Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Một Người Chân Chính (Boris Polevoi)

Năm 1954, khi từ bưng biền về hoạt động bí mật ở Sài Gòn, tôi đến cửa hàng Albert Portail ở đường Catinat mua sách báo ngoại văn. Tình cờ tôi thấy một số sách Liên Xô dịch ra tiếng Pháp của nhà xuất bản Xã hội Pháp (Editions Sociales) bày bán tự do. Tôi lựa được một cuốn tiểu thuyết rất hay: “Một người chân chính” (Un homme veritable) của nhà văn Xô viết Bôris Pôlêvôi. Tôi bắt đầu dịch ngay trong những thời gian rảnh rỗi, nhất là vào ban đêm.

Lúc đầu tôi định chuyển thể để có thể đăng trên các báo Sài Gòn hoặc ra sách, như kiểu anh Năm Châu chuyển thể vở “Người mặt cháy”. Nhưng dưới sự kiểm duyệt rất khắc nghiệt của địch nên không thể qua mặt được. Tôi liền gửi đăng trên báo Sông Chung (sau này là báo Trung Lập) của Việt kiều ở Phnôm Pênh.

Sau đó tôi sửa chữa lại lần nữa bản dịch gửi ra Hà Nội. Vợ tôi (chị Lê Đoan) lúc đó là thư ký tòa soạn báo Phụ Nữ Việt Nam đã đưa bản dịch cho Nhà xuất bản Thanh Niên.

Cuốn sách được in 2 lần, mỗi lần với số lượng lớn 15.000 bản. Nhà xuất bản còn đề nghị tác giả Bôris Pôlêvôi gửi ảnh và lời tựa cho cuốn sách kèm với bản tự thuật của ông.

Vì tôi dịch cuốn sách từ tiếng Pháp, chớ không phải tiếng Nga, nên phải nhờ Giáo sư Phạm Huy Thông hiệu đính theo nguyên bản tiếng Nga. Anh Phạm Huy Thông lại có dịp gặp cả tác giả Bôris Pôlêvôi và anh hùng Xô viết Alếchxây Mêrétxép nên việc xuất bản cuốn “Một người chân chính” càng có giá trị thắt chặt quan hệ anh em giữa Liên Xô và Việt Nam. Đây là bản dịch rất sớm các tác phẩm văn học của Liên Xô. Vì cuộc kháng chiến chống Mỹ kéo dài, tôi rất tiếc không gặp được Bôris Pôlêvôi và anh hùng Alếchxây Mêrétxép, chỉ có liên hệ thư từ với Bôris Pôlêvôi. Chính tác giả đã gởi cho tôi nhiều tác phẩm văn học của Liên Xô và cả sách học tiếng Nga để tôi tự học khi còn ở chiến khu. Bôris Pôlêvôi còn khuyên tôi nên dịch cuốn “Tấm kiếng Parabôn” của Alếchxây Tônstôi, tôi cũng đã dịch và in thành truyện nhiều kỳ (feuilleton) trong tuần san “Hòa bình trung lập” của Việt kiều ở Phnôm Pênh. Tìm mua: Một Người Chân Chính TiKi Lazada Shopee

Cuốn “Một người chân chính” có tính giáo dục, rèn luyện thanh niên rất cao, gần như cuốn “Thép đã tôi thế đấy”. Bởi vì phi công Alếchxây Mêrétxép sau khi bị bắn hạ trên bầu trời Đức chiếm đóng, gãy hai chân, đã bằng hai tay bò suốt 18 ngày đêm vừa đói vừa rét, để về căn cứ Hồng Quân. Sau khi lắp chân giả, anh lại bay nhiều ngày tấn công địch đến thắng lợi cuối cùng trong chiến tranh chống Phát xít. Anh được phong Anh hùng lực lượng võ trang Liên Xô và được bầu vào Ban Chấp hành “Hội đồng Hòa bình thế giới” chính anh đã lên tiếng nhiều lần ủng hộ cuộc kháng chiến chống Mỹ của Việt Nam trên các diễn đàn Quốc tế.

Tôi có ý định tái bản cuốn “Một người chân chính” vì cuốn sách là một tác phẩm có giá trị văn học, có giá trị giáo dục thanh thiếu niên, ngay cả trong thời kỳ đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam.

Người dịch Minh Đô (Phạm Dân).

***

LỜI TÁC GIẢ

Tôi chưa sang thăm nước Việt Nam. Nhưng tôi có cảm tưởng là mình đã từng sống ở đấy, đã quen biết cảnh thiên nhiên giàu đẹp của đất nước này, với những khu rừng nhiệt đới, những con sông hùng tráng và những thung lũng phì nhiêu, những người Việt Nam tuy tầm vóc không cao lắm, nhưng gần cảnh vật và những con người ấy, không ai có thể coi là bé nhỏ.

