diễn giả có uy tín quốc tế, đồng thời cũng là tác giả của nhiều cuốn sách trong lĩnh vực tiếp thị. Ông đã được mời với tư cách là diễn giả và giảng viên trong nhiều hội thảo, hội nghị quốc gia và quốc tế, và giảng ở nhiều trường đại học trên khắp thế giới từ châu Á đến châu Âu. Gần đây ông đã đi nhiều đến các nước Đông Nam Á và không ngừng cống hiến những hiểu biết của mình cho cộng đồng tiếp thị ASEAN. Ông đã viết nhiều cuốn sách và bài báo về tiếp thị đã xuất hiện trên rất nhiều ấn phẩm quốc tế. Ông là đồng tác giả với giáo sư Kotler cho ba cuốn sách: Attracting Investors: A Marketing Approach to Finding Funds for your Business (John Wiley & Sons, 2004) (tạm dịch: Thu Hút các Nhà Đầu Tư: Chiến Lược Tiếp thị nhằm Tìm Kiếm Nguồn Vốn cho Hoạt Động Kinh Doanh của Bạn), Rethinking Marketing: Sustainable Marketing Enterprise in Asia (Pearson Education Asia, 2002) (tạm dịch: Suy Nghĩ Lại về Tiếp thị: Doanh Nghiệp Tiếp thị Bền Vững ở Châu Á), Repositioning Asia: From Bubble to Sustainable Economy (John Wiley & Són, 2000) (tạm dịch: Tái Định Vị Châu Á: Từ Nền Kinh Tế Bong Bóng đến Kinh Tế Bền Vững). Ông cũng thường xuyên cộng tác với tạp chí Asia Inc. và Marketing của Singapore. Hermawan Kartajaya cũng tham gia vào nhiều hoạt động cộng đồng với Quỹ Nhi Đồng Liên Hợp Quốc (UNICEF), Tổ Chức Bảo Tồn Quốc Tế (Conservation International), Tổ chức Lãnh Đạo vì Môi Trường và Phát Triển Quốc Tế (Leadership for Environment and Development International). Mới đây ông còn tham gia sáng lập và tổ chức sự kiện Celebrities for Kid @ National Mother’s Day, 1 hoạt động từ thiện của UNICEF dành cho trẻ em tại Indonesia. Mời các bạn đón đọc Marketing Theo Phong Cách Sao Kim của tác giả Hermawan KartaJaya.
Các Nhà Sáng Lập - Maurice Baslé & Francoise Benhamon & Bernard Havance
Các nhà kinh tê học hiện nay đều có nguồn gốc của họ Kinh tế học là một khoa học trẻ tuổi. Những nhà sáng lập ra nó là nhhững người cận đại, việc dạy nó thành một môn chuyên nghiệp chỉ mới khioảng một thế kỷ nay.  Năm 1795, Quốc ước lập ra một chức giáo sư về kinh tế chính trị học ở Trường Sư phạm, chức đó được giao cho Alexandre Vandermonde. Nhưng theo một lời đồn về lịch sử, chính J-B. Say là người khai trương thật sự của việc giảng dạy kinh tế học ở Pháp với giáo trình của ông ở Athénee (A-v- tê-nê) năm 1815-1816, rồi ở Trường Đại học Quốc gia về kỷ thuật và nghề nghiệp năm 1819; Say còn được xác nhận năm 1831 với việc bổ nhiệm ông vào College de France. Chỉ dến năm 1877 nước Pháp mới mở rộng các chức giáo sư Kinh tế học ra tất cả các khoa Luật trong nước.  Không có sự nhập môn nào về kinh tế học tốt hơn việc lướt qua lịch sử các tư tưởng kinh tế. Cách đi ấy cho phép ngược lại nguồn gốc của các khái niệm; nó đem lại cho người ta cả nguồn gốc lẫn cách sử dụng các khái niệm đó. Bằng cách đó mỗi người có thể tìm thấy những nhà sáng lập ra dòng họ tư tưởng của mình. "Lịch sử kinh tế học chứng tỏ rằng các nhà kinh tế học, giống như mọi người khác, đều tưởng bong bóng là đèn lồng và tưởng mình nắm đưọc chân lý, nhưng thật ra tất cả những gì họ có đều dẫn tới cả một loạt những định nghĩa hay những phán xét phức tạp về giá trị được ngụy trang thành-những qui tắc khoa học. Không có