Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Đại Đường Nê Lê Ngục

Trăng sáng giữa trời chiếu xuống cây ngô đồng, in bóng vào cửa sổ khiến cành cây giống như sừng rồng. Có lẽ ngày xưa Thôi phán quan đã treo cổ trên chính cành cây này. Bóng cành cây trên cửa sổ lay động trong gió, trông như phía dưới có người treo cổ tự sát, thi thể đung đưa, lắc qua, lắc lại… Đây mới chỉ là khởi đầu khi cao tăng Huyền Trang đặt chân đến huyện Hoắc Ấp. Nơi đây đang có một âm mưu hết sức kỳ quái. Ma trong huyện nha không phải ma. Người vạch kế lại không phải người. Miếu phán quan trở thành đất hung tà. Chùa Hưng Đường như hang hổ hang sói.  *** Bộ sách 81 Án Tây Du gồm có: Đại Đường Nê Lê Ngục Tây Vực Liệt Vương Ký Đại Đường Phạm Thiên Ký Đại Đường Đôn Hoàng Biến *** #review KHÔNG SPOIL ~ 81 ÁN TÂY DU (Đại đường Nê Lê Ngục) người review Camellia Phoenix Tác giả: Trần Tiệm. Dịch giả: Losedow Thể loại: Trinh thám cổ đại TQ Đánh giá: Xuất sắc Sau bộ Trâm, bộ Liên Hoa Lâu và “Nữ ngỗ tác họa cốt”, Biển vẫn chờ để gặp được một bộ trinh thám cổ đại hay tương tự như vậy. Cứ đọc sách cũ hoài nên lâu lâu tự thưởng cho mình quyển sách mới tinh, thế là phát hiện một câu chuyện còn hay hơn cả Liên Hoa Lâu. Biển xếp “81 Án Tây Du – Đại Đường Nê Lê Ngục” là sách hay nhất đọc trong tháng 10/2018 và là một trong những quyển sách ưa thích nhất của mình. Bối cảnh câu chuyện diễn ra ở đời Đường phồn hoa thịnh thế, Lý Thế Dân đang cai trị, lấy niên hiệu là Trinh Quán – nghĩa là dẹp yên thiên hạ, mở rộng chính đạo. Nhà sư Huyền Trang đã một lần dâng biểu xin đi Tây Trúc thỉnh kinh nhưng vì biên cương còn loạn lạc nên nguyện vọng của ngài chưa được chuẩn tấu. Trước khi dấn thân vào chuyến vân du không biết khi nào trở lại, Huyền Trang muốn truy tìm tung tích nhị ca là Trần Tố, xuất gia chùa Tịnh Thổ ở Lạc Dương với pháp danh Trường Tiệp, đã giết sư phụ Huyền Thành rồi bỏ trốn, sau đó còn dùng lời lẽ yêu mị xúi giục Huyện lệnh Hoắc Ấp là Thôi Giác treo cổ tự vẫn. Manh mối đưa đến huyện Hoắc Ấp, tại đây Huyền Trang được nhờ chữa bệnh cho phu nhân của tân Huyện lệnh Quách Tể. Chưa ở lại nội trạch của Quách Tể được một ngày thì Huyền Trang đã mấy lần gặp nguy hiểm tính mạng, vì vậy quyết định cùng người hầu Ba La Diệp đến chùa Hưng Đường cách huyện Hoắc Ấp vài dặm đường để trú lại. Những sự kiện thần bí cứ liên tục xảy ra xung quanh khiến Huyền Trang không thể không nghĩ rằng mình đang vướng vào một âm mưu rất lớn nào đó... Trong phần 1 của “81 Án Tây Du”, những độc giả từng say mê “Tây Du Ký” sẽ được thấy một Huyền Trang rất mới mẻ khác biệt, dùng tư duy của một vị cao tăng nhiều năm nghiên cứu kinh luận để làm thám tử, thật là đặc sắc! Ngài luôn bình tĩnh (có lúc cười nhạt lạnh lùng), suy luận nhạy bén, ý chí sắt đá và can đảm có thừa, không hề giống nhân vật Đường Tăng yếu yếu đuối đuối cứ phải trông chờ sự bảo vệ và giải cứu của Tôn Ngộ Không. Tác giả Trần Tiệm cũng không tả nhân vật của mình anh tuấn tiêu sái mỹ mạo tuyệt luân như trong những truyện TQ khác, tuy vậy Huyền Trang vẫn được khắc họa rất rõ nét qua suy nghĩ của các nhân vật khác về ngài: “… vị hòa thượng trẻ tuổi thoạt nhìn ngu ngơ ngốc nghếch này có lòng dạ thâm trầm, ý chí kiên cường, ánh mắt nhạy bén, rất dễ khiến người khác thấy khó xử. Dường như ở trước mặt ngài, người nào cũng không thể che giấu điều gì, dường như hết thảy sự vụ trên đời đều hiển hiện rõ trong đôi mắt từ bi mà bình thản của ngài”. Còn nhiều đoạn tả hay hơn nữa nhưng Biển để dành cho các bạn tự đọc và thưởng thức. Vị mỹ nữ Lục La trong truyện khiến Biển nhiều lần nghĩ đến Tử Tây trong “Ngọc xuyến án”. Cùng là thiếu nữ mà hai người một trời một vực, cách biệt không tưởng. Tử Tây xuất thân bần hàn nhưng duyên dáng tinh tế, hiểu người hiểu chuyện, còn Lục La bất kỳ lời nào hành động nào cũng khiến Biển ê buốt cả răng, chỉ hận không thể bỏ qua những đoạn có nàng để đọc tiếp! Tuy hoàn cảnh và cuộc đời Lục La quả thật đáng thương nhưng Biển nghĩ nàng có thể lựa chọn một tâm thế hoàn toàn khác để quyết định số phận của mình. Dù sao thì “một gáo nước chứa ba ngàn phù du, trong hạt cát có thế giới vô tận”, giữ chấp niệm quá sâu thì kẻ đau khổ nhất vẫn là chính mình. Dù đọc truyện với một tấm lòng hết sức trong sáng vô tư nhưng Biển vẫn nhìn ra chút hint đam mỹ giữa Huyền Trang và Ba La Diệp: tên người hầu Thiên Trúc này nhiều lần bảo vệ che chở, thậm chí là cứu mạng Huyền Trang; còn vị cao tăng này lúc gặp nạn ngã lên người Ba La Diệp thì tay chạm đâu không chạm lại cứ phải chạm trúng điểm nhạy cảm (kaka). Nhưng nghiêm túc mà nói thì Biển nghĩ tác giả không cố tình đưa hint đam mỹ vào, chỉ viết như vậy để tăng thêm độ thú vị cho câu chuyện thôi. ____ Chi tiết cảm động nhất trong truyện là khi một nam nhân vai năm tấc rộng thân mười thước cao, là dũng tướng nơi sa trường giết giặc như rạ lại bằng lòng yêu thương một góa phụ, sau lại bằng lòng thả cho góa phụ đó - cũng là thê tử của mình - chạy trốn cùng tình lang. Đối với Biển, đoạn ấn tượng nhất trong truyện là: “Trời đất bao la, phu nhân của lão tử là lớn nhất! Kẻ nào dám tổn thương phu nhân của lão tử, dù có to lớn đến đâu lão tử cũng một đao chém thành hai đoạn!”. Vẫn biết đó chỉ là nhân vật trong sách, nam nhân như vậy không thể tồn tại ngoài thực tế, nhưng đôi lúc đọc được những chi tiết ngôn-tình-giả-tưởng như vậy thì vẫn có thể mỉm cười. Tuy biết không được xem nhẹ tài trí của người xưa nhưng những cơ quan mật đạo được miêu tả trong “81 Án Tây Du” quả thật hơi hoang đường: xây những “buồng thang máy” bằng gỗ chạy bằng sức gió + nước để lên xuống núi, hoặc lắp ròng rọc để di chuyển cả những công trình nặng hàng trăm tấn… Tuy nói là hơi hoang đường nhưng trong lúc đọc vẫn không thấy có điểm nào vô lý, chỉ thầm tán thưởng đầu óc của tác giả Trần Tiệm đã tưởng tượng ra và dùng bút lực trác tuyệt để diễn tả lại tất cả những khung cảnh hoành tráng đó. Truyện không có những đoạn khiến người đọc phải cười lăn lộn nhưng vẫn có thể cảm nhận sự hài hước ngấm ngầm, làm dịu đi những yếu tố đáng sợ. Đọc truyện mà Biển nhớ đến bộ phim hoạt hình 3D TQ từng xem là “Họa giang hồ chi bôi mạc đình” và “Họa giang hồ chi bất lương nhân”. Nay mới biết “Bất lương nhân” là một tổ chức tình báo – sát thủ do Lý Thế Dân sáng lập ra. Trong bộ Trâm từng có câu “Nhất thế Trường An”, trong quyển “81 Án Tây Du” này cũng nhiều lần miêu tả Trường An như một “kinh đô ánh sáng”. Biển thắc mắc không biết thành phố này hoa lệ cỡ nào mà được nhiều người ca ngợi nên đã tìm hiểu được chút thông tin sau: “Trong thời hoàng kim của mình, Trường An từng là thành phố lớn nhất và đông dân nhất thế giới. Dưới thời nhà Đường, kinh đô Trường An là thành phố đông dân nhất bấy giờ” (theo wikipedia). Đây là lần đầu Biển đọc truyện TQ chứa đựng rất nhiều điển tích lịch sử Trung Hoa mà không chán, đọc nhiều kiến thức Phật pháp mà không buồn ngủ, thậm chí còn hiểu biết thêm nhiều điều mới lạ. Từng câu từng chữ trong quyển sách dày này đều như châu như ngọc, xứng đáng nuốt vào bụng, thu vào tâm. Trong thời gian ngắn (khoảng 11 tiếng) liên tục đọc khá nhiều từ Hán-Việt khiến Biển hơi choáng váng, tuy nhiên vì thích sử dụng từ Hán-Việt nên đã cố gắng đọc và ghi chú lại. Quyển “81 Án Tây Du - Đại Đường Nê Lê Ngục” có thiết kế bìa rất đẹp, giấy sạch chữ rõ, đặc biệt KHÔNG CÓ một lỗi chính tả hay lỗi đánh máy nào. Tuy được biết dịch giả Losedow đã nổi danh trong giới dịch thuật nhưng Biển vẫn xin phép khen ngợi phần chuyển ngữ của bác ấy trong quyển sách này, đọc vô cùng mượt mà dễ hiểu, những đoạn giữ nguyên từ Hán-Việt thì tao nhã thi vị. Mọt sách đọc được quyển sách hoàn hảo cũng giống như người sành ăn được thưởng thức món ăn ngon lành tinh tế. Cuốn sách khổ lớn 542 trang này sẽ là một tuyệt phẩm đối