Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Trên Con Đường Tơ Lụa Nam Á

Không hẳn chỉ những ngày rằm lớn, mỗi khi buồn hay gặp những chuyện không hay trong cuộc sống mẹ tôi lại đến chùa. Trong ký ức của tôi, ngôi chùa tuổi thơ luôn đẹp đẽ với cây Bồ Đề to gốc xanh lá đứng reo giữa trời xanh và tán của cây rộng lớn đến mức dường như ôm cả mái chùa được lợp bằng lá dừa vào lòng vuốt ve. Những lần chơi dưới gốc cây Bồ Đề tỏa mát quanh năm, ngọn gió thổi qua làm cây vặn mình răng rắc cũng đủ khiến tôi chết khiếp bởi tưởng tượng ra một thế lực vô hình nào đó đang hiện hữu quanh mình. Mẹ tôi dạy rằng, mỗi lúc con sợ sệt điều gì đó, hãy nhắm mắt lại và niệm “Nam Mô A Di Đà Phật”. Dù khả năng hấp thụ của trẻ thơ chẳng là bao nhưng từ đó, câu chú ấy như một niềm tin mà tôi cố vận vào mình để giải quyết mọi vấn đề diễn ra trong cuộc sống. Mùa hè năm 1986, tôi lại sống trong kỷ niệm khi bộ phim Tây Du Ký được trình chiếu. Mỗi khi nghe bản nhạc dạo đầu bộ phim, tôi luôn phải bỏ dở việc đang làm, xin phép mẹ chạy sang nhà hàng xóm kế bên xem ké. Tôi vẫn thuộc lòng đoạn hát: “Thấp thoáng chân mây biết phương nào, thấp thoáng chân mây xa tít mù, về Thiên Trúc còn quá xa, bao khó khăn vượt qua…” Và cứ mỗi mùa hè trôi qua, tôi lại cảm nhận thêm thông điệp mà bộ phim muốn truyền tải: Người giỏi bao giờ cũng khó khăn trên con đường đi của mình bởi xu thế nịnh hót luôn được ưa thích. Khi gặp phải khó khăn, Tề Thiên Đại Thánh luôn nhờ sự giúp đỡ của các vị Tiên, Phật giống như con người lúc bế tắc tìm đến Phật Pháp để lấy lại niềm tin. Với tôi, dù mỗi tôn giáo có nguồn gốc hình thành, tâm linh, đấng tối cao hay cơ cấu tổ chức khác nhau nhưng chung quy cơ bản vẫn là khơi dậy tính thiện trong mỗi con người bởi thiện và ác chỉ có ranh giới mong manh như sợi chỉ. Biết tôi yêu thích con đường tơ lụa, em gái Khải Đơn tặng tôi quyển sách Muôn dặm không mây của bà Tôn Thư Vân để làm bạn tâm giao. Tôi say mê đọc quyển sách ấy trong hành trình 25 ngày Thái Lan, Madagascar và Mauritus sau khi nghỉ việc, mặc kệ điện đóm ở Madagascar rất chập chờn. Thú vị ở sự trùng khớp đến 95% với những cung đường tôi đã đi qua dù rằng trước đây chưa từng đọc quyển sách ấy, giúp tôi nhìn lại quá khứ và hiện tại các thành phố Nam Á nằm trên con đường tơ lụa từ khi tôi đặt chân đến quốc gia Nam Á đầu tiên là Ấn Độ vào ngày 6/2/2008. Đồng thời, đó còn là động lực để thôi thúc bước chân tìm hiểu cuộc sống của người bản địa trong thời loạn lạc chiến tranh ở Afghanistan bởi cụm từ “loạn lạc chiến tranh” tôi chỉ nghe qua lời kể của mẹ mà chưa từng được trải nghiệm bao giờ. Khi thời gian lướt qua để lại vài nếp nhăn trên khuôn mặt, tôi cần lắm “giá trị” của những chuyến đi hơn là cái háo hức chinh phục rồi bồng bột tháo chạy như thời tuổi trẻ. Như tên gọi của nó, con đường tơ lụa do những người Trung Hoa sáng lập có từ những năm 220 trước Công nguyên để giao thương tơ, lụa và gấm đến các quốc gia lân cận. Điểm bắt đầu là các thành phố Hàng Châu, Phúc Châu và Bắc Kinh – những nơi nổi tiếng trong việc sản xuất tơ lụa từ việc nuôi tằm lấy kén. Không chỉ sản xuất phục vụ cho hoàng đế và giai cấp quý tộc, người Trung Hoa còn muốn giao thương mặt hàng gấm, lụa của mình đến các quốc gia lân cận như Mông Cổ, Hàn Quốc và Nhật Bản. Lạc đà là phương tiện vận chuyển lúc bấy giờ trên con đường rong ruổi của thương gia qua những vùng đất lạ lẫm về văn hóa. Rome – kinh đô văn hóa sáng chói của người La Mã trong thời cổ đại là điểm đến thèm muốn nhất của đoàn thương gia Trung Hoa trong việc mở rộng thị trường sau các quốc gia Đông Á lân cận đã đi qua. Thành phố Tây An (bấy giờ là Trường An) là điểm tập kết đầu tiên của đoàn người tơ lụa để vượt Trung Á áp sát bờ Địa Trung Hải và từ đây sẽ vượt biển đến Rome vào những năm 30 trước Công nguyên. Con đường tơ lụa còn được