Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Tuổi Già Tập 1 - Simone de Beauvoir

Simone de Beauvoir (1908 - 1986) là nhà văn, nhà triết học và một nhà đấu tranh cho nữ quyền người Pháp. Là một nhà văn từng được giải Goncourt nhưng cũng là một học giả uyên bác, các tác phẩm của bà được lấy cảm hứng từ chính cuộc đời mình đồng thời đầy ắp các dữ kiện khoa học, lịch sử, thống kê… Hai tác phẩm non-fiction được biết ở Việt Nam nhiều nhất của bà là Giới tính thứ nhì và Tuổi già. Giới tính thứ nhì (xuất bản năm 1949), được xem là một trong những quyển sách hay nhất của thế kỷ 20, là một cuốn bách khoa toàn thư về các giai đoạn của cuộc đời phụ nữ từ lúc sinh ra, dậy thì, lấy chồng, làm mẹ; đồng thời vạch ra con đường giành quyền lợi cho nữ giới. Với tác phẩm này, bà được xem là “Bà mẹ của phong trào nữ quyền". Tuổi già được viết lúc Beauvoir hơn 50 tuổi, mô tả chi tiết cuộc sống của người già và đấu tranh giành quyền cho họ. Người ta chỉ có thể hiểu được thân phận người già khi ở tuổi đó. “50 tuổi, tôi giật nảy mình khi một nữ sinh viên Mỹ kể lại với mình câu nói của một cô bạn: "Nhưng Simone de Beauvoir là một bà già chứ sao!" Cả một truyền thống dồn cho từ ngữ này một cái nghĩa xấu; nó vang lên như một lời thoá mạ. Vì vậy, người ta phản ứng, thường bằng giận dữ, khi nghe người khác bảo mình già. Tôi có biết nhiều người phụ nữ được biết tuổi tác của mình một cách khó chịu qua một kinh nghiệm giống như kinh nghiệm Marie Dormoy: một người đàn ông, bị vẻ trẻ trung của hình bóng bà đánh lừa, đi theo bà trên đường phố; đến khi đi vượt qua bà và trông thấy gương mặt bà, thì thay vì bắt chuyện, ông ta rảo bước.” "Bạn có biết khuyết tật nào lớn nhất trong các khuyết tật không? Đó là tuổi trên 55" – Tourgueniev. Vào tuổi 55, Trotsky phàn nàn người mệt mỏi, mất ngủ, hay quên; ông có cảm giác sức lực sút kém; và lo lắng. Ông gợi lại quá khứ: "Anh buồn bã nhớ lại tấm ảnh của em, tấm ảnh của chúng ta, trong đó chúng ta trẻ trung biết chừng nào”. Già đi – đó là một điều không thể tránh khỏi và cũng là một quá trình chấp nhận đầy đau đớn. "Wagner kinh hãi thấy mình già đi, 80 tuổi, ông viết: “Hình hài tôi làm người ta khiếp sợ và khiến tôi u sầu một cách xót xa”. Sự suy sụp về thể chất khiến người già không còn có thể tham gia sản xuất hay xây dựng, do đó họ bị xem như gánh nặng, phải phụ thuộc vào người khác. Beauvoir viết về những trại dưỡng lão ở ngoại ô Paris với những người già như bị xã hội bỏ quên, sống mòn mỏi chờ đợi những cuộc viếng thăm của con cháu. Theo Beauvoir, đối đãi công bằng với người già là cách ứng xử có trước có sau mà nếu khác đi là làm lung lay gốc rễ của xã hội hiện đại. *** Khi còn là thái tử Siddharta, bị vua cha nhốt trong một tòa lâu đài tráng lệ, nhiều lần Thích Ca trốn đi dạo chơi bằng xe ngựa trong vùng. Trong lần dạo chơi đầu tiên, thái tử gặp một người tàn tật, tóc bạc, răng rụng, da nhăn nheo, cúi gập người trên một cây gậy, miệng lập cập, hai tay run rẩy. Chàng lấy làm ngạc nhiên và người xà ích giải thích đó là một ông già. Thái tử liền thốt: “Những kẻ hèn yếu và dốt nát, chuếnh choáng vì niềm kiêu hãnh của tuổi trẻ, không thấy được tuổi già. Khốn khổ biết chừng nào! Hãy trở nhanh về nhà thôi. Các trò chơi và niềm vui mà làm gì, vì ta là nơi ẩn náu của tuổi già mai sau”. Qua một ông già Thích Ca nhận ra số phận của chính mình, sinh ra để cứu vớt loài người, Thích Ca muốn chia sẻ hoàn toàn với số phận của họ. Và về điểm này, Người khác họ: họ lẩn tránh những gì không làm họ vui lòng. Và đặc biệt là tuổi già. Châu Mỹ đã loại trừ ra khỏi từ vựng của họ từ: người chết: mà chỉ nói người khuất bóng thân yêu; cũng giống như vậy, họ tránh liên hệ tới tuổi già. Ở nước Pháp ngày nay, đó là một đề tài cấm kỵ. Khi bắt buộc phải vi phạm điều cấm kỵ ấy, tôi đã bị người ta la ó! Chấp nhận mình đã bước vào ngưỡng cửa của tuổi già, tức là cho rằng nó rình rập tất cả mọi người phụ nữ, rằng nó đã tóm cổ nhiều