Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Việc Máu - Michael Connelly

Terry McCaleb không ở  đỉnh cao phong độ của một đặc vụ FBI dày dặn kinh nghiệm. Ông mới ngoài bốn mươi tuổi, lẽ ra vẫn còn có thể tiếp tục cày xới thế giới tội  ác ở Los Angeles, nhưng trái tim của ông đã  đầu hàng, ông phải thay tim và thấy trước mặt  mình một cuộc sống khác hẳn. Rồi người phụ nữ  đó xuất hiện, không hề báo trước, ngay tại nơi trú ẩn tuổi già của ông. Và McCaleb buộc phải gắng gượng tìm lại phong độ tưởng chừng đã vĩnh viễn mất đi, lần mò theo những lối  đi gian nan nhất của sa mạc và của trí tuệ, với một trái tim của người khác đập trong lồng ngực. Terry McCaleb và Graciela Torres bỗng chốc khám phá ra rất nhiều điều bí ẩn của các tội ác, cũng như bí ẩn trong mối quan hệ tình cảm con người. Michael Connelly ở độ chín của tài năng và phong cách, một cuốn tiểu thuyết trinh thám có nhịp điệu mạnh liên hồi, tàn khốc nhưng không mất đi sự mềm mại, nhân bản, thậm chí là lãng mạn. *** Michael Connelly sinh ngày 21.7.1956. Ông là một nhà văn, nhà báo Mỹ. Văn đàn thế giới coi M. Connelly là "ông hoàng trinh thám Mỹ", có lẽ bởi nhiều tác phẩm thuộc thể tài này của ông đã được dịch ra hơn 40 thứ tiếng và bản thân M. Connelly đã đoạt nhiều giải thưởng văn học quan trọng nhờ số truyện trinh thám mà ông đã viết. Người biết M. Connelly nói ông viết truyện trinh thám không phải do tình cờ, cũng chẳng phải do sự bồng bột, một "tình yêu sét đánh nào đó", mà là do ông có vốn sống giàu có về lĩnh vực điều tra tội phạm. Tất cả bắt đầu từ khi M. Connelly tốt nghiệp Đại học Florida năm 1980 và khởi đầu sự nghiệp bằng những bài viết trên tờ Daytona Beach News Journal về vấn đề tội phạm Mỹ, sau đó là viết cho tờ Fort Lauderdale News and Sun-Sentinel, cũng về lĩnh vực này. Những giải thưởng đầu tiên đến với M. Connelly vào năm 1985, khi bài phỏng vấn những nạn nhân còn sống sót sau vụ rớt máy bay Delta Flight 191 của ông lọt vào danh sách đề cử giải Pulitzer - giải thưởng báo chí danh giá bậc nhất dành cho một nhà báo. Hai năm sau, chuyển đến sống tại California, M. Connelly cho ra đời tác phẩm trinh thám đầu tay của mình và gần như ngay sau đó, cuốn The Black Echo được xuất bản và đoạt giải Edgar Award năm 1992. *** McCaleb thấy nàng trước khi nàng thấy ông. Ông đang bước xuống ụ tàu chính, băng qua dãy thuyền của cánh nhà binh thì nhìn thấy người đàn bà đứng trên mũi chiếc Biển Theo Ta. Lúc đó là mười rưỡi sáng một ngày thứ Bảy, tiếng thì thầm ấm áp của mùa xuân khiến nhiều người rời khỏi nhà kéo đến các ụ tàu ở San Pedro. McCaleb đang sắp hoàn tất cuộc đi dạo vào mỗi sáng - đi trọn một vòng quanh Cabrillo Marina, dọc theo đê chắn sóng xây bằng đá rồi quay về. Đến đoạn này thì ông đã mệt bở hơi tai, nhưng ông bước còn chậm rì hơn khi tiến lại gần thuyền. Ý nghĩ đầu tiên của ông là bực bội - người phụ nữ đó đã lên thuyền ông mà không đợi ai mời. Nhưng khi đến gần hơn, ông gạt ý nghĩ đó qua bên mà tự hỏi nàng ta là ai, nàng muốn cái gì. Nàng không mặc quần áo dùng để đi thuyền. Nàng mặc bộ đầm mùa hè suông nhẹ dài tới giữa đùi. Làn gió nổi lên từ mặt nước cứ chực tốc váy nàng khiến nàng phải ép một tay vào hông để giữ yên. McCaleb không thấy hai bàn chân nàng, nhưng qua đường nét cơ bắp săn chắc ông nhìn thấy nơi đôi chân rám nắng của nàng, ông đoán nàng không mang giày dùng để đi thuyền. Nàng nhón gót lên. McCaleb lập tức hiểu ra, nàng đứng đây nhằm để gây ấn tượng với ai đó. McCaleb thì ăn mặc sao cho chẳng gây ấn tượng gì. Ông mang chiếc quần jeans cũ rách te tua vì mặc quá lâu chứ không phải để làm dáng, áo phông mặc từ hồi dự giải Catalina Gold Cup tận mấy mùa hè trước. Quần áo lấm bê lấm bết, chủ yếu là máu cá, đôi phần là máu của chính ông, axit hydrochloric, nhựa poliuretan và dầu máy. Bộ đồ này ông thường mặc để đánh cá nhưng cũng mặc cả