Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Bí Ẩn Vụ Song Sinh - Erle Stanley Gardner

Theo GUINNESS, quyển sách ghi các kỷ lực thế giới, Erle Stanley Gardner được ghi nhận là tác giả sách bán chạy nhất của mọi thời đại. - Erle Stanley Gardner có trên 150 tác phẩm trinh thám tin cậy, đáng giá và hợp thời đại. - Erle Stanley Gardner, người đã tạo nên nhân vặt truyền kỳ luật sư Perry Mason, cô thư ký tinh ý Della Street, và viên thám tử tài ba Paul Drake. - Erle Stanley Gardner, tác giả duy nhất có sách bán chạy hơn cả bốn tác giả nổi tiếng khác cộng lại gồm: Agathe Chistie, Harold Robbins, Barbara Cartland và Louis L’amour *** Một số tác phẩm đã được xuất bản tại Việt Nam:   1. Móng vuốt bọc nhung (Đôi tất nhung) [Perry Mason #1 - The Case of the Velvet Claws] (1933) 2. Cháu gái người mộng du [Perry Mason #8 - The Case of the Sleepwalker's Niece] (1936) 3. Vị giám mục nói lắp [Perry Mason #9 - The Case of the Stuttering Bishop] (1936) 4. Kẻ hùn vốn [Perry Mason #17 - The Case of the Silent Partner] (1940) 5. Con vịt chết chìm (Mười tám năm sau) [Perry Mason #20 - The Case of the Drowning Duck (Le Canard Qui Se Noie)] (1942) 6. Cô gái có vết bầm trên mặt [Perry Mason #25 - The Case of the Black-Eyed Blonde (La Blonde au Coquard)] (1944) 7. Lá thư buộc tội [Perry Mason # 44 - The Case of the Runaway Corpse] (1954) 8. Viên đạn thứ hai [Perry Mason #45 - The Case of the Restless Redhead] (1954) 9. Con mồi táo bạo [Perry Mason #54 - The Case of the Daring Decoy] (1957) 10. Kẻ mạo danh [Perry Mason #64 - The Case of the Spurious Spinster] (1961) 11. Người đàn bà đáng ngờ [Perry Mason #69 - The Case of the Mischievous Doll] (1963) 12. Vụ Án Hoa Hậu Áo Tắm [Perry Mason #78 - The Case of the Queenly Contestant] 13. Kẻ Giết Người Đội Lốt [Perry Mason #40 - The Case of the Grinning Gorilla] (1952) 14. Tiếng Chó Tru Trong Đêm [Perry Mason #04 - The Case of the Howling Dog] (1934) 15. Người Được Minh Oan [Perry Mason #27 - The Case of the Half-Wakened Wife] (1945) 16. Người Đàn Bà Đáng Sợ [Perry Mason #53 - The Case of the Lucky Loser] (1958) 17. Bí Ẩn Vụ Song Sinh [Perry Mason #62 - The Case of the Duplicate Daughter] (1960) *** Muriell từ phòng ăn nhẹ nhàng bước qua nhà bếp, đưa tay giữ lại cánh cửa lửng chắn ngang giữa hai phòng, để tránh gây tiếng động vì sợ làm thức giấc bà mẹ kế là Nancy Gilman và cô em gái Glamis, con riêng của bà, họ thường ngủ trễ đến tận trưa mới dậy. Sáng nay, bố của Muriell cảm thấy đói hơn mọi khi nên muốn cô làm thêm một đĩa trứng và một miếng xúc xích nữa. Đây là một điều bất thường và Muriell nghĩ rằng thể nào bố cô cũng bảo thôi nếu cô tạo điều kiện để ông nghĩ lại, thành thử cô hơi chần chừ. Nhưng rồi thấy nét mặt quả quyết của bố và ông lại có vẻ hơi nôn nóng vì chờ đợi, cô bèn bước sang nhà bếp trong khi bố cô chăm chú đọc tờ báo buổi sáng, Muriell hiểu rất rõ bố mình, cô mỉm cười nhớ đến sự cố gắng ăn uống kiêng khem của ông vì sợ lên cân, nhưng có lẽ bữa ăn sáng nay là để bù lại bữa tối qua quá sơ sài? Cả hai bố con sống trong một căn biệt thự ba tầng to lớn kiểu cổ và đã được trang hoàng theo kiểu mới kể từ sau khi mẹ Muriell chết. Muriell sinh ra tại đây, cô biết tất cả mọi ngóc ngách và rất quyến luyến với nó. Đã có những lần Muriell cảm thấy ít nhiều xót xa khi căn phòng cũ của mẹ mình đã bị Nancy chiếm chỗ, nhưng những ý nghĩ ấy thường chỉ xẩy ra khi không có mặt Nancy ở nhà mà thôi. Nancy là một người đàn bà rất có tâm hồn và nhiều sáng kiến cũng như có những nét đặc thù trong cung cách nhìn đời và sự vật. Điều đó làm cho bà ta trở thành một con người đặc biệt và dễ mến. Không một ai có thể bực mình khi đối diện với bà ấy. Muriell đã cố tình chần chừ cho đến khi thấy bố có vẻ nôn nóng, cô mới vội vào bếp làm tiếp. Miếng xúc xích lấy trong tủ lạnh ra còn đóng băng nên phải chờ lâu thêm một chút. Sau đó cô đập trứng vào chảo và bớt lửa vì cô biết ông không thích ăn trứng chín quá. Bỏ trứng và xúc xích vào đĩa xong, cô bưng sang phòng ăn, lấy khuỷu tay đẩy nhẹ cánh cửa phòng để tránh tiếng kêu lớn rồi lách nhẹ người đi vào. — Xong rồi bố ơi! - Cô gọi - Bố... Cô chợt ngừng lại không nói tiếp khi thấy chiếc ghế trống trơn, tờ báo đang nằm trên sàn nhà, ly cà phê vẫn còn đầy và điếu thuốc đang hút dở đặt trên đĩa gạt tàn, khói thuốc vẫn tiếp tục bay lên cao. Muriell thay đĩa thức ăn mới cho bố, rồi bỏ một lát bánh mì vào hộp nướng bánh và nhấn nút. Cô đứng chờ bố trở lại bàn ăn, cặp mắt bất chợt để ý đến mục quảng cáo trên tờ báo. Cô cúi xuống nhặt tờ báo. Đó chỉ là mục quảng cáo về các loại quần áo may sẵn. Khi công tắc của bếp nướng bánh ngắt điện và lò xo đẩy miếng bánh lên trên nắp hộp, Muriell nhíu mày thắc mắc không hiểu sao bố cô chưa trở lại bàn ăn. Cô rón rén bước xuống phòng tắm dưới nhà, cửa mở nhưng bên trong không có ai. Cô đi vòng sang các phòng khác và gọi khẽ — Bố, thức ăn nguội rồi! Cô trở lại phòng ăn, vẫn không thấy ai và chợt cảm thấy có sự bất ổn. Cô xem xét kỹ dưới nhà một lần nữa. Liệu bố cô đã đi làm rồi mà không nói cho có biết chăng...? Ông biết rõ là Muriell đang làm trứng cho ông mà? Chính ông đã bảo cô làm thêm mà? Chắc chắn không thể nào ông rời khỏi nhà mà lại không nói cho cô hay. Kể cả trường hợp nếu có điều gì thật khẩn cấp ở văn phòng thì ông cũng phải cho cô biết chứ. Nhưng hẳn là không có gì khẩn cấp vì đâu có nghe thấy chuông điện thoại reo. Trong bếp luôn có đường dây điện thoại song song, có gì thì chuông đã kêu. Như vậy hẳn có chuyện gì ở trên lầu. Có thể Nancy bị ốm chăng? Muriell bước vội lên lầu nhưng vẫn cố giữ im lặng. Cô nhẹ nhàng vặn nắm cửa phòng ngủ và đẩy nhẹ. Nancy Gilman đã thức, nhìn thấy Muriell đứng ngơ ngác nép bên cánh cửa bèn hỏi: — Có gì vậy, Muriell? — Con tìm bố - Muriell đáp. Nancy quay đầu lại nhìn bên giường trống. — Bố đã rời khỏi buồng cả tiếng đồng hồ rồi - Bà nói với giọng hơi lộ vẻ khó chịu, nhưng rồi chợt ý thức liền mỉm cười và tiếp - Có chuyện gì vậy con? Bố lại trễ ăn sáng à? — Dạ không - Muriell nói - Bố muốn ăn thêm và con đã làm xong nhưng ... con sợ nguội. Nét mặt Nancy Gilman thoáng lộ nét lo âu nhưng rồi bà kéo gối tựa sau lưng, mỉm cười, nói: — Ồ, con quá quan tâm đến bố đấy! Bà cười với nụ cười kín đáo và quay sang ngủ tiếp. Như vậy là bố Muriell không có mặt ở tất cả mọi nơi trong nhà, ngoại trừ căn phòng để đồ trên