gọi là con đường Đông – Tây với nhiều ý nghĩa sâu xa bởi không chỉ tơ lụa mà trên con đường đó còn hình thành việc giao thương các mặt hàng quý giá lúc bấy giờ, những nền tôn giáo và văn hóa hòa quyện vào nhau. Không chỉ có ý nghĩa về mặt thương mại, con đường tơ lụa còn có ý nghĩa về mặt quân sự khi các hoàng đế La Mã, các vị vua Hồi giáo, triều đại nhà Đường Trung Quốc, đế chế Ba Tư và Ottoman, Thành Cát Tư Hãn, vương triều Mughal đều sử dụng con đường Đông – Tây để cất vó ngựa chinh yên của mình trong việc mở mang bờ cõi. Phật giáo bắt nguồn từ phía Đông Ấn Độ vào khoảng thế kỷ 6 đến thế kỷ 4 trước Công nguyên sử dụng con đường tơ lụa để truyền bá đạo của mình đến các vùng lân cận vào thế kỷ 1 sau Công nguyên. Những vị tu sĩ theo phương pháp tu khổ hạnh quảng bá đạo Phật bằng cách đi ngược lại với người Trung Hoa trên con đường tơ lụa. Theo quy luật sống còn của thời gian, con đường tơ lụa dài khoảng 6.437km đã dần biến mất, rơi vào quên lãng và nó chỉ thật sự sống lại vào thế kỷ 19 khi nhà địa lý học người Đức Ferdinand von Richthofen cho ra đời những quyển sách viết về con đường thương mại cổ xưa có giá trị trong nhiều lĩnh vực. Trong 6.437km của con đường tơ lụa, UNESCO chỉ công nhận di sản văn thế giới ở đoạn từ Tây An đến dãy núi Thiên Sơn nằm giữa biên giới hai nước Kyrgyzstan – Trung Quốc bởi nó giữ lại vết tích giao thoa văn hóa trên con đường ấy, đặc biệt là những động Phật được khắc vào trong các hang núi sâu. Việc tìm lại những thành phố nào nằm trên con đường tơ lụa ở vùng đất Nam Á được các nhà khoa học lần theo vết tích Phật giáo bằng cách xác định đâu là kinh đô hay trường dạy Phật giáo nằm ngoài Ấn Độ. Ngài Trần Huyền Trang là người có công rất lớn giúp các nhà khoa học tìm lại con đường tơ lụa ngày xưa bằng việc đánh dấu các thành phố đã đi qua trong quyển nhật ký ghi lại của Ngài trên đường đi học đạo từ Tây An qua Thiên Trúc. Con đường ấy bây giờ có khi cũng đã biến mất, lúc lại bị chia năm xẻ bảy ra nhiều khúc khác nhau bởi các con đường nhựa hiện đại, hoặc có khi chỉ là con đường đất hoang tàn xơ xác… trên nhiều quốc gia khác nhau. Nhưng khi được bước chân đi trên những con đường ấy, lòng tôi luôn rộn ràng như tuổi 13 và cứ mơ màng xa xôi về hình ảnh đoàn thương gia với lạc đà cùng với túi hàng gồ ghề trên lưng băng qua cái nắng, cái gió hay cái lạnh thấu xương của sa mạc hoang vu rộng lớn để đến Istanbul, Rome và Venice. Họ đã cất tiếng ca ú a ú ờ để xua đi nỗi nhớ nhà, quyết tâm đến được những vùng đất mới lạ khi năm tháng dần trôi qua trên những cung đường quanh co có khi chạy cuốn hút vào những dãy núi xa mờ lẫn vào trong chân mây… *** Ru mẹ về yên ả chiều quê Tôi trở lại Việt Nam sau chuỗi ngày rong ruổi trên vùng đất Nam Á. Tôi không tìm được hương vị hạnh phúc ngọt ngào sau chuyến đi như những lần trước bởi nỗi sợ và niềm đau là hai người bạn đồng hành thân thiết đang trên đường tìm đến. Dường như quá run rẩy và sợ sệt nên niềm vui đã biến vào một góc xó tối tăm nào đó ẩn nấp. Những bậc hiền triết Hy Lạp cổ cho rằng: “Nỗi sợ hãi hay niềm đau như những bà mẹ thiên nhiên đang trút những cơn giận dữ. Chúng ta không thể bỏ trốn hay chống lại. Một người khôn ngoan sẽ tìm cách đi qua nó và đức tin tôn giáo là một giải pháp hữu hiệu.” Thuở bé, nhẹ nhàng trầm ấm qua tiếng mõ hồi chuông, tôi từng nghĩ rằng mình sẽ là một vị Khất sĩ Tăng già và chính tôi đã thực hiện điều đó khi là người lần chuỗi niệm kinh đưa mẹ tôi vào cõi vĩnh hằng vào lúc 7 giờ 10 phút sáng tháng 6/2015. Bà đã trở lại “quê nhà” đúng nghĩa, ở nơi đó bà tìm lại ký ức tuổi thơ cùng những chú bò lang thang qua những bờ cỏ xanh mướt sau mưa, là những ngày lội bùn dưới đập bắt cá phụ cùng những người làm công, là những ngày miền quê yên ả với ánh nắng chiều hanh hao nhìn chị em mình chơi tạt lon ở khoảng sân vắng trước