Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Tiếng Nói Của Bàn Tay

Tiếng Nói Của Bàn Tay

Bàn tay có nhiều đường nét, dấu, vết, màu sắc, hình thù và đặc điểm với những tên gọi khác nhau. Mỗi chi tiết ở trong lòng bàn tay hoặc trên mu bàn tay đều có tên gọi riêng đồng thời cũng mang ý nghĩa riêng. Mỗi ngón tay, mỗi đốt của từng ngón tay lại chứa đựng một nội dung khác nhau. Ở tùy từng loại bàn tay và loại người tốt xấu khác nhau mà người xem bàn tay – với kinh nghiệm của bản thân – sẽ phán đoán và giải đáp khác nhau.

Nghiên cứu tỉ mỉ khoa xem bàn tay, ta có thể biết ngay những ưu, khuyết điểm cơ bản của một người từ lúc mới gặp họ, bằng cách chỉ nhìn đôi bàn tay của họ đang hoạt động mà chưa cần tới việc cầm bàn tay của họ để nghiên cứu tỉ mỉ: như vậy rất có lợi cho mọi quan hệ giao tiếp hàng ngày. Đọc kỹ, nghiên cứu kỹ, cuốn sách này sẽ chứng minh rõ điều đó.

Bàn tay có tiếng nói riêng của nó. Nghiên cứu khoa xem bàn tay giúp bạn có thể hiểu, biết và khám phá ra chính mình. Hiểu biết và khám phá ra cái tốt, cái xấu của người khác, phát hiện bệnh tật sẽ xảy ra, báo trước cho người được xem biết phần nào tương lai của họ…

Những điều giới thiệu trong sách này được đúc kết qua kinh nghiệm thực tế từ bao đời nay, tuy còn nhiều khiếm khuyết nhưng hy vọng sẽ đem lại cho bạn nhiều điều thú vị.

TS. Nguyễn Đình Phúc cho rằng “Bàn tay có tiếng nói riêng. Người say mê nghiên cứu, học tập mới đọc được tiếng nói đó. Không đọc bằng một động cơ tốt, một tinh thần trách nhiệm cao, dễ đọc sai lạc, thậm chí còn xuyên tạc tiếng nói đó nữa. Xem bàn tay có mục đích chân chính là giúp ích cho mọi người. Người không có trí nhớ tốt, không có óc nhận xét bao quát và phán đoán nhanh nhậy, không nên học xem bàn tay”.

Với ông khoa xem bàn tay thực sự là một nghệ thuật – một khoa học chính xác. Nó giúp con người có thể hiểu, biết và khám phá ra chính mình, biết được cái xấu, cái tốt của người khác để từ đó quan hệ, kết bạn, dùng người khỏi lầm lẫn; phát hiện được khả năng riêng biệt của lớp trẻ để hướng họ đi vào ngành nghề nào có thể phát triển tài năng; phát hiện bệnh tật sẽ xẩy ra, đang xẩy ra và góp phần cùng bác sĩ chuẩn đoán bệnh cho bệnh nhân…

…Bàn tay người ta có nhiều dáng vẻ khác nhau. Mỗi dáng vẻ nói lên một tính cách cơ bản về người có bàn tay đó. Ta chẳng cần thắc mắc là có nhiều loại bàn tay với nhiều điều tốt nhưng cũng có không ít điều xấu? Đó là biểu hiện thực tế trong mỗi con người, không có gì là mâu thuẫn nhau cả.

Bàn tay cân đối so với bộ phận khác của thân người và trông đẹp mắt là của người tốt, hoàn hảo về nhiều mặt.

Bàn tay xấu xí với những ngón tay vặn vẹo, kỳ quặc nhiều ít là của người lạ lùng, với nhiều điểm khác người.

Bàn tay quá ngắn so với thân người: có nhiều biểu hiện xấu.

Bàn tay quá dài: nhanh nhẹn, tháo vát, tham lam, mưu mẹo, quá tỉ mẩn, gàn dở.