gác. Bất chợt một ý tưởng bỗng khuấy động trong đầu óc Muriell. Gần đây bố cô thường tỏ vẻ khó chịu. Hai hôm trước ông có nói với cô: “Bố dặn con một điều là nếu có bất kỳ chuyện gấp gáp nào liên quan đến công việc làm ăn của bố, thì hãy nhớ rằng bố không muốn dính dáng đến cảnh sát. Con nhớ không? Bố không muốn dính dáng đến cảnh sát.” Muriell đã nhìn bố với cặp mắt ngạc nhiên, muốn ông giải thích rõ hơn, nhưng ông chỉ trả lời một cách đại khái và cố nhấn mạnh cái ý chính của mình là không muốn dính dáng đến cảnh sát. Cô chợt lo lắng nghĩ đến những vụ tự tử, những xác chết treo cổ trên trần nhà. Cô liền chạy như bay lên thang gác. Phòng chứa đồ với những rương thùng quần áo cũ, các bàn ghế cổ. Gian phòng vẫn còn ăm ắp cái hơi hướng của một thời quá vãng. Những căn phòng dưới nhà đang hòa nhập với nhịp độ đi lên của cuộc sống văn minh hiện đại, nhưng tại đây, trong căn phòng này hầu như đón nhận toàn bộ những đồ vật dư thừa, lỗi thời của những ngày đã qua. Nó mang một không khí trầm buồn và cách biệt. Nhìn bao quát xung quanh căn phòng, Muriell cảm thấy hơi yên tâm, nhưng dù sao cô cũng đi vòng khắp hết một lượt, để ý cả đến ngoài hàng hiên sát mái. Không có một ai. Cô thấy vững dạ hơn và bước xuống cầu thang. Vừa tới chân cầu thang, Muriell gặp ngay Glamis, con riêng của mẹ kế. Glamis mặc bộ đồ ngủ mỏng dính. Mái tóc vàng xõa trên khuôn mặt với đôi mắt xanh tỏ vẻ bất bình. — Chị làm gì ầm ĩ ở trên gác vào cái giờ còn sớm như thế này? — Ồ, xin lỗi Glamis - Muriell nói - Chị... chị đang tìm kiếm... — Chị kiếm cái gì vậy? - Glamis hỏi khi thấy Muriell tỏ ra ngần ngừ. — Ồ, chị có chút việc trên ấy - Muriell nói - Chị đã cố nhẹ nhàng. — Em tưởng như có một đàn ngựa chạy trên ấy! Đúng, chạy ngay trên phòng ngủ của em. — Ồ, chị xin lỗi. Glamis bỗng nhiên cười và nói: — Chị tha lỗi cho em. Bị thức giấc nên em cáu giận vô lý. Dưới nhà có cà phê không chị? Muriell gật đầu. — Em cảm thấy khó chịu khi chưa được uống ly cà phê vào buổi sáng - cô em nói - Em sẽ xuống dưới nhà uống một ly rồi trở lên ngủ tiếp. Chị đã xong việc trên phòng để đồ chưa? — Rồi - Muriell đáp - Thôi đừng quan tâm nữa, Glamis. Chị sẽ đem cà phê lên phòng cho em. Không có đường chứ? Glamis gật đầu. — Chị xin lỗi vì đã làm em thức. Chị đang lo ăn sáng cho bố - Muriell nói. — Ở trên phòng để đồ à? - Glamis vừa hỏi vừa cười. Muriell vỗ nhẹ lên vai cô em. —Thôi về phòng đi cưng. Chị sẽ mang cà phê lên cho. — Vâng, cảm ơn chị - Glamis nói - Bạn em là Hartley Elliott đã ở lại nhà mình hồi đêm, anh ta cũng cần được ngủ. — Bạn trai em à? - Muriell hỏi. — Vâng. Anh ta ngủ ở trên phòng Hoa Hồng. Chúng em về nhà đã hơn nửa đêm, rồi ngồi nói chuyện với nhau ngoài hàng hiên. Khi anh ấy mở máy xe tính đi về thì mới biết là quên rút chìa khóa xe trong ổ nên bình điện yếu không đề máy được. Vì vậy em đã bảo anh ấy ngủ lại. — Mẹ biết không? - Muriell hỏi. — Dĩ nhiên là không. Mẹ đang ngủ ngon mà. Chị nghĩ rằng em phải đánh thức mẹ dậy để báo với mẹ là em mời khách ngủ lại nhà mình sao? Em cũng đã lớn, hai mươi tuổi rồi. Và chị nghĩ... Glamis bỗng dưng ngừng lại rồi mỉm cười nói tiếp: — Chị thấy em giống như con ma dại vào buổi sáng như thế này phải không? Muriell vỗ vai cô em. — Thôi cưng, chị sẽ mang cà phê lên. Chui vô giường đi. Trông em trần như nhộng. — Em ấy à? - Glamis hỏi lại và đưa tay vuốt bộ áo ngủ mỏng dính rồi cười và nhẹ nhàng bước về phòng trên hành lang trải thảm. Muriell xuống dưới nhà, tự trấn an rằng có lẽ vì một lý do đặc biệt nào đấy, bố cô đã phải đi ngay đến văn phòng làm việc mà không kịp cho cô biết. Chắc đó là công việc hết sức quan trọng, có thể là một cuộc hẹn mà ông đã quên. Muriell lấy lại sự vui vẻ khi cô rót cà phê vào chiếc tách lớn, bỏ vài miếng bánh mì nướng vào trà, đặt tất cả lên khay và bưng lên phòng cho Glamis. — Ồ, cảm ơn chị - Glamis nói - Chị mang cả bánh mì nướng lớn cho em nữa hà? — Đói không? — Đói muốn chết! - Glamis nói - Em cứ thức dậy là thèm ăn ngay. Nếu không kiêng khem sợ mập, có lẽ em phải xuống nhà hàng dưới phố để ăn sáng. Glamis ngồi nhỏm dậy, dụi tắt điếu thuốc trên đĩa gạt tàn, với tay lấy tách cà phê, nhìn Muriell và nói: — Chị thực là tài, chị Muriell. — Tài gì? — Chị luôn luôn giữ được điều độ. Em thấy chị lúc nào cũng trầm tĩnh và đầy nghị lực. Còn em thì như con ngố nếu sáng dậy mà không được uống cà phê. Glamis nhai mẩu bánh và uống vài ngụm cà phê. Sau đó cô vội đẩy đĩa bánh và tách cà phê sang một bên, mỉm cười vừa nói với Muriell vừa ngả đầu nằm lại trên giường. — Cảm ơn chị. Em ngủ đây. Muriell bước ra khỏi phòng, đóng nhẹ cửa và trở lại phòng ăn. Hôm nay là ngày nghỉ của người nấu bếp, còn người giúp việc dọn dẹp và rửa chén đĩa sẽ đến vào giờ muộn hơn. Một lần nữa tư tưởng bất ổn lại xuất hiện trong đầu óc Muriell khi cô nhìn thấy đĩa trứng trên bàn ăn đã nguội lạnh, tờ báo vẫn nằm bên chiếc ghế trống trơn. Thật là bất thường, bố cô đi mà không nói lấy một lời, sao bố lại có thể vô tâm như thế được. Bố biết là Muriell đang ở trong bếp mà... Bỗng cô nhìn thấy chiếc cặp táp của ông. Không bao giờ bố cô đi làm mà quên đem theo chiếc cặp táp này. Muriell biết rằng bố cô có một số giấy tờ quan trọng để trong cặp. Ông đã phải làm gấp vào đêm qua để kịp sáng nay đưa đến văn phòng. Ngay cả lúc sáng khi đang ngồi trước bàn ăn, ông cũng đã lấy tập giấy tờ ấy ra để xem xét lại và ghi chú thêm. Muriell bước tới cầm lấy chiếc cặp và mở ra. Tập giấy tờ tài liệu vẫn còn nguyên trong ấy. Muriell cầm lên rút các giấy tờ bên trong ra xem rồi bỏ trở lại trong tấm bìa cứng bọc ngoài. Bất chợt cô để ý đến hàng chữ viết tay của bố cô ghi trên đầu tấm bìa: Trong bất kỳ trường hợp khẩn cấp nào, hãy liên lạc với luật sư Perry Mason ngay lập tức. Tuyệt đối không được liên lạc với bất cứ nơi nào khác.' Dòng chữ ghi có cả chữ kí của bố cô và được viết bằng bút mực. Chỗ chữ kí hơi bị nhòe một chút có lẽ vì ông đã vội cất tập giấy vào trong cặp trước khi chờ đủ thời gian cho mực khô. Ngoài ra bên cạnh chỗ chữ viết, có ghi một số điện thoại, chắc là số điện thoại của văn phòng luật sư Perry Mason. Liệu có phải bố cô đã viết những hàng chữ này lúc ngồi trên bàn ăn sáng không? Muriell nhìn đồng hồ. Đã chín giờ kém mười. Cô đóng cặp táp lại và bước đến bên ghế bố cô đã ngồi. Cô không thấy chiếc khăn ăn của ông. Như vậy là khi bố cô đi, ông đã cầm theo