khi sửa máy. Cuối tuần này ông định sẽ sửa máy trên thuyền nên ông đang mặc bộ đồ phù hợp. Ông bắt đầu có ý thức hơn về ngoại hình mình trong khi lại gần thuyền và thấy người đàn bà rõ hơn. Ông rút hai miếng mút của máy nghe nhạc ra khỏi tai rồi tắt CD giữa lúc bài “I Ain’t Superstitious” qua giọng Howlin’ Wolf đang phát nửa chừng. “Tôi giúp gì được cho cô?” ông hỏi trước khi bước xuống thuyền của mình. Giọng ông dường như khiến nàng giật mình, đang đứng nơi cánh cửa trượt dẫn vào buồng khách của thuyền nàng liền quay phắt lại. McCaleb đồ rằng nàng gõ lên mặt kính vì cứ nghĩ ông đang ở trong đó. “Tôi tìm Terrell McCaleb.” Nàng là một phụ nữ hấp dẫn ngoài ba mươi đôi chút, trẻ hơn McCaleb tròn chục tuổi hay hơn. Trông nàng quen quen, nhưng ông không nhớ ra ai. Chỉ là ngờ ngợ như quen, thật ra chưa chắc đã phải. Đồng thời ông lại thấy dường như ký ức mình bị đánh động khiến cho ông nhận ra, nhưng rồi điều đó qua nhanh và ông biết mình lầm, ông không quen biết người đàn bà này. Ông thường nhớ được mặt người ta. Mà cô nàng này thì mặt đủ xinh để ông không quên được. Nàng phát âm sai tên ông, đáng lẽ Mác-cây-lép thì nàng nói Mác-ca-lớp, rồi thì nàng lại dùng tên ghi trên giấy tờ của ông, cái tên chẳng ai dùng trừ cánh báo chí. Chính khi đó ông bắt đầu hiểu. Giờ thì ông biết điều gì đã đưa nàng tới con thuyền. Lại một linh hồn lạc lõng đến nhầm nơi phải đến. “McCaleb,” ông chữa lại. “Terry McCaleb.” “Xin lỗi. Tôi, ờ, tôi cứ nghĩ ông đang ở trong thuyền. Tôi không biết nếu bước lên thuyền mà gõ cửa thì có được không.” “Thì cô vẫn làm đó thôi.” Nàng lờ đi lời trách mà nói tiếp. Cứ như thể những điều nàng đang làm và những gì nàng phải nói, nàng đã phải tập đi tập lại nhiều lần. “Tôi cần nói chuyện với ông.” “Ồ, hiện giờ tôi hơi bận.” Ông chỉ tay về phía cánh cửa dẫn xuống hầm thuyền vẫn đang mở toang, may phước là cô nàng chưa lọt xuống, chỉ tay vào đống đồ nghề ông đã trút ra trên một tấm vải màn cạnh cửa sổ đuôi tàu. “Tôi đi loanh quanh tìm cái thuyền này gần cả tiếng rồi,” nàng nói. “Không lâu đâu mà. Tên tôi là Graciela Rivers, tôi chỉ muốn...” “Này, cô Rivers,” ông nói, giơ hai tay lên ngăn lại. “Thực sự là tôi... Cô đọc được về tôi trên báo có đúng không?” Nàng gật. “Thôi được, trước khi cô bắt đầu chuyện của cô, tôi phải nói với cô rằng cô không phải người đầu tiên tới đây tìm tôi hay kiếm số phôn của tôi mà gọi tôi. Và với tất cả những người khác tôi nói gì thì với cô tôi cũng nói thế thôi. Tôi không phải đang tìm việc. Thành thử nếu chuyện là cô muốn thuê tôi hay nhờ tôi giúp cách này cách nọ thì rất tiếc, tôi không làm được. Tôi không phải đang tìm loại việc ấy.” Nàng chẳng nói gì và ông cảm thấy lòng xốn xang cảm thông với nàng, cũng như ông từng cảm thấy với những người khác tới tìm ông trước nàng. “Này, tôi có biết vài ba điều tra viên tư, tôi có thể giới thiệu họ với cô. Hội này giỏi đấy, làm ăn chăm chỉ, họ không lừa cô đâu.” Ông bước lên mép đuôi thuyền, nhặt chiếc kính râm ông quên mang theo khi đi bộ, đeo vào, ra hiệu rằng cuộc nói chuyện thế là dứt. Nhưng cử chỉ và lời lẽ của ông cứ như nước đổ lá khoai đối với nàng ta. “Bài báo nói ông tốt bụng. Nói rằng bất cứ khi nào có kẻ chuồn được là ông ghét cay ghét đắng.” Ông thọc tay vào túi quần, nhún vai. “Cô phải nhớ một điều. Không bao giờ chỉ mình tôi cả. Tôi có người cộng tác, tôi có đội xét nghiệm, tôi có cả Cục ở sau lưng hỗ trợ tôi. Khác xa cái kiểu anh chàng đơn thân độc mã làm gì cũng lầm lũi một mình. Khác nhiều lắm. Dù có muốn, e tôi cũng không giúp cô được.” Nàng gật đầu nên ông đinh ninh đã làm nàng ta thấu hiểu rồi, và với cô này tới đây là hết chuyện. Ông bắt đầu nghĩ tới cái van trên một trong các động cơ thuyền mà ông đang thao tác dở, ông định sẽ làm cho xong nội cuối tuần này. Nhưng ông đã lầm về nàng. “Tôi nghĩ ông có thể giúp tôi,” nàng nói. “Có khi