người. Với thái độ dễ thương hay giận dữ, nhiều người, nhất là người già, không ngớt nhắc đi nhắc lại với tôi rằng làm gì có tuổi già! Có những người không trẻ bằng những người khác, chỉ thế thôi! Đối với xã hội, tuổi già xuất hiện như một điều bí ẩn đáng xấu hổ, mà nói tới là điều khiếm nhã. Trong mọi lĩnh vực, văn học viết rất nhiều về phụ nữ, về trẻ em, về thiếu niên; ngoài các công trình chuyên môn, người ta rất ít ám chỉ tới tuổi già. Một tác giả băng hoạt hình đã phải làm lại cả một loạt tác phẩm vì trước đó ông ta đã đưa vào trong số các nhân vật một cặp vợ chồng đáng tuổi làm ông làm bà: “Hãy loại bỏ người già đi!” - người ta hạ lệnh cho ông ta[1]. Khi tôi nói mình viết một cuốn tiểu luận về tuổi già, người ta thường thốt lên: “Sao lại kỳ thế!... Bà đâu có già!... Đề tài ấy, ngán lắm...” Chính vì lý do ấy mà tôi viết cuốn sách này: để phá tan sự đồng tình im lặng. Theo Marcuse, xã hội tiêu thụ đem một ý thức tốt đẹp thay thế cho ý thức xấu xa và bài xích mọi ý nghĩ tội phạm. Cần khuấy động sự yên ổn của nó. Đối với người có tuổi, nó chẳng những là phạm tội, mà còn là một tội ác. Ẩn náu phía sau các huyền thoại bành trướng và phong túc, nó cho người già là những kẻ khốn cùng. Ở Pháp, nơi tỷ lệ người già cao nhất thế giới - 12% dân số trên 65 tuổi - họ bị dồn vào cảnh khốn cùng, cô đơn, tàn tật, thất vọng. Ở Mỹ, số phận của họ cũng không sung sướng hơn. Nhằm dung hòa sự man rợ này với thứ đạo lý nhân văn chủ nghĩa mà họ thuyết giáo, giai cấp thống trị có cách đơn giản là không xem họ là những con người; nếu nghe tiếng nói của họ, người ta bắt buộc phải thừa nhận đó là một tiếng nói của con người; tôi sẽ buộc độc giả của mình nghe tiếng nói ấy. Tôi sẽ miêu tả hoàn cảnh của họ và cách họ sống; tôi sẽ nói những gì diễn ra thực sự trong đầu óc và trong con tim họ - những thứ bị dối trá, huyền thoại và những lời sáo rỗng của nền văn hóa tư sản xuyên tạc. Vả lại, thái độ của xã hội đối với họ mang tính chất đồng lõa sâu sắc. Nói chung, xã hội không coi tuổi già là một lớp tuổi rõ rệt. Cuộc khủng hoảng về tuổi dậy thì cho phép vạch ra giữa một thiếu niên và người trưởng thành một đường ranh giới chỉ mang tính võ đoán trong những giới hạn chật hẹp; ở tuổi 18, 21, thanh niên được chấp nhận vào xã hội con người. Hầu như bao giờ xung quanh sự thăng tiến ấy cũng có những “nghi thức chuyển giai đoạn”. Còn thời điểm bắt đầu tuổi già thì không được xác định rõ rệt, nó thay đổi theo từng lúc, từng nơi. Không ở đâu, người ta bắt gặp “nghi thức chuyển giai đoạn” thiết lập một quy chế mới[2], về chính trị, suốt đời, cá nhân giữ nguyên những quyền lợi và nghĩa vụ giống nhau. Luật Dân sự không mảy may phân biệt giữa một cụ già trăm tuổi và một người tuổi bốn mươi. Các nhà làm luật cho rằng ngoài những trường hợp bệnh lý ra, trách nhiệm hình sự của người có tuổi cũng hoàn toàn đầy đủ như của thanh niên[3]. Trong thực tiễn, người ta không coi họ là một lớp người riêng, vả lại, họ cũng không muốn như vậy; có sách, báo, sân khấu, những buổi truyền hình và truyền thanh dành cho trẻ em và thiêu niên: còn đối với người già thì không[4]. Trên tất cả những bình diện này, người ta đồng hóa họ với lớp người lớn tuổi trẻ hơn. Nhưng khi quyết định quy chế kinh tế của họ, hình như người ta cho là họ thuộc một lớp người xa lạ: họ không có những nhu cầu cũng như những tình cảm giống như những người khác, nếu chỉ cần ban cho họ một chút bố thí khốn khổ là cảm thấy hết nợ đối với họ. Các nhà kinh tế học, các nhà làm luật tin vào cái ảo ảnh thuận tiện ấy khi phàn nàn cái gánh nặng những người không hoạt động gây nên cho những người hoạt động: như thể những người này không phải là những người không hoạt động trong tương lai và không bảo đảm chính ngày mai của mình trong lúc xây dựng việc nhận lấy trách nhiệm đối với những người có tuổi. Còn các nhà hoạt động công đoàn thì không nhầm lẫn: khi đưa ra những đòi hòi, bao giờ họ cũng coi trọng vấn đề