chiếc khăn ăn. Bỗng dưng ý nghĩ của sự mất chiếc khăn ăn khiến cho Muriell cảm thấy sợ hãi. Cô lật tờ báo lên, xem dưới gầm bàn, tìm khắp phòng, sau đó cô bước qua phòng khách rồi trở ra cầu thang định lên lầu và lúc này cô chợt nhớ đến xưởng làm việc. Đúng rồi! Phía sau biệt thự là một dãy nhà khá lớn, đầu dãy phía bắc là gara xe chia làm ba ngăn. Kế tiếp là một phòng dùng làm phòng tối dành cho bà Nancy rửa phim ảnh và phía cuối của dãy nhà là một xưởng riêng của ông Carter Gilman, chia làm hai phần, một làm đồ gốm và một làm đồ mộc như các hộp bằng gỗ quý để đựng đồ nữ trang, các hộp đựng đồ khâu vá và các khung ảnh trang hoàng. Muriell đẩy mạnh cửa bước ra ngoài hành lang, cô rảo chân qua sân cỏ phía sau nhà, tiến đến trước cánh cửa xưởng mộc. Cô mở mạnh cửa gọi lớn: — Bố! Cô bước vào trong và bất chợt khựng lại. Một chiếc ghế gãy nằm trên sàn, bên cạnh là một vũng màu đỏ thẫm. Mạt cưa văng tung tóe trên nền ximăng và những tờ giấy bạc rải rác khắp nơi. Các tờ giấy bạc đều là loại một trăm đôla và Muriell nhìn thấy có đến khoảng trăm tờ như vậy khắp phòng. Muriell nhìn qua bên phải chỗ cánh cửa dẫn sang phòng rửa ảnh của bà Nancy, ngay trước cánh cửa, trên sàn ximăng là chiếc khăn ăn của bố cô. Muriell bước tới mở cánh cửa phòng rửa ảnh. Mùi chua của thuốc rửa ảnh xông lên mũi. Ánh sáng từ ngoài cánh cửa rọi vào nhưng vẫn không đủ sáng. — Bố ơi! - Muriell gọi. Im lặng vẫn bao trùm căn phòng. Muriell bước qua hết phòng rửa ảnh, mở và đẩy mạnh cánh của thông sang gara. Chiếc xe thể thao và chiếc xe nhỏ vẫn nằm đúng vị trí nhưng chiếc xe lớn thì không còn ở đấy nữa. Muriell ý thức được sự kiện vắng mặt chiếc xe của bố, tim cô bỗng đánh thình thịch. Bố cô đã rời phòng ăn đi xuống gara, trong tay vẫn còn cầm nguyên chiếc khăn ăn. Phải có một biến cố nào đấy khiến ông phải đi xuống dưới nhà mà không ý thức được là trong tay mình đang cầm chiếc khăn ăn. Chắc ông đã xuống gara trước, rồi đi qua phòng rửa ảnh và mở cửa bước sang xưởng mộc. Những gì ông nhìn thấy trong xưởng hẳn đã làm ông đánh rơi chiếc khăn ăn. Như vậy chuyện gì đã xảy ra? Chiếc ghế gãy nằm trên sàn mang ý nghĩa gì? Tại sao các giấy bạc lại tung tóe trên sàn và nhất là cái vũng màu đỏ thẫm kia? Muriell liền đi đến quyết định, cô bước vội lại bàn điện thoại trong xưởng, nhấn nút liên lạc với văn phòng làm việc của Carter Gilman. Khi được văn phòng báo cho biết là ông không có ở đấy, cô bèn lật gấp các trang sách cuốn điện thoại niên giám tìm số văn phòng luật sư Perry Mason. Tiếng trả lời trên điện thoại cho biết luật sư Perry Mason chưa tới, nhưng thư ký riêng của ông ta đang có mặt. — Vâng, tôi nói chuyện với cô thư ký cũng được, - Muriell nói. Vài giây sau tiếng nói trên đầu máy vang lên. — Tôi là Della Street, thư ký riêng của luật sư Perry Mason nghe đây. Muriell nói thật nhanh: — Vâng, hiện giờ tôi thấy lo lắng quá. Bố tôi tự dưng biến mất. Tôi tìm thấy tờ giấy ghi trong cặp táp của bố tôi bảo rằng hãy gọi cho luật sư Perry Mason trong trường hợp có biến cố xảy ra và... và hẳn có điều gì rất bí mật trong vụ này. Tôi... — Xin lỗi, cô có thể cho biết tên bố cô? — Carter Gilman. Mẹ tôi đã mất. Tôi ở đây với bố tôi cùng mẹ kế và con riêng của bà ta. Chúng tôi ... — Xin vui lòng cho biết tên cô. — Muriell Gilman. — Cô có thể cho tôi số điện thoại của nhà cô không? Muriell cho biết số điện thoại. — Và địa chỉ nữa? — 6231 Đại lộ Vauxman. — À, luật sư Perry Mason vừa mới tới - Della Street nói. - Tôi sẽ gọi lại cho cô trong vòng năm phút. — Cảm ơn cô - Muriell đáp và cúp máy. ... Mời các bạn đón đọc Bí Ẩn Vụ Song Sinh của tác giả Erle Stanley Gardner.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Công Lý & Báo Thù
Michael Rogan nhìn kỹ cái biển hiệu rực rỡ bên ngoài hộp đêm nóng nhất ở Hamburg. Sinnlich! Schamlos! Sündig! Kích dục! Không mát-x-cỡ! Tội lỗi đầy mình! Đúng là cái hộp đêm này, Roter Peter, không thèm giấu giếm cái gì nó đang rao bán. Rogan rút từ túi mình ra một tấm ảnh nhỏ và ngắm nghía cẩn thận dưới ánh sáng màu đỏ của ngọn đèn nơi cánh cửa có hình con heo. Chàng đã nhìn rất kỹ bức ảnh này hàng trăm lần rồi , nhưng chàng vẫn còn bối rối về chuyện nhận diện kẻ mà chàng tìm kiếm lâu nay. Trong vòng mười năm người ta thay đổi nhiều lắm, Rogan biết thế. Chính mình cũng thay đổi nhiều mà, nói chi ai. Chàng đi qua anh chàng gác cửa đang cúi người một cách xun xoe, khúm núm, để đi vào hộp đêm. Bên trong tối mò ngoại trừ cuốn phim “xanh” (blue movie) đang sáng nhấp nháy trên một màn hình chữ nhật nhỏ. Rogan vạch đường đi xuyên qua những cái bàn đông người, một đám đông ồn ào, nồng nặc mùi rượu bia. Bỗng dưng mọi ngọn đèn trong nhà sáng lên và đóng khung chàng sát sân khấu, với những cô gái tóc vàng trần truồng đang giựt người tưng tưng phía trên đầu chàng! Đôi mắt Rogan vẫn chòng chọc vào mấy khuôn mặt của những kẻ ngồi ở các bàn vòng quanh sân khấu. Một cô tiếp viên chạm vào cánh tay chàng. Cô ả nói bằng giọng đỏm dáng,” Có phải Herr Amerikaner tìm kiếm một món đặc biệt?” Rogan chà xát lướt qua nàng, cảm thấy bực mình vì đã dễ dàng để bị nhận ra là một “ông Mẽo. ”Chàng có thể cảm nhận máu đang đập vào tấm thẻ bằng bạc vốn đang giữ hộp sọ chàng gắn lại với nhau – một dấu hiệu nguy hiểm. Có lẽ chàng sẽ phải nhanh chóng hoàn thành chuyện này và quay về lại khách sạn. Chàng di động qua hộp đêm, kiểm tra các góc tối nơi các ông chủ nốc bia từ những chiếc vại khổng lồ và sờ soạng nhéo bóp bất kỳ em nào gần bên. Chàng liếc mắt vào những bàn có che màn nơi các ông khách nằm ngồi lổn ngổn trên mấy ghế sofas bọc da, “ngâm kiếu” các cô nàng trên sân khấu trước khi nhấc điện thoại lên để “triệu tập” em nào vừa mắt đến hầu quan. Bây giờ Rogan đang mất kiên nhẫn. Chàng không còn nhiều thời gian cho lắm. Chàng quay người và đối mặt với sân khấu. Phía sau những cô gái trần truồng đang nhảy có một bức vách trong suốt. Xuyên qua bức vách đó các ông chủ có thể thấy hàng kế tiếp các cô gái đang sẵn sàng bước lên sân khấu, và bọn họ vỗ tay mỗi khi một trong các cô gái cỡi áo nịt ngực hay tuột vớ ra. Một giọng nhừa nhựa say xỉn gọi vọng ra, ”Ôi các em cưng, các em đáng yêu – ta có thể đánh quả với tất cả các em.” Rogan quay người về phía giọng nói kia và cười trong bóng tối. Chàng nhớ lại giọng ấy rồi. Mười năm đã không làm cái giọng ấy thay đổi là mấy. Đó là một giọng vùng Ba-vi-e