còn giúp chính ông nữa.” “Tôi không cần tiền. Tôi kiếm đủ.” “Tôi không nói chuyện tiền nong.” Ông nhìn nàng trong khoảng một nhịp tim trước khi đáp. “Tôi không biết cô nói thế là ý gì,” ông nói, cố tình tỏ ra cáu kỉnh. “Nhưng tôi không giúp cô được. Tôi không còn phù hiệu, mà cũng chả phải là điều tra viên tư. Tôi mà làm việc như điều tra viên tư hoặc nhận tiền mà không có giấy phép của nhà nước thì sẽ là bất hợp pháp đấy. Nếu đã đọc bài báo thì ắt cô biết chuyện gì đã xảy ra với tôi. Thậm chí tôi còn không được lái xe nữa kìa.” Ông trỏ xuống bãi đỗ xe bên ngoài dãy ụ tàu và cầu tàu. “Cô thấy cái xe trùm kín mít như quà Giáng sinh kia không? Xe tôi đó. Nó sẽ còn nằm đó chừng nào tôi chưa được bác sĩ chuẩn y cho lái xe lại. Đến nước này thì tôi còn là cái thứ điều tra viên nào nữa chứ? Đến mà phải đi xe buýt suốt.” Nàng lờ đi lời phản đối của ông, chỉ nhìn ông với vẻ kiên quyết khiến ông lúng túng. Ông chẳng biết làm cách nào điệu nàng ta đi khỏi thuyền ông được đây. “Để tôi đi lấy tên mấy người kia cho cô.” Ông đi vòng qua nàng rồi đẩy cánh cửa trượt của phòng khách ra. Vào trong rồi, ông đóng chặt cửa sau lưng mình. Ông cần sự ngăn cách. Ông đi tới chỗ mấy ngăn kéo dưới bàn vẽ hải đồ, bắt tay tìm cuốn danh bạ điện thoại. Đã quá lâu không cần tới nên bây giờ ông chẳng biết nó nằm ở đâu nữa. Ông liếc ra ngoài qua cánh cửa, quan sát cô nàng bước tới chỗ đuôi tàu, tựa hông vào ô cửa sổ nhỏ trong khi chờ đợi. Trên mặt kính cửa có lớp màng phản chiếu. Nàng không thể thấy ông đang quan sát nàng. Cảm giác quen quen lại xâm chiếm tâm trí ông và ông cố nhớ ra xem mình đã gặp khuôn mặt này ở đâu. Ông thấy nàng thật nổi bật. Đôi mắt hình quả hạnh sẫm màu vừa có vẻ u sầu lại vừa có vẻ thấu hiểu điều bí mật nào đấy. Ông biết giá như ông từng gặp nàng hay thậm chí chỉ từng quan sát nàng trước đây thì hẳn ông sẽ dễ dàng nhớ ra nàng. Nhưng ông chẳng nhớ được gì cả. Mắt ông bất giác chuyển sang hai bàn tay nàng, tìm xem có chiếc nhẫn nào không. Không có. Về chuyện giày dép của nàng thì ông đoán đúng. Nàng mang xăng đan có gót làm bằng bần, cao năm phân. Móng chân nàng sơn màu hồng, nổi bật trên làn da màu nâu mềm mại. Ông tự hỏi có phải lúc nào nàng cũng trông thế này không, hay nàng ăn mặc thế chỉ để nhử ông nhận làm cho nàng. Ông tìm ra cuốn danh bạ điện thoại trong ngăn kéo thứ hai, liền nhanh chóng tìm mấy cái tên Jack Lavelle và Tom Kimball. Ông ghi lại tên và số điện thoại của họ vào một tờ rơi quảng cáo cũ của hãng dịch vụ tàu biển rồi mở cánh cửa trượt. Nàng đang mở ví trong khi ông ra khỏi buồng khách. Ông chìa tờ giấy cho nàng. “Đây là tên hai người. Lavelle là thám tử Los Angeles đã nghỉ hưu còn Kimball hồi trước làm ở FBI. Tôi từng làm việc với cả hai, người nào cũng có thể làm việc tốt cho cô. Chọn một người mà gọi. Nhớ bảo anh ta rằng cô có được tên anh ta là nhờ tôi. Anh ta sẽ lo cho cô.” Nàng không nhận mấy cái tên từ tay ông. Thay vì vậy nàng rút một tấm ảnh ra khỏi ví chìa cho ông. McCaleb cầm lấy không nghĩ ngợi gì. Ông nhận ra ngay đó là một sai lầm. Trong tay ông là bức ảnh một phụ nữ mỉm cười ngắm một đứa bé trai đang thổi tắt nến trên cái bánh sinh nhật. McCaleb đếm được bảy ngọn nến. Đầu tiên ông nghĩ đó là ảnh của Graciela hồi trẻ hơn bây giờ vài tuổi. Nhưng rồi ông nhận ra không phải là nàng. Người phụ nữ trong ảnh mặt tròn hơn, môi mỏng hơn. Cô ta không đẹp như Graciela Rivers. Tuy cả hai đều có mắt màu nâu sẫm, nhưng mắt người phụ nữ trong ảnh không có cái vẻ mãnh liệt như mắt người đàn bà đang quan sát ông lúc này. “Em gái cô à?” “Phải. Và con của nó.” “Người nào?” “Sao cơ?” “Người nào chết?” Câu hỏi đó là sai lầm thứ hai của ông, làm trầm trọng thêm sai lầm thứ nhất bởi nó lôi ông dấn vào sâu hơn nữa. Ngay lúc hỏi, ông đã biết rằng đáng lẽ ra ông nên khăng khăng đòi nàng ta nhận lấy họ tên hai thám tử tư kia