Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Giải Khăn Sô Cho Huế (Nhã Ca)

TỰA NHỎ: VIẾT ĐỂ CHỊU TỘI

Tôi được sinh ra ở Huế, lớn lên với Huế, nhưng khi trưởng thành, đã rời gia đình, bỏ thành phố và ra đi biền biệt.

Hồi trước Tết Mậu thân, hôm 23 tháng chạp năm mùi, đang cùng chồng con cúng ông táo, tôi bỗng nhận được điện tín từ Huế: về ngay, ba hấp hối.

Với một gói hành lý vội vàng, đứa con hư hỏng của gia đình và thành phố là tôi, đã trở lại Huế để chụi tang người cha thân yêu. Và rồi như bao người khác, đã phải chịu luôn cái tang lớn cho cả thành phố, khi biến cố tết Mậu Thân bùng nổ.

Sau cả tháng dài lạn lọn trong địa ngục Huế, khi sống sót trở về Sàigòn, tôi đã thao thức mãi về việc phải thất một giải khăn sô cho Huế, phải viết một hồi ký về những ngày giờ hấp hối của Huế. Nhưng thời sự những ngày sau biến cố Tế Mậu Thân ồn ào quá, bên cạnh cơn khóc than vật vã của Huế, người ta còn bận bịu với việc khai thác những chi tiết ly kỳ của chiến cuộc, những thành tích chiến thắng trên tro tàn, thật chưa phải là lúc viết ra những sót sa, tủi nhục, tuy tầm thường nhất, nhưng cũng lại là sâu sác nhất của một thành phố hấp hói. Tìm mua: Giải Khăn Sô Cho Huế TiKi Lazada Shopee

Chính vì vậy mà sau khi phác họa một vài nét đại cương trên nhật báo Sông hồi ấy, mặc dù được tòa soạn yêu cầu tiếp tục và sau đó được nhiều nhà xuất bản thúc dục, tôi cũng đã cố gắng ngưng lại. Phải ngưng lại, để nếu không nghiền ngẫm được kỹ hơn, thì ít ra cũng tách rời được khỏi những hậu ý xô bồ của thời cuộc, để chờ đợi một giây phút yên lặng hơn, trầm tĩnh hơn, khi viết về Huế.

Cái thời gian chờ đợi ấy, đến nay, đã gần hai năm qua, Hai năm, hài cốt cả chục ngàn dân Huế bị tàn sát, vùi nông ở bờ bụi, vứt bỏ xuống đáy sông đáy suối, đã được thu nhặt dần. Những nấm mồ tập thể đã tạm thời xanh cỏ. Những nền nhà đổ nát đã tạm thời dựng lại. Cơn khóc than vật vã của Huế, những tiếng nói xô bồ về Huế, như vậy, cũng đã bớt ồn ào.

Đây, chính là lúc chúng ta có thể cùng nhau chít lại giải khăn sô, đốt lại nén hương nhỏ trong đêm tối mênh mông của chiến tranh và tang tóc, để hồi tưởng về Huế.

Có nhiều loạt súng đạn, nhiều loại tang tóc, đã nổ và đã tàn phá Huế. Công trình ấy không biết từ đâu, nhưng dù do đâu đi nữa, thì cái tội ác tàn phá một thành phố lịch sử là Huế, chính thế hệ chúng ta, thời đại chúng ta, phải chụi trách nhiệm.

Chính trong thế hệ chúng ta đây, đã có Đoan, một cô bạn học cùng lớp với tôi ngày nào, đang ngồi trên ghế đại học ở Sàigòn, bỗng về Huế, đeo băng đỏ nơi tay, dát súng lục bên hong, hâng hái đi lùng người này, bắc người khác, để trở thành một nữ hung thần trên cơn hấp hối của Huế.