với các bạn thích thể loại trinh thám cổ đại, riêng Biển thì đọc xong sẽ đem tặng. Cái gì mình yêu thích mà không sở hữu được thì sẽ càng thương nhớ nó nhiều hơn. (Sea, 18-10-2018) P.S.1: Truyện có đề cập đến cách cứu người chết đuối rất hay ho, không rõ có thể áp dụng ngoài thực tế không. *** LỜI DẪN 1 Đại Đường, năm Vũ Đức thứ tư, Ích Châu, chùa Không Tuệ. Vạt tăng bào của hòa thượng quét qua thềm đá phủ rêu xanh, thanh giới đao dài ba xích cọ lên nền đá xanh phát ra âm thanh chói tai. Ánh nắng rực rỡ, bên trong thiền phòng dường như vắng vẻ không người, chỉ có tiếng chim hót từ xa xa vọng lại. Giới đao là đao của tăng nhân, một trong những dụng cụ được mang theo bên người sau khi xuất gia. Theo giới luật chỉ cho phép dùng để cắt quần áo, không được dùng để sát sinh. Do sử dụng hạn chế, nên gọi là “giới đao”. Một xích bằng mười thốn, xấp xỉ 33,33 centimet. Tuy nhiên khi hòa thượng bước lên thềm đá, bên trong thiền phòng lại vang lên một tiếng thở dài già nua: “Trường Tiệp, tuy là gây chuyện giết người, mặc dầu cũng là mở tâm bồ đề, nhưng nếu giữ niệm sát nhân, con sẽ phải chịu đọa sinh vào cõi thấp.” Hòa thượng khẽ run lên, tay cầm giới đao, chậm rãi mở cửa bước vào. “Cuối cùng con vẫn nhất định phải xuống tay sao?” Lão tăng ngồi xếp bằng trên bồ đoàn, mỉm cười nhìn hắn. Nước trào qua khóe mắt, hòa thượng nâng giới đao trong tay lên, đờ đẫn nói: “Thanh đao này, đệ tử đã ngâm dưới suối sâu ba đêm, mặt đao bọc ba ngàn phù du, lại phơi nắng ba ngày, trên phủ thêm phật quang trăm thước. Nay đến để đưa tiễn sư phụ.” Lão tăng chỉ mỉm cười nhìn hắn, nét mặt tỏ rõ nỗi niềm thương tâm không kìm nén được: “Sau hôm nay, đối với lão nạp mà nói, không ngoài một cái chết mà thôi, công đức toàn vẹn, mọi ác nghiệp đều được tịnh trừ. Ba cõi giới trong trần đời thế tục cũng coi nhẹ như không, không để lọt vào trong mắt nữa. Nhưng con, sau hôm nay, thần phật chư thiên sẽ không còn ban phúc cho con, người đời và thân hữu sẽ không còn tán tụng con, thiên hạ Đại Đường này sẽ không còn nơi sống yên ổn cho con. Giới luật trong lòng con cũng theo đó mà sụp đổ, cả đời con sẽ phải ẩn nấp trong bóng tối, trốn tránh nội tâm của chính mình. Đường tu hành của con sẽ vĩnh viễn không thể viên mãn, sau khi chết bị đày xuống Nê Lê đại địa ngục A Tì, chịu ức vạn kiếp khổ, vô cùng vô tận… Những điều này con có thể chịu đựng được không?” Trong “Thập Bát Nê Lê kinh”, đại địa ngục A Tì là ngục thứ mười ba - Huyết Trì địa ngục là ngục nặng nhất. Đối chiếu với “Bát đại địa ngục/ Bát nhiệt địa ngục” thì đại địa ngục A Tì được xét là một khám lớn, phân tách thành mười sáu địa ngục nhỏ hơn, trực thuộc Vô gián địa ngục. A Tỳ nghĩa là không xen hở, không gián đoạn. Đây chỉ cho cảnh giới địa ngục đau khổ nhất, trong ấy tội nhân bị hành hạ liên tục. “Đệ tử…” Mồ hôi lạnh chảy ròng ròng trên trán, nhưng hòa thượng vẫn cắn răng nói: “Đệ tử dù chết chín lần cũng không hối hận.” “Chết là chuyện đơn giản nhất!” Lão tăng lắc đầu, thở dài một tiếng: “Có lẽ đây chính là đường tu hành của con! Tay không, cầm cán cuốc. Đi bộ, ngồi lưng trâu. Trên cầu người đi lại. Cầu trôi, nước chẳng trôi*. Ôi…!” Trích “Cảnh Đức truyền đăng lục - Quyển 27 - Đại sĩ Thiện Tuệ”. Toàn bộ bài thơ này, kỳ thực là điều hòa mâu thuẫn, hướng tới “Tính Không”, chỉ cần thuyết minh một chữ “không” thôi, cũng đã bao hàm toàn bộ vũ trụ vạn hữu rồi. Nghĩa là “không tức thị sắc, sắc tức thị không”. Hát xong bài kệ, lão tăng từ từ nhắm mắt lại, tựa như nhập định. Hòa thượng đột nhiên không cầm được nước mắt, quỳ rạp xuống khóc lớn, sau đó giới đao trong tay vung lên, máu bắn cao ba thước, đầu lão tăng đã rơi xuống đất. Giới đao rơi xuống đất kêu leng keng. Trong một khoảnh khắc này, trên mặt hòa thượng dính đầy máu tươi, lại thoáng lộ ra vẻ nanh ác. Hắn dùng vạt tăng bào bọc lấy đầu lão tăng, loạng choạng đứng dậy, lê từng bước rời khỏi thiền đường. Thiền đường cổ ngàn năm, bậc đá xanh trăm tuổi, xuất hiện một vệt máu tươi chạy dài… *** LỜI DẪN 2 Đại Đường, năm Vũ Đức thứ sáu, đạo Hà Đông, huyện Hoắc Ấp. Đạo là một đơn vị hành chính cổ dùng để phân chia địa giới, tương đương với tỉnh ngày nay. Huyện nha nằm ở phía đông thành, trước mặt là đường cái quan, lúc nào cũng đông đúc, huyên náo. Cửa nha môn dựng ở hướng nam, hai bên tường xây mở chéo theo hình chữ bát, trên tường dán đủ các loại thông cáo, theo thời gian dầm mưa dãi nắng, chất giấy cũng mục nát, nhòe mực nhìn không ra chữ, một cơn gió thổi qua, mảnh giấy nát bung ra khỏi mặt tường, bị gió cuốn bay đi mất. Hoắc Ấp là trọng trấn của Hà Đông, muốn một đường vượt sông Hoàng Hà, theo từ bến Bồ Châu đến Thái Nguyên, nhất định phải đi qua chốn này, nơi đây dân ngụ cư đông đúc, khách buôn tấp nập, huyện thành náo nhiệt vô cùng. Hoàng hôn hôm đó, trong dòng người đông vui tấp nập trên đường cái, một hòa thượng đi giày rơm, mặc sa y màu xám từ xa đi tới. Trong tay hòa thượng cầm một chiếc mõ bằng gỗ đàn hương đỏ, tay kia cầm dùi gỗ gõ mõ theo nhịp tụng, tiếng mõ phát ra nhàn nhã, xa xăm, rất không hài hòa với sự huyên náo trên phố lớn. Hòa thượng này đi đến bên ngoài bức tường kè theo hình chữ bát của huyện nha, liếc nhìn chiếc trống kêu oan kê trên bậc thềm, nhưng không tới gõ trống mà bỗng mỉm cười, có phần kỳ quái, vừa gõ mõ vừa cất bước đi lên bậc thềm. Trên công đường, huyện lệnh Hoắc Ấp - Thôi Giác, ngồi nghiêng người trên tấm thảm lông cừu nền đỏ thêu hoa, lật xem chỗ công văn đặt trên án kỷ. Bỗng dưng nghe thấy có tiếng ồn ào ngoài cửa, cùng tiếng gõ mõ đều đều bên tai. “Có chuyện gì thế?” Thôi Giác bực mình hỏi. Vị huyện lệnh này tuổi mới hai mươi tám, tướng mạo nho nhã, trên mặt thoáng ý cười cười nhàn nhạt. Dù mặc áo quan màu xanh, đội mũ cánh chuồn cũng không có vẻ uy nghiêm khí phách mà có phần phiêu dật, rất ra dáng danh sĩ thời Ngụy - Tấn. Ngoài cửa có một gã tư lại chạy vào báo: “Khởi bẩm đại nhân, bên ngoài nha môn có một gã hòa thượng muốn xông vào, nhất quyết đòi gặp ngài. Hạ quan nói đại nhân đang xử lý công vụ, sẽ vào báo lại sau, nhưng hắn lại gõ mõ rất to.” Danh từ cổ chỉ chức quan coi việc bắt giặc cướp. Sau chỉ chức quan nhỏ. Còn gọi là thư lại. Tư lại này còn chưa nói xong, trong tiếng mõ, một tiếng phật kệ vang lên: “Một bát cơm ngàn nhà, thân vượt vạn dặm xa. Chỉ vì chuyện sinh tử, xin độ pháp ngày qua.* Tri phủ đại nhân anh minh, bần tăng vượt vạn dặm xa xôi đến đây, cốt chỉ mong được gặp đại nhân để hóa duyên.” Bài thơ ca ngợi Đức Phật Thế Tôn, qua hình ảnh người khoác y áo đơn sơ, tay chỉ cầm một chiếc bát mộc, nhưng dáng vẻ lại thanh thoát, vân du tự tại đi hóa độ chúng sinh. Thôi Giác cười: “Vị hòa thượng này xem chừng cũng thú vị đây, mời vào!” Hòa thượng được sai dịch dẫn lối, vẻ mặt bình thản đi vào công đường, cũng không cần mời đã khoanh chân ngồi xuống đối diện với Thôi Giác. “Đại sư pháp hiệu xưng hô thế nào?” Thấy hòa thượng này ngông cuồng, Thôi Giác cũng không đứng lên, chỉ lạnh nhạt hỏi. “Pháp hiệu là gì?” Hòa thượng trợn mắt, lạnh lùng nói: “Lòng chỉ cầu một cơ duyên đối trước Phật, cần chi đến danh hiệu chốn trần gian nhơ nháp này đây.” “Ơ?” Lúc này Thiền tông còn chưa phát triển rộng rãi, Tịnh độ tông vẫn là tông phái tu chính ở Đại Đường, chưa có nhiều hòa thượng nói chuyện kiểu này. Thôi Giác cảm thấy rất mới lạ, mỉm cười hỏi tiếp: “Đại sư từ đâu đến? Định đi tới nơi đâu?” Tịnh độ tông là một pháp môn quyền khai của Phật giáo, do Cao tăng Trung Quốc Huệ Viên sáng lập. Mục đích của Tịnh độ tông là tu học nhằm được tái sinh tại Tây phương Cực lạc Tịnh độ của Phật A Di Đà. Thiền tông là tông phái Phật giáo Đại thừa, sinh ra trong khoảng thế kỉ thứ VI, thứ VII, khi Bồ Đề Đạt Ma đưa phép Thiền của đạo Phật vào Trung Quốc cùng với sự hấp thụ một phần nào đạo Lão. Thiền tông quan tâm đến kinh nghiệm chứng ngộ, đả phá mạnh nhất mọi nghi thức tôn giáo và mọi lý luận về giáo pháp. “Từ trong thai mẹ đến, đi tới bình bát của Phật.” Hòa thượng đáp. Thôi Giác ngán ngẩm: “Vậy… đại sư đến tìm hạ quan có chuyện gì? Cần hóa duyên gì đây?” “Thứ bần tăng cần hóa, chỉ đại nhân mới có. Nên mới vượt đường xa vạn dặm mà đến, chỉ có điều không biết đại nhân chịu cho hay không thôi.” Hòa thượng nói, có phần ngạo mạn. Thôi Giác khẽ cười: “Hạ quan có thứ gì mà người khác không có?” “Cái mạng này của đại nhân!” Hòa thượng vừa cười vừa nói, nét mặt cổ quái: “Cái đầu trên cổ, túi da ngoài thân.” Thôi Giác mặt biến sắc, ngồi thẳng lên, dùng bộ dáng âm trầm lặng lẽ quan sát, đánh giá vị hòa thượng đang mỉm cười như trêu ngươi người khác kia: “Đại sư hẳn đang đùa ta thì phải?” “Trên đường tới đây, sương gió đã mài rách của bần tăng ba tấm sa y, đất vàng cào nát của bần tăng chín đôi giày cỏ.” Hòa thượng chậm rãi nói: “Chỉ có chiếc mõ trong tay bần tăng càng mài càng sáng, có thể chiếu rõ tâm bần tăng. Có phải là thật hay không, bản thân bần tăng nhìn thấy rất rõ.” Thôi Giác cẩn thận quan sát cho kỹ, thấy hòa thượng này tuổi áng chừng khoảng ngoài ba mươi, da mặt sạm đen, thô ráp, lộ rõ vẻ phong sương, sa y mặc trên người vá chằng vá đụp, rách nát như tàu lá chuối gặp mưa rào. Đôi giày cỏ đi dưới chân đã thủng cả đế, gót chân trực tiếp giẫm trên mặt đất. Đôi bàn tay với khớp xương to dài, vết chai sạn dày cộp. Xem ra quả thật đã đi vạn dặm đường, không phải đến đây nói đùa với mình. “Cái mạng này của hạ quan tại sao lại khiến đại sư cảm thấy hứng thú?” Tâm tình Thôi Giác dần ổn định lại, trên mặt thậm chí còn mang ý cười. “Đại nhân sinh năm Khai Hoàng Tiền Tùy thứ mười bốn, ba tuổi có thể đọc hiểu sách “Luận Ngữ”, bảy tuổi có thể làm văn thơ, tuổi tròn nhược quán đã nổi danh khắp Tam Tấn, văn chương thi phú được xưng tụng đệ nhất Tiền Tùy, người đương thời khen là con của phượng hoàng, vì vậy đại nhân lấy Phượng Tử làm hiệu. Có điều đại nhân số mệnh trái ngang, đường làm quan không được như ý. Sau khi thành danh, còn chưa kịp thi triển tài năng đã gặp lúc Tùy Dạng Đế ba lần viễn chinh Cao Ly, thiên hạ rối ren, dân chúng lầm than, đành phải vào núi lánh nạn, lánh một mạch năm năm. Đại nhân có cảm thấy chua xót vì chí hướng cao xa khó có thể thực hiện hay không?” Thời xưa đàn ông hai mươi tuổi đều làm lễ đội mũ (quán), xem như thành niên, nhưng cơ thể còn chưa có tráng kiện, tương đối niên thiếu, nên xưng là “nhược”. Năm 595 TCN, thời kỳ sơ khai của nhà Tùy, dưới sự cai trị của Tùy Văn Đế - Dương Kiên - Niên hiệu: Khai Hoàng (581 - 600), Nhân Thọ (601 - 604). Lời nói của hòa thượng gây nên sóng gió ngập trời trong lòng Thôi Giác, vẻ mặt bình thản dần chuyển sắc, nhợt nhạt hẳn đi, một hồi lâu sau mới lẩm bẩm nói: “Quả thật đúng như đại sư nói.” Hòa thượng cũng không để ý, tiếp tục nói: “Năm năm sau, đương kim hoàng thượng* dời Thái Nguyên, nghe nói đến tài danh của đại nhân nên mời làm quân sư ở lại trấn phủ. Đại nhân vốn cho rằng có thể tiếp tục thăng quan, thực hiện hoài bão của mình, không ngờ năm sau hoàng thượng đã khởi binh phản Tùy. Sau đó hoàng thượng lập nên Đại Đường, nếu không ngoài dự liệu, đại nhân theo hoàng thượng tiến vào Trường An, đến nay dù thế nào cũng là trọng thần trong triều. Nhưng đại quân tiến đánh xuống phía nam, phải qua Hoắc Ấp, đại nhân lập được công lớn, công này lại thay đổi cả cuộc đời đại nhân. Hoàng thượng bị ngăn trở, Thôi đại nhân ngài hiến kế bao vây dụ địch, đánh tan quân Tùy của Tống Lão Sinh. Thế là hoàng thượng lệnh đại nhân làm huyện lệnh Hoắc Ấp, trấn giữ vùng yếu địa. Đại quân của Tống Kim Cương áp sát dưới thành, đại nhân chỉ có ba trăm dân quân mà dám đánh úp ban đêm. Tướng phòng thủ Hoắc Ấp là Tầm Tương định đầu hàng địch, đại nhân liền dẫn theo hai gia nhân chạy tới phủ của hắn hành thích. Hoắc Ấp bị phá, đại nhân dẫn bách tính toàn thành chạy vào núi Hoắc tị nạn, ngay cả một hạt lương thực cũng không để lại cho quân địch. Sau khi Lưu Vũ Chu, Tống Kim Cương bị diệt, đại nhân cai trị Hoắc Ấp, người người không nhặt của rơi, đêm đêm không cần đóng cửa, bách tính ai ai cũng an cư lạc nghiệp. Ta muốn hỏi đại nhân, công lớn như thế, vì sao hoàng thượng đã trị vì bao nhiêu năm mà ngài vẫn chỉ là một huyện lệnh?” Tống Kim Cương vốn là thủ lĩnh một đội nghĩa quân hơn vạn người ở Dị Châu (nay là Dị Huyện, Hà Bắc) sau quy hàng theo Lưu Vũ Chu (một thủ lĩnh quân phản Tùy) dấy binh đánh nhà Đường. Danh tướng nhà Tùy, trấn thủ Hoắc Ấp khi quân nhà Lý tiến đánh xuống phía nam. Vốn ỷ thành cao, muốn tính kế dài chờ nhà Lý cạn lương thực mới diệt, nhưng bị Lý Uyên lừa, giả đánh thua rồi chạy, quân Tùy mắc bẫy bị bao vây, nhà Lý cho đồn Tống Lão Sinh đã chết, quân Tùy vì thế mà đầu hàng, Lão Sinh để mất thành nên tự sát. Tức Đường Cao Tổ Lý Uyên, niên hiệu Vũ Đức. Nghe hòa thượng này nói tỉ mỉ những chuyện mình đã trải qua suốt nửa cuộc đời, Thôi Giác không khỏi ngây ra như phỗng, tay nắm chặt một cuộn công văn, đến độ đốt ngón tay chuyển sắc trắng bệch: “Xin đại sư chỉ điểm!” Hòa thượng đột nhiên quát lên: “Bản tâm như lửa địa ngục thiêu đốt, dục vọng không mời gọi cũng tự đó mà khởi sinh. Ba ngàn cõi giới đầy phiền não, tựu trung lại cũng chỉ là một hố lửa hung hiểm mà thôi! Ngài mặc dù tướng mạo thư sinh, nhưng mắt ngài lại bùng cháy dã tâm và dục vọng trần trụi không hề che giấu. Trên đời này, không có cái gọi là mục đích cuối cùng, ngài vĩnh viễn không biết tự thỏa mãn, không biết điểm dừng. Thân là kẻ ngồi ở ngôi cao, nếu không biết mục tiêu mà ngài đeo đuổi là gì, sao hoàng thượng dám tin dùng ngài đây?” Thôi Giác chấn động, nhất thời rơi vào trầm tư. “Ha ha, bần tăng sẽ chỉ cho ngài một con đường sáng.” Hòa thượng cười một tiếng quái dị: “Đại nhân chắc cũng biết, thế giới quỷ ma phương Tây tồn tại một cõi địa ngục Nê Lê?” “Địa ngục Nê Lê?” Thôi Giác thoáng lộ vẻ kinh ngạc. Hắn đã đọc qua kinh điển của các giáo, đương nhiên không cảm thấy xa lạ, vì thế gật đầu: “Theo cách nói của nhà Phật, địa ngục Nê Lê là một trong sáu đạo dục giới. Đạo Phật có ‘Thập Bát Nê Lê kinh’, nói con người sau khi chết, người làm nhiều việc thiện lên trời, người làm nhiều việc ác vào cõi Nê Lê. Nê Lê tổng cộng có mười tám tầng, tám nóng, tám lạnh, du tăng, cô độc. Có người gọi là Nê Lê, có người gọi là Nại Lạc Ca, cũng có người gọi nó là địa ngục.” Địa ngục, tiếng Hồ gọi là Nê Lê, tiếng Phạn gọi là Nại La Ca. “Nại Lạc” có nghĩa là người. “Ca” có nghĩa là ác. Người ác sinh ra ở nơi đó nên gọi nơi đó là Nại Lạc Ca. Do những con người ác đó lúc sinh thời đã gây ra những hành động cực kỳ tàn ác về thân, khẩu, ý cho nên phải tái sinh và tiếp tục ở cõi đó. Bởi vậy mới gọi là Nại Lạc Ca. Hòa thượng bấm ngón tay mỉm cười: “Cái danh Phượng Tử quả không phải ngoa truyền. Bần tăng nguyện đưa ngài tới Nê Lê một chuyến, đại nhân có chịu hay không?” Thôi Giác bàng hoàng kinh ngạc. “Có vua Nê Lê tên là Viêm Ma La muốn mở ngục Nê Lê ở Đông Thổ, quản lý luân hồi của Nê Lê, xét xử thiện ác của lục đạo, bây giờ còn thiếu một phán quan. Trí tuệ của đại nhân có thể coi là có một không hai ở Đông Thổ, đôi mắt có thể nhìn thấu lòng người, trăm họ ở Hoắc Ấp đồn rằng đại nhân tra xét thiện ác chưa từng sai lầm, tâm của mười vạn bách tính Hoắc Ấp xét ra vẫn còn thua, thua xa trái tim có bảy lỗ* của đại nhân đây. Nê Lê dơ bẩn, là nơi quy tập tội ác của nhân gian, vừa lúc có thể mượn nghiệp hỏa vô minh ngàn trượng của đại nhân để đè ép tà uế. Không biết ý đại nhân thế nào?” Ý chỉ người thông tuệ, có lương tâm thuần chất. Tương tự với Tỷ Can trong “Phong thần diễn nghĩa” sở hữu “thất khiếu linh lung tâm”. Hòa thượng cười nhạt, trong mắt rực lên tia sáng quái dị. “Bản quan… ta… “ Thôi Giác nghẹn lời, mồ hôi trên trán chảy xuống như mưa, lại không biết trả lời thế nào. “Uổng mang tài cao, tham vọng khó đạt. Nhân gian này đã không có duyên với đại nhân, ngục Nê Lê có lẽ là nơi để đại nhân thi triển khát vọng.” Hòa thượng cười ha hả: “Bần tăng dừng lời tại đây, duyên này có hóa hay không, đại nhân cứ tự mình suy nghĩ.” Dứt lời, hòa thượng cười to rồi rời khỏi huyện nha. Trời đã vào đêm, trong nha môn âm trầm u ám, chỉ còn tiếng mõ khoan thai xa dần. Đêm đó, huyện lệnh Hoắc Ấp Thôi Giác dùng một dải lụa trắng tự vẫn dưới gốc cây trước sân.   Mời các bạn đón đọc Đại Đường Nê Lê Ngục của tác giả Trần Tiệm & Losedow (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Những Kỳ Án Nổi Tiếng Chưa Có Lời Giải