hưu trí. Những người già không tạo nên một lực lượng kinh tế nào thì không có cách gì để đòi hỏi quyền lợi của mình: lợi ích của những kẻ bóc lột, là tiêu diệt tình đoàn kết giữa người lao động và người không sản xuất, sao cho không một ai bênh vực những người này. Những huyền thoại và lời sáo rỗng theo tư duy tư sản tìm cách chỉ ra một con người khác trong người già. “Chính với những thiếu niên sống khá nhiều năm mà cuộc đời tạo nên lớp người già” - Proust từng nhận định như vậy - họ giữ lại những nết tốt và những tật xấu của con người trong họ. Điều đó, dư luận không muốn biết tới. Nếu biểu thị những ham muốn, những tình cảm, những đòi hỏi giống như những người trẻ tuổi, thì người già làm người ta công phẫn; ở họ, tình yêu nam nữ, lòng ghen tuông hình như là bỉ ổi hay lố bịch, còn tình dục thì đáng ghê tởm và bạo lực thì chẳng có nghĩa lý gì. Họ phải là tấm gương về mọi đức tính. Trước hết, người ta đòi hỏi ở họ sự thanh thản; người ta khẳng định họ có lòng thanh thản ấy, nên cho phép người ta không quan tâm tới nỗi bất hạnh của họ. Cái hình ảnh người ta tô vẽ về họ là hình ảnh một nhà Hiền triết trong ánh hào quang của một mái tóc bạc trắng, giàu kinh nghiệm và khả kính, vượt lên rất xa thân phận con người; nếu rời khỏi hình ảnh ấy, là họ rơi xuống phía dưới; cái hình ảnh đối lập với hình ảnh trên đây, là hình ảnh một lão già điên lẩm cẩm, lố lăng, bị trẻ em chế giễu. Dẫu sao, do đức độ hay do sự đê tiện của họ, họ ở ngoài nhân loại. Vì vậy, người ta có thể không ngại ngần khước từ đối với họ những gì tối thiểu được coi là cần thiết cho một cuộc sống con người. Người ta đẩy xa sự loại thải này tới mức làm cho nó quay trở lại chống chính bản thân mình; người ta sẽ không công nhận bản thân mình trong hình ảnh ông già mà chính mình là ông già đó. Proust nhận xét một cách xác đáng: “Trong mọi hiện thực, (tuổi già) có lẽ là hiện thực mà chúng ta giữ lại một khái niệm thuần túy trừu tượng lâu bền nhất trong đời”. Tất thảy mọi người đều khả tử: họ nghĩ tới điều đó. Nhiều người trong số họ trở thành người già: hầu như không một ai hình dung trước sự biến đổi ấy. Người ta không chờ đón, không dự kiến một cái gì khác ngoài tuổi già. Khi được hỏi về tương lai của họ, thanh niên, nhất là nữ thanh niên, cho đời mình kéo dài nhiều nhất đến tuổi 60. Một số cô gái bảo: “Em không chờ đến ngày ấy, em sẽ ra đi trước đó”. Và thậm chí, một vài cô nói: “Em sẽ tự sát trước ngày ấy”. Người trưởng thành hành động như thế không bao giờ phải trở thành người già. Thông thường, người lao động kinh hoàng khi điểm giờ nghỉ hưu: thời hạn nghỉ hưu vốn đã được ấn định trước, người đó biết thời hạn ấy, nhẽ ra họ phải chuẩn bị sẵn. Sự thật là sự hiểu biết ấy vẫn xa lạ đối với họ cho tới giây phút cuối cùng - trừ phi nó thực sự mang tính chất chính trị. Đến ngày đó, và khi đã bước tới gần, thông thường, người ta thích tuổi già hơn là cái chết. Tuy vậy, đứng cách xa, người ta xem xét cái chết sáng suốt hơn cả. Cái chết nằm trong phạm vi những khả năng trực tiếp của chúng ta, uy hiếp chúng ta ở mọi lứa tuổi; có lúc chúng ta suýt chết; thông thường, chúng ta sợ chết. Con người ta không trở nên già nua trong chốc lát; ở tuổi thanh niên hay lúc tráng niên, chúng ta không nghĩ là tuổi già tương lai đã tiềm ẩn trong con người mình như Thích Ca: tuổi già ấy cách xa chúng ta tới mức khoảng cách ấy lẫn lộn trước mắt mình với sự vĩnh hằng: tương lai đối với chúng ta như thể phi hiện thực. Vả lại, cái chết không là gì cả; người ta có thể cảm thấy một nỗi bàng hoàng siêu hình trước cái hư vô ấy, nhưng bằng một cách nào đó, nó làm người ta yên lòng, nó không đặt thành vấn đề. “Ta sẽ không còn nữa”. : ta giữ hình tích của mình trong sự tiêu vong ấy[5]. Ở tuổi 20, hay 40, tôi nghĩ mình già, tức là nghĩ mình là người khác. Trong mọi sự biến đổi, đều có một cái gì đó khủng khiếp. Ở tuổi ấu thơ, tôi bàng hoàng, và thậm chí kinh hoàng khi hiểu ra sẽ có ngày mình sẽ trở thành người lớn. Nhưng ý muốn mình vẫn là bản thân mình, thường được bù đắp ở buổi thiếu thời bởi những lợi thế của quy chế người trưởng thành. Còn tuổi già thì xuất hiện như một nỗi bất hạnh: ngay cả ở những người mà người ta cho là vẫn giữ được vẻ quắc thước, sự suy sụp về thể chất mà tuổi già kéo theo cũng vẫn lồ lộ trước mắt. Vì ở loài người, sự đổi thay do năm tháng là nổi bật nhất. Loài vật thì gầy đi, yếu đi, nhưng không biến đổi. Còn con người thì có. Người ta se lòng khi nhìn thấy bên cạnh một thiếu phụ trẻ, phảng phất trong gương hình ảnh chính mình những năm tháng sau này: tức là mẹ mình. Theo Lévi-Strauss, người Da đỏ Namblikwara chỉ có một từ để nói “trẻ và đẹp” và một từ để nói “già và xấu”. Trước hình ảnh người già gợi ý với chúng ta về tương lai của mình, chúng ta không tin; một tiếng nói nội tâm thầm thì một cách phi lý với chúng ta rằng điều đó sẽ không đến với mình: sẽ không còn là chúng ta nữa khi điều đó xảy tới. Trước khi nó ập xuống chúng ta, tuổi già là cái chỉ liên quan tới ngườl khác. Vì vậy, có thể hiểu vì sao xã hội có thể khiến chúng ta không coi người già là đồng loại của mình. Thôi, chúng ta đừng tự lừa dối mình nữa; ý nghĩa cuộc sống chúng ta nằm trong tương lai đang đón đợi mình; chúng ta không biết mình là ai, nếu không muốn biết mình sẽ là người thế nào: chúng ta hãy tự nhận biết mình ở ông lão kia, ở bà già nọ. Cần phải như vậy nếu chúng ta muốn đảm nhận thân phận con người của mình một cách trọn vẹn. Chỉ có như vậy, chúng ta mới không còn chấp nhận một cách thờ ơ nỗi bất hạnh của lứa tuổi cuối cùng, chúng ta sẽ cảm thấy mình ở trong cuộc: và quả chúng ta ở trong cuộc. Nỗi bất hạnh ấy tố cáo một cách vang dội chế độ bóc lột chúng ta đang sống. Người ta không thể tự mình thỏa mãn nhu cầu của mình, bao giờ cũng bị coi là một gánh nặng. Nhưng trong những tập thể có một sự bình đẳng nào đó - trong lòng một cộng đồng nông thôn, ở một số dân tộc nguyên thủy - người đứng tuổi, tuy không muốn biết, vẫn biết ngày mai thân phận của mình sẽ là thân phận mà ngày hôm nay người đó quy cho người già. Đấy là ý nghĩa truyện cổ tích của Grim, được thuật lại ở mọi miền thôn dã. Một gã nông dân bắt người cha già ăn riêng, trong một cái máng gỗ nhỏ; hắn bất chợt thấy đứa con trai đang ghép những miếng ván. Nó bảo ông bố: “Cho bố đấy, khi bố về già”. Thế là ông già lại ngồi vào bàn ăn cùng cả nhà. Trước lợi ích lâu dài và lợi ích trước mắt, các thành viên còn hoạt động trong tập thể sáng tạo nên những sự thỏa hiệp. Tình trạng cấp bách của nhu cầu buộc một số người nguyên thủy giết chết bố mẹ, dù về sau, có phải chịu một số phận như thế. Trong những trường hợp ít căng thẳng hơn, sự phòng xa và tình cảm gia đình chế ngự tính ích kỷ. Trong thế giới tư bản, lợi ích dài hơn không còn tác dụng: những kẻ có đặc quyền và quyết định số phận của đám đông không sợ phải nếm trải số phận ấy. Còn những tình cảm nhân văn chủ nghĩa thì không bao giờ can thiệp tới, mặc dù những lời huyênh hoang dối trá. Cơ sở của nền kinh tế là lợi nhuận; trên thực tiễn, toàn bộ nền văn minh phụ thuộc vào nó: người ta chỉ quan tâm tới tập thể người trong một doanh nghiệp trong chừng mực tập thể ấy có lợi. Sau đó, họ bị vứt bỏ. Tại một hội nghị gần đây, tiến sĩ Leach, nhà nhân chủng học ở Cambritgiơ tuyên bố: “Trong một thế giới đang chuyển động, trong đó máy móc có những cuộc đời rất ngắn ngủi, con người không nên phục vụ quá lâu. Tất cả những gì vượt qua 55 năm tuổi đều phải loại bỏ”[6]. Cái từ “đồ bỏ đi” nói đúng điều nó muốn nói. Người ta kể lể với chúng ta rằng nghỉ hưu là thời gian của tự do và giải trí; có những nhà thơ ca ngợi “lạc thú nghỉ ngơi”. Đó là những lời dối trá vô liêm sỉ. Xã hội áp đặt cho số đông người già mức sống khốn khổ tới mức từ ngữ “già nua và đói nghèo” trở thành hầu như một từ thừa (pléonasme); ngược lại, số đông người bần cùng là người già. Nhàn rỗi không mở ra cho người nghỉ hưu những khả năng mới; vào