hiên nhà, là những ngày vội vã sà vào lòng anh trai trong kỳ nghỉ phép năm nũng nịu đòi học ê a những chữ cái đầu tiên, là những bước chân sợ sệt trong đêm khuya phụ mẹ đội nấm rơm lên chợ huyện Thủ Thừa để bán và là những ngày dựng nêu, gói bánh đón Tết cổ truyền rộn rã tiếng cười… Nơi đó, bà không phải nhìn những cảnh tham lam sân si đấu đá của loài người và mãi mãi là thiên đường riêng cho chính bà. 25 ngày cuối cùng kề cận bên mẹ, tôi đã thực hiện được những điều mà mình đã từng nghĩ và khóc trong đêm tối trời tại Herat, ngoại trừ việc bỏ thuốc lá. Câu trả lời với mẹ ngày xưa như một định mệnh xấu phủ lấy cuộc đời mà tôi không sao dứt ra được. Tôi vẫn chọn “Niềm tin Phật giáo” là người bạn đồng hành để đi qua nỗi sợ và niềm đau một cách nhẹ lòng nhất. Tôi vẫn còn nhớ như in lời dạy của Đức Thế Tôn với Tôn giả Anan ở vườn Câu Thi La: “Anan này, ngươi đừng khóc lóc thảm thiết như thế bởi tất cả vạn vật đều vô thường, không có cái gì bền vững mãi mãi…” Nguyễn Chí Linh Mời các bạn đón đọc Trên Con Đường Tơ Lụa Nam Á của tác giả Nguyễn Chí Linh.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Thương Yêu Theo Phương Pháp Bụt Dạy
Tóm tắt & Review (Đánh Giá) sách Thương Yêu Theo Phương Pháp Bụt Dạy của tác giả Thích Nhất Hạnh. Khi nói đến thương yêu, ta hay nghĩ rằng đối tượng thương yêu là một người khác. Từ nhỏ chúng ta cũng được dạy rằng phải yêu thương người khác, thậm chí đến quên mình, đó được ca ngợi là đức hy sinh. Nhưng Bụt dạy rằng đối tượng thương yêu đầu tiên phải là chính bản thân mình. Nếu không thương yêu được bản thân thì ta không thể thương yêu được bất cứ ai khác. Thương yêu ở trong đạo Phật là một sự thực tập chứ không phải là sự hưởng thụ mà thôi. Tu tập như vậy thì càng ngày mình càng hạnh phúc và người yêu của mình càng ngày càng hạnh phúc.Sách được chia thành năm phần. Phần đầu tiên chỉ ra cho chúng ta thấy yêu thương là cội nguồn của hạnh phúc. Các chương sau là cái bài thực tập, từ trong tâm, gieo trồng và nuôi dưỡng thương yêu để mang lại hạnh phúc cho chính mình và người khác. Giáo lý của đạo Bụt về tình thương rất phong phú và sâu sắc. Ta biết rằng hạnh phúc không thể nào có được nếu ta không có tình thương. Tu học không có nghĩa là giết chết khả năng thương yêu trong con người của ta, trái lại tu học tức là làm cho tình thương trong ta lớn lên nở ra và vững mạnh. Ở ngoài đời danh từ thương yêu có nhiều nghĩa, có khi rất hàm hồ, nhưng giáo lý của đạo Bụt về thương yêu thì rất sâu sắc, rõ ràng và những định nghĩa về thương yêu rất xác thật và đầy đủ. Chủ đề thương yêu là một chủ đề cần phải phát triển rất lớn. *** Tóm tắt Sách "Thương Yêu Theo Phương Pháp Bụt Dạy" của Thiền sư Thích Nhất Hạnh là một tập hợp những bài giảng của ngài về tình yêu thương, về cách thực hành thương yêu trong đời sống hàng ngày. Thiền sư Thích Nhất Hạnh cho rằng, tình yêu thương là cội nguồn của hạnh phúc. Khi chúng ta thương yêu, chúng ta sẽ cảm thấy hạnh phúc và bình an. Tình yêu thương cũng là sức mạnh có thể giúp chúng ta vượt qua những khó khăn, thử thách trong cuộc sống. Thiền sư Thích Nhất Hạnh cũng nhấn mạnh rằng, tình yêu thương phải bắt đầu từ chính bản thân mình. Nếu chúng ta không thương yêu bản thân mình, chúng ta sẽ không thể thương yêu được người khác. Trong sách, Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã chia sẻ những bài tập thực hành thương yêu, giúp chúng ta có thể gieo trồng và nuôi dưỡng tình yêu thương trong cuộc sống của mình. Review "Thương Yêu Theo Phương Pháp Bụt Dạy" là một tác phẩm có giá trị về mặt tâm linh và triết học. Sách đã được dịch sang nhiều ngôn ngữ khác nhau và được nhiều người trên thế giới nghiên cứu và thực hành. Trong sách, Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã trình bày một cách rõ ràng và súc tích về những ý nghĩa và lợi ích của tình yêu thương. Ngài cũng đã chia sẻ những bài tập thực hành thương yêu rất đơn giản và dễ hiểu, giúp chúng ta có thể bắt đầu thực hành ngay trong cuộc sống hàng ngày. Sách được viết bằng một lối văn giản dị, dễ hiểu, nhưng vẫn đầy chất thơ. Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã sử dụng những câu chuyện, những hình ảnh sinh động để diễn đạt những ý tưởng của mình. Một số điểm nổi bật của sách: Sách đã trình bày một cách rõ ràng và súc tích về những ý nghĩa và lợi ích của tình yêu thương. Sách đã chia sẻ những bài tập thực hành thương yêu rất đơn giản và dễ hiểu. Sách được viết bằng một lối văn giản dị, dễ hiểu, nhưng vẫn đầy chất thơ. Khuyến nghị: "Thương Yêu Theo Phương Pháp Bụt Dạy" là một cuốn sách đáng đọc cho những ai muốn tìm hiểu về tình yêu thương, về cách thực hành thương yêu trong đời sống hàng ngày. Mời các bạn mượn đọc sách Thương Yêu Theo Phương Pháp Bụt Dạy của tác giả Thích Nhất Hạnh.
Cho Đất Nước Đi Lên
Tóm tắt & Review (Đánh Giá) tùy bút Cho Đất Nước Đi Lên của tác giả Thích Nhất Hạnh. Trong chuyến về thăm quê hương mà nay đã thành lịch sử. Từ ngày 12 tháng 1 năm 2005 đến ngày 11 tháng 4 năm 2005, Thiền sư Thích Nhất Hạnh và tăng thân Đạo Tràng Mai Thôn đã đi thăm các Tổ Đình và Tự Viện trên khắp ba miền đất nước. Chỉ với chín mươi ngày ngắn ngủi đó, trong những giảng đường dù lớn rộng đến đâu nhưng vẫn không bao giờ đủ chỗ. Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã thuyết giảng trên dưới bảy mươi bài, phần lớn dành cho Tăng Ni và Phật tử cư sĩ trong các khóa tu tổ chức tại chùa, nhưng cũng có những bài nói chuyện với nhân sĩ, trí thức đồng bào mọi giới ở bốn thành phố lớn Hà Nội (hai lần), Sài Gòn, Huế và Bình Định. Bảy bài được in lại trong tập sách này được tuyển chọn từ bảy mươi bài pháp thoại của cả chuyến đi, xếp theo thứ tự thời gian các buổi nói chuyện của Thiền sư tại trụ sở các tổ chức văn hóa, giáo dục, tôn giáo và chính trị ở ba thành phố lớn Hà Nội, Huế và Sài Gòn. Người nghe là những cán bộ, nhân sĩ, trí thức hoạt động trong các giới chính trị, văn hóa, xã hội và tôn giáo. Ngoài ra cũng có đông đảo khách mời trong và ngoài nước. Chủ đề của các bài nói dù khác nhau nhưng tựu trung nhà văn hóa Nhất Hạnh đã khách quan trình bày một Phật giáo qua nhãn quan và nhận thức mới từ những kinh nghiệm thực tiễn qua những năm hành đạo của ngài tại các quốc gia Tây phương. Đó là Phật giáo dấn thân, trị liệu và chuyển hóa, là đạo Bụt đi vào cuộc đời mà hơn 40 năm trước ở quê hương, chính ngài đã khởi xướng. Nhưng chúng ta vẫn nhận ra được Phật giáo muôn đời của trí tuệ và từ bi, của hiểu và thương. Để có được một tình thương đúng nghĩa ta cần phải có hiểu biết. Hiểu để nhận diện, để công nhận nhau qua bao oan khúc, phân ly để thoát khỏi những sợ hãi, nghị kỵ, hận thù,… khi đó mới có thể thương được thực sự. Hiểu càng sâu thương càng lớn, cả hai giúp ta đạt tới tự do, giải phóng chính mình, có cơ hội tiếp xúc sâu sắc với sự sống trong và quanh ta, thực sự sống trọn vẹn trong từng giây phút hiện tại màu nhiệm, đạt an lạc ngay giữa đời này, vượt trên mọi sóng thăng trầm của biển đời tục lụy, để rồi có thể sang bờ kia, thoát vòng sinh tử. Gia tài của đạo Bụt Việt Nam tổng hợp của đại thừa và nguyên thủy, của Hiện Pháp Lạc Trú và Tịnh Độ hiện tiền sẽ đưa dân tộc bây giờ cùng đi như một giòng sông, sẽ đẩy đất nước ở đây đi lên. Để Cho Đất Nước Đi Lên là tựa đề được Thiền Sư chọn và tự tay viết với thư pháp của ngài để làm bìa in cho tập sách này. Chúng tôi trân trọng gửi tới các bạn đọc. Các bài nói chuyện ghi lại theo bản mp3 thu âm tại chỗ. Lời của ngài giữ nguyên, ý của ngài giữ trọn vẹn nhưng câu cú có lược chuyển đôi chút để những bài đọc được thêm xuôi thuận. Các chú thích về các những danh từ Phật học, nhân danh, địa danh nước ngoài (nếu có sai lầm) là của ban biên