rồi chấm dứt mọi chuyện ở đây. “Em tôi. Gloria Torres. Cả nhà tôi gọi nó là Glory. Đây là Raymond, con của nó.” Ông gật đầu rồi đưa trả bức hình nhưng nàng không nhận. Ông biết nàng muốn ông hỏi chuyện gì đã xảy ra, nhưng cuối cùng ông kịp kìm lại. “Nào, thế này chả ích gì đâu,” rốt cuộc ông nói. “Tôi biết cô đang làm gì rồi. Chả ích với tôi đâu.” “Ý ông là ông không hề có lòng thông cảm phải không?” Ông ngần ngừ trong khi cơn giận sôi lên trong họng. “Tôi có lòng thông cảm. Cô đã đọc bài báo, cô biết chuyện gì đã xảy ra với tôi. Xưa nay tôi gặp rắc rối gì cũng đều do thông cảm mà ra cả.” Ông nuốt khan và cố gột sạch mọi cảm xúc khó chịu. Ông biết cô nàng này đang bị nỗi thất vọng khủng khiếp làm cho héo hon tiều tụy. McCaleb từng biết hàng trăm người như nàng. Những người thân yêu bị tước đi khỏi họ chẳng vì lý do nào hết. Không bắt bớ, không buộc tội, không phá án. Một vài người trong số đó chỉ còn như cái thây sống, đời họ bị thay đổi vô phương cứu chữa. Những linh hồn lạc lõng. Graciela Rivers giờ đây là một người như thế. Chắc chắn nàng là thế, không thì nàng đã chẳng tìm mọi cách lùng ra tung tích của ông. Ông biết, dù nàng nói gì với ông hoặc dù ông có tức giận đến mấy, nàng cũng không đáng phải hứng chịu thêm những cơn thất vọng của chính ông. “Thôi nào,” ông nói. “Tôi không làm được đâu mà. Tôi rất tiếc.” Ông đặt một tay lên tay nàng để đưa nàng trở lại bậc lên xuống thuyền. Da nàng ấm. Ông cảm nhận được bắp cơ khỏe mạnh dưới sự mềm mại đó. Ông lại đưa nàng tấm ảnh, nhưng nàng vẫn từ chối không chịu cầm. “Xem lại đi. Xin ông làm ơn. Chỉ thêm một lần thôi, rồi tôi sẽ để ông yên. Nói cho tôi biết liệu ông có cảm thấy gì khác không?” Ông vừa lắc đầu vừa phác một cử chỉ yếu ớt bằng bàn tay như muốn nói đằng nào thì cũng vậy thôi. “Tôi là cựu nhân viên FBI chứ không phải nhà ngoại cảm.” Nhưng ông vẫn làm ra vẻ giơ tấm ảnh lên nhìn. Người phụ nữ và chú bé xem chừng hạnh phúc. Là tiệc sinh nhật mà. Bảy ngọn nến. McCaleb nhớ rằng hồi ông bảy tuổi cha mẹ ông còn ở với nhau. Nhưng sau đấy thì không ở với nhau lâu nữa. Mắt ông bị hút vào đứa bé nhiều hơn vào người phụ nữ. Ông tự hỏi bây giờ không có mẹ thì thằng nhỏ sống ra sao. “Tôi xin lỗi, cô Rivers ạ. Thực sự là tôi rất tiếc. Nhưng tôi chẳng làm gì được cho cô hết. Cô có muốn lấy ảnh này lại không?” “Tôi có hai cái. Ông biết đấy, rửa một tặng một mà. Tôi tưởng ông sẽ giữ lại một cái.” Lần đầu tiên ông cảm thấy có cái gì đó ngầm ẩn trong dòng cảm xúc. Có cái gì đó hệ trọng nữa đây, nhưng ông không biết là gì. Ông nhìn kỹ cô Graciela Rivers và có cảm tưởng rằng nếu dấn thêm một bước, hỏi cái câu hỏi thật hiển nhiên, ông sẽ bị cuốn hẳn vào. Ông không kìm được. “Sao tôi lại muốn giữ tấm ảnh dù tôi sẽ không thể giúp cô được?” Nàng mỉm cười một cách buồn bã thế nào đó. “Bởi nó là người đàn bà đã cứu mạng ông. Thỉnh thoảng tôi lại nghĩ, hẳn ông cần tự nhắc mình nhớ cô ta trông thế nào, cô ta là ai.” Ông nhìn nàng chằm chằm một hồi lâu nhưng thật ra ông không nhìn Graciela Rivers. Ông đang nhìn vào bên trong mình, lục lọi trong ký ức và hiểu biết của mình điều nàng vừa nói, nhưng vẫn không hiểu được ý nghĩa của nó. “Cô nói cái gì vậy?” Ông chỉ hỏi được có thế. Ông có cảm giác quyền kiểm soát cuộc nói chuyện và mọi thứ khác đều đang tuột khỏi ông mà trượt qua boong tàu về phía nàng. Cái dòng chảy ngầm kia đã tóm được ông. Nó đang đưa ông đi. Nàng giơ tay lên, nhưng rướn tay qua bức ảnh ông vẫn đang chìa ra cho nàng. Nàng đặt lòng bàn tay lên ngực ông, miết tay dọc xuống ngực áo ông, mấy ngón tay nàng lần theo vết sẹo giống như đoạn thừng dày cộm sau lần áo. Ông để yên cho nàng làm vậy. Ông đứng như hóa đá mà để nàng làm vậy. “Trái tim ông,” nàng nói. “Nó từng là của em tôi. Nó là người đã cứu mạng ông.” ... Mời các bạn đón đọc ​Việc Máu của tác giả Michael Connelly.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Strawberry Night - Dâu Đêm Đoạt Mệnh - Honda Tetsuya