chói tai với vẻ thân tình giả tạo. Rất nhanh, Rogan di chuyển về hướng ấy. Chàng mở áo jacket, tháo một cái nút bằng da vốn giữ cho khẩu Walther an toàn trong cái bao đeo nơi vai. Tay kia chàng rút ống hãm thanh ra khỏi túi áo jacket và cầm nó như thể đó là một chiếc tẩu thuốc. Và rồi chàng đến trước chiếc bàn kia, trước khuôn mặt của con người chàng không bao giờ quên, kẻ mà kí ức về hắn đã giúp cho chàng sống suốt mười năm qua. Giọng nói đã không đánh lừa chàng; đúng là giọng nói của Karl Pfann. Tay cựu Đức quốc xã này hẳn đã tăng trọng thêm năm mươi pao nhưng lại mất đi gần hết đầu tóc – chỉ còn vài sợi màu vàng lơ thơ trên cái sọ bóng mỡ - nhưng cái mồm thì vẫn nhỏ tí và hầu như vẫn đầy vẻ hiểm ác như Rogan còn nhớ. Chàng ngồi xuống ở bàn kế bên và gọi thức uống. Khi mọi ánh đèn trong nhà tắt đi và cuốn phim xanh lại bật lên chàng rút khẩu Walther ra khỏi bao da và, giữ hai tay dưới bàn, gắn ống hãm thanh vào đầu nòng súng. Vũ khí hơi chùng xuống vì mất cân bằng; nó sẽ thiếu chính xác nếu cự ly quá năm yards. Rogan nghiêng người về phía phải và vỗ vào vai Karl Pfann. Cái đầu to bự quay lại, cái sọ bóng nhẫy nghiêng qua và cái giọng thân tình giả tạo mà Rogan từng nghe trong những cơn mộng ròng rã đã mười năm, nói, ”À, mein Freund, bạn muốn gì ạ?” Rogan nói giọng khàn khàn,” Tôi là một đồng chí cũ của bạn. Chúng ta có cuộc thương thảo công việc vào ngày Rosenmontag – Thứ hai Lễ hội Hoa hồng – năm 1945, nơi Tòa án Munich, bạn nhớ chứ?” Cuốn phim với cảnh nóng lên cao trào khiến Karl Pfann xao lãng câu chuyện, và đôi mắt hắn dính vào màn hình. ”Không, không, không thể có chuyện đó,” hắn nói một cách sốt ruột, mất kiên nhẫn. ”Năm 1945 tôi đang phục vụ cho tổ quốc.Sau chiến tranh tôi mới trở thành doanh nhân.” “Khi mi là một tên Quốc xã,” Rogan nói. ”Khi mi là một kẻ tra tấn... Khi mi là một tên sát nhân. ”Tấm bạc trong sọ Rogan phập phồng. ”Tên ta là Michael Rogan. Ta làm Tình báo Mỹ. Giờ đây mi nhớ ra ta chưa?” Có tiếng thủy tinh vỡ trong lúc tấm thân phục phịch của Karl Pfann xoay quanh và mắt hắn chọc qua bóng tối nhìn Rogan. Tên Đức nói bình thản, có vẻ hăm dọa, ”Michael Rogan đã chết. Mi muốn gì ở ta?” “Mạng sống của mi,” Rogan nói. Chàng rút khẩu Walther từ dưới bàn ra, ấn vào bụng Pfann và siết cò. Thân người của tên Đức giật nẩy lên.với sức mạnh của viên đạn. Rogan chỉnh lại ống hãm thanh và bắn tiếp phát nữa. Tiếng kêu than lúc chết của Pfann bị nhận chìm bởi tràng cười rộ lên, lan ra khắp hộp đêm khi màn hình diễn ra cảnh rù quến buồn cười. Thân hình Pfann đổ gục xuống vắt ngang qua bàn. Cuộc mưu sát hắn ta sẽ không được ai nhận ra cho đến khi cuốn phim kết thúc. Rogan rút ống hãm thanh ra khỏi đầu nòng súng và đút cả hai thứ trở vào trong các túi áo jacket. Chàng ta đứng lên và lặng lẽ di chuyển xuyên qua hộp đêm tối tăm. Anh chàng giữ cửa mặc đồ viền tua vàng chào chàng và huýt sáo đón taxi, nhưng Rogan quay mặt đi và bước xuống đường hướng về phía bến cảng. Chàng đi dọc theo bến cảng một lúc lâu cho đến khi nhịp tim và mạch máu dần trở lại mức bình thường. Trong ánh trăng lạnh của miền Bắc Đức, những bến tàu ngầm hoang phế và những con tàu rỉ sét mang trở lại những bóng ma ghê khiếp của một thời chiến tranh. Karl Pfann đã chết. Rogan như vừa trút được gánh nặng nhưng rồi lại thấy hụt hẫng, chán chường. Và rồi mười năm mộng dữ đã được trả giá và chàng có thể giảng hòa với tấm bạc trong sọ mình, những tiếng kêu xé lòng còn vang vọng vô tận của Christine gọi tên chàng, kêu cầu sự cứu độ, và cái khúc đoạn mù quáng, lóa mắt khi bảy người trong một căn phòng vòm cao của Tòa án Munich đã hành hình chàng như thể chàng là một con thú. Chúng đã cố mưu sát chàng, không chút nhân phẩm, như một trò đùa độc ác. Ngọn gió dọc theo bến cảng cắt vào da thịt chàng và Rogan quay lên phía lối đi Reeperbahn, đi qua đồn cảnh sát khi chàng bước vào Davidstrasser (Phố David). Chàng không có gì phải sợ cảnh sát. Ánh sáng trong hộp đêm quá tù mù để cho bất kỳ ai có thể thấy rõ mặt chàng, đủ rõ để có thể mô tả chàng tương đối chính xác. Tuy nhiên, để cho an toàn, chàng lỉnh vào con đường rẽ có treo tấm bảng bằng gỗ lớn: ”Cấm trẻ vị thành niên!” Trông nó cũng giống như bất kỳ con phố nào khác cho đến khi chàng quẹo ở góc phố. Chàng đã “sa chân lỡ bước” vào khu phố St Pauli nổi tiếng của Hamburg, khu vực được thành phố dành riêng cho việc mại dâm hợp pháp. Khu phố được chiếu sáng rực rỡ và đông đảo khách tìm hoa qua lại. Những căn nhà ba tầng thoạt trông có vẻ bình thường, ngoại trừ là mọi nơi đều rộn ràng như đang mở hội. Những tầng trệt có những cửa sổ thật rộng để phô bày, cho thấy các phòng bên trong. Ngồi trên các ghế bành, đọc sách báo, uống cà-phê và tán gẫu hay nằm ườn trên ghế sofa và nhìn lên trần mơ màng là một vài trong số những cô gái trẻ đẹp nhất mà Rogan từng thấy. Một vài cô ả còn làm bộ như đang lau chùi nhà bếp và chỉ mặc có mỗi cái tạp dề buông xuống đến nửa đùi phía trước còn nguyên phía sau thì... trống trơn! Mỗi nhà đều có tấm biển: ” Ba mươi Marks cho Một Giờ Mê Ly. ”Trên một số cửa sổ màn được kéo xuống. In bằng chữ vàng trên các tấm màn đen là chữ Ausverkauft, “Hết hàng,” để thông báo một cách tự hào là có vị khách sộp nào đấy đã bao cô gái trọn đêm rồi. Có một nàng tóc vàng đang đọc sách trên một cái bàn bằng thiếc nơi nhà bếp. Cô nàng có vẻ sầu muộn ủ ê, không bao giờ liếc nhìn ra ngoài phố phường nhộn nhịp; một ít giọt cà-phê rơi ra gần quyển sách đang mở của nàng. Rogan đứng bên ngoài căn nhà và chờ cho nàng ta ngẩng đầu lên để chàng có thể mục sở thị dung nhan của nàng. Nhưng có vẻ như nàng chẳng muốn nhìn lên. Chắc là tại nàng hơi xí? Cho nên nàng mặc cảm thua chị kém em, chàng Rogan đóan già đoán non như vậy. Cho dầu thế nào đi nữa chàng cũng sẵn lòng chi cho em ba mươi Marks chỉ để có thể nghỉ ngơi thư giãn một tí trước khi bắt đầu cuộc đi bộ khá dài để trở về khách sạn. Đối với thể trạng của chàng mà để bị kích thích tình dục thì cũng không tốt lắm đâu, các vị đốc tờ đã phán như thế, và một phụ nữ với khuôn mặt xấu xí thì sẽ không làm chàng hứng chí được và như thế lại hóa hay. Với tấm bạc đó trong sọ chàng Rogan bị cấm uống rượu nặng, cấm làm tình quá độ, và ngay cả là không được giận dữ. Nhưng các vị đốc tờ lại chẳng nói gì với chàng về chuyện có được giết người hay không. Khi chàng bước vào phòng bếp được chiếu sáng