Những năm trước đây, khi nhân dân Việt Nam đang tiến hành cuộc đấu tranh thần thánh và anh dũng chống bọn thực dân được trang bị đẩy đủ thì những người Xô viết chúng tôi đã theo dõi quá trình các trận chiến đấu anh dũng của các bạn với tấm lòng kính phục và thông cảm sâu sắc. Nhân dân chúng tôi biết rõ giá trị của lòng dũng cảm, tinh thần can đảm và lòng yêu mến tự do. Người anh hùng họ biết kính phục tinh thần anh dũng của những người anh hùng khác. Vì vậy người Việt Nam ở xa chúng tôi, đã trở thành người bạn gần gũi và thân thiết. Chúng tôi rất vui mừng trước mỗi thắng lợi chống thực dân của các bạn và đã gửi đến đất nước các bạn lời chào hòa bình. Ngày nay với tấm lòng kính phục anh em, chúng tôi rất yêu mến những người Việt Nam quang vinh đang nắm trong tay vận mệnh của mình để xây dựng một cuộc sống hạnh phúc.

Tôi hy vọng Alếchxây Mêrétxép, nhân vật có thực trong cuốn sách của tôi, một người Xô viết bình thường sẽ được gặp những người bạn tốt trong hàng ngàn vạn người lao động của nước Việt Nam mới. Chính vì ở nước các bạn cũng biết rõ giá trị tinh thần anh dũng chân chính, nên Alếchxây Mêrétxép đã đến với các bạn như tình anh em.

Mạc tư khoa (Mascơva)

2-1960

Bôris Pôlêvôi

***

LỜI TỰ THUẬT CỦA TÁC GIẢ

Tôi sinh ngày 17 tháng 3 năm 1908 tại Mátxcơva, nhưng tôi lớn lên ở Tưve (bây giờ gọi là Calinin); cho nên tôi có thể có lý do để tự coi mình là một công dân Calinin.

Cha tôi xưa là luật gia. Ông chết vì bệnh lao năm 1916. Tôi gần như không còn nhớ gì hết về ông, nhưng cứ phán đoán theo tủ sách rất tốt ông để lại, trong đó có đầy đủ các nhà văn cổ điển Nga và nước ngoài, và theo lời mẹ tôi nói lại, thì đối với thời ông, ông là một người có đầu óc tiến bộ và có học vấn cao rộng. Sau khi cha tôi mất, mẹ tôi vào làm việc ở một nhà thương xưởng máy, làm thầy thuốc, và mẹ con chúng tôi dọn đến ở trong một xưởng dệt lớn của bọn buôn bán Marôdốp.

Tôi ở đấy suốt thời thơ ấu và thời niên thiếu của tôi.

Chúng tôi ở trong chỗ gọi là “nhà nhân viên”, nhưng bạn học và bạn chơi của tôi là các con cái thợ thuyền, và vì mẹ tôi làm việc ở nhà thương nên công việc bận rộn bù đầu và chả mấy khi gần gũi con được, có những khi tôi cứ cả ngày ở trong các nhà ngủ công cộng của công nhân hay ở vùng ngoại ô quanh đấy. Tôi học hành không đến nỗi quá kém ở trường, nhưng cũng không hào hứng quá độ, và vào ngày giờ rảnh, tôi hoặc ra giữa dòng sông Tưmaca - một dòng nước hôi thối chảy ngang qua xưởng - và hoặc đắm chìm trong sách vở trong thư viện của cha. Tuy bận bịu, mẹ tôi cũng cố gắng hướng dẫn tôi đọc sách và khuyên nhủ tôi đọc sách của những tác giả mà mẹ tôi ưa thích nhất.

Những cuốn sách đầu tiên tôi đọc là Gôgôn, Sêkhốp, Nêcưraxốp, Pimialốpski. Nhà văn tôi thích nhất là Goócki. Khi còn là sinh viên, cha mẹ tôi đều rất tôn sùng ông, và tủ sách của gia đình gồm hầu tất cả những sách của ông xuất bản trước cách mạng. Thời còn bé, tôi lại còn có một chiều hướng thích thú khác nữa, là yêu thiên nhiên. Học lớp tư, tôi đã là một “người lãnh đạo” nhóm các nhà sinh vật học trẻ tuổi và đã tham dự những cuộc gặp gỡ của thanh thiếu niên thành phố và của thanh thiếu niên Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Liên bang Xô viết Nga. Ở nhà tôi lúc nào cũng có chứa những khách lạ: một lần, có con ưng không biết tại sao lạc đến bay lới phới trong sân xưởng và đụng phải dây điện tín gẫy cánh; một lần khác, có con quạ con bị ngã từ trên ổ xuống được tôi cứu thoát khỏi móng mèo, có con nhím và có cả con rắn nước mà tôi dọn dẹp chỗ cho ở giữa hai khung cửa sổ, trong một đường rãnh nhỏ đã đào riêng cho nó.