lúc cá nhân, đến phút cuối cùng, được giải thoát khỏi những sự ràng buộc, người ta tước đoạt của họ mọi phương tiện sử dụng quyền tự do. Họ buộc phải sống lay lắt trong cô đơn và phiền muộn, như một vật phế thải không hơn không kém. Khi trong mười lăm hay hai mươi năm cuối đời, một con người chỉ còn là một vật chẳng ai đoái hoài, thì đó là sự thất bại của nền văn minh chúng ta: sự thật hiển nhiên ấy khiến chúng ta nghẹn ngào nếu chúng ta coi người già là những con người từng có một cuộc sống con người phía sau họ, chứ không phải là những xác chết dật dờ. Những ai tố cáo cái chế độ đọa đày vốn là chế độ chúng ta, phải đưa điều điếm nhục ấy ra ánh sáng. Chính bằng cách tập trung nỗ lực của mình vào thân phận những người xấu số nhất, người ta có thể làm lay chuyển một xã hội. Để phá hủy hệ thống đẳng cấp, Gandhi tìm cách giải quyết thân phận tầng lớp Tiện dân (parias); nhằm tiêu hủy gia đình phong kiến, nước Trung Hoa cộng sản giải phóng phụ nữ. Đòi hỏi con người cứ phải là con người ở lứa tuổi cuối cùng của họ bao hàm một sự đảo lộn triệt dể. Không thể thu được kết quả ấy với một vài cải cách hạn hẹp không đụng chạm tới hệ thống: chính nạn bóc lột người lao động, chính quá trình phân hủy xã hội và sự khốn cùng của một nền văn hóa chỉ dành riêng cho tầng lớp quan lại, dẫn tới những cảnh già nua phi-nhân văn ấy. Chúng chỉ ra rằng cần làm lại tất cả, từ đầu. Chính vì vậy, vấn đề này bị nhấn chìm trong im lặng hết sức kỹ lưỡng; và chính vì vậy, cần phá tan sự im lặng ấy: tôi mong đợi độc giả giúp đỡ tôi trong công việc này.   Mời các bạn đón đọc Tuổi Già Tập 1 của tác giả Simone de Beauvoir.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

7 Chiến lược Thịnh Vượng và Hạnh Phúc - Jim Rohn
Năm 25 tuổi, Jim Rohn tổng kết lại chặng đường đã qua và hoảng hốt nhận ra rằng cuộc sống của ông khác xa với những mục tiêu mà ông tự đặt ra cho mình. Giữa lúc tuyệt vọng đó, ông gặp Earl Shoaff, và học được từ người thầy tinh thần này những bài học cuộc sống vô cùng quý báu. Jim Rohn đã áp dụng những bài học này vào thực tế và gặt hái được nhiều thành công trong cuộc sống, một cuộc sống giàu có và hạnh phúc. Qua cuốn sách này, Jim Rohn muốn truyền thông với người đọc một cách đơn giản và trực tiếp về những ý tưởng sẽ tạo nên sự khác biệt trong cách thức thay đổi cuộc sống của mỗi người. Bạn không cần phải lựa chọn giữa thịnh vượng và hạnh phúc – cả hai đều xuất phát từ một dòng chảy vô cùng phong phú. Với cuốn sách này, bạn sẽ khám phá ra bảy chiến lược đặc biệt mà bạn cần để thành công: - Khám phá sức mạnh của những mục tiêu. - Học hỏi kiến thức. - Khám phá điều kỳ diệu của sự phát triển cá nhân. - Kiểm soát tài chính của chính bạn. - Làm chủ thời gian. - Ở giữa những người chiến thắng. - Học nghệ thuật sống tốt. Những triết lý của Jim Rohn đã giúp hàng triệu người thay đổi cuộc sống của họ theo chiều hướng tốt đẹp hơn. Hãy xem nó có thể làm gì cho bạn. “Khi đọc cuốn sách này, bạn hãy tưởng tượng mình đang mua hàng. Bạn chỉ nên mua và sử dụng những ý tưởng nào có thể áp dụng ngay cho mình. Bạn chắc chắc không cần phải tin mọi thứ mà người khác nói nhưng cũng phải thật sự dành cho mình một cơ hội. Hãy đọc những trang tiếp theo với tâm trí rộng mở. Nếu có điều gì phù hợp thì bạn hãy thử nghiệm, nếu điều gì không phù hợp thì hãy loại bỏ. Hãy nhớ rằng dù là học viên của bất kỳ môn học nào thì bạn cũng không chỉ đơn thuần là người đi theo. Thông tin về tác giả: Jim Rohn là một trong những diễn giả biết cách truyền động lực nhất. Đến thời điểm hiện tại, sự nghiệp phát triển bản thân và mang lại động lực cho mọi người của ông đã được 40 năm. Thêm vào đó, ông còn được biết đến như một nhà tư tưởng và một triết gia vĩ đại. Ông đã làm việc với hàng triệu người và đã giúp họ đạt được thành công. Một trong số đó phải kể đến là Anthony Robins và Zig Ziglar. Mời các bạn đón đọc 7 Chiến lược Thịnh Vượng và Hạnh Phúc của tác giả Jim Rohn.