choang kia chàng thấy rằng cô gái đang ngồi đọc sách đó đẹp quá đi chứ! Nàng gấp lại quyển sách với vẻ hối tiếc, đứng lên, rồi nắm tay chàng và dẫn chàng vào phòng riêng ở phía trong. Rogan cảm thấy một cơn thèm muốn nhanh chóng bốc lên khiến đôi chân chàng run rẩy, đầu chàng nặng và căng. Phản ứng của việc giết người và trốn chạy đập mạnh vào chàng và chàng cảm thấy muốn ngất đi. Chàng để rơi người xuống giường và giọng nói vi vu như tiếng sáo của cô gái trẻ dường như đến từ nơi xa xôi nào. ”Anh sao thế? Anh có đau ốm gì không?” Rogan lắc đầu và lóng ngóng với cái ví tiền của mình. Chàng lôi ra một xấp tiền để trên giường và nói,” Anh bao em trọn đêm nay. Kéo màn xuống đi. Rồi để yên cho anh ngủ. ”Trong lúc nàng trở lại nhà bếp Rogan lấy một lọ thuốc nhỏ từ túi áo sơ-mi và thảy hai viên vào mồm. Đó là chuyện cuối cùng chàng làm mà chàng còn nhớ trước khi mất ý thức và chìm vào giấc ngủ mê man. Khi Rogan thức giấc bình minh xám nhạt xuyên qua những cửa sổ bụi mờ để chào chàng. Chàng nhìn quanh. Cô gái đang ngủ trên sàn dưới một tấm nệm mỏng. Một mùi hương hoa hồng toát ra từ thân thể nàng. Rogan lăn mình để có thể ra khỏi giường ở phía bên kia. Những dấu hiệu nguy hiểm đã tan đi. Miếng bạc không còn phập phồng nữa; cơn nhức đầu cũng đã tan biến. Chàng cảm thấy thoải mái, thư thái và sung sức. Không có gì trong ví của chàng bị lấy đi. Khẩu Walther vẫn nằm trong túi áo jacket. Chàng đã “hái lượm” được một cô gái lương thiện, biết điều, Rogan thầm nghĩ. Chàng đi vòng qua phía bên kia của chiếc giường để đánh thức nàng dậy, nhưng nàng đã ngọ ngoạy đôi chân, thân hình xinh đẹp của nàng đang run lên trong cái lạnh ban mai. Căn phòng sực nức mùi hoa hồng, Rogan để ý và có nhiều hoa hồng được thêu nơi các màn cửa sổ và trên các tấm trải giường. Có cả những hoa hồng được thêu trên chiếc áo ngủ mỏng dính, hầu như trong suốt của cô gái. Nàng cười với chàng. “Tên em là Rosalie. Em thích mọi thứ với hoa hồng – nước hoa, quần áo, mọi thứ.” Nàng có vẻ tự hào một cách rất là...con gái về tính mê hoa hồng của mình, như thể điều đó đem lại cho nàng một nét riêng, đặc biệt. Rogan thấy chuyện ấy cũng vui vui. Chàng ngồi trên giường và vẫy gọi nàng. Rosalie đến và đứng giữa hai chân chàng. Chàng có thể ngửi được mùi hương dìu dịu thoảng ra từ người nàng, và trong lúc nàng từ từ cỡi chiếc áo ngủ bằng lụa ra chàng có thể thấy bộ ngực nàng với hai đầu vú như hai trái dâu chín, đôi chân trắng dài; và rồi thân hình nàng bọc quanh thân xác chàng như những đài hoa lụa mịn màng và miệng nàng với đôi môi dày nhục cảm nở hoa bên dưới miệng chàng, bối rối xốn xang, vỗ cánh phất phới với đam mê nồng nàn. *** Con của những người nhập cư Ý đến sinh sống tại khu Hell’s Kitchen của Thành phố New York, Mario Puzo sinh ngày 15, tháng mười, 1920. Sau Đệ nhị Thế chiến – trong thời gian đó ông là một Hạ sĩ của Quân đội Mỹ - ông theo học Trường Cao đẳng Thành phố New York và bắt đầu làm một nhà văn tự do. Trong thời kỳ này ông viết hai quyển truyện đầu tay "Đấu Trường Đen Tối" (The Dark Arena, 1955) và "Người Hành Hương May Mắn" (The Fortunate Pilgrim, 1965). Khi những quyển sách của ông làm ra ít tiền mặc dầu được giới phê bình hoan nghênh, ông thề phải viết ra một quyển bestseller làm rung động văn đàn. "Bố già" (The Godfather - 1969) là một thành công vang dội không chỉ tại nước Mỹ mà hầu như trên gần khắp thế giới. Ông cộng tác với đạo diễn Francis Ford Coppola để viết kịch bản cho cả ba phim Godfather và thắng giải của Hàn lâm viện Điện ảnh cho cả hai phim The Godfather (1972) và The Godfather, Part II (1974). Ông cũng hợp tác viết kịch bản cho những phim như Superman (1978), Superman II (1981), và The Cotton Club (1984). Ông tiếp tục viết những quyển truyện thành công rất ấn tượng như "Fools Die (1978)", "The Sicilian(1984)", "The Fourth K (1991)", và "The Last Don (1996)". Mario Puzo mất ngày 02, tháng bảy, 1999. Quyển truyện cuối của ông "Omerta" -(Luật Im Lặng), được xuất bản trong năm 2000. Tại Việt Nam, hầu hết các tác phẩm của Mario Puzo đều đã được Nhà xuất bản Phương Đông mua tác quyền và chuyển ngữ tiếng Việt. *** Tác giả Mario Puzo, quốc tịch Mỹ, gốc Ý, sang Mỹ sống ly hương trong khu dành riêng cho dân ngụ cư người Ý ở Long Island (New York). Khởi sự bằng những truyện ngắn viết nhỏ ở ban đầu, tiền nhuận bút kiếm chẳng đủ nuôi miệng. Vợ làm nghề thợ may chẳng đủ nuôi miệng vợ và chồng chưa đủ nuôi thân chồng. Chồng dại vợ đi ngủ, khẽ gập bàn máy may lại, kê bàn máy chữ lên, dưới để chiếc chăn không gây tiếng động, bắt đầu viết. Thật cuộc sống không ngày mai; nhưng kiên nhẫn vẫn cứ kéo dài ngày qua ngày. Khi Mario Puzo hàn vi, cũng may mắn gặp dược một người bạn thật tốt. Hàng ngày bạn này lui tới, khuyến khích chàng văn sĩ, không những về tinh thần mà giúp cả vật chất nữa. Thường là cho Mario Puzo vay tiền, lúc năm, hoặc mười đô la; khi hai chục. Rồi một ngày, bạn đưa ra ý kiến: khuyên nên viết một tác phẩm theo ý thích: nhân vật, chất liệu, tình tiết cũng như bối cảnh mà chàng có được. Nếu cứ viết như bây giờ, chuyện nhỏ theo lối đặt hàng chủ báo, thì cuộc đời văn sĩ sẽ chẳng bao giờ mọc mũi, sủi tăm - tiền cũng chẳng có mà sự nghiệp cũng không! Mario Puzo nghe tới đây rất thích thú, nhưng có một điều; chẳng lẽ chàng lại nói ra. Cuối cùng đành phải tiết lộ, món tiền nhuận bút kia nhỏ thật; nhưng đủ uống nước lạnh và gặm mẩu bánh mì dằn bụng. Chàng cũng đành thú thật, viết tác phẩm theo sở thích, thì lấy đâu ra tiền để sống hàng ngày? Bạn chàng gật dầu, đáp ứng ngay, hôm nay hai; mai ba; mốt bốn; kia năm mươi đô đủ sống mà viết. Ngày, tuần, tháng; bạn lui tới kiểm tra sáng tác tới đâu. Và mỗi lần cho vay tiền đều rút sổ tay ghi nợ. Một ngày kia, khi gần hoàn tất tác phẩm, bạn chàng cho vay số tiền khá lớn, và cầm bản thảo đến các nhà xuất bản thương lượng. Các tác phẩm của Mario Puzo: Đấu Trường Đen (1955) Đất khách quê người (1965) The Runaway Summer of Davie Shaw (1966) Six Graves to Munich (1967), với bút danh Mario Cleri Bố già (1969) Những kẻ điên rồ phải chết (1978) Sicilian Miền đất dữ (1984)  Đời Tổng Thống K thứ tư (1991) Ông Trùm Quyền Lực Cuối Cùng (1996) Luật im lặng (2000) phần tiếp theo tới Bố già Gia đình Giáo hoàng (2002) (tựa bản dịch khác Cha Con Giáo Hoàng) Công Lý & Báo Thù ... Mời các bạn đón đọc Công Lý & Báo Thù của tác giả Mario Puzo.