Bàn tay dài, hẹp và gầy guộc: ích kỷ, độc đoán, chuyên quyền, bạo ngược, khó cùng chung sống.

Bàn tay rất hẹp, có gò Kim Tinh co lại: làm lộ ra chủ nghĩa thực chứng.

Đàn bà có bàn tay hẹp: đẻ rất khó.

Bàn tay dài, khô, xương xẩu: khô khan, thận trọng.

Bàn tay ngắn và mỏng: có khuynh hướng đồi bại, thích tiền bạc, có thể hà tiện, lắm tiền…

Mục Lục :

Lời nhà xuất bản

Một số chi tiết trong bàn tay với tên gọi cụ thể cần làm quen trước

Lời nói đầu

A. Khoa xem bàn tay

B. Bàn tay nói gì về bệnh tật ?

C. Cái chết thể hiện trên bàn tay

D. Tiếng nói bàn tay của một số người

Đ. Bảng tra cứu cần thiết cho người xem bàn tay

E. Kinh nghiệm xem bàn tay

Nguồn: sachhaymienphi.com

Đọc Sách

CHỮ BÁT TRONG KINH DỊCH - BÁT TRẠCH CHÁNH TÔNG
Nói về địa lý, phần đông ai có học chữ Nho và có đọc Kinh Dịch thì mới hiểu Bát Trạch là quý báu vì sách Bát Trạch là rút một phần trong muôn phần của bộ Kinh Dịch mà làm ra. Dịch có nghĩa là thay đổi biến chuyển theo hai thể Âm và Dương (tối và sáng), do đó mà truy nguyên sự biến hoá vô cùng của vũ trụ gồm cả muôn sự vật trong đời. Nói về địa lý, phần đông ai có học chữ Nho và có đọc Kinh Dịch thì mới hiểu Bát Trạch là quý báu vì sách Bát Trạch là rút một phần trong muôn phần của bộ Kinh Dịch mà làm ra.Dịch có nghĩa là thay đổi biến chuyển theo hai thể Âm và Dương (tối và sáng), do đó mà truy nguyên sự biến hoá vô cùng của vũ trụ gồm cả muôn sự vật trong đời. Bổn sách này, tác giả lựa sẵn tuổi, tuổi nào hạp về phương hướng nào để cất nhà, theo số của Hà Đồ và Lạc Thơ trong Kinh Dịch. Nhà làm sách Bát Trạch quán thông thiên văn, rành Địa lý, am hiểu vụ trụ biến hoá, phải hiểu cả Âm Dương thuộc Ngũ Hành sanh và khắc mới làm ra được. Có lắm người biết chữ Nho và cũng có sách Bát Trạch nhưng không ai chỉ dẫn thì cũng không làm sao mà phân tách tuổi nào biết cung nào tốt hay xấu. Cuốn sách này nhằm giúp quý vị nào có cần đến cũng khỏi thắc mắc khi muốn gây dựng một ngôi nhà đúng Phương hướng theo địa lý. Cuốn sách được sắp đặt rành rẽ từ tuổi Giáp Tý cho đến Quý Hợi là 60 tuổi mà trong sách gọi là Lục Giáp. "Khắp nơi chúng ta lúc nào cũng bị nhuần thấm trong luồng tạm gọi là Vũ trụ tuyển kết hợp bằng hàng triệu vi phân tử khác nhau xuyên qua ta hằng ngày, trong suốt đời chúng ta".  (Trích trong bài tựa của Maurice de Boglie - Quyển "Les Rayons Cosmique" tác giả Le Prince Ringnet, chương 7). "Chúng ta nên khám phá ra những sự huyền vi của tạo vật có ảnh hưởng đến đời sống của chúng ta thì chúng ta rất thích chí, chẳng khác nào vị thuyền trưởng khi ra biển mà trong tay đã có sẵn chiếc Địa bàn"  (Viên Tài Hà Tấn Phát)Bổn sách này, tác giả lựa sẵn tuổi, tuổi nào hạp về phương hướng nào để cất