Chính trong thế hệ chúng ta đây, đã có Đắc một sinh viên trẻ trung, hăng hái. Thời trước Đắc làm thơ, Đắc tranh đấu, rồi bỏ ra khu. Để rồi trở lại Huế lập những phiên tòa nhân dân, kêu án tử hình hàng loặt người, rồi đích tay đào một cái hố, bắt một bạn học cũ có xích mích từ trước ra đứng bên hố, để xử tử. Cậu bạn của Đắc, tên Mậu tý, dơ cái băng đỏ dấu hiệu giải phóng quân lên cao, lạy van Đắc:

- Em lạy anh. Bây giờ em theo các anh rồi mà. Em có mang băng đỏ rồi mà. Cách mạng muôn năm... Hồ chủ tịch muôn năm.

Nhưng mặc Mậu Tý năn nỉ, hoan hô, Đắc vẫn nhất định nổ súng vào người bạn nhỏ.

Chính trong thế hệ chúng ta đây, đã có từng đoàn người, hàng trăm người, cha có, sư có, già có, con trẻ có, mỗi người cầm một lá cờ trắng để ra dấu đầu hàng bất cứ phe nào, đi thất thểu trong một thành phố đầy lửa cháy. Cứ như thế chạy ngược chạy xuôi, cho đến khi gục ngã gần hết.

Cũng chính trong thời đại chúng ta, ngày thứ hai mươi mấy trong cơn hấp hối của Huế, đã có một con chó nhỏ kẹt giữa hai lằn đạn, chạy ra sủa bâng quơ ở bên bờ sông Bến Ngự. Con chó thành mục tiêu đùa rỡn cho những mũi súng hờm rẵn từ bên kia sông. Họ bắn cho con vật khốn khổ sợ hãi rơi xuống sông. Rồi lại bắn vào những bờ sông mà con chó nhỏ đang lóp ngóp bơi vào. Những phát súng đùa cợt không có tình bắn chết con chó nhỏ, mà chỉ có trêu chọc cho con chó chới với giữa giòng nước, để có chuyện đùa chơi với máu lửa. Thành phố Huế, và có lẽ cả quê hương khốn khổ của chúng ta nữa, có khác gì thân phận của con chó nhỏ đã chới với giữa giồng nước ấy. Thế hệ chúng ta, cái thế hệ ưa dùng những danh từ đẹp đẽ phô trương nhất, không những chúng ta phải thắt một giải khăn sô cho Huế, cho quê hương bị tàn phá, mà còn phải chịu tội với Huế, với quê hương nữa.

Gần hai năm đã qua, hôm nay, nhân ngày giỗ thứ hai của biến cố tàn phá Huế sắp trở lại, tôi xin viết và xin gửi tới người đọc tập giải khăn sô cho Huế này như một bó nhang dèn góp giỗ.

Xin mời bạn, chúng ta cùng thấp đèn, châm nhang, chịu tội với quê hương, với Huế.

Sàigon, năm Dậu.

NHã CA

***

Nhã Ca, tên thật là Trần Thị Thu Vân (sinh 1939), là một nữ văn sĩ người Việt với nhiều tác phẩm viết thời Việt Nam Cộng hoà, hiện định cư ở Hoa Kỳ.

Nhã Ca sinh trưởng tại Huế đến năm 1960 thì vào Sài Gòn nơi bà bắt đầu viết văn. Trong thời gian 1960 - 1975, 36 tác phẩm của bà được xuất bản gồm nhiều thể loại như thơ, bút ký và tiểu thuyết. Một số tác phẩm của bà lấy xứ Huế làm trọng điểm.

Theo lời kể của ông Nguyễn Đắc Xuân (nhà văn) thì bà vốn là một nữ sinh Huế (cùng thế hệ với Nguyễn Đắc Xuân), bỏ học Trung học vào Sài Gòn đi theo Trần Dạ Từ - một người Bắc di cư. Trần Dạ Từ viết báo chống các Phong trào tranh đấu chống Mỹ, hai vợ chồng Trần Dạ Từ và Nhã Ca là hai cây viết tâm lý chiến của Đài Tự do của Mỹ (Đài có nhiệm vụ tuyên truyền chiêu hồi và viết bài tấn công về tư tưởng đối với binh lính đối phương)