Cốt Tủy
“Trong khu phố Bone có một ngôi nhà Trong ngôi nhà có một cô gái Trong cô gái là bóng tối ngự đầy...” Tại sao chúng ta lại thích đọc tiểu thuyết về tội phạm, xem các chương trình truyền hình tội phạm và những điều tương tự. Chúng ta tìm hiểu cách thức họ gây án? Động cơ gây án là gì? Tất cả bởi vì chúng ta muốn muốn hiểu họ; tại sao họ lại có "hành động" khác với chúng ta. Những kẻ tội phạm - Bản thân họ sinh ra đã mang "mầm ác" hay do hoàn cảnh, xã hội đưa đẩy? Tarryn Fisher là một trong những tác giả Best-seller. Cô là một bậc thầy về những nhân vật hư hỏng về mặt đạo đức và làm cho chúng ta suy nghĩ về vẻ đẹp trong "bóng tối". Cốt tủy (tên gốc tiếng Anh là “Marrow”) là một trong những câu chuyện về vẻ đẹp bên trong xấu xí. Nhân vật chính của tác phẩm là Margo - cô gái sinh ra và lớn lên ở khu phố nghèo nàn, trong ngôi nhà "hố đen của sự sống". Lặng lẽ ngủ yên trong từng ống xương, ngày qua ngày, “cốt tủy” chưa một lần lên tiếng, chỉ âm thầm đồng hành cùng cô gái ấy - Margo Moon -qua những ngày buồn thảm ở khu Bone (Xương), trong ngôi nhà “hố đen sự sống”, cùng người mẹ loạn thần, đàng điếm và vô cảm. Thật khó có thể nói Cốt tủy là hành trình "tha hóa tâm hồn" hay "thăng hoa tâm hồn". Cuốn sách giống như một bộ phim hình sự. Nửa đầu, tĩnh lặng đến đáng sợ, tĩnh lặng trong những suy nghĩ miên man của cô gái nhút nhát, nghĩ rằng cô ấy không quan trọng. Nhưng nửa sau, khi đã nắm trong tay số phận của chính mình, mạch truyện trở nên dồn dập và nhanh hơn. Rốt cuộc chuyện gì đã xảy ra giữa "khúc cua" ấy? Với Cốt tủy, người đọc như đang chứng kiến những điều từ phía bên kia của luật pháp. Một cuốn tiểu thuyết chạm đến tận cùng "góc tối" của con người. Một cuốn tiểu thuyết vừa lạnh lẽo, vừa thơ mộng đến "xảo quyệt". Quyến rũ nhưng cũng rất nguy hiểm. Thế nào là sai? Thế nào là đúng? Một cuốn tiểu thuyết sẽ khiến bạn phải day dứt, đau đến tận cốt tủy. Nếu bạn thích tham gia một cuộc hành trình ở góc tối của tâm hồn, có lẽ bạn sẽ thích cuốn sách này! *** MỖI VIÊN NGỌC TRAI ĐƯỢC HÌNH THÀNH NÊN TỪ MỘT MẢNH VỤN - đó là thứ vô dụng như một mẩu gốm hay bụi bẩn tình cờ lọt vào cơ thể con trai. Theo bản năng, để tự chữa lành vết thương, con trai sẽ sinh ra phản ứng tự vệ, tạo ra một chất trơn, cứng và sáng bóng bao bọc lấy dị vật. Chất này được gọi là “xà cừ”. Một khi vẫn còn nằm trong cơ thể con trai, dị vật sẽ luôn được phủ trong lớp xà cừ đẹp đẽ. Tôi vẫn luôn cho rằng con trai thật phi thường khi bao bọc lấy thứ làm đau mình bằng chính phần tinh túy nhất của bản thân. So với kim cương - loại đá quý đắt đỏ và quý hiếm được người đời khao khát, ngưỡng vọng, những viên ngọc trai có phần lép vế hơn. Chúng sinh ra thật khiêm nhường khi ban đầu chỉ là những vật ký sinh nhỏ bé bám vào cơ thể vật chủ, ngày ngày được chính vật chủ nuôi dưỡng và trở nên đẹp đẽ. Sự hình thành ngọc trai từ mảnh vụn thật kỳ diệu. Những câu chuyện quý báu cũng thường được tạo nên từ những điều tầm thường như thế. *** Năm 13 tuổi CÓ MỘT NGÔI NHÀ TRONG KHU XƯƠNG. Ngôi nhà ấy có một cánh cửa sổ vỡ. Chỗ vỡ được che bằng giấy báo dán băng dính chằng chịt ở bốn góc. Lớp ván gỗ ốp tường chống đỡ phần mái xập xệ, lõm xuống như da thịt người già, như thể phải chống đỡ sức nặng của cả trái đất vậy. Đó là ngôi nhà nơi tôi sống cùng với mẹ, chịu đựng mưa gió, chịu đựng sự đè nén. Tôi gọi nó là “hố đen sự sống”, vì nếu không chống cự lại, ngôi nhà này sẽ xâu xé bất kỳ ai bước vào trong. Như nó đã làm thế với mẹ tôi. Và như nó đang cố cắn xé cả tôi. “Margo, cầm cho mẹ cái khăn tắm.” Tên tôi được xướng lên cùng với lời sai bảo. Tôi vâng lệnh. Rõ ràng không thể gọi đây là cái khăn tắm được. Trông nó chẳng khác gì cái giẻ cũ kỹ vì dùng quá lâu ngày và đã bạc màu vì phải lau chùi quá nhiều thứ bẩn thỉu. Mẹ lấy cái khăn từ tay tôi mà chẳng thèm nhìn tôi lấy một cái. Ngón tay mẹ rất thon thả, móng tay sơn màu đen được cắt tỉa gọn gàng. Mẹ luồn khăn vào giữa hai chân và lau thật mạnh. Tôi ái ngại quay mặt đi để mẹ được riêng tư một chút. Chỉ khi không có những ánh mắt dòm ngó, người ta mới được riêng tư trong ngôi nhà này. Lúc nào cũng có những kẻ - chủ yếu là đàn ông - núp xung quanh cửa và hành lang nhìn vào với ánh mắt hau háu thèm muốn. Chỉ cần được phép là mấy kẻ đó ngay lập tức lao vào. Đấy là nếu họ được phép. Nhưng tôi không đời nào làm thế. Mẹ tôi bước ra khỏi bồn tắm và cầm lấy cái khăn mặt trong tay tôi. Ngôi nhà lúc nào cũng bốc mùi ẩm mốc và hôi thối, nhưng trong vòng một tiếng sau khi mẹ tắm, nó sẽ phảng phất mùi muối tắm của mẹ. “Margo, lấy cho mẹ cái áo choàng.” Tên tôi lại được xướng lên