Cho Là Nhận - Ken Blanchard & S. Truett Cathy
"Cho là nhận" Cho nỗi hận nhận niềm đau, Cho cay đắng ắt nhận đắng cay, Gieo nỗi sầu lòng đâu thanh thản... Hãy cho đi những điều tốt đẹp Cho sự tha thứ lòng thanh thản Cho sự đồng cảm nhận sẻ chia Cho một nụ cười nhận niềm vui... Cho đi cái gì... Nhận lại cái đó. Cho đi chính là nhận được "Cho là nhận", một triết lí sống cao đẹp mà ít người thực sự có được, đó cũng là tên của một cuốn sách vô cùng hay và ý nghĩa "Cho là nhận" của tác giả Ken Blanchard & S.Truett Cathy. Tôi đã đọc đi đọc lại gần chục lần tất cả nội dung bên trong cuốn sách ấy trong giờ sinh hoạt đầu giờ của lớp, nhưng mà...thật buồn vì tôi vẫn chưa hiểu hết được ý nghĩa của việc cho đi chính là nhận được. Nôm na tôi chỉ hiểu được, sống là phải biết cho đi mà không cần nhận lại, đã cho đi thì cái mà bạn nhận được là sự hạnh phúc, đôi khi còn là sự thanh thản trong tâm hồn. Bạn cho đi không nhất thiết phải là thứ hiện hữu trước mắt, cũng không nhất thiết là của cải vật chất, mà bạn phải thêm vào đó tình cảm của mình... Đó mới là cho đi. Đấy, tôi hiểu nó như thế... Muốn hiểu sâu hơn thì các bạn hãy tìm cuốn sách "Cho là nhận" về đọc nhé. Còn giờ hãy đọc phần cảm nhận của riêng tôi về cuốn sách đó trước. Cuốn sách này không dày, kích thước chỉ bằng một cuốn sổ ghi chép cỡ vừa, cũng chỉ có khoảng một trăm hơn trang nhưng cái mà người đọc (nghe) nhận được lại là cả một triết lí sống cao đẹp khiến cả người nhận và cho đều cảm thấy hạnh phúc. Anh chàng môi giới chứng khoán trẻ tuổi thành đạt nhưng sống vô tình, có phần lạnh nhạt và vô tâm với những người xung quanh, vì vậy cuộc sống của nhà môi giới trẻ trôi qua tẻ nhạt... Chỉ luôn kiếm tiền mặc dù anh ta đã có rất nhiều tiền. Tình cờ nhà môi giới trẻ đã đọc được bài phóng sự về một người thành đạt khác, nói về sự hào hiệp và cho đi không cần nhận lại của ông ta. Nhà môi giới trẻ không tin nên đã tìm cách liên lạc với người "kì quặc" đó. Nhà môi giới đã gặp, nói chuyện với người đó và cảm thấy cuộc sống của bản thân thật vô vị. Sau đó mỗi ngày anh ta bắt đầu "tìm hiểu" về triết lí sống này.  Hơi xấu hổ một chút khi chia sẻ với các bạn điều này, nhưng tôi đã phê bình và thậm chí là cảm thấy cuốn sách này nhảm nhí khi vừa đọc nó lần đầu tiên. Tôi nghĩ mình cảm thấy như vậy khi đọc lần đầu tiên là vì tư duy của tôi còn khá non nớt, hơn nữa...các bạn biết đấy, đa phần giới trẻ như tôi (tôi mới 16 tuổi thôi) thường thích đọc những câu triết lí, châm ngôn hay status về tình bạn và tình yêu hơn là những chuyện trong lĩnh vực quản trị đời sống như thế này... Nếu bạn đọc lần đầu mà cảm thấy như tôi thì hãy thử đọc lại thật kĩ nhé, chắc chắn bạn sẽ nhận thấy điều kì diệu trong cuốn sách đó Nhà môi giới trẻ nghĩ nhà điều hành là kẻ "kì quặc" từ lần đầu nói chuyện, chính tôi cũng cảm thấy như vậy vì nhà điều hành luôn giúp đỡ người khác mà không cần nhận lại một thứ gì từ họ, nhà điều hành có những đứa con nuôi, giúp đỡ người khác khi họ cần giúp đỡ... Và còn nhiều hành động của ông ấy tôi cũng thấy "kì quặc" lắm cơ. Mấy việc cho đi tình cảm và vật chất của ông ấy cho tôi thấy một con người rất tốt, giàu lòng thương người, hiểu nhiều điều về cuộc sống nhấp nhô này, đó không phải việc làm tôi cảm thấy ông ấy rất "kì quặc" mà là việc ông ấy nói nhà môi giới về lập "bản danh sách hạnh phúc", bạn có ngờ được không? Sự hạnh phúc còn có thể lập ra được bản danh sách sao? Tôi đã choáng khi đọc xong chương đó đấy, thực sự phải dùng từ choáng cho chương 12 mang tên "bản danh sách hạnh phúc". Vừa choáng tôi lại vừa suy nghĩ, nếu tôi là nhà môi giới thì chắc tôi sẽ chẳng viết nổi chữ nào vào bản danh sách đó, có chăng cũng chỉ viết được hai từ hạnh phúc mà thôi!  