Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Tư Duy Là Tồn Tại

Phương pháp 6 Chiếc Mũ Tư Duy

Tư Duy Là Tồn Tại

Tư duy song song trong phương pháp tư duy 6 chiếc mũ đã nhanh chóng thay thế cho cách thức tư duy tranh luận trên toàn thế giới.

Phương pháp tư duy này ảnh hướng sâu sắc từ những quản trị viên cao cấp của các tập đoàn hàng đầu thế giới như Siemens, NTT, Prudential (US) cho đến những đứa trẻ còn ngồi trên ghế nhà trưởng.

Dưới đây là một số dẫn chứng cụ thể: Đội dự án đa quốc gia của tập đoàn hàng đầu (ABB) từng mất 30 ngày hội họp để đưa ra một quyết định.

Sau khi họ áp dụng lối tư duy đồng thuận, thời gian rút xuống chỉ còn hai ngày. Một nghiên cứu viên làm việc tại phòng thí nghiệm hàng đầu của tập đoàn IBM đã nói.

Đôi lúc họ bỏ qua những yếu tố có thể đưa đến sự thay đổi, không thể tạo ra những đột phá thật sự và không chuẩn bị những kế hoạch dự phòng cần thiết cho những rủi ro có thể gặp.

Sáu Chiếc Mũ Tư Duy Khi Người Ta Tư Duy – As a Man Thinketh Tư Duy Như Einstein

Ngoài ra, những người đã quen giải quyết vấn đề một cách khoa học có thể sẽ không phát huy được khả năng sáng tạo hoặc giải quyết vấn đề dựa trên trực giác của họ.

Nếu đánh giá một vấn đề bằng phương pháp Sáu Chiếc Mũ Tư Duy, bạn có thể giải quyết nó dựa trên tất cả các góc nhìn đã đề cập. Bạn sẽ kết hợp được cả tham vọng, kỹ năng thực hành, sự nhạy cảm, sáng tạo và khả năng lập kế hoạch dự phòng tốt trong việc ra quyết định và hoạch định.

Thư viện Sách Mới trân trọng gửi đến bạn đọc cuốn sách Tư Duy Là Tồn Tại của tác giả Edward de Bono.