“Thử nghĩ mà xem, con người ở thế giới hiện đại được sinh ra trong bệnh viện, và cũng trút hơi thở cuối cùng tại đó. Họ chưa từng cảm nhận được thế nào là một ‘Cái chết’ thật sự cả. Chắc chắn ai cũng muốn cảm nhận được nó. Muốn tận mắt nhìn thấy nó. Vì vậy tôi đã cho họ thấy ‘Cái chết’ thật sự, và ‘Sự sống’ - thái cực tương phản của nó - quý giá đến nhường nào.” Strawberry Night - Dâu đêm đoạt mệnh, tác phẩm trinh thám xuất sắc năm 2007 của nhà văn Honda Tetsuya, xoay quanh hành trình phá án của nữ trợ lý thanh tra Himekawa Reiko và các cộng sự để tìm ra bí ẩn chuỗi án mạng liên hoàn. Bắt đầu từ xác chết kỳ lạ bị bỏ lại trên lùm cây ven hồ, tổ trọng án đã phát hiện ra hàng loạt những vụ án kinh hoàng khác. Những chuỗi án mạng liên tiếp, những nạn nhân bị sát hại dã man và không hề có mối liên hệ nào với nhau... khiến vụ án càng ngày càng đi vào ngõ cụt. Nhưng bằng những suy luận sắc bén, Reiko dần gỡ được những nút thắt và tìm được manh mối quan trọng. Tưởng như bí mật của kỳ án Dâu đêm đã dần được hé lộ thì một lần nữa quá trình phá án lại lâm vào bế tắc khi mọi chứng cứ lại đột ngột biến mất. Khi màn đêm buông xuống, cũng là lúc thảm kịch xảy ra và cũng chính trong màn đêm bí ẩn, đầy ma mị ấy, cánh cửa sự thật lại hé mở. Hàng loạt những bí mật kinh hoàng dần lộ diện. Các nạn nhân đã bị sát hại như thế nào? Ai mới là kẻ chủ mưu đứng đằng sau toàn bộ vụ việc? Phải chăng cái chết chẳng qua cũng chỉ là một trò đùa cợt sau cùng của sự sống? Những ám ảnh của thanh xuân, những nỗi đau đớn và mất mát trong hiện tại, những màn phá án xuất thần cùng những pha rượt đuổi hồi hộp đến nghẹt thở... tất cả đã được khéo léo lồng ghép trong Strawberry Night – Dâu đêm đoạt mệnh tạo nên một câu chuyện gay cấn, giàu kịch tính, thấm đẫm nước mắt, đồng thời hé lộ những góc khuất của số phận. Sự thiếu thốn tình yêu thương trong gia đình cũng như những nhận thức méo mó về giá trị của cuộc sống đã dẫn đến những hệ quả đau lòng. Hóa ra lằn ranh giữa Sự sống – Cái chết, Thiện - Ác, Xấu - Tốt, Can đảm - Hèn nhát... đôi khi lại quá mong manh, dễ vỡ, chỉ cần trong gang tấc cũng có thể biến một con người bình thường trở thành Ác quỷ. *** Cơn mưa rả ríc nhuộm cả thế giới trong 1 màu xám xịt. Cũng không phải, tôi có thể nhận ra màu sắc lướt qua trước mắt mình, như là nàu xanh lá của chiếc xe taxi vừa chạy qua làm các vệt bùn bắn lên tung tóe hay màu cam sặc sỡ trên tay các bé học sinh tiểu học bước ra từ các con hẻm, và màu đỏ của những chiếc cặp trên vai chúng nữa. Nếu nhìn kĩ bộ đồng phục trên người tôi sẽ nhân ra được màu xanh đậm của chiếc áo khoác ướt đẫm giờ đã hầu như chuyển thành màu đen. Dù biết là vậy nhưng trái tim tôi lại không cảm nhận được bất cứ màu sắc nào. Tầm nhìn xám xịt. Nhưng không giống như cảm giác của tấm hình đen trắng mang lại. Ở đây không hề có hương vị quen thuộc, chiều sâu hay một chút hiện thực nào như thế. Nói đúng hơn nó chỉ là một bức tranh thủy mặc xấu xí được người ta thể hiện bằng sư đậm nhạt. Ngay cả phần lề trắng cũng nhuốm màu mực tối. Thế giới mà tôi đang sống chính là thế giới màu xám như vậy. Một căn nhà ẩm thấp tối tăm nằm trong khu dân cư cũ. Cửa không khóa. Tôi bước và hành lang tối om, không buồn cất một lời chào. Ngay lập tức một mùi hôi hám bám chạt lấy người tôi. Không phải do tôi tưởng tượng, căn nhf đang bốc mùi thực sự. Mùi xú uế nồng nặc như mùi hôi súc vật. Bầu không khí ngột ngạt kín như bưng. Tương, sàn trần nhà đầy rêu mốc. Sống ở một ngôi nhà thế này thể nào cũng bị mất khứ giác, thế mà, thật bất hạnh thay, cái mũi tôi vẫn có thể cảm nhận được một cách đầy đủ sự khó chịu đó làm cả lồng ngục tôi trở nên hôi hám. -Về rồi à... ... Mời các bạn đón đọc Strawberry Night-Dâu Đêm Đoạt Mệnh của tác giả Honda Tetsuya.