Cũng vì nội dung trong những tác phẩm của bà, sau năm 1975, Nhã Ca bị chính quyền giam hai năm vì tội "biệt kích văn hóa" (có cuốn sách mang tên là ‘Biệt Kích Văn Hoá’ do các học giả, nhà văn ủng hộ Mặt trận giải phóng như Trần Văn Giàu, Lữ Phương, Vũ Hạnh... viết về 10 tác giả miền Nam. Trong sách này, ngoài bà có Hồ Hữu Tường, Nguyễn Mạnh Côn, Nhất Hạnh, Doãn Quốc Sỹ, Võ Phiến...). Trong tù, bà bị biệt giam và chính quyền tiến hành chính sách "khoan hồng, nhân đạo của Đảng" nhằm hạ gục uy tín của bà. Chính cuốn Giải khăn sô cho Huế bị liệt vào hạng tối kỵ, trưng bày trong "Nhà Triển Lãm Tội Ác Mỹ Ngụy" là chứng tích kết tội bà. Chồng bà, nhà văn Trần Dạ Từ, thì bị giam 12 năm. Do sự can thiệp của hội Văn Bút Quốc tế phối hợp với hội Ân xá Quốc tế và thủ tướng Thuỵ Điển Ingvar Carlsson, bà được sang Thuỵ Điển tỵ nạn. Năm 1992 bà cùng gia đình sang California định cư và lập hệ thống Việt Báo Daily News tại Quận Cam.

Theo nhà văn Nguyễn Đắc Xuân thì cặp vợ chồng Trần Dạ Từ - Nhã Ca còn từng phụ trách nguyên cả một chương trình của đài Á Châu Tự do (RFA) của Mỹ.Dưới đây là những tác phẩm đã xuất bản của tác giả "Nhã Ca":Bước Khẽ Tới Người ThươngĐường Tự Do - Sài GònGiải Khăn Sô Cho HuếHoa Phượng Đừng Đỏ NữaTruyện Ngắn - Nhã Ca

Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Giải Khăn Sô Cho Huế PDF của tác giả Nhã Ca nếu chưa có điều kiện.

Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.