Nguồn: sachmoi.net

Đọc Sách

VẠN VẬT HỌC - LỚP ĐỆ TỨ (1970) - NGUYỄN CỬU TRIỆP
Nền giáo dục Việt Nam Cộng hòa là nền giáo dục ở các vùng do chế độ Việt Nam Cộng hòa kiểm soát tại miền Nam Việt Nam từ 1955 tới 1975 (các vùng do Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam kiểm soát thì không áp dụng). Hệ thống giáo dục Việt Nam Cộng hòa gồm tiểu học, trung học và đại học, cùng với một mạng lưới các cơ sở giáo dục công lập, dân lập và tư thục ở cả ba bậc học và hệ thống tổ chức quản trị từ trung ương tới địa phương. Hiến pháp Việt Nam Cộng hòa quy định về việc cố gắng xây dựng nền giáo dục cơ bản mang tính bắt buộc và miễn phí, các trường đại học tự trị, và những người có khả năng mà không có phương tiện sẽ được nâng đỡ để theo đuổi học vấn. Tuy nhiên, do ngân sách giáo dục eo hẹp, hệ thống trường học thiếu thốn và không có chính sách khuyến học hiệu quả nên có nhiều trẻ em nghèo vẫn không thể đến trường. Tới năm 1974 tỷ lệ người dân biết đọc và viết của Việt Nam Cộng hòa ước tính vào khoảng 70% dân số, tức là trong 20 năm tồn tại, Việt Nam Cộng hòa chưa thanh toán xong nạn mù chữ (trong khi đó, chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thanh toán xong nạn mù chữ ở đồng bằng và trung du miền Bắc ngay từ năm 1958). Sau năm 1975, chế độ Việt Nam Cộng hòa sụp đổ, trước tình trạng nhiều người dân miền Nam vẫn bị mù chữ, chính phủ Việt Nam đã thực hiện chính sách Bình dân học vụ và đến cuối tháng 2 năm 1978, toàn bộ 21 tỉnh thành ở miền Nam đã cơ bản thanh toán xong nạn mù chữ.
THẾ GIỚI 5000 NĂM NHỮNG ĐIỀU BÍ ẨN
Lịch sử phát triển của xã hội loài người từ mông muội tới văn minh, đã trải  qua nhiều giai đoạn thăng trầm tới vô vàn biến cố cùng những huyền thoại bí  ẩn trôi theo dòng chảy của thời gian năm tháng. Từ vương quốc cổ đại đầu  tiên bên bờ sông Nin tới nay, lịch sử thế giới đã có 5000 năm tồn tại, phát  triển và mang trong nó biết bao điều bí ẩn thuộc các lĩnh vực: văn hóa, nghệ  thuật kiến trúc, chính trị, xã hội, tôn giáo, chiến tranh, quyền lực, dân tộc,  danh nhân v.v...Con người ở mọi thời đại luôn quan tâm tìm hiểu, lý giải  những bí ẩn của tự nhiên, xã hội và đời sống của con người trong quá khứ để  hướng tới tương lai tốt đẹp hơn.  Lịch sử phát triển của xã hội loài người từ mông muội tới văn minh, đã trải  Lịch sử phát triển của xã hội loài người từ mông muội tới văn minh, đã trải qua nhiều giai đoạn thăng trầm tới vô vàn biến cố cùng những huyền thoại bí ẩn trôi theo dòng chảy của thời gian năm tháng. Từ vương quốc cổ đại đầu tiên bên bờ sông Nin tới nay, lịch sử thế giới đã có 5000 năm tồn tại, phát triển và mang trong nó biết bao điều bí ẩn thuộc các lĩnh vực: văn hóa, nghệ thuật kiến trúc, chính trị, xã hội, tôn giáo, chiến tranh, quyền lực, dân tộc, danh nhân v.v...Con người ở mọi thời đại luôn quan tâm tìm hiểu, lý giải những bí ẩn của tự nhiên, xã hội và đời sống của con người trong quá khứ để hướng tới tương lai tốt đẹp hơn.  Đáp ứng nhu cầu của đông đảo bạn đọc trong cả nước, Nhà xuất bản Văn hóa  - Thông tin cho ấn hành cuốn “Thế giới 5000 năm những điều bí ẩn” do tập  thể tác giả biên dịch, soạn thảo từ nhiều nguồn tư liệu Đông Tây kim cổ và  đặc biệt là các tài liệu của Trung Quốc đương đại. Đây là cuốn sách được soạn  thảo công phu, trình bày hệ thống, giàu tính thông tin, khoa học, mang giá trị  thực tiễn, hấp dẫn và lý thú.Hy vọng tập sách sẽ làm vui lòng bạn đọc gần xa. Đáp ứng nhu cầu của đông đảo bạn đọc trong cả nước, Nhà xuất bản Văn hóa - Thông tin cho ấn hành cuốn “Thế giới 5000 năm những điều bí ẩn” do tập thể tác giả biên dịch, soạn thảo từ nhiều nguồn tư liệu Đông Tây kim cổ và đặc biệt là các tài liệu của Trung Quốc đương đại. Đây là cuốn sách được soạn thảo công phu, trình bày hệ thống, giàu tính thông tin, khoa học, mang giá trị thực tiễn, hấp dẫn và lý thú.Hy vọng tập sách sẽ làm vui lòng bạn đọc gần xa.
NGHIÊN CỨU CHỮ HÁN - THI ĐẠT CHÍ