Ôi Đàn Bà - James Hadley Chase
James Hadley Chase là bút danh của tác giả người Anh - Rene Brabazon Raymond (24/12/1906 – 6/2/1985), người cũng đã viết dưới tên James L. Docherty, Ambrose Grant và Raymond Marshall. Ông sinh ra ở Luân Đôn, là con của một đại tá người Anh phục vụ trong quân đội thuộc địa Ấn Độ, người dự định cho con trai mình có một sự nghiệp khoa học, bước đầu đã cho học tại trường học Hoàng gia, Rochester, Kent và sau đó học ở Calcutta. Ông rời gia đình ở tuổi 18 và làm nhiều công việc khác nhau, một nhà môi giới trong nhà sách, nhân viên bán sách bách khoa toàn thư của trẻ em, người bán sách sỉ trước khi tập trung vào sự nghiệp viết lách với hơn 80 cuốn sách trinh thám. Năm 1933, ông đã cưới Chase Sylvia Ray và có một con trai. Trong Thế chiến II, ông phục vụ trong Không quân Hoàng gia, cuối cùng đạt được thứ hạng lãnh đạo Đội tàu chiến. Chase đã biên tập Tạp chí Không quân Hoàng gia cùng với David Langdon với nhiều câu chuyện, nó được phát hành sau chiến tranh trong cuốn sách Slipstream. Chase chuyển đến Pháp năm 1956 và sau đó đến Thụy Sĩ vào năm 1961, sống một cuộc sống ẩn dật ở Corseaux-Sur-Vevey, phía bắc của hồ Geneva, từ năm 1974. Ông qua đời yên bình vào ngày 6/2/1985. *** Các tác phẩm của James H. Chase đã được xuất bản tại Việt Nam: Tỉa Dần Cái Chết Từ Trên Trời Cả Thế Gian Trong Túi Ôi Đàn Bà Cạm Bẫy Gã Hippi Trên Đường Hứng Trọn 12 Viên Đam Mê và Thu Hận Tệ Đến Thế Là Cùng Mười Hai Người Hoa và Một Cô Gái Buổi Hẹn Cuối Cùng Trở Về Từ Cõi Chết Thằng Khùng Không Nơi Ẩn Nấp Đồng Tiền và Cạm Bẫy Lại Thêm Một Cú Đấm Đặt Nàng Lên Tấm Thảm Hoa Cành Lan Trong Gió Bão Những Xác Chết Chiếc Áo Khoác Ghê Tởm Món Quà Bí Ẩn Âm Mưu Hoàn Hảo Cướp Sòng Bạc Cạm Bẫy Dành Cho Johnny Những Xác Chết Câm Lặng Em Không Thể Sống Cô Đơn Thà Anh Sống Cô Đơn Buổi Hẹn Cuối Cùng Mùi Vàng Phu Nhân Tỉ Phú Giêm Tình Nhân Gã Vệ Sĩ Dấu Vết Kẻ Sát Nhân Trong Bàn Tay Mafia Này Cô Em Vòng Tay Ác Quỷ Thiên Đường của Vũ Nữ Châu Dã Tràng Xe Cát .... Mời các bạn đón đọc Ôi Đàn Bà của tác giả James Hadley Chase.
Bản Thông Báo Tử Vong: Sự Trừng Phạt - Chu Hạo Huy
Vị bác sĩ chuyên khao Thận của bệnh viện Nhân Dân - Lý Tuần Tùng mất tích, ông bị cắt một một ngón tay cái bên bàn tay phải và kẻ bắt cóc đòi tiền chuộc bằng kim cương trị giá mọt triệu nhân dân tệ. Mặc dù cảnh sát đã bủa vây thiên la địa võng, nhưng số kim cương vẫn biến mất còn Lý Tuấn Tùng thì mất mạng.  Đội cảnh sát hình sự dốc toàn lực quyết tâm phá an, bao nhiêu manh mối tìm được lại lần lượt bị cắt đứt, các nhân vật liên quan đến lý Tuấn Tùng đều được điều tra tỉ mỉ, nhưng cái chết của bác sĩ Lý vẫn là một ẩn số.  Liệu La Phi - đội trưởng đội cảnh sát hình sự có nhìn được ra điểm mù vốn được dàn dựng công phu chặt chẽ để phá án thành công hay không? Và rột cuộc , ai là kẻ đã sát hại Lý Tuấn Tùng? Liệu tất cả những kẻ có tọi đều bị trừng phạt *** Ngày 30 tháng 10 " sao không kéo rèm cửa sổ ra? tối om om thế." Vừa bước vào phòng, Dư Tĩnh đã kêu toáng lên. Cô chạy thẳng đến bên cửa sổ, kéo toang rèm ra, ánh nắng chiều rực rỡ tràn vào khiến vẻ âm u nặng nề của bầu không khí trong căn phòng hoàn toàn thay đổi. Mấy anh chàng đang ngồi trong phòng đều không nói gì, xem ra họ đã quen với lối hành động theo ý mình của Dư Tĩnh. Cô gái vùng phương nam trông nhẹ nhàng đằm thắm này lại có tính cách thẳng thắn bộc trực như người phương Bắc. Đợi cô gái ngồi vào bàn họp, một cậu thanh niên đeo kính bên cạnh mới nhắc: Lát nữa phải bật máy chiếu đấy, sáng quá sẽ không nhìn rõ được." "Đợi đến lúc bật máy lên rồi tính". Dư Tĩnh đáp lời rồi nhìn cậu thanh niên hỏi "Sư huynh, anh