Tóm tắt & Review (Đánh Giá) tiểu thuyết Những Kỳ Án Nổi Tiếng Chưa Có Lời Giải của tác giả Hà Mạt Bì & Losedow (dịch). VƯỜN HOA MẠT DƯỢC KÝ SỰ - Những kỳ án nổi tiếng chưa có lời giải Từ những thước phim tài liệu của Netflix, cho tới những tài liệu mật chỉ được thẩm tra nhằm phục vụ cho quá trình phá án, “Vườn Hoa Mạt Dược” đã lần lượt thu thập và đăng tải hồ sơ về mười lăm kỳ án trên thế giới. Phần lớn trong số đó là các vụ án chưa tìm được lời giải sau nhiều năm điều tra. Mười lăm vụ án được phân tích trong bộ hồ sơ trinh thám này là mười lăm kỳ án mà thế giới không bao giờ quên. Ai đã làm điều đó? Họ đã làm điều đó như thế nào? “Tôi mong ý nghĩa tồn tại của “Vườn Hoa Mạt Dược” không hạn chế trong việc tìm ra đáp án cho các vụ án chưa có lời giải và những sự kiện thần bí. Tôi hy vọng mình có thể cung cấp một bản mẫu phân tích logic ở góc độ và phương diện lý trí để độc giả nhìn nhận các sự kiện xã hội. Còn đáp án cụ thể, thực ra mỗi người chúng ta đều có thể có những suy luận của riêng mình nên chỉ cần hợp logic là được.” – Trích lời tác giả. *** Vườn Hoa Mạt Dược Ký Sự gồm có: Những Kỳ Án Nổi Tiếng Chưa Có Lời Giải Tái Hiện Kỳ Án - Hé Mở Góc Tối *** Tóm tắt "Vườn Hoa Mạt Dược Ký Sự - Những Kỳ Án Nổi Tiếng Chưa Có Lời Giải" là một cuốn sách trinh thám, tập hợp 15 vụ án nổi tiếng chưa có lời giải trên thế giới. Các vụ án được tác giả Hà Mạt Bì thu thập và phân tích một cách chi tiết, đầy đủ thông tin, từ diễn biến vụ án, những manh mối được tìm thấy, đến những giả thuyết được đưa ra. Cuốn sách mở đầu với vụ án "Chiếc ghế điện ma ám" xảy ra tại nhà tù Sing Sing, Mỹ. Vụ án này đã khiến cho chiếc ghế điện trở thành một nỗi ám ảnh kinh hoàng đối với các tử tù. Tiếp theo là vụ án "Bóng ma nhà hát" xảy ra tại nhà hát Grand Guignol, Pháp. Vụ án này đã khiến cho nhà hát này trở thành một nơi bị bỏ hoang, không ai dám bén mảng đến. Các vụ án khác trong cuốn sách bao gồm: Vụ án "Người đàn ông bí ẩn ở Yorkshire" Vụ án "Hồ sơ của kẻ sát nhân hàng loạt" Vụ án "Cái chết của Marilyn Monroe" Vụ án "Vụ mất tích của D.B. Cooper" Vụ án "Chuyến bay 93" Vụ án "Vụ thảm sát ở ngôi nhà số 10 Rillington Place" Vụ án "Vụ bắt cóc và giết hại Elizabeth Smart" Vụ án "Vụ giết hại JonBenet Ramsey" Vụ án "Vụ mất tích của Madeleine McCann" Vụ án "Vụ bắt cóc và giết hại Shanann Watts" Vụ án "Vụ mất tích của Elisa Lam" Đánh giá "Vườn Hoa Mạt Dược Ký Sự - Những Kỳ Án Nổi Tiếng Chưa Có Lời Giải" là một cuốn sách trinh thám hấp dẫn, lôi cuốn. Các vụ án được tác giả trình bày một cách chi tiết, đầy đủ thông tin, giúp người đọc có thể hình dung được diễn biến vụ án một cách rõ ràng. Tác giả Hà Mạt Bì cũng rất khéo léo trong việc đưa ra những giả thuyết về thủ phạm của các vụ án. Những giả thuyết này đều được suy luận một cách logic, chặt chẽ, khiến người đọc có thể tự đưa ra những suy luận của riêng mình. Tuy nhiên, cuốn sách cũng có một số hạn chế. Một số vụ án trong sách đã được đề cập trong các bộ phim tài liệu, nên người đọc có thể đoán được một phần diễn biến của vụ án. Ngoài ra, một số giả thuyết của tác giả cũng có phần cường điệu, thiếu thuyết phục. Nhìn chung, "Vườn Hoa Mạt Dược Ký Sự - Những Kỳ Án Nổi Tiếng Chưa Có Lời Giải" là một cuốn sách trinh thám đáng đọc dành cho những ai yêu thích thể loại này. Cuốn sách sẽ mang đến cho bạn những giờ phút giải trí hấp dẫn và thú vị. Điểm cộng Các vụ án được trình bày một cách chi tiết, đầy đủ thông tin Tác giả đưa ra những giả thuyết về thủ phạm của các vụ án một cách logic, chặt chẽ Điểm trừ Một số vụ án đã được đề cập trong các bộ phim tài liệu Một số giả thuyết của tác giả có phần cường điệu, thiếu thuyết phục Mời các bạn mượn đọc sách Những Kỳ Án Nổi Tiếng Chưa Có Lời Giải của tác giả Hà Mạt Bì & Losedow (dịch).
Người Rỗng
Người rỗng là tác phẩm đỉnh cao của John Dickson Carr trong thể loại “mật thất án mạng”. Xuyên suốt truyện là bí ẩn của hai vụ giết người: một vụ xảy ra trong căn phòng khóa kín, nạn nhân chỉ có thể mấp máy vài từ đứt đoạn; một vụ diễn ra trên con phố vắng, có nhân chứng ở hai đầu. Trong cả hai vụ, kẻ thủ ác đều biến mất không dấu vết. Nhân chứng nhìn thấy hắn, rồi để hắn thoát đi như một màn ma thuật. Kẻ thủ ác là ai? Có chăng hắn là người rỗng dưới vỏ bọc hữu hình để rồi sau khi giết người lại biến mất vào không khí? Độc giả như bị đặt vào mê lộ của sự bất khả, và rồi những suy luận của các nhà điều tra cũng đều dần dần đi vào ngõ cụt. Án chồng án, quá khứ vươn dài xoắn xít vào thực tại khiến người đọc rối trí, nút thắt này chưa gỡ xong đã bị Carr buộc vào một nút thắt khác khó gỡ hơn. Chính những điểm gút liên hoàn được buộc và gỡ một cách xảo diệu, bất ngờ như vậy đã tạo nên sức hút cho Người rỗng, giúp tác phẩm đứng vững trong hàng ngũ những tiểu thuyết trinh thám hay nhất mọi thời đại. *** NGƯỜI RỖNG – JOHN DICKSON CARR Thấy cuốn này được tâng bốc đến tận trời cao nên mình cũng thử sức đọc xem sao. Kết quả là, mình khá đồng ý với đa số các review mình đã đọc. Mình không phải là người giỏi lần theo các manh mối và suy luận để tìm ra lời giải cho các vụ án trong truyện nên mình cũng không cố gắng nhọc công làm việc đó, đỡ mệt bao nhiêu. May đấy, vì thủ thuật gây án trong phòng kín mà tiến sĩ Fell trình bày đúng là làm mình lóa mắt. Ấn tượng đầu tiên của mình chính là thủ phạm làm mình liên tưởng đến “Những chiếc răng cọp” của Maurice LeBlanc (cuốn Arsene Lupin đầu tiên mình đọc). Còn lại vềthủ thuật thì quá là phức tạp và mặc dù được giải thích kĩ càng nhưng đầu mình vẫn không thực sự tiêu hóa hết toàn bộ vấn đề. Một điều nữa mà mình cũng đồng ý với các review là cách thức hành động của thủ phạm gần như diễn ra dựa trên các sự kiện tình cờ, không được tính toán trước, ngược lại hoàn toàn với dụng ý ban đầu của thủ phạm. Lẽ dĩ nhiên, điều này cũng thể hiện phần nào trí thông minh và cách giải quyết vấn đề rất nhanh nhạy của thủ phạm, lợi dụng mọi sự ngẫu nhiên xảy ra ngay tại thời điểm đó để thực hiện tiếp những việc tiếp theo theo đúng kế hoạch.   