Có vẻ tôi hơi lan man rồi thì phải!!! Cuốn sách chỉ đơn giản có từ ngữ và đa phần lời đối thoại, chẳng có hình ảnh gì như những cuốn sách khác, đấy là trừ bìa sách nhé, bìa nó có hai màu chủ đạo là trắng và đỏ, tôi thích nó - cái bìa ấy. Những trang đầu chỉ kể lại chuyện của nhà môi giới trẻ với người tài xế, về sự lạnh nhạt với mọi người xung quanh và cả việc nhà môi giới trẻ ăn vận chỉnh tề, ngày ngày đi làm có xe riêng đưa đón, người tài xế luôn tận tuỵ với công việc luôn luôn giúp ông chủ của mình dù những việc nhỏ nhặt nhất vậy mà nhà môi giới trẻ chưa từng để ý hay quan tâm đến người tài xế, cũng chẳng có hỏi han người tài xế một câu. Đơn giản vì nhà môi giới trẻ luôn nghĩ đó là việc đương nhiên, anh ta trả tiền cho người tài xế làm những việc như thế này mà! Tôi không hề cảm thấy bất bình cho người tài xế, tôi chỉ cảm thấy buồn cho nhà môi giới vì không hoà nhập với những người xung quanh thôi. Ý tôi không phải nhà môi giới bị cô lập hay khác người đâu, ý tôi là nhà môi giới tự cô lập tình cảm của mình với người tài xế, dĩ nhiên nhà môi giới và người tài xế còn chưa cười với nhau lấy một lần ấy chứ, mỗi chuyến đi của họ thật ngột nhạt trong khi họ có thể bắt chuyện với nhau và kể về ngày hôm qua của bản thân chẳng hạn... Tôi cá là nhà môi giới sẽ cảm thấy đến nơi nhanh hơn mọi ngày đấy, còn có thể tạo sự thoải mái bắt đầy một ngày mới hay bắt đầu công việc... Sau đó nhà môi giới trẻ còn cảm thấy khó chịu và thậm chí yêu cầu cảnh sát đến bắt một người đàn bà ăn mặc rách rưới muốn gặp nhà môi giới và hay "lảng vảng" trước toà văn phòng của nhà môi giới vì lí do là bà ấy gây ảnh hưởng đến an ninh.  Lần này thì tôi thực sự phê bình nhà môi giới trẻ giàu có này, thậm chí nhà môi giới vô tâm đến mức chẳng chịu gặp người đàn bà và yêu cầu cảnh sát bắt bà ta khi thấy bà ta cứ "lảng vảng". Tôi nghĩ nhà môi giới trẻ làm vậy là vì cách ăn mặc rách rưới của người đàn bà, nếu thay vào đó là một người ăn mặc sang trọng hay đại loại như thế thì nhà môi giới chắc chắn đã ra gặp. Tiếp đó nhà môi giới gặp và nói chuyện với nhà điều hành, nhà môi giới cảm thấy cuộc sống của mình thật vô vị, chưa thực sự hạnh phúc dù đã có rất nhiều tiền, cũng như phần tôi lan man ở trên đấy, sau đó nhà môi giới bắt đầu đi "tìm hiểu" về triết lí sống "cho là nhận". Nhà môi giới tìm thấy "những cánh cửa mở" và "bốn yếu tố quan trọng của lòng chia sẻ", còn bốn yếu tố đó là gì tôi sẽ không tiết lộ đâu, nếu tiết lộ cho các bạn biết hết thì các bạn chỉ cảm nhận được cái mà tôi cảm nhận, vậy nên bạn nào tò mò thì tìm đọc cuốn sách đó nhé. Nó có bán ở các nhà sách trên toàn quốc đấy! Nhà môi giới trẻ đã từng ngày thay đổi trong suy nghĩ và hành động. Biết quan tâm đến người tài xế và giúp đỡ khi người tài xế lâm vào tình cảnh khó khăn. Nhà môi giới còn gặp lại người đàn bà ăn mặc rách rưới lần trước, lần này bà ấy ăn mặc trang trọng đúng chất một quý bà. Nhà môi giới đã chẳng nhận ra người đàn bà ăn mặc rách rưới và quý bà này là cùng một người, rồi quý bà cũng nói cho nhà môi giới biết điều đó, nhà môi giới đã sửng sốt và hỏi tại sao bà ấy làm vậy. Bà ấy đã nói trước kia (trước khi giàu có ấy) bà ấy cũng chỉ là một người ăn mặc rách rưới trong những khu tàn tạ, phải đi xin ăn... Hiện tại bà ấy giàu có là nhờ người chồng. Bà ấy muốn chia sẻ với những người nghèo khó, giúp đỡ họ và ăn mặc như họ để họ không cảm thấy bà ấy do thương hại mà làm vậy, cho họ cảm thấy bà ấy đồng cảm và thực sự muốn giúp đỡ họ... Nhà môi giới đã nghiệm ra thêm nhiều điều từ cuộc nói chuyện với quý bà đó, biết đồng cảm và chia sẻ với những người xung quanh, biết rằng cho đi vật chất hay hành động giúp đỡ phải thêm vào cả sự chân thành, tình cảm... Nhưng mà nhà môi giới vẫn chưa cảm thấy bản thân đã thay đổi mặc dù anh ta thật sự đã có những thay đổi rõ rệt, mỗi ngày trôi qua đều là một cơ hội cho nhà môi giới cũng như mọi người hiểu thêm về việc cho và nhận và tương lai của nhà môi giới trẻ sẽ mở rộng tươi đẹp... Đọc và bị cuốn sâu vào trong những vần chữ... Bạn biết không? "Cho là nhận" - cuốn sách tôi yêu Ban đầu nhà môi giới có rất nhiều thắc mắc về việc nhà điều hành quan tâm nhân viên... Nhà điều hành đưa nhà môi giới đến ngôi nhà hạnh phúc, một ngôi nhà và trái tim, ở đó có những đứa trẻ nhà điều hành nhận nuôi và nuôi dưỡng tâm hồn chúng... Sau nhiều câu chuyện khác nhau nhà điều hành đã giúp nhà môi giới trẻ hiểu ra chân lí sống. Tôi đã khá "ngấm" những điều nghiệm ra từ những câu chuyện của nhà môi giới trẻ và nhà điều hành, đương nhiên cuối cùng nhà môi giới trẻ đã hiểu rõ "cho là nhận", cảm nhận được cuộc sống không hề tẻ nhạt khi biết chia sẻ vơi những người khác. Tôi cảm thấy thế giới cần những người như