nhà, theo số của Hà Đồ và Lạc Thơ trong Kinh Dịch.Nhà làm sách Bát Trạch quán thông thiên văn, rành Địa lý, am hiểu vụ trụ biến hoá, phải hiểu cả Âm Dương thuộc Ngũ Hành sanh và khắc mới làm ra được.Có lắm người biết chữ Nho và cũng có sách Bát Trạch nhưng không ai chỉ dẫn thì cũng không làm sao mà phân tách tuổi nào biết cung nào tốt hay xấu. Cuốn sách này nhằm giúp quý vị nào có cần đến cũng khỏi thắc mắc khi muốn gây dựng một ngôi nhà đúng Phương hướng theo địa lý. Cuốn sách được sắp đặt rành rẽ từ tuổi Giáp Tý cho đến Quý Hợi là 60 tuổi mà trong sách gọi là Lục Giáp."Khắp nơi chúng ta lúc nào cũng bị nhuần thấm trong luồng tạm gọi là Vũ trụ tuyển kết hợp bằng hàng triệu vi phân tử khác nhau xuyên qua ta hằng ngày, trong suốt đời chúng ta". "Chúng ta nên khám phá ra những sự huyền vi của tạo vật có ảnh hưởng đến đời sống của chúng ta thì chúng ta rất thích chí, chẳng khác nào vị thuyền trưởng khi ra biển mà trong tay đã có sẵn chiếc Địa bàn" 
KINH DỊCH LƯỢC GIẢI - DƯƠNG ĐÌNH KHUÊ
Chúng tôi đã may mắn mượn được quyền CHU DỊCH của cụ Phan Bội Châu tự Sào Nam, và quyển 1 CHING của Alfred Douglas. Cụ Phan thì chuyên về giảng triết lý kinh Dịch, không cho biết cách bóI Dịch, vấn đề mà Douglas đã bổ khuyết rất đầy đủ. Về ý nghĩa của mỗi quẻ và mỗi hào, cuốn của cụ Phan rất chi tiết, giải thích từng chữ từ nghĩa đen đến nghĩa bóng, và tuy đôi khi cụ cũng mở rộng sự giải thích của cổ thánh hiền bằng cái sở học của một nhà nho tân tiến (như đem các biến cố cận đại của Đông, Tây làm ví dụ), nhưng vẫn câu nệ vào văn tự của các lời đoán, truyện và hào từ, mà không tự giải thích theo những nguyên lý của Dịch mà chính cụ đã nói qua, như thuộc chất của âm dương, vị trí của mỗi hào, sự tương quan giữa các hào, v. v. Đến cuốn của A. Douglas lại còn kém xa, chỉ tóm tắt nguyên văn của kinh Dịch trong vài câu quá ngắn ngủi thành ra thiếu mạch lạc, nên càng thêm bí hiểm. Rồi chúng tôi tham khả thêm những cuốn viết về kinh Dịch của các học giả Âu-Mỹ (lulian K.Shcitkii, John Blofeld, Sam Reifler, James Legge) hy vọng tìm thấy ở đó một tia sáng của lý luận khoa học, nhưng vô ích, vì họ đều là những học giả chuyên nghiên cứu Hán tự và văn hóa Hán, chỉ có mục đích diễn tả thật trung thành nguyên lý của cổ thánh hiền Trung Hoa. Riêng chỉ có cuốn Méthode Pratique de Divination chinoise par le Yi King của Charle Canone đã viết theo lời giảng của đạo sĩ Nguyên Quang (Yuan Kuang) là bớt nô lệ vào các lời bàn của cổ thánh hiền, và giải thích mỗi quẻ và mỗi hào một cách giản dị hơn, nhưng vẫn chưa biết dùng lý luận chắc chắn để dẫn dắt lời giảng.