Cái hay của truyện, ngoài cách gây án của hung thủ làm mình sững sờ ra, còn nằm ở việc nhận định và giả thuyết sai lầm. Chính lỗi vô cùng lớn như thế này đã khiến cảnh sát điều tra và tiến sĩ Fell rơi vào ngõ cụt. Vậy kết luận rút ra từ đây là, giả thuyết chỉ là giả thuyết thôi, không nên quá coi trọng nó và mặc định nó nhất định phải như thế. Đến khi tiến sĩ Fell lật lại hoàn toàn những giả thuyết mà tác giả cố định vào đầu người đọc ngay từ đầu, mình mới òa ra, bây giờ mọi chuyện mới sáng tỏ và hợp lý. Các nhân vật thì mình không thực sự thích ai cả. Ấn tượng của mình với các nhân vật trong truyện đều có gì đó rất xấu xa, trừ mấy người điều tra phá án thôi, còn lại ai cũng có vẻ ích kỉ và to mồm, nói nhiều nhưng làm ít, ai cũng thấy có vẻ nói dối – chỉ là mình không đủ nhạy bén để nhận ra họ nói dối cái gì thôi. Thực ra đến cả thanh tra Hadley và tiến sĩ Fell cũng đôi lúc làm mình buồn cười. Họ cũng to mồm không kém các nghi phạm. Từ đầu truyện khi diễn ra cuộc thẩm vấn, mình thấy các nhân vật – cả nghi phạm lẫn người điều tra – đều mất bình tĩnh. Họ quát lên, rồi họ tức giận, ai cũng nói rất to! Có thể đây là một sự hài hước vô ý của tác giả chăng? Một nhân vật mình không thích nhất là người không có vai trò gì trong quá trình điều tra cả, đó là vợ của Rampole là cô Dorothy. Cô này nhiều chuyện và tọc mạch quá, toàn đưa ra những giả thuyết này nọ phi thực tế, hầu như chỉ dựa vào quan điểm và sở thích cá nhân của cô, mà cô đưa ra những ý kiến đó chỉ thông qua mỗi lời kể của chồng. May mắn là Dorothy chỉ xuất hiện có hai lần, mau miệng thật đấy nhưng làm mình khó chịu quá. Mặc dù cuốn này ngắn nhưng mình vẫn đọc chậm hơn tốc độ bình thường của mình vì có những đoạn mình phải đọc đi đọc lại và thỉnh thoảng mình không tập trung được, vì cứ mỗi trang là lại có thêm chi tiết mới, và thám tử phải rà soát lại từ đầu kết hợp với những gì mới phát hiện. Nhưng bù lại, đọc phần phá án lại làm mình rất thỏa mãn, kèm theo một phần bài giảng của tiến sĩ Fell về các loại án mạng phòng kín nữa, vô cùng bổ ích. Điểm: 4/5  (Cảm ơn đã đọc đến đây. Mọi người ủng hộ góc booktube siêu nhỏ của mình nhá – thanks ạ) Hương Spy *** NGƯỜI RỖNG – JOHN DICKSON CARR Đối với trinh thám cổ điển mình ít khi đọc (đặc biệt là tác phẩm Âu-Mỹ) vì không quen với văn phong tác giả. Vì thế Người rỗng là một thách thức với mình từ những trang đầu tiên. Mình đã mất 6 ngày để đọc xong. Phải nói là không quá khi bìa sách phí sau ghi Người rỗng tác phẩm đỉnh cao của John Dickson Carr. Những sự việc tác giả đưa vào khiến cho người đọc lẫn nhân vật hiểu lầm và sau đó lí giải thật tuyệt vời. Hình tượng thám tử-tiến sĩ Fell lẫn những người bạn của ông khiến mình cảm thấy gần gũi vì Carr không ưu ái cho ai cả, mỗi nhân vật đều được nêu suy nghĩ về vụ án, ai cũng có đất diễn cả. Và không người bạn nào của Fell làm nền cho ông. Về phần mạch truyện thì diễn ra chầm chậm, sau đó nhanh từ từ về sau. Truyện cũng có những điểm gây cấn. Tuy nhiên, nó cũng có phần giống những trinh thám cổ điển như Đảo ngục môn, Án mạng trên sông Nile,… ở chỗ giải quyết vấn đề sau khi thám tử phá án xong xuôi, nó diễn ra rất nhanh và kết thúc ngay sau đó chỉ với 1 sự lựa chọn của hung thủ và tòng phạm. Về điểm này mình hơi hụt hẫn nhưng nhìn chung mình rất khâm phục bác Carr vì đã lừa và khiến mình rối não. Mức độ yêu thích: 5/5 Neko Sayuri *** NGƯỜI RỖNG Book review: “Người Rỗng” Tác giả: John Dickson Carr Thể loại: Trinh thám cổ điển, giết người trong phòng kín Đánh giá: 9/10 Mình là người rất thích đọc các tác phẩm trinh thám lấy đề tài mật thất, giết người trong phòng kín, vì mình thích tìm hiểu về những vụ án tưởng chừng như bất khả, nhưng hóa ra luôn có một lời giải thích hợp lý. Vì thế, khi biết cuốn “Người Rỗng” của John Dickson Carr – nhà văn trinh thám Mỹ nổi tiếng, được mệnh danh là “ông hoàng mật thất” – được xuất bản là mình mua đọc ngay. Công nhận là hay lồng lộn, hay ghê gớm luôn các bạn ạ.   “Người Rỗng” là cuốn tiểu thuyết về hai vụ giết người. Một vụ là cái chết kỳ bí của giáo sư Charles Grimaud – một người không bao giờ tin vào ma quỷ hay thế giới tâm linh. Trước ngày vụ án xảy ra, Pierre Fley – một nhà ảo thuật gia – đã xuất hiện tại quán rượu mà giáo sư Grimaud thường tụ họp với bạn bè của mình và buông ra một lời đe dọa. Vài ngày sau đó, giáo sư Grimaud có hẹn gặp một người đàn ông cao lớn, bí ẩn trong chiếc áo khoác đen và đeo mặt nạ Guy Fawkes màu hồng như thịt, để rồi giáo sư được phát hiện đang thoi thóp trong căn phòng khóa kín cửa, chỉ có thể mấp máy vài từ đứt đoạn, người lạ đó đã biến đâu mất. Nền tuyết trắng không hề có dấu chân ai cả. Cửa sổ quá bé để một người trưởng thành chui ra được. Căn phòng cũng không có cánh cửa bí mật nào thông ra bên ngoài. Như thể hung thủ đã tan biến vào không khí vậy. Vào cùng đêm giáo sư Grimaud bị bắn, và sau đó qua đời, Pierre Fley cũng bị bắn ở một con phố vắng bởi chính khẩu súng đã giết giáo sư Grimaud. Có nhân chứng đứng ở hai đầu đường nhưng đều không thấy được chuyện gì xảy ra, hay hung thủ là ai. Như thể kẻ thủ ác là một người rỗng dưới vỏ bọc hữu hình, hiện ra gây án để rồi sau đó lại biến mất vào không khí. Và Pierre Fley – người trước đó đã đe dọa giáo sư Grimaud, là kẻ dường như có động cơ giết giáo sư nhiều nhất – cũng chết trong cùng một đêm, hai vụ án chỉ cách nhau vài phút. Vậy rốt cuộc hung thủ thực sự là ai? Có phải là một trong những nhân chứng của hai vụ án hay không? Bên cạnh bí ẩn về “người rỗng” gây án và sự khó giải thích nổi của hai vụ giết người mà việc tìm hiểu xem chuyện gì thực sự đã xảy ra dường như là bất khả, điều mà mình thích nhất ở cuốn tiểu thuyết này, có lẽ chính là những suy luận của tiến sĩ Fell – một trong những hình tượng thám tử “không chuyên” mà John Dickson Carr sáng tạo nên. Chỉ bằng cách quan sát tỉ mỉ những gì còn lại ở hiện trường trong căn phòng kín, cùng việc lắng nghe lời khai của nhân chứng và cả những từ ngữ đứt đoạn mà nạn nhân Grimaud mấp máy trước khi bị đưa đi chăm sóc y tế, mà tiến sĩ Fell đã có thể dần dần khám phá và phác họa nên cuộc sống trước kia của nạn nhân Grimaud, và tự mình đưa ra những suy luận khả dĩ có thể đưa ra một hướng điều tra cho những người có chuyên môn điều tra phá án. Lẽ dĩ nhiên, với một cuốn tiểu thuyết giết người trong phòng kín nổi tiếng dường này, thuộc hàng ngũ những tiểu thuyết trinh thám hay nhất mọi thời đại, thì mọi thứ không như những gì chúng ta và cả tiến sĩ Fell luôn hình dung. Nếu bạn chỉ suy luận đơn giản, chỉ suy nghĩ theo cách thông thường, thì sẽ không bao giờ có thể phát hiện ra được sự thật, cùng “màn ảo thuật” gây kinh ngạc đã đánh lừa rất nhiều người. Và quan trọng hơn nữa, là làm sao chúng ta có thể, từ những lời khai của nhân chứng luôn nói thật, suy luận ra được điều gì đã thực sự xảy ra, và nhìn ra chân tướng của toàn bộ vụ việc. Đoạn kết khi tiến sĩ Fell bóc trần sự thật đã thực sự làm mình ngỡ ngàng, vì mình không bao giờ có thể tưởng tượng được mọi chuyện lại là như thế. Có một chút may mắn giúp hung thủ thực hiện được một phần kế hoạch của mình – cái chút may mắn đã thay đổi và xoay vần toàn bộ cách lẽ ra chúng ta phải suy luận. Phần còn lại là một chuỗi ứng biến có, đã lên kế hoạch sẵn cũng có, để đánh lừa các nhân chứng và xoay chuyển bản chất thật của cả hai vụ án. Nói chung là cá nhân mình không thể nào ngờ được lời giải đáp lại là như thế, và mình cũng không thể nào biết được làm cách nào tác giả John Dickson Carr lại có thể nghĩ ra được một câu chuyện như vậy luôn ???? Giờ mình chuẩn bị đặt mua tiếp hai cuốn khác của John Dickson Carr là “Vụ án viên nhộng xanh” và “Chiếc bản lề cong” để ở nhà đọc trong dịp Tết đây ^^ Hy vọng là cũng sẽ hay như cuốn “Người Rỗng” này ???? P.S.: Chụp cái hình sẵn khoe luôn kệ sách mới hí hí hí ????))) Nguyễn Việt Ái Nhi *** NGƯỜI RỖNG – JOHN DICKSON CARR Giáo sư Grimaud trong một buổi tối khi đang nói chuyện với đám bạn thì một kẻ lạ mặt xưng tên là Fley đến thách thức đe doạ. Không lâu sau đó một người khách lạ che mặt đến viếng thăm nhà Grimaud trong phòng làm việc khoá kín. Một tiếng súng nổ vang, mọi người ùa vào phát hiện Grimaud hấp hối nhưng hung thủ biến mất như có phép xuyên thấu. Fley đươc cho là nghi phạm nhưng sau đó mọi người phát hiện hắn bị bắn chết trên phố vắng đầy tuyết trước mặt 3 nhân chứng mà không ai thấy hung thủ. Tiến sĩ Fell sẽ giải đáp 2 tội ác bất khả thi như thế nào…”Người rỗng” hay có tên khác “3 cỗ quan tài” là tác phẩm nổi tiếng nhất của Carr, một cột mốc quan trọng của thể loại trinh thám mật thất. Đây là một vụ án phức tạp với nhiều tình tiết rối rắm xoắn lại với nhau khiến người đọc phải cẩn thận theo dõi. Được cái tác giả khéo léo trong cách dẫn dắt và đan cài các tình tiết bí ẩn bất ngờ khiến người đọc tò mò và không bị nhàm chán. Chân tướng vụ án