nhà điều hành, cần những phẩm chất tốt. Bạn đã bao giờ nghĩ tới: - Những đứa trẻ mồ côi vô gia cư? - Những đứa bé vô tội bị cha mẹ chúng ruồng bỏ? - Sinh viên không đủ tiền để vào đại học? - Những con người phải hứng chịu hạn hán, không có nước uống đang chết dần chết mòn? ... Còn nhiều người rất cần giúp đỡ của xã hội, rất cần những người thấu hiểu "cho là nhận". Dĩ nhiên những thứ bạn có mới có thể cho đi.... Đã bao giờ bạn vui vẻ cho những người quen và những người xa lạ dù chỉ là: - Một ổ bánh mì? - Một tấm lòng đồng cảm sẻ chia? - Một hành động giúp đỡ ai đó? - Thời gian của bạn? ... Một trong số đó, bạn đã từng cho đi và cảm thấy thoải mái, vui vẻ hay hạnh phúc chưa? Những người nhận được sẽ cho bạn thứ gì: - Một nụ cười? - Giọt nước mắt hạnh phúc? - Lời cảm ơn? - Một cái ôm? - Cho bạn cảm thấy cuộc sống của bản thân không tẻ nhạt? - Cho bạn thấy xã hội cần bạn? - Cho bạn thấy bạn không phải người dư thừa như bạn từng nghĩ? - Bạn là một người tốt? ... Bạn đã từng cho đi thứ gì hay chưa? Nếu chưa thì hãy thử cho đi một lần nhé! Rồi bạn tìm thấy một triết lí quý báu "cho là nhận".  Bạn có biết? chúng ta có thể cho đi: - Một lời oán trách nặng nề? - Một nỗi hận? - một lời giận vô cớ? - Một sự khinh bỉ? ...  Nhưng bạn cho đi những thứ đó thì bạn nhận được gì: - Sự suy nghĩ và hối hận? - Bạn đau khổ? - Bạn tự trách? - Bạn nhận được sự xa lánh từ những người bạn từng khinh bỉ? ... Tôi nghĩ bạn cần biết phải cho đi cái gì, cái gì có thể nhẫn thì cố nhẫn, hãy tha thứ cho một lỗi lầm người ta gây ra cho bạn.... Khi đó bạn sẽ nhận được nhiều thứ bổ ích, sẽ cảm thấy yêu cuộc sống hơn... Mời các bạn đón đọc Cho Là Nhận của hai tác giả Ken Blanchard & S. Truett Cathy.
15 Kỹ Năng Sinh Tồn Trong Công Sở - Debra Fine
Debra Fine khuyên bạn hãy học cách: Xác định thông điệp Phân tích ngôn ngữ cơ thể muốn truyền đạt điều gì Thành thục kĩ năng đàm phán Đề nghị nhân viên hoặc sếp đưa ra phản hồi tích cực và hiệu quả Theo dõi các cuộc họp và xem xét kĩ chương trình họp Khắc phục nỗi sợ hãi nói trước đám đông Hạn chế mâu thuẫn với đồng nghiệp và khách hàng Sa thải hoặc từ chối thăng cấp cho một nhân viên Nắm vững nguyên tắc giao tiếp xã giao qua e-mail, tin nhắn thoại và tạo ấn tượng tích cực mọi nơi mọi lúc... và còn hơn thế nữa. 15 Kỹ Năng Sinh Tồn Trong Công Sở là cuốn sách hoàn hảo dành cho giám đốc điều hành, nhà quản lý cũng như đội ngũ nhân viên - những người muốn đạt được kĩ năng tạo ra môi trường làm việc hiệu quả, doanh thu tăng và có ảnh hưởng tích cực nơi công sở. Mời các bạn đón đọc 15 Kỹ Năng Sinh Tồn Trong Công Sở của tác giả Debra Fine.
Trí Tuệ Đám Đông: Vì Sao Đa Số Thông Minh Hơn Thiểu Số - James Surowiecki
Trí tuệ đám đông nhằm cungcấp cho bạn đọc cái nhìn đa chiều về một vấn đề rất lý thú, liên quan trực tiếp đến cách kiến giải sự vận hành thực sự của thế giới này, đó làTâm lý - Trí tuệ của tập thể. Trí tuệ đám đông đưa ra một giả thuyết đơn giản đến mức dễ gây lầm tưởng, thậm chí có phần kì quặc: Để đưa ra một quyết định đúng đắn hay giải quyết một vấn đề nào đó thì những đám đông luôn tỏ ra thông minh hơn một vài chuyên gia riêng lẻ. Đây là cuốn sách đưa ra một cách kiến giải hoàn toàn mới về sự vận hành thực sự của thế giới. Trí tuệ đám đông trình bày lịch sử của một ý niệm hàm chứa trong nó những bài học sâu sắc đối với việc điều hành kinh doanh, tổ chức xã hội, cơ cấu hệ thống chính trị, chống chủ nghĩa khủng bố và suy nghĩ về tương lai của chúng ta. Các nguyên tắc được James Surowiecki trình bày đa dạng và phong phú đến mức đáng ngạc nhiên: từ những hành vi trong kinh tế đến cơ chế hoạt động của loài ong và cả sự cập nhật trong lĩnh vực công nghệ thông tin. Những ví dụ được đưa ra trong cuốn sách đều rất sống động, bất ngờ và dí dỏm. Từ đó, Surowiecki rút ra những kết luận thông minh và gây sốc về xã hội, thị trường tự do, nghiên cứu khoa học, môi trường và thậm chí cả giá trị của hình thái chính phủ dân chủ. Trí tuệ đám đông chắc chắn sẽ hấp dẫn nhiều độc giả bởi James Surowiecki đã chỉ ra, theo một cách thức hoàn toàn mới, sự vận hành thực sự của thế giới này. Mời các bạn đón đọc Trí Tuệ Đám Đông: Vì Sao Đa Số Thông Minh Hơn Thiểu Số của tác giả James Surowiecki.