Đó là một trong những điều thắc mắc đã vấn vương trí óc của chúng tôi sau khi đọc đi đọc lại các tài liệu tham khảo nói trên. Rồi chúng tôi nghiền ngẫm cố gắng tự mình giải quyết những thắc mắc của chính mình.Tập biên khảo này là công phu suy nghĩ trong gần ba năm. Nó không giải quyết được mọi thắc mắc, và ngay cả khi tưởng rằng đã giải quyết được cái nào, thì cũng chưa chắc là đúng. Biết vậy, nhưng chúng tôi cứ làm vì biển học mênh mông, tiến được bước nào (hoặc tưởng thế) thì cứ tiến, chứ làm sao dám có ảo vọng đạt tới chân lý tối hậu?!
Lão Tử - Đạo Đức Kinh (Thu Giang) Nguyễn Duy Cần dịch và bình chú!
Khổng Tử đến Châu, hỏi Lễ. Lão Tử nói: Lời nói của ông là lời nói của những kẻ nay đã xương hàm cố tại. Và, người quân-tử đắc thời thì đi xe, không đắc-thời thì tay vịn nón lá mà đi chơn. Ta nghe rằng: Kẻ buôn giỏi khéo giữ của quý như không có gì, người quân-tử đức thạnh, dung-mạo dường như kẻ ngu. Họ khác với cái kiêu-khi và đa-dục của ông, thái-sắc và dâm-chí ấy không ích gì cho thân ông cả! Tôi sở-dĩ bảo cho ông biết có bấy nhiêu thôi. Khổng-Tử ra về, bảo với đệ tử: Chim, ta biết nó bay như thế nào; Cá, ta biết nó lại làm sao; Thú, ta biết nó chạy cách nào. Thú chạy, thì ta cả lưới bắt nó; Cá lội, thì ta có dây câu ví nó; Chim bay, thì ta có bẫy gài nó. Chỉ như con Rồng, thì ta không biết nó theo mây theo gió mà bay liệng như thế nào. Nay ta thấy Lão-Tử như con Rồng vậy!MUA SÁCH (TIKI) MUA SÁCH (TIKI)
Lão Tử - Đạo Đức Kinh - Nguyễn Hiến Lê chú dịch!
Về cuốn  Lão Tử- Đạo đức kinh PDF , trong bộ Hồi kí (Nxb Văn học – 1993), cụ Nguyễn Hiến Lê cho biết: Về cuốn Lão Tử- Đạo đức kinh PDF, trong bộ Hồi kí (Nxb Văn học – 1993), cụ Nguyễn Hiến Lê cho biết:“Chúng ta đã có vài ba bản dịch Đạo đức kinh rồi. Tôi góp thêm một bản dịch nữa, với một phần giới thiệu khoảng 100 trang về học thuyết của Lão tử. “Chúng ta đã có vài ba bản dịch Đạo đức kinh rồi. Tôi góp thêm một bản dịch nữa, với một phần giới thiệu khoảng 100 trang về học thuyết của Lão tử. Theo các học giả Trung Hoa gần đây, cho rằng Lão sinh sau Khổng, Mặc, trước Mạnh; và bộ Đạo đức kinh xuất hiện sau Luận ngữ, vào thế kỉ thứ IV hay thứ III, trước Tây lịch, do môn sinh của Lão tử chép lại lời thầy; tuy có khoảng mười chương của người đời sau thêm vào nhưng tư tưởng vẫn là nhất trí. Theo các học giả Trung Hoa gần đây, cho rằng Lão sinh sau Khổng, Mặc, trước Mạnh; và bộ Đạo đức kinh xuất hiện sau Luận ngữ, vào thế kỉ thứ IV hay thứ III, trước Tây lịch, do môn sinh của Lão tử chép lại lời thầy; tuy có khoảng mười chương của người đời sau thêm vào nhưng tư tưởng vẫn là nhất trí. Lão tử là triết gia đầu tiên của Trung Quốc luận về vũ trụ, có một quan niệm tiến bộ, vô thần về bản nguyên của vũ trụ mà ông gọi là Đạo. Ông lại xét tính cách và qui luật của Đạo, dùng những qui