có thể mượn câu nói của Sherlock Holmes “khi ta loại trừ được các khả năng khác thì khả năng duy nhất còn lại dù phi lý đến đâu thì chính là sự thực”. Dĩ nhiên giải đáp của Fell có chi tiết trùng hợp một cách khó tin khiến bạn đọc sẽ phải ngẩn người kiểu “sao có thể như vậy được?” nhưng thì công nhận đó là cách giải đáp hợp lý nhất và kết nối được các chi tiết khó hiểu lại với nhau. Thủ pháp thì các bạn đọc trinh thám Conan hay Kindaichi sẽ thấy quen thuộc vì cuốn này đã viết gần 90 năm và motif kinh điển này đã được không ít hậu bối quen thuộc học tập biến tấu. Gần cuối tác giả có phần “mật thất giảng nghĩa” nổi tiếng thống kê các kiểu mật thất và biến tấu. Các bạn có thể tham khảo kĩ để mấy cuốn sau của Carr có thể suy đoán được tốt hơn. Nhưng cảnh báo mấy bạn quen kiểu đơn giản dễ vào của trinh thám Tung Của hay kiểu nhanh dồn dập của hiện đại Tây thì nên cân nhắc thận trọng. Dù vậy vẫn khuyến khích các bạn không nên bỏ qua cuốn kinh điển về suy luận mật thất này. P.S Đọc thể loại mật thất hơi mệt não nên sẽ đổi vị một cuốn nhẹ nhàng đã rồi quay về Carr sau. Chấm cá nhân 8/10. Nam Do *** Ta có thể dùng rất nhiều từ ngữ li kì để mô tả vụ sát hại giáo sư Grimaud, cũng như vụ án mạng ở phố Cagliostro sau đó vốn cũng phi thường không kém – quý độc giả sẽ sớm hiểu lí do vì sao thôi. Những người bạn của tiến sĩ Fell yêu thích các vụ án bất khả thi sẽ không thể tìm thấy trong sổ tay vụ án của ông một bí ẩn nào khó hiểu và kinh hoàng hơn thế này. Bởi, để gây ra hai vụ án này, hung thủ không những phải vô hình, mà còn phải nhẹ hơn không khí. Chứng cứ cho thấy hắn hạ sát nạn nhân đầu tiên và biến vào không khí theo đúng nghĩa đen. Chứng cứ cũng cho thấy hắn giết nạn nhân thứ hai ngay giữa một con phố vắng, có nhân chứng ở cả hai đầu. Vậy mà không một ai nhìn thấy hắn, và cũng không có dấu chân nào xuất hiện trên tuyết cả. Lẽ dĩ nhiên, chánh thanh tra cấp cao Hadley không bao giờ tin vào ma thuật. Và ông hoàn toàn đúng – trừ khi quý độc giả tin vào loại phép thuật sẽ từ từ được giải thích trong cuốn sách này vào thời điểm thích hợp. Nhưng có vài người bắt đầu phân vân không biết nhân vật bí ẩn rình rập trong suốt vụ án này có phải là một kẻ vô hình thật sự hay không. Họ bắt đầu tự hỏi nếu bỏ đi cái mũ, tấm áo choàng đen, và chiếc mặt nạ trẻ em, thì liệu có thật là không có gì bên trong không, như người đàn ông trong tác phẩm nổi tiếng của nhà văn H. G. Wells vậy. Nhưng dù có phải thế hay không thì kẻ giết người bí ẩn của chúng ta cũng đã đủ ghê rợn rồi. Đoạn văn mở đầu có dùng cụm từ “chứng cứ cho thấy”. Nhưng chúng ta phải rất cẩn thận với những chứng cứ không do mắt thấy tai nghe. Và để tránh những hiểu lầm không cần thiết, trong vụ án này quý độc giả phải được thông báo ngay từ đầu về những chứng cứ mà quý độc giả có thể tin tưởng tuyệt đối. Điều này có nghĩa là ta phải giả định rằng có người nào đó nói thật – nếu không thì làm gì còn bí ẩn nào nữa, và do đó, cũng chẳng có chuyện gì để kể. Vì thế hẳn phải giả định rằng anh Stuart Mills ở nhà của giáo sư Grimaud đã kể lại toàn bộ sự việc chính xác như những gì anh ta đã chứng kiến trong mỗi vụ án mà không nói dối, không bỏ sót, hay thêm thắt bất kì chi tiết nào. Và cũng phải giả định rằng ba nhân chứng độc lập trong vụ án ở phố Cagliostro (ông Short, ông Blackwin và cảnh sát Withers) đã nói đúng sự thật. Trong trường hợp này, cũng cần phải trình bày một trong những sự kiện dẫn đến hai vụ án trên một cách kĩ càng hơn thay vì để các nhân vật hồi tưởng lại sau này. Sự kiện này chính là điểm then chốt, là bước ngoặt, là thách thức. Và nó sẽ được thuật lại dưới đây theo đúng những gì có trong ghi chép của tiến sĩ Fell, với đầy đủ các chi tiết thiết yếu mà Stuart Mills đã khai với tiến sĩ Fell và chánh thanh tra cấp cao Hadley. Sự kiện này xảy ra vào đêm thứ tư, ngày sáu tháng Hai, ba ngày trước vụ án mạng, ở phòng khách phía sau của quán rượu Warwick trên phố Museum. Tiến sĩ Charles Vernet Grimaud đã sống ở nước Anh được gần 30 năm, và nói thứ tiếng Anh chuẩn giọng Anh. Mặc dù ông hành xử cộc lốc trong lúc hứng khởi, và có thói quen đội chiếc mũ quả dưa chóp vuông lỗi mốt và thắt chiếc ca vát dây màu đen, nhưng trông ông còn giống người Anh hơn cả bạn bè của mình. Không ai biết nhiều về quá khứ của ông. Dù đủ tiền sống mà không cần làm lụng, ông vẫn làm việc vì thích được “bận rộn” và cũng có thu nhập khá. Giáo sư Grimaud từng là một giáo viên, cũng như một giảng viên đại học, và một nhà văn nổi tiếng. Nhưng dạo này ông không làm gì mấy mà chỉ đảm nhiệm một chức vụ không lương gì đó ở Bảo tàng Anh. Đổi lại ông được tiếp cận cái mà ông gọi là “những bản thảo phép thuật cấp thấp”. “Phép thuật cấp thấp” là sở thích đem lại rất nhiều hứng thú cho ông: bất kì thứ ma quỷ siêu nhiên kì lạ nào, từ ma cà rồng cho tới lễ Đen thờ quỷ Satan, đều khiến ông gật gù và cười khúc khích như trẻ con – và chính nó cũng đã đem lại cho ông một viên đạn xuyên qua phổi. Nói chung, Grimaud là một người thông minh, với ánh mắt lúc nào cũng lấp lánh sự tinh quái. Ông nói nhanh nhưng với thái dộ cộc cằn và giọng nói ồm ồm cứ như gồng từ cuống họng lên, và ông có cái điệu cười khùng khục không hở răng. Ông có vóc dáng trung bình, nhưng lại có khuôn ngực tráng kiện và thể chất vạm vỡ. Mọi người ở quanh khu Museum đều quen với bộ râu đen được cạo ngắn đến mức nhìn như đang bạc dần, gọng kính đồi mồi, cùng dáng đi cương nghị mỗi khi ông rảo bước trên đường và giơ mũ chào hay giương ô lên ra hiệu cho họ môt cách vội vã. Ông sống trong một căn nhà cũ vững chãi ở phía tây quảng trường Russell cùng cô con gái Rosette, bà quản gia Dumont, thư kí Stuart Mills, và cựu giáo viên ốm yếu Drayman, một kẻ ăn bám được ông thuê để trông coi sách vở. Nhưng cánh hẩu thực sự của ông thì lại tụ tập ở một cái hội do chính họ lập nên ở quán rượu Warwick trên phố Museum. Họ gặp nhau bốn hay năm tối một tuần – một kiểu họp kín không chính thức – trong một căn phòng biệt lập phía sau quán được dành riêng cho mục đích này. Thực ra đây không phải là phòng riêng của họ, nhưng không có mấy người ngoài từ quầy bar đi lạc được vào đó, mà có vào cũng không được chào đón. Những thành viên thường trực của hội là một chuyên gia kể chuyện ma nhỏ con, đầu hói và kiểu cách tên là Pettis, anh chàng nhà báo Mangan và ông nghệ sĩ Burnaby. Nhưng chính giáo sư Grimaud mới là tiến sĩ Johnson của cả hội – đây là điều không thể bàn cãi. Ông cầm trịch mọi thứ. Gần như mọi tối trong năm (trừ thứ bảy và chủ nhật – những ngày ông dành riêng cho công việc), ông đều được Stuart Mills hộ tống tới quán Warwick. Ông luôn ngồi trên chiếc ghế bành ưa thích của mình trước ngọn lửa nóng rực, với một cốc rượu rum pha nước nóng trên tay, và hò hét diễn xướng theo phong cách mà ông ưa thích. Cuộc nói chuyện, Mills kể, thường rất tuyệt vời, mặc dù không một ai có thể tranh luận được với giáo sư Grimaud, ngoại trừ Pettis và Burnaby. Mặc cho vẻ ngoài nhã nhặn, ông là người rất nóng tính. Không ai bảo ai, mọi người đều hài lòng với việc ngồi yên lắng nghe kho kiến thức của ông về phép phù thủy và những trò phù phép bịp bợm mà kẻ gian trá sử dụng để lừa bịp kẻ cả tin, về tình yêu như trẻ con của ông với bí ẩn và kịch tính: nhiều khi ông kể chuyện về phù thủy thời trung cổ, để rồi vào phút chót lại đột ngột giải thích hiện tượng bí ẩn ấy theo đúng phong cách truyện trinh thám. Những tối như thế thật thú vị và luôn phảng phất phong vị của các quán trọ miền thôn dã, dù họ đang ngồi ấm áp trong một quán rượu dưới ánh đèn dầu của khu Bloomsbury. Những tối thật thú vị, cho tới buổi tối ngày mùng sáu tháng Hai, khi điềm báo của nỗi kinh hoàng ập tới đột ngột như cơn gió thổi toang cánh cửa.   Mời các bạn đón đọc Người Rỗng của tác giả John Dickson Carr.