tập. Chúng tôi đã dựa trên Tự Điển Làng Mai (TĐLM), Từ Điển Phật Học - Chân Nguyên và Nguyễn Tường Bách (TĐPH). Trân trọng cảm ơn các tác giả. Ban biên tập (2009) *** Tóm tắt Tùy bút "Cho Đất Nước Đi Lên" của Thiền sư Thích Nhất Hạnh là tuyển tập 7 bài pháp thoại được tuyển chọn từ 70 bài pháp thoại của Ngài trong chuyến về thăm quê hương năm 2005. Trong các bài pháp thoại của mình, Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã trình bày một Phật giáo dấn thân, trị liệu và chuyển hóa, là đạo Bụt đi vào cuộc đời. Ngài nhấn mạnh tầm quan trọng của trí tuệ và từ bi, của hiểu và thương. Để có được một tình thương đúng nghĩa, chúng ta cần phải có hiểu biết. Hiểu để nhận diện, để công nhận nhau qua bao oan khúc, phân ly để thoát khỏi những sợ hãi, nghị kỵ, hận thù,… khi đó mới có thể thương được thực sự. Thiền sư Thích Nhất Hạnh cũng đề cập đến gia tài của đạo Bụt Việt Nam, tổng hợp của đại thừa và nguyên thủy, của Hiện Pháp Lạc Trú và Tịnh Độ hiện tiền. Ngài tin rằng gia tài này sẽ đưa dân tộc cùng đi như một dòng sông, sẽ đẩy đất nước đi lên. Review "Cho Đất Nước Đi Lên" là một tác phẩm có giá trị về mặt văn hóa, chính trị, và tôn giáo. Đây là một nguồn tài liệu quý báu cho những ai muốn tìm hiểu về Phật giáo Việt Nam, đặc biệt là Phật giáo dấn thân. Sách được viết theo lối văn giản dị, dễ hiểu, nhưng vẫn đầy chất thơ. Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã sử dụng những câu chuyện, hình ảnh, và bài thơ để diễn đạt những ý tưởng của mình một cách sinh động và dễ tiếp thu. Đọc "Cho Đất Nước Đi Lên", người đọc sẽ được tiếp cận với những góc nhìn mới về Phật giáo, về con người, và về đất nước Việt Nam. Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã truyền tải một thông điệp tích cực và đầy hy vọng về một tương lai tươi sáng cho đất nước Việt Nam. Một số bài pháp thoại tiêu biểu trong sách Bài 1: Cùng đi như một dòng sông Trong bài pháp thoại này, Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã nhấn mạnh tầm quan trọng của sự đoàn kết, gắn bó trong một dân tộc. Ngài ví von dân tộc như một dòng sông, chỉ khi mọi người cùng chung sức, đồng lòng thì dòng sông mới có thể chảy trôi mạnh mẽ. Bài 2: Hiểu và thương Bài pháp thoại này đề cập đến tầm quan trọng của hiểu và thương trong cuộc sống. Thiền sư Thích Nhất Hạnh cho rằng, để có được một tình thương đúng nghĩa, chúng ta cần phải có hiểu biết. Hiểu để nhận diện, để công nhận nhau qua bao oan khúc, phân ly để thoát khỏi những sợ hãi, nghị kỵ, hận thù,… khi đó mới có thể thương được thực sự. Bài 3: Trí tuệ và từ bi Bài pháp thoại này nói về mối quan hệ giữa trí tuệ và từ bi. Thiền sư Thích Nhất Hạnh cho rằng, trí tuệ và từ bi là hai cánh của con chim bồ câu hòa bình. Có trí tuệ, chúng ta mới có thể thấu hiểu bản chất của vấn đề, từ đó đưa ra những giải pháp đúng đắn. Có từ bi, chúng ta mới có thể hành động vì lợi ích của người khác. Bài 4: Gia tài của đạo Bụt Việt Nam Bài pháp thoại này đề cập đến gia tài của đạo Bụt Việt Nam. Thiền sư Thích Nhất Hạnh cho rằng, gia tài này là một nguồn sức mạnh to lớn có thể giúp đất nước Việt Nam vượt qua mọi khó khăn, thử thách. Bài 5: Đạo Bụt đi vào cuộc đời Bài pháp thoại này nói về tầm quan trọng của việc thực hành Phật giáo trong cuộc sống. Thiền sư Thích Nhất Hạnh cho rằng, Phật giáo không chỉ là một tôn giáo mà còn là một lối sống, một triết lý nhân sinh. Chúng ta cần thực hành Phật giáo trong cuộc sống hàng ngày để có được hạnh phúc và an lạc. Bài 6: Cho đất nước đi lên Bài pháp thoại này là bài pháp thoại cuối cùng trong sách. Trong bài pháp thoại này, Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã gửi gắm những lời tâm huyết của mình cho đất nước Việt Nam. Ngài mong muốn đất nước Việt Nam sẽ hòa bình, thịnh   Mời các bạn mượn đọc sách Cho Đất Nước Đi Lên của tác giả Thích Nhất Hạnh.