cùng với câu ra lệnh. Mẹ tôi rất ghét phải tắm một mình. Mẹ kể với tôi rằng bà ngoại từng cố dìm chết mẹ trong bồn tắm khi mẹ còn nhỏ. Đến bây giờ mẹ tôi vẫn bị ám ảnh vì chuyện đó. Ban đêm, thỉnh thoảng tôi lại nghe tiếng mẹ rên rỉ trong khi mơ màng ngủ: Đừng mẹ ơi! Tôi không biết gì về bà ngoại mình. Sau lần suýt chết ấy, mẹ tôi được đưa vào Trung tâm bảo trợ trẻ em. Mẹ tôi gọi nơi đó là một cơn ác mộng. Đúng lúc mẹ tôi được chấp nhận vào trại thì bà ngoại tôi qua đời vì lên cơn đau tim dữ dội và để lại cho đứa con gái duy nhất ngôi nhà này - chính là “hố đen sự sống”. Trong khi mẹ soi gương, tôi trải chiếc áo choàng đỏ mềm mại của mẹ ra. Tôi có nhiệm vụ giặt là nó hai lần một tuần và luôn làm thật cẩn thận vì chiếc áo này là tài sản quý giá nhất của mẹ. Mẹ tôi là người phụ nữ đẹp. Vẻ đẹp dữ dội sánh ngang với bão tố. Mẹ phóng túng và mạnh mẽ. Dường như Chúa đã trao cho mẹ quyền năng khủng khiếp để phá hủy mọi thứ mỗi lần mẹ nổi cơn thịnh nộ. Chúng tôi cùng chiêm ngưỡng hình ảnh mẹ trong gương suốt mấy phút. Tôi dõi mắt theo những ngón tay mẹ đang kiểm tra từng nếp nhăn trên mặt. Đây là “thủ tục” mà chiều nào mẹ cũng làm trước khi bắt tay vào việc khác. Mẹ lấy mấy tuýp kem nhỏ tôi mua cho mẹ ở hiệu thuốc ra bày trên mặt chậu rửa sứt sẹo, rồi lần lượt chấm từng loại kem lên vùng da quanh miệng và mắt. “Margo”, mẹ gọi tôi. Tôi nín thở chờ lệnh. Nhìn tôi đứng lấp ló đằng sau, mẹ nói, “Trông mày khó coi quá. Ít nhất cũng phải giảm cân đi chứ. Mặt không xinh thì dáng người phải hấp dẫn.” Để mang thân đi bán như mẹ sao? “Con sẽ cố ạ.” Việc của tôi là phục tùng. “Margo, mày đi được rồi đấy. Nhớ ở yên trong phòng.” Tên tôi vang lên kèm theo hai câu mệnh lệnh. Đúng là được đối xử đặc biệt! Tôi đi giật lùi khỏi nhà tắm để tránh bị đập hay ném đồ vào đầu. Nếu không uống thuốc, mẹ tôi có thể trở nên vô cùng dữ tợn. Chẳng ai lường trước được khi nào mẹ lên cơn điên. Thỉnh thoảng tôi lại lén vào phòng mẹ đếm xem có bao nhiêu viên thuốc, để biết mình còn được sống yên ổn bao nhiêu ngày nữa. “Margo!” Đúng lúc tôi sắp ra đến cửa thì mẹ gọi giật lại. “Dạ, mẹ?” Tôi hỏi như thì thầm. “Tối nay mày không cần ăn cơm đâu.” Nghe có vẻ dễ chịu nhưng thực chất ý mẹ là, “Tối nay mẹ không cho mày ăn đâu.” Không sao hết. Tôi đã tự tích trữ đồ ăn rồi, dù sao trong chạn cũng không có đồ gì ăn được. Tôi đi về phòng mình. Tôi nghe tiếng mẹ khóa cửa rồi bỏ chìa khóa vào túi. Ngoài cửa chính thì trong nhà chỉ có cửa phòng tôi là khóa được. Mẹ lắp cửa phòng tôi từ mấy năm trước. Lúc đầu tôi cứ tưởng mẹ làm thế để giữ an toàn cho tôi, nhưng sau đó tôi phát hiện ra mẹ cất giữ tiền ngay dưới ván sàn phòng tôi. Ngay dưới chân tôi là cả kho báu của mẹ. Mẹ tôi không mua quần áo, ô tô hay đồ ăn, mà lại tích trữ hết tiền ở đây. Tôi thường lấy vài đồng để mua đồ ăn. Chắc là mẹ cũng biết vì thực chất tôi vẫn sống khỏe, lại còn béo tốt nữa. Tôi ngồi bệt xuống sàn, lôi từ gầm giường ra một cái hộp rồi khẽ lấy ra một quả chuối và hai lát bánh mì, cố để mẹ tôi không nghe thấy tiếng giấy gói sột soạt. Quả chuối đã chín đen, vỏ dính nhớp nháp, bánh mì cũng sắp hỏng nhưng vẫn còn ăn được. Tôi cấu mấy miếng bánh mì, vê tròn lại rồi ăn, trong đầu tưởng tượng như đang dự tiệc Thánh vậy. Bạn tôi là Destiny đã được tham dự lễ ban Thánh thể đầu tiên. Cô ấy kể rằng linh mục sẽ đút một miếng bánh mì dẹt vào miệng người chịu lễ. Miếng bánh mì sẽ tượng trưng cho xác thịt của Chúa Jesu. Phải chờ “thân thể Chúa Jesu” tan ra thì mới được nuốt xuống, vì không được cắn vào xác thịt của Người. Sau đó còn phải uống cả “máu Chúa” nữa. Tôi không biết gì về Chúa Jesu hay lý do vì sao lại phải làm như vậy thì mới trở thành giáo dân, nhưng tôi thấy thà giả vờ đang ăn xác thịt Chúa vẫn tuyệt hơn là ăn bánh mì sắp mốc hỏng. Ăn tối xong, tôi nghe thấy có tiếng chân nện huỳnh huỵch và sàn nhà kêu kẽo kẹt. Là tiếng chân ai? Phải chăng là người đàn ông cao lớn có đám lông xoăn rậm rạp màu xám trước ngực? Mà cũng có thể là cái gã ho dữ dội đến mức làm rung cả giường của mẹ. “Là bệnh bạch hầu”, tôi tự độc thoại với cái vỏ chuối mềm oặt. Tôi đã đọc về bệnh này trong một cuốn sách mà tôi đăng ký mượn liên tục ở thư viện vì không muốn trả lại. Tôi ăn một cái bánh Honey Bun rồi lục cặp rút cuốn sách ra, vừa xem tranh vừa liếm mấy ngón tay dính đồ ngọt. Lúc nghe thấy tiếng tấm ván đầu giường của mẹ va kẽo kẹt vào tường, tôi lại ăn một cái bánh nữa. Chẳng mấy chốc tôi sẽ thành đứa béo phì nếu còn sống trong “hố đen sự sống” này. Chừng nào ngôi nhà còn ăn dần ăn mòn chính bản thân tôi.   Mời các bạn đón đọc Cốt Tủy của tác giả Tarryn Fisher.