Nguồn: thuviensach.vn

Đọc Sách

Tây Du Ký
Tây Du Ký Tây Du Ký là một trong tứ đại danh tác của văn học cổ điển Trung Quốc. Đây cũng là pho tiểu thuyết mang tính thần thoại và truyền thuyết dân gian Trung Quốc được yêu thích và lưu truyền rộng rãi trong lịch sử. Tác phẩm được chuyển thể thành phim và nhận được sự yêu mến của đông đảo khán giả nhiều nước trên thế giới. Trong kho tàng hơn 300 bộ trường thiên tiểu thuyết thời Minh – Thanh Trung Quốc, Tây du ký là tác phẩm có một vị trí đặc biệt. Đó là tiểu thuyết lãng mạn mang màu sắc thần thoại hiếm có trong lịch sử văn học Trung Quốc. Tây du ký kể chuyện Tôn Ngộ Không cùng Trư Bát Giới và Sa Hòa Thượng phò Đường Tăng sang phương tây (Ấn Độ ở về phía tây Trung Quốc). Đường đi gặp biết bao gian nan trắc trở, tổng cộng 81 nạn, cuối cùng đến được xứ sở của Phật Tổ, mang kinh Phật truyền bá về phương đông. Tây Du Ký – Ngô Thừa Ân Hành trình này kéo dài 17 năm, trải qua rất nhiều sự kiện, biến cố. Câu chuyện có thật này vốn đã mang màu sắc huyền thoại và được truyền tụng rộng rãi trong dân gian. Ngô Thừa Ân là người tập hợp và gia công cuối cùng những câu chuyện về chuyến hành trình đó. Dưới ngòi bút sáng tạo của ông, Tây du ký không những trở thành một tác phẩm có dung lượng đồ sộ (100 hồi), mà tính tư tưởng cũng được nâng cao, nhân vật có tính cách rõ nét, văn phong uyển chuyển, khúc chiết. Tam Quốc Diễn Nghĩa 284 Anh Hùng Hào Kiệt Của Việt Nam Thủy Hử Một đặc điểm trong Tây du ký vô cùng thu hút bạn đọc là cách tác giả tập trung khắc họa tính cách nhân vật trong đoàn thỉnh kinh. Đường Tăng là một hòa thượng thành tâm sùng đạo, bền gan quyết chí theo đòi việc lớn, nhưng đồng thời cũng là một trí thức phong kiến chịu sự ràng buộc của đủ thứ lễ nghi quy tắc, lại ít được tôi luyện trong thực tế cuộc sống, trói gà không chặt, do đó thường lúng túng và bó tay trước khó khăn. Trư Bát Giới là một nhân vật được xây dựng rất xuất sắc, đặc biệt là trong yêu cầu cá thể hóa tính cách. Ở Trư Bát Giới chúng ta lại tìm thấy tất cả những cái bình thường, thậm chí hèn mọn của con người. Hình tượng độc đáo nhất trong Tây du ký là hình tượng nhân vật anh hùng nổi loạn Tôn Ngộ Không. Đó là một kiểu hiệp sĩ chống trời, một loại anh hùng mà đặc trưng tính cách là phản kháng, nổi loạn, dám đấu tranh và biết đấu tranh.
Thủy Hử
Thủy Hử Thủy Hử – Thị Nại Am Thủy Hử (nghĩa đen là “bến nước”) là một trong Tứ đại danh tác của văn học cổ điển Trung Quốc. Đây là pho tiểu thuyết được ưa thích và lưu truyền rộng rãi trong lịch sử, khắc họa thành công hình tượng những anh hùng hảo hán võ nghệ cao cường, giàu lòng vị tha, xả thân vì nghĩa. Cốt truyện là sự hình thành và những chiến tích của cuộc khởi nghĩa nông dân chống triều đình nhà Tống, do Tống Giang lãnh đạo. Thủy hử phản ánh thực trạng trong xã hội phong kiến muôn đời: “quan bức thì dân phản”. Và thời thế đó đã tất yếu đã sinh ra những “Anh hùng thời loạn” – những người có khả năng dựng ngọn cờ “Thế thiên hành đạo” để quy tụ lực lượng quần chúng lao khổ nhất tề đứng lên chống cường quyền áp bức, đó chính là 108 Anh hùng Lương Sơn Bạc. Bên cạnh việc xây dựng rất thành công hàng loạt nhân vật anh hùng hảo hán, Thủy Hử hấp dẫn người đọc còn ở cách kể chuyện gần gũi với truyện kể dân gian. Thủy Hử giữ được tính sống động của nhân vật trong ngôn ngữ gần gũi với đời sống hằng ngày, trong lối hành văn ít trang sức tô điểm.” Xem thêm: Tam Quốc @ Diễn Nghĩa Tây Du Ký Hiệp Khách Hành Ở nước ta, bản dịch của Á Nam Trần Tuấn Khải được nhiều người yêu thích bởi văn phong hàn lâm, trau chuốt. Á Nam Trần Tuấn Khải đã dịch từ bản Thủy Hử gồm 70 hồi chính truyện, 140 câu đề mục do Kim Thánh Thán – một nhà phê bình nổi tiếng đời Thanh soạn lại. Đây là bản Thủy Hử phổ biến nhất, giữ được tinh hoa cốt truyện, văn chương được gọt dũa, nhuận sắc. Thư viện Ebook Sách Mới mời bạn đón đọc. Đừng quên đăng ký email để nhận sách hay mỗi tuần.