Chiếc Bản Lề Cong
Nếu Người rỗng khiến óc suy luận của người đọc bị những nút thắt lắt léo gút chặt từng hồi thì Chiếc bản lề cong lại mở ra một vụ án mạng li kì phảng phất nét huyền bí. Ngày nọ, tại một điền trang yên bình do tòng nam tước John Farnleigh làm chủ, khách lạ bỗng xuất hiện tự xưng là John Farnleigh thật, tố cáo trang chủ mạo danh. Khi thật giả chưa phân thì một trong hai người chết một cách bí hiểm. Bốn bề không người nhưng trên cổ nạn nhân lại in hằn ba nhát dao đoạt mạng, cái chết kì lạ này dấy lên nhiều nghi hoặc cho các nhà điều tra. Ngoài yếu tố trinh thám, cốt truyện còn đan xen những tình tiết kì bí như người máy cổ biết cử động, tín đồ Quỷ Đạo đi dự hội lúc nửa đêm… khiến những người duy lý nhất trong một thoáng giây nào đó cũng phải chùng lòng. Trong vụ án này ai chân ai giả? Liệu có tồn tại một kẻ giết người hay phải quy tội ác vào phạm trù siêu nhiên? Khúc mắc chất chồng dẫn dắt độc giả đến với những thủ pháp bất ngờ và suy luận tài tình. Không những thế, thành công của Chiếc bản lề cong còn đến từ tính song hành của quá khứ và thực tại, của tội lỗi và lương tri bao trùm tác phẩm. *** “Đã là bí mật thì phải càng ít người biết càng tốt. Nếu có sẻ chia, thì chỉ nên sẽ chia trong phạm vi rất nhỏ mà thôi. Đông đến chục người không khỏi mất đi thú vị” Tôi đã quyết định biên một bài riêng cho cuốn này của John Dickson Carr, bởi lẽ sự thất vọng quá lớn với phần biên dịch của cuốn này. Dẫu biết, để in ra một cuốn sách là công sức của rất nhiều, mỗi lời chê bai đều phải cẩn thận vì có thể mình đã không hiểu hết lý do họ biên dịch như thế. Nhưng với tư cách là độc giả, chỉ là độc giả đơn thuần thì tôi nghĩ những điều tôi chê ở đây không phải không nên.   John Dickson Carr là ông hoàng mật thất, truyện của ông thường đặt ra những vụ án mà nếu nhìn qua đều là không thể thực hiện được. Chiếc bản lề cong bắt nguồn với câu chuyện của John Farnleigh, tòng nam tước và là chủ một điền trang yên bình. Một ngày nọ, người khách lạ bỗng dưng xuất hiện và tố cáo trang chủ hiện tại là người mạo danh. Khi tất cả đang nằm trong vòng nghi vấn thì một vụ án mạng xảy ra. Và dĩ nhiên, theo phong cách của John Dickson Carr, nơi án mạng xảy ra lại là nơi không thể có cách nghĩ nào ngoài cho rằng nạn nhân tự gây ra. Thế nhưng tất cả nhân chứng không nghĩ ra được tại sao nạn nhân lại chọn phương án đó, trong khi chỉ còn chưa đến 30 phút nữa là sự thật sẽ được sáng tỏ. Trong quá trình giải mã vụ án, những bí ẩn khác như Quỷ đạo, con người máy, những cái chết bí ẩn trước đó lại có liên quan mật thiết đến điền trang với vẻ bề ngoài bình yên đấy. Đây là một cuốn truyện với nội dung rất hay, xứng đáng là cuốn trinh thám của năm. Quả thực nếu không vì những câu dịch ngô nghê theo kiểu “after garden là sau vườn”, những đoạn văn dịch khô khan, và lối sử dụng ngôn ngữ không phù hợp khiến dù không muốn tôi vẫn phải nói đây là bản dịch rất tệ. Thứ nhất, tôi không khó chịu gì việc dùng những ngôn từ địa phương trong các bản dịch. Nhưng nó phải phù hợp. Cuốn Chiếc bản lề cong là 1 trong 3 cuốn thuộc series về Tiến sĩ Fell mà Đông A chọn dịch lần này. Trong khi 2 cuốn kia, không hề có 1 tiếng lóng nào, nhưng ở Chiếc bản lề cong, những từ như: hỉ, chi…xuất hiện quá nhiều, trong những đoạn hội thoại của các nhân vật. Điều này trái ngược hoàn toàn với phong cách của Tiến sĩ Fell ở trong Người rỗng và Vụ án viên nhộng xanh. Thứ hai, việc một cuốn sách sử dụng Ổng – ảnh khiến tôi khá khó chịu. Nên nhớ, với tiếng Anh chúng ta chỉ dùng 2 ngôi trong xưng hộ You – I. Việc dịch như nào là do dịch giả, và lạm dụng ngôn ngữ nói – thay vì ngôn ngữ viết khiến tôi cảm giác đang đọc một bản dịch từ Google Translate, tôi không thấy được sự nhiệt tình, cũng như sự tận tâm trong việc xuất bản một cuốn sách, đặc biệt lại là một cuốn trinh thám nổi tiếng của John Dickson Carr. Thứ ba, những đoạn văn được dịch càng làm tôi thấy người dịch không chỉn chu. Như “trên đường, ánh nắng chiếu lung linh trên rừng kính máy ảnh. Bên cạnh đàn ông, không thiếu những đàn bà.” “Giữa hàng lố đàn ông, Madeline quả là của hiếm, đem đến luồng gió thanh tân” “Trưa hôm sau, khi mưa ấm áp rơi, và mây đen phủ kín bầu trời thôn dã….Ngồi ghế dựa, ông thở nhẹ phì phò…” Tôi không hình dung nổi tại sao 1 cuốn sách lại có thể dùng những từ như lố đàn ông, của hiếm, mưa ấm áp, rồi đã thở nhẹ thì sao còn phì phò, với tôi…đây là lỗi ngữ pháp, và nó càng thể hiện việc thiếu trách nhiệm trong công việc. Tôi từng thấy thất vọng về những bản dịch sách của Simenon, tôi cũng từng thất vọng khi đọc Bắt trẻ đồng xanh. Nhưng đây là lần tôi bức bối nhất, tôi cảm thấy không chỉ là thất vọng mà chán chường. Một cuốn sách được làm ra, lẽ độc giả sẽ thấy hạnh phúc khi cầm trong tay, và được đắm chìm trong một cuốn sách hay thì sẽ thấy đời đẹp biết mấy. Thế nhưng khi cuốn sách hay được biên dịch không cẩn thận, tôi thấy…trong cuộc sống này, chẳng nhẽ lúc nào cũng tồn tại những điều đáng buồn đến thế chăng :”< Twine Aquarius *** Chiếc bản lề cong – John Dickson Carr Trinh thám là một trong những thể loại sách gây hứng thú cho người đọc nhất. Nó bắt người đọc phải lần mò từ những dấu vết nhỏ nhoi và từng chi tiết tưởng như không liên quan, để ghép lại tạo ra một bức chân dung hung thủ của vụ án. Trên thế giới đã có nhiều tác giả nổi tiếng, thành công nhờ những câu chuyện điều tra phá án ly kỳ của mình. Điển hình của thể loại này là Edgar Allan Poe – người tiên phong của nền trinh thám, Sir Conan Doyle với loạt truyện về thám tử Sherlock Holmes, nữ hoàng trinh thám Dame Agatha Christie, hay người được mệnh danh là “Ông hoàng mật thất”, nổi tiếng với các vụ án trong phòng kín – John Dickson Carr. CHIẾC BẢN LỀ CONG – JOHN DICKSON CARR Tác giả John Dickson Carr là tiểu thuyết gia trinh thám người Mỹ, cũng là một trong những gương mặt sáng giá nhất trong thời Kỷ Nguyên Vàng của thể loại trinh thám. Ông có nhiều tác phẩm làm nên tên tuổi của mình như “Người rỗng”, “Vụ án viên nhộng xanh”, hay “Chiếc bản lề cong” – cuốn sách mà mình muốn giới thiệu tới các bạn ngày hôm nay. “Chiếc bản lề cong” là một trong ba cuốn trinh thám cổ điển của tác giả John Dickson Carr mà Đông A mới cho xuất bản. Truyện thuộc thể loại “án mạng trong phòng kín” (locked-room mystery), nơi tội ác được thi hành bằng những thủ pháp tưởng như bất khả thi. Phía cảnh sát thì đau đầu phá án còn người đọc lại thấy đây là một trong những chủ đề hay và thú vị nhất. Bối cảnh câu chuyện được đặt ở địa hạt Kent, miền đông nam nước Anh. Tại đây có vị tòng nam tước John Farnleigh giàu có – người đang sống yên bình bên người vợ của mình là Molly thì bỗng nhiên dính phải vụ tranh chấp khó nhằn. Một người đàn ông lạ bước đến làng Mallingford nơi ông đang ở, tự xưng là John Farnleigh thật và yêu cầu trả lại vị trí thừa kế của mình trong dòng họ. Lạ một điều rằng cả hai người khi so với nhau lại chẳng hề có chung đặc điểm nào từ ngoại hình đến tính cách. Hai vị này đều mang vẻ tự tin, chắc chắn mình là chủ của điền trang Farnleigh, khiến cho những người chứng kiến đau đầu, không phân biệt nổi thật giả. Tranh chấp đang dâng đến cao trào thì một trong hai người bỗng chết một cách dã man. Hiện trường vụ án không thể kết luận là bị sát hại vì nạn nhân hoàn toàn chỉ có một mình, cũng không thể nói hiện trường một vụ tự tử vì có quá nhiều điều đáng lưu tâm. Ngoài ra, án mạng còn liên quan tới các yếu tố tâm linh, rùng rợn về nhóm Quỷ Đạo với tục thờ quỷ Satan, con người máy biết cử động, hay cả vụ đắm tàu Titanic năm 1912. Vụ án này được “chăm lo” bởi tiến sĩ Fell – nhân vật chính trong nhiều tiểu thuyết trinh thám ăn khách của John Dickson Carr. Điều mình ấn tượng nhất trong mọi cuốn trinh thám, cũng như nhiều người khác, là phần phá án ở cuối truyện. Plot-twist của cuốn này quá ổn. Đọc đến đoạn tưởng không thể bị lừa được nữa mà vẫn bị tác giả đẩy cho ngã ngửa. Câu chuyện được bao trùm bởi bí ẩn, điều này lại liên can tới điều kia. Nhưng may quá, tác giả không ôm đồm mọi thắc mắc đến cuối cùng mới chịu giải thích mà lần lượt được nhân vật khám phá ra trong quá trình đi tìm câu trả lời cho câu hỏi lớn nhất: Ai giết ngài John Farnleigh? Hệ thống nhân vật được xây dựng ổn, mỗi