Tuổi Trẻ - Tình Yêu - Lý Tưởng
Tóm tắt & Review (Đánh Giá) tùy bút Tuổi Trẻ - Tình Yêu - Lý Tưởng của tác giả Thích Nhất Hạnh. Này Người bạn trẻ, tôi muốn mời anh, tôi muốn mời chị tham dự vào một giấc mơ, tôi tạm gọi giấc mơ ấy là giấc mơ Việt Nam... Giấc mơ chung của chúng ta Giấc mơ Việt Nam là có một nước Việt Nam thật đẹp, thật hiền, chơi chung với các nước Cam-pu-chia, Lào, Thái Lan, Malaysia, Singapore, Indonesia, Myanmar, với Hàn Quốc và Nhật Bản, và sau đó, với cả Trung Quốc, một cách thân ái trong tình huynh đệ, dân chúng các nước qua lại không cần chiếu khán, và tất cả sử dụng một đồng bạc chung. Giấc mơ Việt Nam là dân tộc Việt Nam biết để thì giờ ra để đi chơi, ngồi chơi, leo núi, đi biển, sống với cảnh đẹp thiên nhiên, hàng ngày có nhiều cơ hội dựng xây tình huynh đệ mà không để hết thì giờ chạy theo sắc dục, tiền bạc, quyền hành và danh vọng. Giấc mơ Việt Nam là trẻ em và người lớn đều ý thức được rằng đất hứa, thiên đường hay cõi tịnh độ là cái đang có mặt đích thực trong giờ phút hiện tại, và ta phải biết và phải có khả năng thích ý rong chơi. Giấc mơ Việt Nam là người Việt có khả năng sống đơn giản mà hạnh phúc, có thì giờ và tình thương để làm việc giúp cho người trong nước và ngoài nước vượt thắng nghèo khổ, bệnh tật, thất học, hòa giải được với người thân và tìm được nguồn vui sống. Giấc mơ Việt Nam là sông, núi, rừng, biển và ruộng vườn của chúng ta được bảo vệ an lành để chúng ta và con cháu chúng ta cũng như thế giới cũng được bảo vệ an lành và để cho mọi người được tiếp tục thừa hưởng tất cả những gì hùng vĩ, cẩm tú và giàu sang của đất nước này. Giấc mơ Việt Nam là những người Việt sống trong một nước có quyền tin theo bất cứ một tôn giáo, một chủ thuyết nào, nhưng tất cả đều thấy được rằng không có tôn giáo và chủ thuyết nào cao hơn tình huynh đệ, cao hơn lòng cởi mở và lượng bao dung, và bất cứ ai cũng học được và thừa hưởng được những châu báu của các truyền thống và quan điểm khác để làm giàu cho tuệ giác và hạnh phúc của mình. Giấc mơ Việt Nam là các quốc gia lân cận, kể cả Trung Quốc, biết thương mến và thưởng thức cái đẹp và cái dễ thương của đất nước, văn hóa và con người Việt Nam mà không còn có ý muốn xâm chiếm và giành giật nhau, tại vì người Việt đã học được cách bảo vệ sông núi, văn hóa và con người của mình bằng nếp chung sống hòa bình, bằng tình huynh đệ, bằng tài ngoại giao, bằng nếp sống tương trợ với các nước chung quanh mà không tin rằng chỉ có vũ khí và quân sự mới làm được chuyện ấy. Ô hay, bạn sẽ nói, thầy Nhất Hạnh lâu nay khuyên mình sống trong giây phút hiện tại mà bây giờ lại tìm cách trao cho mình một giấc mơ, gọi là giấc mơ Việt Nam! Thầy Nhất Hạnh có còn là thầy Nhất Hạnh nữa không, khi thầy muốn dìu mình đi vào một giấc mơ, dù là một giấc mơ thật đẹp? Người bạn trẻ ơi, sở dĩ tôi nói tới giấc mơ, tại vì