Buồn Làm Sao Buông
Buồn Làm Sao Buông Buồn Làm Sao Buông – Anh Khang Cuộc đời vốn nhiều nỗi buồn, hẳn vậy. Có điều, tôi lại dành khá nhiều nỗi buồn của những ngày còn trẻ cho duy nhất một điều – là Tình yêu. Nghe qua có vẻ vị kỷ, bởi ngoài kia còn biết bao điều đáng để chùng chân, nặng lòng và nghe nước mắt lưng tròng rơi, tại sao cứ phải cố chấp vì tình yêu đã cũ mà tự làm mòn xói đi cảm xúc của mình? Chắc bởi vì có những ký ức dù đã hao gầy cách mấy nhưng giống như không khí vậy, cứ phải nhắc đi nhắc lại, tựa hơi thở một phút phải đủ chừng ấy lần. Chỉ cần thiếu mất sẽ không thở được, thậm chí phải ngừng nhịp tim đi. Đọc thêm: Xin Lỗi Em Chỉ Là Con Đĩ! Thiên thần sa ngã Hồng Lâu Mộng Thế nên, chừng nào còn thở là chừng ấy còn nhớ và buồn. Đều đặn. Bình lặng. Kiên tâm. Ký ức sở dĩ không thể mất mát là bởi chúng ta còn quá trẻ trước trăm năm, những ngày đã qua xem ra ít ỏi lắm nếu so với con đường còn dài trước mắt. Vì lẽ đó mà những lần đầu tiên chạm ngõ ký ức luôn để lại trong lòng những xốn xang, bần thần và khắc sâu hơn cả. Cái nắm tay đầu tiên, nụ hôn đầu tiên, người thương đầu tiên… nghiễm nhiên trở thành không khí tiếp thở cho ta mỗi ngày. Dẫu rằng chuyện hai đứa mình ngày xưa ấy, nhắc lại bây giờ chỉ thấy toàn những đổi thay. Phải học cách buông bỏ nỗi buồn để đôi tay thảnh thơi mà nâng chiều niềm vui sắp tới… Bởi buồn hay vui, buông hay giữ, đều do ở lòng mình!
Những Cuộc Phiêu Lưu Của Tom Shawyer
Những Cuộc Phiêu Lưu Của Tom Shawyer Những Cuộc Phiêu Lưu Của Tom Shawyer – Mark Twain Những cuộc phiêu lưu của Tom Sawyer là tiểu thuyết nổi tiếng của Mark Twain viết về cuốc sống của một chú bé sống tại một ngôi làng nghèo bên sông Mississippi. Với bản tính hiếu động, Tom Sawyer không lúc nào chịu yên. Chú quậy phá đủ trò tai quái từ trốn học, lừa bạn bè sơn hàng rào, cầm đầu lũ trẻ đánh nhau cho đến chữa mụn cóc ngoài nghĩa trang, “đính hôn” với cô bạn Becky, hay ra đảo sống đời cướp biển. Thế nhưng, cũng trong những chuyến phiêu lưu ấy, Tom và bạn bè đã khám phá ra một vụ giết người, phá tan âm mưu của toán cướp, cứu được Becky, tìm thấy kho báu và trở thành anh hùng của thị trấn. Những cuộc phiêu lưu của Tom Sawyer tắm trong một không khí hoạt náo, tươi vui và lấp lánh những màu sắc rực rỡ của trẻ em. Tài kể chuyện của Mark Twain khiến người đọc vừa bị cuốn hút, vừa lo âu đồng thời liên tục bật cười trước những tình huống kịch tính liên tiếp. Đọc thêm: 80 Ngày Vòng Quanh Thế Giới Đảo Giấu Vàng Mật Mã Da Vinci Tác giả còn lồng vào những đoạn văn châm biếm xã hội vô cùng hài hước và sâu sắc. Trên hết, ông miêu tả xuất sắc tính cách, tâm lý, hành động của một Tom Sawyer thông minh, nghịch ngợm nhưng dũng cảm và có một tấm lòng nhân hậu, giàu tình nghĩa. Từ khi ra đời cho đến nay, Tom Sawyer đã trở thành người bạn thân thiết của các thế hệ trẻ em trên khắp thế giới. Tác phẩm này cũng nhiều lần được chuyển thể thành phim và hoạt hình tại nhiều quốc gia.