Nghiên Cứu Chữ Hán là tập sách mỏng song ngữ Hán Việt (45 trang, trong đó phần tiếng Việt 25 trang) của Thi Đạt Chí, năm xb không rõ (bìa sách bị mất, có lẽ cuối  195x), do tiệm sách Thống Nhất (Chợ Lớn) tổng phát hành.  là tập sách mỏng song ngữ Hán Việt (45 trang, trong đó phần tiếng Việt 25 trang) của Thi Đạt Chí, năm xb không rõ (bìa sách bị mất, có lẽ cuối  195x), do tiệm sách Thống Nhất (Chợ Lớn) tổng phát hành. Sau phần nói về giá trị của chữ Hán, nguồn gốc chữ Hán, tác giả trình bày 6 cách cấu tạo chữ Hán (Lục thư: tượng hình, chỉ sự, hội ý, hình thanh, chuyển chú và giả tá) Trong khi 4 loại đầu, tác giả phân loại rất chi li (loại  tượng hình có 7 biến thể: đơn thể, song thể, hợp thể, trọng thể, .. ; loại  chỉ sự chia thành 4 thể: thuần thể, gia thể, hợp thể, biến thể) một cách không mấy hữu ích thì hai loại sau viết quá gọn, đặc biệt loại  chuyển chú, sau khi dẫn ý Thuyết Văn Giải Tự, phần giảng thêm khá tối và rối. Sau phần nói về giá trị của chữ Hán, nguồn gốc chữ Hán, tác giả trình bày 6 cách cấu tạo chữ Hán (Lục thư: tượng hình, chỉ sự, hội ý, hình thanh, chuyển chú và giả tá) Trong khi 4 loại đầu, tác giả phân loại rất chi li (loại  có 7 biến thể: đơn thể, song thể, hợp thể, trọng thể, .. ; loại  chia thành 4 thể: thuần thể, gia thể, hợp thể, biến thể) một cách không mấy hữu ích thì hai loại sau viết quá gọn, đặc biệt loại , sau khi dẫn ý Thuyết Văn Giải Tự, phần giảng thêm khá tối và rối.
TRUNG DUNG TÂN KHẢO - NHÂN TỬ NGUYỄN VĂN THỌ
Trung Dung (中庸 ) là một trong bốn cuốn của bộ Tứ Thư. Ba quyển còn lại là Đại Học (大學 ), Luận Ngữ (論語 ), Mạnh Tử(孟子 ). Trung Dung (中庸 ) là một trong bốn cuốn của bộ Tứ Thư. Ba quyển còn lại là Đại Học (大學 ), Luận Ngữ (論語 ), Mạnh Tử(孟子 ).Sách Trung Dung do Tử Tư làm ra  trên cơ sở một thiên trong Kinh Lễ. Tử Tư là học trò của Tăng Tử, cháu nội của Khổng Tử, thọ được cái học tâm truyền của Tăng Tử. Mục đích của sách Trung Dung là biểu thị rằng theo Trung Đạo có thể giúp chúng ta đạt được một trình độ cao của đạo đức. Trong sách Trung Dung, Tử Tư dẫn những lời của Khổng Tử nói về đạo "trung dung", tức là nói về cách giữ cho ý nghĩ và việc làm luôn luôn ở mức trung hòa, không thái quá, không bất cập và phải cố gắng ở đời theo nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, cho thành người quân tử, để cuối cùng thành thánh nhân. Sách Trung Dung chia làm hai phần: Phần 1: từ chương 1 đến chương 20, là phần chính, gồm những lời của Khổng Tử dạy các học trò về đạo lý trung dung, phải làm sao cho tâm được: tồn, dưỡng, tĩnh, sát; mức ở được gồm đủ: nhân, nghĩa, lễ, trí, tín cho hòa với muôn vật, hợp với lòng Trời để thành người tài giỏi. Phần 2: từ chương 21 đến chương 33, là phần phụ, gồm những ý kiến của Tử Tư giảng giải thêm cho rõ ràng ý nghĩa và giá trị của hai chữ trung dung. Cả hai quyển sách Đại Học và Trung Dung trước đây là những thiên trong Kinh Lễ, sau các Nho gia đời Tống tách riêng ra làm hai quyển để hợp với sách Luận Ngữ và Mạnh Tử thành bộ Tứ Thư. Sách Trung Dung do Tử Tư làm ra  trên cơ sở một thiên trong Kinh Lễ. Tử Tư là học trò của Tăng Tử, cháu nội của Khổng Tử, thọ được cái học tâm truyền của Tăng Tử. Mục đích của sách Trung Dung là biểu thị rằng theo Trung Đạo có thể giúp chúng ta đạt được một trình độ cao của đạo đức.Trong sách Trung Dung, Tử Tư dẫn những lời của Khổng Tử nói về đạo "trung dung", tức là nói về cách giữ cho ý nghĩ và việc làm luôn luôn ở mức trung hòa, không thái quá, không bất cập và phải cố gắng ở đời theo nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, cho thành người quân tử, để cuối cùng thành thánh nhân.Sách Trung Dung chia làm hai phần:Phần 1: từ chương 1 đến chương 20, là phần chính, gồm những lời của Khổng Tử dạy các học trò về đạo lý trung dung, phải làm sao cho tâm được: tồn, dưỡng, tĩnh, sát; mức ở được gồm đủ: nhân, nghĩa, lễ, trí, tín cho hòa với muôn vật, hợp với lòng Trời để thành người tài giỏi.Phần 2: từ chương 21 đến chương 33, là phần phụ, gồm những ý kiến của Tử Tư giảng giải thêm cho rõ ràng ý nghĩa và giá trị của hai chữ trung dung.Cả hai quyển sách Đại Học và Trung Dung trước đây là những thiên trong Kinh Lễ, sau các Nho gia đời Tống tách riêng ra làm hai quyển để hợp với sách Luận Ngữ và Mạnh Tử thành bộ Tứ Thư.