Mẹ Đã Sai Rồi
“Tôi có nhiều mẹ. Đối với tôi, chuyện này hơi phức tạp. Nhất là vì họ không thực sự yêu thương nhau. Thậm chí một người còn sắp chết. Phải chăng phần nào là do lỗi của tôi? Phải chăng mọi chuyện xảy ra là tại tôi? Bởi lẽ tôi không nhớ được mẹ nào mới là mẹ thật." Không có gì ngắn ngủi như trí nhớ của một đứa trẻ, nhất là khi đứa trẻ đó mới ba tuổi rưỡi. Không ai tin Malone khi cậu khẳng định rằng mẹ cậu không phải là mẹ thật, ngoại trừ bác sĩ tâm lý Vasile, người duy nhất tìm cách khám phá ra sự thật, trước khi các kí ức mong manh của Malone bị xóa nhòa theo thời gian. Một cuộc chạy đua gấp gáp. Trước khi mọi sự đảo lộn. Trước khi tất cả các miếng ghép được xếp vào đúng chỗ. Trước khi những chiếc mặt nạ bị lột bỏ. Malone thực sự là ai? “Bussi liên tục đưa ra những hướng điều tra, xáo trộn các manh mối, đùa giỡn với ảo giác và những bề ngoài đầy lừa mị. Quả là một bậc thầy trong nghệ thuật đánh lừa. - ELLE *** Review Linh Lee:   Malone - một cậu nhóc 3 tuổi đã dứt khoát khẳng định rằng mẹ cậu không phải là mẹ thật. Trí óc non nớt và những ký ức mong manh như khu rừng yêu tinh, tên lửa hay toà lâu đài nhìn ra biển với một con thuyền đắm gãy đôi về cuộc sống trước kia cùng Mẹ thật khiến không một ai tin lời Malone - họ cho rằng đó đơn thuần chỉ là thế giới tưởng tượng sinh động của cậu nhóc 3 tuổi, chỉ trừ anh chàng bác sĩ tâm lý Vasile, người quyết tâm chạy đua với những ký ức bí ẩn ấy để tìm ra sự thật đằng sau những lời nói của đứa trẻ. Đồng hành cùng anh là cô thiếu tá Marianne - một người phụ nữ 40 tuổi, chưa chồng cũng chẳng tình nhân, một nữ thiếu tá quyết đoán trong công việc nhưng cô vẫn mang trong mình giấc mơ hạnh phúc yên ổn với một đứa con, một gia đình. Trước lời nhờ cậy của Vasile, cô chấp nhận tìm ra chân tướng sự thật sau những bức tranh hay câu chuyện của Malone. Cùng lúc đó chính bản thân Marianne đang săn đuổi theo một tên tội phạm đã gây ra vụ cướp nữ trang nhiều tháng trước mà cảnh sát vẫn chưa tóm gọn được. Hai hay thậm chí ba, bốn vụ án chồng chéo nhau tưởng như tách biệt lại chính là những ghép vừa vặn tạo ra một bức tranh hoàn chỉnh, dẫn tới chìa khoá giải đáp bí ẩn mang tên Mẹ thật của cậu nhóc 3 tuổi. Mạch truyện ổn định, logic chặt chẽ, dẫn dắt người đọc theo dòng ký ức và khiến người đọc sống trong những suy nghĩ và câu chuyện của Malone. Michel Bussi đã thể hiện xuyên suốt được yếu tố psychological đan xem trinh thám trong cả câu chuyện. Ngoài ra, Mẹ đã sai rồi còn có thêm một chút yếu tố thriller được thể hiện qua ý nghĩ của cậu nhóc Malone nên đọc buổi đêm yếu tim có hơi rờn rợn tí. Điểm trừ là bìa sách, dù nhìn thoáng qua rất ổn nhưng 'hơi sai sai' so với nội dung truyện, con thú bông của cậu nhóc là Gouti - con chuột chứ không phải là con gấu bông. Ngoài chi tiết đó thì nhìn chung là rất ổn. Hơi thắc mắc vì không nhiều người biết cuốn nè. 3.8/5. *** Review Nhã Nguyễn: ”Khi bạn nói dối đủ lớn và đủ nhiều thì đó là sự thật”? Một đứa trẻ hơn ba tuổi khăng khăng rằng cha mẹ hiện tại không phải cha mẹ thật của nó, bởi vì con thú bông loài gặm nhấm của cậu kể cho cậu nghe như vậy. Một vụ cướp ngân hàng diễn ra từ nhiều tháng trước mà quá trình điều tra đang đến giai đoạn nước rút. Một chàng bác sĩ tâm lý học đường điển trai, người duy nhất tin lời của cậu bé. Một cô thiếu tá “lỡ thì” bị cuốn vào hai vụ án diễn ra song song (vì anh bác sĩ đeo bám cô không ngừng). Và cuối cùng, một nhân vật bí ẩn, mấu chốt của vấn đề, một bộ óc tính toán đến mức tinh vi (và nhờ đôi chút may mắn?). Tất cả đã đủ cuốn hút bạn chưa, với một cuốn tiểu thuyết trinh thám đến từ nước Pháp? Như đã nói ở trên, tác phẩm này gồm hai vụ án được điều tra độc lập cùng lúc với nhau, và dĩ nhiên, tôi bị hút hơn vào vụ án của cậu bé Malone, với bí ẩn của cậu, rằng những câu chuyện mà cậu kể có là thật, dù mang ít nhiều hoang đường? Chàng bác sĩ tâm lý đã khẳng định rằng trí nhớ của một đứa trẻ ở độ tuổi này có thể dễ dàng mất đi chỉ sau vài tuần, vài tháng, và những ký ức mà ta còn lưu giữ lại vào khoảng thời gian đó khi lớn lên thực chất không phải ký ức trực tiếp, vậy vì sao Malone có thể nhớ và kể lại những câu chuyện ấy suốt một thời gian dài mà không hề quên nó đi? Cái con thú bông loài gặm nhấm đó liên quan gì đến tất cả chuyện này? Bên cạnh vụ án của Malone, quá trình đuổi bắt tên cướp ngân hàng cũng khá là hấp dẫn. Vì sao mỗi khi cảnh sát đuổi đến sát nút, hắn lại có thể biến mất tài tình đến vậy, trong khi đang bị trọng thương? Hồi hộp, gay cấn đến những trang cuối cùng, một số bất ngờ cài cắm đúng lúc xuyên suốt tác phẩm, đây thực sự là một cuốn sách rất đáng đọc. Điểm trừ nhẹ có lẽ là một số đoạn tả cảnh tả tình hơi dài dòng và lãng mạn hóa (có lẽ là theo kiểu Pháp?), và quý cô Marianne hoàn toàn vẫn có thể là một cô gái độc thân kiêu hãnh cơ mà? Điều đầu tiên tôi thích ở tiểu thuyết này đó là đây không phải câu chuyện tôn vinh chỉ một người hùng đơn lẻ. Vụ án được phá không chỉ bởi công sức của cô cảnh sát Marianne, mà nó là sự đóng góp từ giả thiết của bác sĩ Vasile, linh cảm hợp lý của cảnh sát sắp về hưu Papy và những suy luận rất đúng thời điểm của chàng cảnh sát cấp dưới. Điều thứ hai tôi thích hơn nữa, đó là những câu chuyện của Gouti kể cho Malone rải rác suốt tác phẩm, những câu chuyện tưởng chừng cho trẻ con nhưng chứa đựng những triết lý mà người lớn cũng phải suy ngẫm. “Khi con còn nhỏ thì thật khó mà hiểu được, nhưng con hãy lắng nghe cho kỹ. Ai đó mà ta yêu thương, đôi khi phải dám để cho họ đi xa. Hoặc biết chờ đợi thật lâu. Đó là bằng chứng đích thực của tình yêu, có lẽ là bằng chứng duy nhất” - câu chuyện của Gouti. Khi đọc hết tác phẩm này rồi, ngồi ngẫm nghĩ lại, có lẽ bạn sẽ thấm thía nó hơn, tôi nghĩ nó ít nhiều có liên quan đến toàn bộ nội dung tác phẩm đấy. SPOIL NHẸ (dành cho bạn nào đọc rồi). Cá nhân mình thấy cả kế hoạch có những điểm phụ thuộc quá nhiều vào may mắn (ví dụ tình tiết người mẹ tìm thấy tấm vé máy bay, hay tình tiết Marianne hiểu ra toàn bộ vấn đề ở cuối truyện). Kết thúc chuyện tình cảm ở cuối cùng cũng khá là khiên cưỡng, giống như muốn Marianne hết kiếp gái ế vậy =.=. Ngoài ra vụ con thú bông biết nói, bạn nào hay đọc Reddit chắc lờ mờ đoán ra được rồi. *** Michel Bussi là một tác giả người Pháp, được biết đến với việc viết tiểu thuyết ly kỳ, đồng thời là nhà phân tích chính trị và Giáo sư Địa lý tại Đại học Rouen, nơi ông lãnh đạo một Cơ sở Nghiên cứu Khoa học và Kỹ thuật Công cộng tại Trung tâm Nghiên cứu Khoa học Quốc gia Pháp, nơi ông là chuyên gia về địa lý bầu cử. Tác phẩm: Hoa Súng Đen Mẹ Đã Sai Rồi Xin Đừng Buông Tay ... Mời các bạn đón đọc Mẹ Đã Sai Rồi của tác giả Michel Bussi.