người một tính cách, không bị lẫn lộn. Truyện được bắt đầu bằng góc nhìn của Page, một tác giả viết sách. Chúng ta sẽ theo dõi câu chuyện từ đầu đến cuối bằng cách đi theo nhân vật này. Có lẽ vì các nhân vật đều được xây dựng tốt, thành ra tiến sĩ Fell – thám tử chính của câu chuyện – hiện lên khá mờ nhạt ở phần đầu và giữa truyện. Ông được miêu tả là một người to lớn, cảm giác choán hết cả không gian khi ngồi trong phòng của Page. Phần về tính cách của tiến sĩ lại không được miêu tả kỹ, chỉ nhận thấy ông có bộ óc suy luận siêu phàm cùng khả năng soi các chi tiết liên quan đến vụ án, kể cả ánh mắt của một người cũng khiến ông biết được chân tướng. Truyện mang không khí khá rùng rợn nhờ sự xuất hiện của các yếu tố độc dược, ma quái bùa chú, và sự bí ẩn của con người máy biết cử động. Độ hù dọa của truyện cũng khá nhẹ nên độc giả không cần phải lo lắng quá. Trong quá trình đi tìm sự thật, có nhiều sự kiện xảy ra, vừa rời rạc vừa móc nối với nhau khiến khán giả hơi rối nhưng đến cuối cùng vẫn được tiến sĩ Fell xâu chuỗi lại một cách hợp lý. Chiếc bản lề cong – tên cuốn sách – tưởng chẳng liên quan gì nhưng lại là một trong những yếu tố quan trọng nhất. Tất cả các bí ẩn đều được giải thích một cách thuyết phục khiến người đọc thỏa mãn. Tóm lại, đây là một cuốn sách khá phù hợp cho những bạn yêu thích trinh thám cổ điển, thích phá án đơn thuần và mong muốn có một chút rùng rợn của bùa chú, ma thuật, những lần di chuyển dị thường của con người máy, hay thích thú trước sự liên quan đến một trong những sự kiện lớn của lịch sử như vụ đắm tàu Titanic năm 1912. Dieu Linh Nguyen *** CHIẾC BẢN LỀ CONG Chiếc Bản Lề Cong Tác giả: John Dickson Carr Dịch giả: Nguyễn Minh John Dickson Carr hiện đã được Đông A xuất bản 3 cuốn, và đây là cuốn đầu tiên tôi lựa chọn để đọc. Tôi đọc tác phẩm này mà không tìm hiểu quá nhiều về cuốn sách, chỉ biết rằng John Dickson Carr là ông hoàng của trinh thám mật thất, những vụ án không tưởng. Và quả nhiên, vụ án trong Chiếc Bản Lề Cong đúng là không tưởng. Một người đang sống sờ sờ bên mé sông, đột nhiên bị cắt cổ chết mà không ai nhìn thấy hung thủ, cũng không ai thấy được có người nào tiếp cận nạn nhân. Vậy nhưng, giả thiết nạn nhân tự vẫn có quá nhiều điểm bất hợp lý, lung lay dữ dội dù cho có nhiều nhân chứng cùng khẳng định không thấy ai tiếp cận nạn nhân. Cùng với đó là cuộc chiến hấp dẫn để tìm ra ai mới là John Fernleigh thật, những bí ẩn xoay quanh người máy biết cử động cùng hội kín chết người. Tôi không biết có phải là do vụ án lần này khá phức tạp rắc rối và cần rất nhiều thời gian để kể những câu chuyện trong quá khứ và đủ thứ bí ẩn ở hiện tại hay không, mà tiến sĩ Fell – thám tử chính của câu chuyện – có cá tính hơi mờ nhạt. Đỉnh cao của ông là ở khúc cuối với màn suy luận lật lại đầy bất ngờ, không thể tưởng tượng nổi. Cá tính của các nghi can trong cuốn này không quá mờ nhạt, đủ để nhớ mặt đặt tên từng người, nhưng không có ai thú vị như trong các tác phẩm của Agatha. Bí ẩn thì nhiều nhưng giải quyết được triệt để mặc dù nó khiến bí ẩn chính hơi mờ đi một chút. Nhưng bởi đây là lần đầu tiên tôi đọc một cuốn trinh thám với cái kết không tưởng có 1 không 2 kiểu như thế này, ấn tượng vẫn rất đậm nét. Cái tên Chiếc Bản Lề Cong tưởng không liên quan mà lại liên quan không tưởng, con người máy thì có tác dụng hù dọa rất tốt, làm tôi nhiều phen sởn gai ốc khi đọc trong đêm. Chốt lại thì Chiếc Bản Lề Cong đủ làm hài lòng các fan trinh thám cổ điển và khơi dậy hứng thú tìm đọc John Dickson Carr nhiều hơn. Nam Tran *** Tại Kent, ngồi cạnh cửa sổ hướng ra vườn, bên bàn viết bày bừa đầy sách vở, Brian Page cảm thấy ngán ngẩm, chẳng muốn làm việc. Nắng chiều tháng bảy chiếu qua khung cửa, nhuộm vàng sàn nhà. Cái nóng mơ màng làm dậy lên mùi sách và mùi gỗ, cả hai đều cũ kĩ như nhau. Phía trại táo sau vườn, một chú ong bắp cày lởn vởn bay vào. Page vẫn ngồi yên, chỉ khẽ xua nó đi. Bên kia vườn nhà Page, quãng trên quán trọ Bò Và Đồ Tể, con đường uốn khúc trong khoảng một phần tư dặm, giữa những nông trại trồng cây ăn trái, băng ngang cổng chính điền trang Farnleigh Close. Từ chỗ Page ngồi, có thể thấy cụm ống khói của điền trang thanh mảnh nhô lên, lẩn khuất sau những tàng cây. Ra khỏi điền trang, đường bò lên dốc, vắt qua cánh rừng mang cái tên đầy thơ mộng là Rèm Treo. Đất vùng Kent vốn bằng phẳng, pha màu xanh tái, nâu nâu, vốn hiếm khi rực rỡ, thế mà giờ đây trông chói lóa. Ngay các ống khói gạch của điền trang cũng như nhấp nhoáng sắc màu. Từ điền trang, xe Nathaniel Burrows chạy dọc theo đường, tốc độ chậm song phát ra âm thanh ầm ĩ, đứng xa tít cũng nghe thấy. Cái làng Mallingford sao lắm chuyện thế, Brian Page ngồi lười nhớ lại. Lắm chuyện thật chứ chẳng chơi, có bằng chứng hẳn hoi. Mới hè rồi, cô Daly ngực bự bị một gã lang thang bóp cổ chết, đoạn chính gã ấy cũng chết một cách rất li kì, khi đang cố vượt đường ray. Và tháng bảy này, vừa tuần trước thôi, hai người lạ bỗng xuất hiện tại quán Bò Và Đồ Tể trong hai ngày liên tiếp. Một người là nghệ sĩ. Người kia (chả biết nghe ai nói) là thám tử. Cuối cùng đến chuyện hôm nay: Bạn của Page, Nathaniel Burrows, luật sư khu Maidstone, cứ chạy tới chạy lui đầy bí ẩn. Không ai biết rõ, nhưng dường như tại Farnleigh Close xảy ra sự không hay. Trước đó, như thường lệ, Page nghỉ tay vào giấc trưa, ghé Bò Và Đồ Tể làm một vại bia trước khi dùng bữa. Nhưng ngồi trong quán mãi chẳng nghe thấy ai đồn thổi gì. Thật bất thường! Page ngáp dài, đẩy sách sang bên. Chuyện gì đang khuấy động Farnleigh Close nhỉ? Từ đời vua James Đệ Nhất, thuở Inigo Jonesxây nên điền trang cho vị tòng nam tước đầu tiên, bên ấy có mấy khi động tĩnh đâu. Dòng họ Farnleigh truyền mãi lâu dài đến ngày nay, đời đời đều ở đấy. Ngài John Farnleigh, vị tòng nam tước xứ Mallingford và Soane hiện tại, kế thừa từ cha ông một tài sản lớn và ruộng đất phì nhiêu. Ngài Farnleigh da ngăm, tính hơi thất thường. Vợ ngài là Molly thì thẳng thắn. Page quý mến cả hai. Cuộc sống nơi đây phù hợp với Farnleigh, nên ngài sung sức lắm. Quả tình, trông ngài là biết ngay điền chủ, dù bấy lâu nay ngài sống ở xa, gần đây mới quay về. Tại Farnleigh Close, ngài cũng bệ vệ, thông thường như mọi ông chủ khác, nhưng thực sự, đời ngài vốn lãng mạn, li kì như tiểu thuyết, khiến Page phải mê. Li kì từ chuyến hải hành đầu tiên, cho đến đám cưới với cô Molly Bishop hơn một năm trước. Những chuyện ấy càng chứng tỏ làng Mallingford là nơi thú vị lạ thường. Hết ngáp và cười vu vơ, Page cầm bút lên. Trời ạ, lại phải làm việc rồi! Page nhìn xuống tác phẩm dang dở bên dưới khuỷu tay. Cuốn Cuộc đời các chánh thẩm nước Anh này, anh muốn nó vừa mang tính hàn lâm, vừa hấp dẫn đại chúng. Đến nay, việc viết lách diễn ra tốt đẹp, không thể mong gì hơn. Page đang viết đến ngài Matthew Hale. Thôi thì những ngoại truyện, những việc bên lề cứ chen nhau tràn vào trong sách. Mà chúng tràn vào chẳng qua vì Page không muốn đuổi chúng đi. Nói thẳng ra, Page chẳng mong sẽ hoàn thành được cuốn sách. Ngay hồi còn học luật, anh đã có thái độ “tưng tửng” như vậy. Anh quá nhác, không thể viết sách theo lối học thuật chân chính, nhưng bởi thích tìm tòi và dẫu sao cũng là thức giả, nên bỏ hẳn học thuật đi thì lại không an lòng. Soạn xong sách hay không chả quan trọng. Nhưng Page tự răn mình phải làm việc, rồi cứ thế thoải mái sục sạo vào đủ các ngõ ngách mê li của chủ đề. Cuốn sách bên cạnh Page đề dòng chữ: Phiên xử phù thủy, tòa lưu động, tại Bury St. Edmonds, hạt Suffolk, diễn ra ngày 10 tháng 3 năm 1664, trước sự hiện diện của ngài Matthew Hale, hiệp sĩ, chánh thẩm Pháp viện Tài chánh Hoàng gia in cho D. Brown, J. Walthoe, và M. Wotton, 1718. Đấy là một ngõ ngách Page vừa dạo qua. Dĩ nhiên, ngài Matthew Hale chẳng dính líu bao nhiêu tới phù thủy. Song điều đó chẳng ngăn Page viết tới nửa chương nếu cảm thấy thích. Thở một hơi khoan khoái, Page lôi xuống từ kệ một cuốn sách đã sờn của Glanvill. Vừa bắt đầu săm soi sách, anh nghe tiếng bước chân trong vườn, rồi tiếng gọi bên ngoài cửa sổ. Chính là Nathaniel Burrows, tay đang đung đưa cặp tài liệu, làm một cử chỉ chẳng ra dáng luật sư tí nào! Mời các bạn đón đọc Chiếc Bản Lề Cong của tác giả John Dickson Carr.