luật đó làm cơ sở cho đạo ở đời và đạo trị nước, tức cho một nhân sinh quan và một chính trị quan mới mẻ. Do đó mà học thuyết của ông hoàn chỉnh nhất, có hệ thống nhất thời Tiên Tần. Lão tử là triết gia đầu tiên của Trung Quốc luận về vũ trụ, có một quan niệm tiến bộ, vô thần về bản nguyên của vũ trụ mà ông gọi là Đạo. Ông lại xét tính cách và qui luật của Đạo, dùng những qui luật đó làm cơ sở cho đạo ở đời và đạo trị nước, tức cho một nhân sinh quan và một chính trị quan mới mẻ. Do đó mà học thuyết của ông hoàn chỉnh nhất, có hệ thống nhất thời Tiên Tần. Ông tặng cho hậu thế những tư tưởng bình đẳng, tự do, trọng hoà bình, không tranh giành nhau mà khoan dung với nhau (dĩ đức báo oán), trở về tự nhiên, sống thanh tịnh. Trở về tự nhiên theo ông không phải là trở về thời ăn lông ở lỗ, sống bằng săn bắn và hái trái cây, mà trở về buổi đầu thời đại nông nghiệp, thời bộ lạc, có tù trưởng nhưng tù trưởng cũng sống như mọi người khác, không can thiệp vào đời sống của dân. Nước thì nhỏ mà dân ít; các nước láng giềng trông thấy nhau, nghe được tiếng cho sủa, tiếng gà gáy của nhau mà dân các nước không qua lại với nhau, có thuyền có xe mà không ngồi, dùng lối thắc dây thời thượng cổ mà không có chữ viết (chương 80). Thời đó có thể là thời Nghiêu Thuấn mà tất cả các triết gia thời Tiên Tần đều cho là hoàng kim thời đại. Dĩ nhiên nhân loại không lùi lại như vậy được và đọc Lão tử chúng ta chỉ nên nhớ rằng ông muốn cứu cái tệ đương thời là đời sống đã phúc tạp quá, từ kinh tế tới lễ nghi, chính trị, tổ chức xã hội; con người đã gian tham, xảo trá nhiều, do đó mà loạn lạc, nghèo khổ. Ông tặng cho hậu thế những tư tưởng bình đẳng, tự do, trọng hoà bình, không tranh giành nhau mà khoan dung với nhau (dĩ đức báo oán), trở về tự nhiên, sống thanh tịnh. Trở về tự nhiên theo ông không phải là trở về thời ăn lông ở lỗ, sống bằng săn bắn và hái trái cây, mà trở về buổi đầu thời đại nông nghiệp, thời bộ lạc, có tù trưởng nhưng tù trưởng cũng sống như mọi người khác, không can thiệp vào đời sống của dân. Nước thì nhỏ mà dân ít; các nước láng giềng trông thấy nhau, nghe được tiếng cho sủa, tiếng gà gáy của nhau mà dân các nước không qua lại với nhau, có thuyền có xe mà không ngồi, dùng lối thắc dây thời thượng cổ mà không có chữ viết (chương 80). Thời đó có thể là thời Nghiêu Thuấn mà tất cả các triết gia thời Tiên Tần đều cho là hoàng kim thời đại. Dĩ nhiên nhân loại không lùi lại như vậy được và đọc Lão tử chúng ta chỉ nên nhớ rằngông muốn cứu cái tệ đương thời là đời sống đã phúc tạp quá, từ kinh tế tới lễ nghi, chính trị, tổ chức xã hội; con người đã gian tham, xảo trá nhiều, do đó mà loạn lạc, nghèo khổ.MUA SÁCH (TIKI) MUA SÁCH (TIKI)