giấc mơ này có thể trở thành sự thật, và đang bắt đầu trở thành sự thật. Một giấc mơ không bao giờ có thể trở thành sự thật một trăm phần trăm, nhưng nó có thể dần dần trở thành sự thật mỗi ngày, và ta có thể sống với sự thật ấy trong giây phút hiện tại. Lý tưởng lớn, hoài bão rộng là gì, nếu không phải là một giấc mơ? Trong đạo Bụt người ta dùng danh từ Tâm Bồ Đề. Tâm bồ đề đâu có phải chỉ là giấc mơ? Tâm bồ đề là một sự thật, một năng lượng mà ta đang sống và đang cho ta nhiều niềm tin và hạnh phúc. Giấc mơ có thể trở thành sự thật từ từ trong từng giây phút của cuộc sống. Mấy mươi năm nay, không lúc nào mà tôi không đang chứng kiến giấc mơ trở thành sự thật, trong đời sống hàng ngày của tôi. *** Tóm tắt Tùy bút Tuổi Trẻ - Tình Yêu - Lý Tưởng của Thích Nhất Hạnh là một lời kêu gọi các bạn trẻ Việt Nam hãy cùng nhau xây dựng một giấc mơ Việt Nam tươi đẹp, hòa bình và hạnh phúc. Giấc mơ ấy bao gồm những điều sau: Một nước Việt Nam hòa bình, thân thiện với các nước láng giềng. Một dân tộc Việt Nam biết trân trọng thiên nhiên và sống chan hòa với nhau. Một đất nước Việt Nam nơi mọi người được sống hạnh phúc và bình an. Review Tùy bút Tuổi Trẻ - Tình Yêu - Lý Tưởng là một tác phẩm giàu ý nghĩa và có sức truyền cảm mạnh mẽ. Thích Nhất Hạnh đã dùng những ngôn từ giản dị, gần gũi để nói lên những suy nghĩ và mong ước của mình về tương lai của đất nước Việt Nam. Giấc mơ Việt Nam của Thích Nhất Hạnh là một giấc mơ đẹp, nhưng nó không phải là một giấc mơ viển vông. Giấc mơ ấy có thể trở thành hiện thực nếu mỗi người Việt Nam đều cùng nhau nỗ lực, chung tay xây dựng. Tùy bút đã gợi lên trong lòng người đọc niềm tin và hy vọng vào một tương lai tươi sáng cho đất nước Việt Nam. Nó cũng là một lời nhắc nhở đối với các bạn trẻ Việt Nam hãy sống có trách nhiệm với bản thân, với gia đình, với xã hội và với đất nước. Một số điểm nổi bật của tùy bút: Tác phẩm mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc. Thích Nhất Hạnh đã đề cao những giá trị cao đẹp của con người như tình yêu thương, hòa bình, đoàn kết,… Tác phẩm có sức truyền cảm mạnh mẽ. Ngôn từ giản dị, gần gũi của Thích Nhất Hạnh đã giúp người đọc dễ dàng thấu hiểu và đồng cảm với những suy nghĩ, mong ước của ông. Tác phẩm có giá trị thời sự. Giấc mơ Việt Nam của Thích Nhất Hạnh là một giấc mơ đẹp, nhưng nó cũng là một giấc mơ thiết thực, có thể trở thành hiện thực nếu mỗi người Việt Nam đều cùng nhau nỗ lực. Đánh giá Tôi đánh giá tùy bút Tuổi Trẻ - Tình Yêu - Lý Tưởng của Thích Nhất Hạnh là một tác phẩm hay và ý nghĩa. Tác phẩm đã để lại trong lòng tôi nhiều suy nghĩ và cảm xúc. Tôi tin rằng, nếu mỗi người Việt Nam đều cùng nhau nỗ lực, chung tay xây dựng thì giấc mơ Việt Nam của Thích Nhất Hạnh sẽ sớm trở thành hiện thực. Mời các bạn mượn đọc sách Tuổi Trẻ - Tình Yêu - Lý Tưởng của tác giả Thích Nhất Hạnh.