Trong thành phố bấy giờ có xuất bản một tờ báo địa phương: tờ Sự thật Tưve. Trong những năm hai mươi[1] có thành lập nên trong xưởng một mạng lưới quan trọng các thông tín viên công nhân. Tòa báo đặt trong căn nhà sắp xếp dụng cụ cứu hỏa. Và lũ bé con chúng tôi vô cùng kính phục nhìn những kẻ ra vào căn nhà gạch nhỏ ấy. Những thông tín viên công nhân mà! Những người viết bài trong báo mà! Chủ tịch của tổ chức đó, bác thợ nguội Gurianốp, là một trong những người được trọng vọng nhất nhà máy. Chắc hẳn là từ thuở xa xăm ấy đã chớm nở trong tôi cái chiều hướng thích thú đối với nghề viết báo, bấy giờ tôi đã coi như nghề hay nhất, quan trọng vô cùng, lại có cái khía cạnh đôi chút huyền bí.

Tôi đang học lớp sáu khi báo Sự thật Tưve đăng bài báo nhỏ đầu tiên của tôi. Bài, theo như tôi còn nhớ được, có bảy dòng; nó kể chuyện một nhà thơ nông dân có tiếng tên là Đưrốtgin, đến thăm trường. Báo đăng bài đó cuối trang tư và tôi nhớ là đâu không có ký tên. Nhưng tôi thì tôi biết là ai viết bài đó, nên tôi không bao giờ rời số báo có đăng bài đó cho đến lúc nó rách tan từng mảnh trong túi tôi. Từ đó, tôi viết đều đặn trong báo Sự thật Tưve: bắt đầu là phản ánh mọi việc gì lôi thôi ở thành phố, rồi vào những đề nghiêm chỉnh hơn; cuối cùng, khi tòa soạn chú ý đến tôi, tôi được giao cho làm những phóng sự nho nhỏ về thời sự ở thành phố trong các xưởng, các nhà máy. Tôi tiếp tục học phổ thông, rồi tôi vào trường kỹ thuật công nghiệp; tôi chuyển ngành hóa học và cắm đầu vào phân tích chất lượng và số lượng. Nhưng tôi đã mơ màng tới những phòng tòa soạn phảng phất mùi mực in; trong những giờ nghe giảng, tôi viết trộm những bài báo hay những thiên phóng sự về những đề khá là xa với những đề mà giáo sư đang diễn đạt. Cứ như thế dần dần tôi đi đến làm cái nghề làm báo Xô viết, cái nghề mà tôi luôn vẫn coi như ngành văn chương nhiều hứng thú hơn tất cả các ngành khác.

Báo Sự thật Tưve bấy giờ là một tờ báo rất là sinh động: Nhờ báo biết nắm lấy đúng lúc và “cho ra” cái gì có vẻ mới, hay và có giá trị trong công tác lao động xã hội chủ nghĩa ở xí nghiệp và ở thôn xóm. Làm việc báo chí, tôi quen quan sát cẩn thận, suy nghĩ về các sự việc, và chỉ viết về những vấn đề mà tôi biết thật đầy đủ. Tôi bỏ những tháng nghỉ ngơi của tôi để làm việc cho nhà báo, cố gắng lợi dụng thì giờ ấy để mà quan sát.

Tấm gương huy hoàng của Goócki, mà tôi đọc tác phẩm từ bé, soi sáng đường đi cho tôi chẳng khác ngọn hải đăng. Tôi học được tinh thần quan sát là chính ở nơi ông. Một mùa hè nọ, tôi định sẽ cho tòa soạn một thiên phóng sự về những xí nghiệp làm nghề rừng và những xí nghiệp làm nghề thả bè trên sông trong vùng Tưve. Tôi đi tuốt đến quận Xêligiarốpski. Ở đó, tôi tới những xí nghiệp làm nghề rừng, tôi lên bè trôi sông và tôi làm việc ở đó, cầm tay lái, giữ tay chèo ở phía sau bè. Cứ thế là từ nguồn sông Vonga tôi xuống đến tận Calinin, rồi lại còn xuống thấp hơn thế nữa, đến tận Rưbinscơ, nơi đó kết thúc thật là mỹ mãn, lịch trình của tôi vừa lúc những bè cây cặp đúng bến. Trong khi rong ruổi như vậy, báo đăng loạt bài của tôi tựa là Trên những bè trôi sông. Tôi viết những bài đó ban đêm, gần ngọn lửa nhỏ đốt ở giữa nhà lều trên bè.