ngửi xem trên người em có mùi không?" Cậu thanh niên đeo kính trên ghế sát lại ngửi, sau đó nói to xuýt xoa, vẻ mặt ngây ngất: " thơm quá" Tất cả mọi người trong phòng đều cười theo. " Đáng ghét!" Dư Tĩnh giơ nắm tay thon lên đấm một nhát vào đối phương, lại hỏi lần nữa: " Nói thật đấy trên người em có mùi của người chết không?" "Mùi người chết gì? Đấy là mùi formalin." Cậu thanh niên đeo kính sửa lời và vặn lại, "Cái mùi này thì trên người bọn mình ai mà không có hả?" Dư Tĩnh chau mày nhấn mạnh: "Em khác các anh." Cậu thanh niên đeo kính hiểu ra điều gì đó, cậu nhìn cô bằng ánh mắt thông cảm:"Mấy hôm nay em mệt lắm hả?" "Chứ còn gì nữa? Vùi trong đống người chết." Dư Tĩnh nhe răng cười ngao ngán, "Con gái mà bị phân vào khoa Bệnh lý, anh bảo có phải là bi thảm nhất thế giới không cơ chứ?" "Đừng kêu ca nữa, chẳng phải là tự em chuốc lấy còn gì?" Một anh chàng khác ngồi phía đối diện khuyên bảo, "Cô chịu đi. Thường cũng chỉ hai ba tháng thôi, qua được là ổn cả thôi." Cậu thanh niên vừa nói dứt lời thì ngoài hành lang vang lên tiếng gót giày nện xuống mặt sàn. Mọi người trong phòng như thể bất được tín hiệu gì đó, lập tức trở nên im lặng, không dám nói thêm lời nào. Giây lát sau một bóng người bước vào phòng, tất cả sinh viên nam nữ đều đứng lên, kính cẩn chào: "chúng em chào cô Trang" Giáo viên là một người phụ nữ có khí chất đặc biệt, dáng người cao ráo, gương mặt đoan trang. Sau khi vào phòng, bà liền ngồi vào vị trí đầu bàn họp, đồng thời quay đầu nhìn về phía cửa sổ, ánh nắng chiếu thẳng vào khiến bà hơi nhíu mày. Dư Tĩnh ở gần đó hiểu ý, vội ra cửa sổ kéo rèm lại rồi ngồi vào cùng các sinh viên khác. Cô Trang đặt một tập tài liệu và điện thoại di động lên bàn họp, sau đó nói ngắn gọn: "Bắt đầu đi" Thứ tự báo cáo đã được xếp lịch sẵn từ trước. Cậu thanh niên đeo kính khi nãy báo cáo đầu tiên, cậu điều khiển máy chiếu mở file ppt đã chuẩn bị, slide đầu tiên hiện ra tên của cậu: Dương Triết. Trong quá trình Dương Triết báo cáo không khí trong phòng họp vô cùng yên lăng, chỉ có chiếc điện thoại của di động của cô Trang vang lên một tiếng giữa chừng. Có điều bà không hề xem ngay. Khoảng mười phút sau, phần báo cáo của Dương Triết kết thúc. Cô giáo Trang lập tức đưa ra lời nhận xét, đám sinh viên của bà vừa nghe vừa chăm chỉ ghi chép. Cuối cùng cô nói "Được rồi". Dương Triết liền thở phào nhẹ nhõm như trút được gánh nặng. Cô giáo Trang nhớ ra hình như điện thoại có tin nhắn liền mở ra xem, sau đó phân công Dương Triết :" Tôi có một gói bưu phẩm ở trạm chuyển nhận, cậu đi lấy giúp tôi." Dương Triết cầm chứng minh thư của cô giáo Trang rời phòng họp đi lấy bưu phẩm chuyển phát nhanh. Khi quay lại phòng họp cậu thấy sinh viên báo cáo thứ hai đang cúi đầu nghe cô giáo Trang phê bình. Dương Triết có chút đắc ý, nhưng không thể hiện ra mặt, chỉ lặng lẽ đặt hộp bưu phẩm chuyển phát nhanh vừa lấy về và chứng minh thư trước mặt cô giáo rồi ngồi vào chỗ của mình. Cô giáo Trang cầm chiếc hộp giấy lên xem. Trên chiếc hộp đó dán đầy băng dính, không thể mở ngay ra được. Bà cầm chiếc hộp rời khỏi phòng họp, một lúc sau đã thấy quay lại ngay, trên thay cầm theo một con dao dọc giấy. Vì thời gian có hạn, bà không trao đổi tiếp với sinh viên trước đó nữa. " Chúng ta đừng làm mất thời gian của mọi người vấn đề của bạn hết buổi tôi sẽ tiếp tục trao đổi riêng với bạn." Cô giáo Trang nghiêm khắc nói với cậu sinh viên sau đó bà quay về phía cô gái duy nhất trong phòng họp " Dư Tĩnh, em bắt đầu đi." Dư Tĩnh căng thẳng nuốt nước bọt, mở file ppt. Cô giáo Trang vừa nghe Dư Tĩnh trình bày, vừa bắt đầu dùng chiếc dao nhỏ cắt băng dính