Truyện Kiều Văn Xuôi Dành Cho Người Trẻ
Tóm tắt & Review (Đánh Giá) sách Truyện Kiều Văn Xuôi Dành Cho Người Trẻ của tác giả Thích Nhất Hạnh. Truyện Kiều là tác phẩm thơ nổi tiếng nhất của nền Thi ca Việt Nam. Người trẻ nào trong thời gian học Trung học cũng có dịp được nghe về truyện Kiều và học một ít về truyện Kiều. Nhưng vì truyện Kiều là một tác phẩm cổ điển và lại có nhiều điển tích cho nên đối với người trẻ, thưởng thức hết được cái hay của truyện Kiều là một chuyện không dễ. Vì vậy tôi đã có ý cống hiến Truyện Kiều Văn Xuôi như một lời mời mọc những người trẻ trở về thưởng thức những cái hay, cái đẹp của truyện Kiều. Đọc xong Truyện Kiều Văn Xuôi, người trẻ sẽ thấy thoải mái khi trở về với nguyên tác bằng thơ. Tôi nhớ hồi 1945, khi nước ta mới giành lại được chủ quyền quốc gia, tất cả các phân khoa của các trường Đại Học trong nước đều còn sử dụng tiếng Pháp để dạy và để học. Trong suốt những năm sau đó, các giáo sư đã nỗ lực tìm cách sử dụng tiếng Việt để giảng dạy trong các phân khoa Đại Học, từ trường Y, trường Dược, trường Luật đến trường Khoa Học. Các tập sách như Danh Từ Khoa Học, Danh Từ Luật Học, v.v.. được biên tập cấp tốc để cung ứng kịp thời cho nhu cầu giảng dạy và học hỏi. Nhiều khi giáo sư và sinh viên cọng tác với nhau ngày cũng như đêm để làm công việc biên tập ấy. Lòng yêu nước và yêu tiếng Việt ấy của mọi người thật đáng làm cho chúng ta cảm động. Sự xuất hiện của truyện Kiều cách đây gần 200 năm đã cho chúng ta rất nhiều niềm tin nơi khả năng diễn đạt của tiếng Việt. Truyện Kiều cho chúng ta thấy là tiếng Việt có khả năng diễn tả được những tư duy và tình cảm sâu sắc nhất của ta. Trước đó, có người tin rằng chỉ có chữ Hán mới làm được việc này. Vì vậy mới có câu, 'Nôm na là cha mách qué,' tỏ ý không tin tưởng mấy vào khả năng của tiếng Việt. Viết truyện Kiều bằng chữ Nôm, thi sĩ Nguyễn Du đã đóng góp lớn lao cho văn hóa dân tộc và cho niềm tin của chúng ta nơi tiếng mẹ đẻ, dù có thể là trong khi sáng tác, thi sĩ đã không có chủ đích ấy. Tuy nhiên có một điều mà ta không thể nghi ngờ được: đó là Nguyễn Du đã rất yêu tiếng Việt. Tôi xin lỗi các bạn trẻ là đã không chuyển hết được toàn bộ truyện Kiều thành văn xuôi. Tôi là người xuất gia, phải dành phần lớn thì giờ của mình cho việc ngồi thiền, dịch kinh và hướng dẫn các khóa tu cho cả hai giới xuất gia lẫn tại gia, cho nên chỉ mới làm được tới đấy. Tôi mong có dịp rảnh để hoàn tất được công việc rất thú vị này. Trong khi chờ đợi, xin đền bù lại bằng bài 'Kiều và nền Văn Nghệ đứt ruột' in ở phần sau. Viết tại thất Ngồi Yên Xóm Thượng Làng Mai, Pháp quốc. Ngày 14.7.2002 *** Tóm tắt Cuốn sách "Truyện Kiều Văn Xuôi Dành Cho Người Trẻ" của Thiền sư Thích Nhất Hạnh là một bản dịch văn xuôi của tác phẩm "Truyện Kiều" của Nguyễn Du. Cuốn sách được viết với mục đích giúp cho những người trẻ tuổi có thể dễ dàng tiếp cận và thưởng thức tác phẩm văn học kinh điển này. Cuốn sách được chia thành 32 chương, mỗi chương tương ứng với một đoạn thơ trong "Truyện Kiều". Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã cố gắng giữ nguyên nội dung và tinh thần của tác phẩm gốc, đồng thời sử dụng ngôn ngữ giản dị, gần gũi để phù hợp với người đọc trẻ tuổi. Review Cuốn sách "Truyện Kiều Văn Xuôi Dành Cho Người Trẻ" là một tác phẩm có giá trị đối với những người trẻ tuổi yêu thích văn học. Cuốn sách giúp người đọc dễ dàng hiểu và cảm nhận được những giá trị nhân văn sâu sắc của "Truyện Kiều". Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã thể hiện sự am hiểu sâu sắc về "Truyện Kiều" của Nguyễn Du. Ông đã khéo léo chuyển tải nội dung và tinh thần của tác phẩm gốc sang văn xuôi một cách trọn vẹn. Ngôn ngữ của cuốn sách giản dị, gần gũi, dễ hiểu, phù hợp với người đọc trẻ tuổi. Cuốn sách đã giúp người đọc trẻ tuổi có thêm một cách tiếp cận tác phẩm văn học kinh điển "Truyện Kiều". Cuốn sách cũng giúp người đọc hiểu thêm về văn hóa và lịch sử của dân tộc Việt Nam. Một số điểm nổi bật của cuốn sách: Cuốn sách được viết với mục đích giúp cho những người trẻ tuổi có thể dễ dàng tiếp cận và thưởng thức tác phẩm văn học kinh điển "Truyện Kiều". Cuốn sách được viết bằng ngôn ngữ giản dị, gần gũi, dễ hiểu, phù hợp với người đọc trẻ tuổi. Cuốn sách đã thể hiện sự am hiểu sâu sắc của Thiền sư Thích Nhất Hạnh về "Truyện Kiều" của Nguyễn Du. Cuốn sách đã giúp người đọc trẻ tuổi có thêm một cách tiếp cận tác phẩm văn học kinh điển "Truyện Kiều". Mời các bạn mượn đọc sách Truyện Kiều Văn Xuôi Dành Cho Người Trẻ của tác giả Thích Nhất Hạnh.