cách trình bày nào khác hơn việc nghiên cửu lịch sử kinh tế học [ ] , nó đem lại phòng thí nghiệm rộng lớn nhất để có được một sự khiêm nhưòng cần thiết về phưong pháp luận đối với việc tìm hiểu những thành tựu thật sự của kinh tế hợc. Ngoài ra, đó còn là một phòng thí nghiệm mà mỗi nhà kinh tế học mang theo mình, dù có ý thức hay không ( ) Cần hiểu rõ những gì mình thừa kế được còn hơn là tưởng tượng ra một di sản bị giấu kín ỏ một góc tối nào đó và ở một thử tiếng nước ngoài nào đó".  M. Blaug, tư tưởng kinh tế, Económica, 1987.  Thứ tự xuất hiện của các nhà kinh tế học lớn là rất có ý nghĩa. Mỗi người có những quan hệ với những người đi trước nào đó, dưới dấu hiệu tiếp nối hay đoạn tuyệt Mancur Olson thừa nhận một cách rõ ràng món nợ trí tuệ của mình đối với những nhà lý luận đi trước :  "Tôi có thói quen dẫn lời Newton nói rằng nếu ông có thể nhìn thấy xa hơn những ngưòi khác, thì đó là vì ông đứng lên trên vai của những vị khổng lồ. Nếu Newton đã có thể nói như vậy vào thế kỷ XVII, thì chắc chắn nhà kinh tế học hôm nay cũng chỉ có thể tự coi mình đứng ở vị trí ấy, cho dù tầm hiểu biết cá nhân của mình rộng lớn tới mức nào. Thật ra, anh ta là kẻ kế thừa của một số nhà tư tưởng thiên tài được thừa nhận, như Smith, Ricardo, Mili, Marx, Walras, Wicksell , Marshall và Keynes, cũng như hàng trăm người thông minh, cả nam lẫn nữ, đã tạo ra một công trình quí giá. Trên thực tế, nếu các vị khổng lồ của kinh tế học đã tự mình đứng lên trên vai những ngưòi tiền bối của họ, thì nhà kinh tế học hôm nay cũng đứng trên đỉnh cao của một kim tự tháp mênh mông của những tài năng". Vinh quang và suy thoái của các dân tộc, Bonnel, 1983.  Các tư tưỏng kinh tế là những chân vòm ở trên hiện thực Các tư tưởng kinh tế của quá khứ không phải chỉ là để cho các nhà kinh tế học tương lai tập sự, chúng còn tác động tới hiện thực bằng hai kênh :  - Các tác nhân kinh tế thường xuyên có một tác động dự báo và tiên đoán. Chỉ cần một dự báo đáng lo ngại được đưa ra là các tác nhân kinh tế tác động dự báo theo đó, bằng cách ngăn cản nó xuất hiện hoặc, trái lại, tạo thuận lợi cho nó được thực hiện.  - Việc nghiên cứu những vận động của thị trường chứng khoán hay những cơ chế lạm phát cho thấy rằng các khoa học kinh tế phải tính đến những ý kiến kinh tế hàng ngày của các tác nhân Thông tin và những tri thức kinh tế có thật hay giả định tác động tới hiện thực như vậy - "Cai trị là lựa chọn" : những người cai trị phải có một thứ khuôn đọc về kinh tế để hành động : "Những tư tưởng đúng hay sai của các nhà kinh tế học và chính trị học có một tầm quan trọng lớn hơn điều ngưòi ta thường tưỏng. Nói đúng ra, thế giới gần như chỉ được hưóng dẫn bởi những tư tưỏng đó. Những người hành động nào tưởng mình thoát khỏi những ảnh hưởng của các học thuyết thường là những kẻ nô lệ của một vài nhà kinh tế học của quá khứ Những người cầm quyền sáng suốt tự cho mình noi theo những tiếng nói thương giới thật ra đều chắt lọc từ những không tưỏng nảy sinh trước đó vài năm trong đầu óc của một nhà soạn giáo án nào đó". J. M. Keynes, Lý luận chung về sử dụng lợi tức và tiền tệ, 1936. Mời các bạn đón đọc Các Nhà Sáng Lập của tác giả Maurice Baslé & Francoise Benhamon & Bernard Havance.