trên chiếc hộp giấy. Dư Tĩnh vừa nói vừa liếc nhìn cô giáo Trang, có vẻ không tư tin về bài báo cáo của mình. Và tình hình có vẻ đúng như cô lo lắng, vẻ mặt của cô giáo Trang mỗi lúc một năng nề hơn. Dư Tĩnh lại càng phấp phỏng bất an, giọng nói cũng bắt đầu run. Cuối cùng cô giáo Trang giơ tay chặn lại: "Em đừng nói nữa" Dư Tĩnh nín thở, luống cuống không biết làm gì. Cô cúi đầu chờ đợi trận phong ba bão táp sắp sửa giáng xuống. Nhưng cô giáo Trang không nói gì thêm nữa. Giây lát sau, Dư Tĩnh ngẩng đầu quan sát phản ứng của cô giáo Trang, cô thấy sắc mặt cô tái nhợt, mặt cắt không còn giọt máu. Trong ấn tượng của Dư Tĩnh cô chưa bao giờ thấy sắc thái như vậy trên gương mặt người phụ nữ này, cô biết chắc chắn mình không phải nguyên nhân khiến sắc mặt bà trở nên như vậy. Lúc này, đối tượng mà bà đang chăm chú lại là chiếc hộp chuyển phát nhanh vừa được mở ra ... Mời các bạn đón đọc Bản Thông Báo Tử Vong Ngoại truyện: Sự Trừng Phạt của tác giả Chu Hạo Huy.
Vị Bá Tước Thứ Năm Của Giòng Họ Hauberk - Aldous Leonard Huxley
Aldous Leonard Huxley sinh năm 1894 trong một gia đình nhiều đời làm công tác khoa học: ông nội và bố là những nhà sinh học lớn của nước Anh. "Tuổi trẻ thất trận" (The Defaith of Youth - 1918) mở đầu sáng tác của ông, cũng là mở đầu cho "Thế kỷ đen" ở Anh. Loạt sáng tác kế tiếp trong nhiều năm vẫn nằm trong dòng tư tưởng bi quan: liệu những người tự cho là có trách nhiệm bảo vệ giá trị tinh thần và vật chất của loài người, họ có làm tròn nhiệm vụ không, hay ngược lại họ đang phá hỏng cái gia tài chung ấy? Ông không tin ở những món quà thế kỷ 20 mang tới. "Vàng mạ kền" (Crome Yellow - 1921) "Phản bác" (Point Counter Point -1928): những bức tranh châm biếm cái xã hội tứ chiếng, phè phỡn của châu Ảu những năm 20. "Thế giới mới dũng cảm" (Brave New World - 1932) chỉ giễu tham vọng Mỹ hóa thế giới của các trùm tài phiệt và trùm văn hóa Mỹ. "Bình yên dưới đáy sâu" (1945) phê phán nếp sống gấp... (Jouvence - tên tác phẩm của tập này) ra đời năm 1954. Bằng nhận thức sắc sảo, trí tuệ Aldous Huxley nhìn ra cái thế giới của Con Bò Vàng, ông mất năm 1963 ở California - Mỹ. *** Tại vùng ngoại ô một thành phố miền Nam California, có một tòa lâu đài kỳ dị, cao đến 24 tầng, xây dựng trên đỉnh đồi. Bao quanh khu nhà là hai lớp tường, rồi một hào nước sâu, ra vào bằng một cái cầu treo kiểu trung cổ. Đó là trụ sở một siêu công ty kinh doanh từ xăng dầu, hầm mỏ, ngân hàng tới nghĩa trang, mồ mả. Tòa nhà có đủ cơ quan và phương tiện tối tân, có cả nhà thương làm phúc cho trẻ, thảo cầm viên, một viện nghiên cứu khoa học với các chuyên viên cực giỏi. Phần trên dành riêng cho chủ nhàn và cô nhân tình với một bể bơi hiện đại cách một đất trên 200 mét. Nơi đây đã xảy ra một vụ án tình, kẻ giết người chính là Stoyte. Tỷ phú Stoyte có quá nhiều thú vui nên chỉ có một mơ ước: tìm ra phương thuốc trường sinh. Một học giả Anh có trong tay tài liệu của dòng họ Hauberk ở Anh từ thế kỷ 15 đến thế kỷ 17 về phương thuốc. Vị Bá tước thứ năm của dòng họ này, cách đây trên trăm năm đã ứng dụng và ghi chép kỹ diễn biến trên cơ thể ông và một người tình cùng dùng thuốc với ông cho đến năm ông gần trăm tuổi. Có chứng cứ nói rằng hai người cho đến nay vẫn còn sống dưới hầm bí mật của một tòa lâu đài cổ đâu đó ở Bắc Anh. Stoyte đang thất tình, đang bê bối trong vụ án bèn cùng với cô nhân tình và nhà khoa học tới nước Anh truy tìm hai con người bất tử kia. Họ còn sống hay đã chết? Câu trả lời phải dành cho ngòi bút trào lộng mà cay đắng của Huxley. Mời các bạn đón đọc Vị Bá Tước Thứ Năm Của Giòng Họ Hauberk của tác giả Aldous Leonard Huxley.