Một mùa hè khác, tòa soạn báo Thôn xóm Tưve giao cho tôi làm một thiên phóng sự về tình hình chủ nghĩa xã hội thâm nhập đời sống các thôn xóm chưa tổ chức thành nông trang. Tôi đến làng Míchsina một nơi cùng tận trong tỉnh Tưve, làm nghề sắp xếp sách trong thư viện và viết một loạt bài báo về đời sống trong làng về những bước đầu tiên của lao động tập thể.

Năm 1927, tập bài báo đầu tiên của tôi ra đời. Các bạn tôi trong tòa báo của thanh niên cộng sản Thế hệ trẻ không bảo gì tôi cả mà cứ gửi nó đến cho Mácxim Goócki ở Xorente. Khi hay biết được, tôi cuống cuồng cả lên. Bắt nhà đại văn hào phải mất công đọc các sáng tác chẳng ra gì mấy đó, mà tôi lại nhận thức được vô cùng rõ ràng là thật là còn non nớt, thì theo tôi thật là một việc xúc phạm. Cho nên tôi ngạc nhiên lạ lùng khi nhận được một cái gói to lùm lùm đề tên tôi, có dán tem nước ngoài, chữ viết to và cứng cáp lắm.

Tự tay viết đến sáu trang giấy, Goócki nghiên cứu tỉ mỉ và rất đỗi khoan dung các tác phẩm tuổi trẻ đó của tôi. Ông khuyên tôi nên làm việc không ngừng, học tập các nhà văn cổ điển mà mài giũa văn như “anh thợ tiện mài giũa kim khí”. Bức thư ấy của nhà đại văn hào đối với tôi thật là bằng không biết bao nhiêu năm học tập. Tôi đã từng phen suy nghĩ về mỗi chữ ông viết, ra sức rút ra những kết luận đúng đắn và hữu ích.

Goócki đã giúp tôi hiểu được rằng nghề làm báo và nghề viết văn là những nghề khó khăn, đòi hỏi phải học tập và lao động nhiều hơn bất cứ nghề nào khác. Tôi hiểu rằng không thể nào làm được những nghề ấy theo lối tài tử được, phải bỏ hết tâm lực vào, và chỉ có thế mới mong trở nên được một người lao động thực sự trong ngành báo chí bônsêvích.

Thời ấy, tôi học xong trường kỹ thuật, vừa vào làm việc ở xưởng nhuộm, nơi in những thứ vải gọi là “vải Ấn độ”. Xưởng này là một bộ phận của nhà máy liên hợp Vô sản.

Chẳng bao lâu, tôi đứng đầu một nhóm thông tín viên công nhân ở đó. Công việc của tôi ở xưởng và công tác xã hội của tôi ở nhà máy chẳng để cho tôi mấy thì giờ để làm cái việc tôi thích thú hơn cả, là làm báo. Mà sự ưa thích của tôi thì lại cứ ngày càng rõ. Cuối cùng, suy nghĩ chín chắn rồi, tôi thôi việc ở xưởng để vào làm biên tập viên tờ báo của thanh niên trong tỉnh, là tờ Thế hệ trẻ.

Ở đó có một tập thể biên tập viên tốt, sau đó nhiều người đã trở nên những người làm báo có giá trị. Hoạt động thật là sôi nổi. Quỹ tờ báo nhỏ bé, rõ là không đủ cho sáu hay tám trang báo mà chúng tôi cứ hàng tuần cho ra hai kỳ. Cho nên phần chính công việc là phải do những nhà thông tín viên trẻ tuổi làm công không giúp cho. Tinh thần phát huy sáng kiến của báo đó đã khiến cho báo được từng phen khen ngợi trên những cột báo của Sự thật. Tôi đã làm việc ở tòa báo Thế hệ trẻ rồi, khi báo thôi, làm việc cho báo địa phương của Calinin là tờ Sự thật Vô sản, cứ thế không lúc nào ngừng mãi cho tới chiến tranh. Tôi viết những thiên phóng sự cùng những bài báo, và tôi phụ trách các mục kinh tế và văn hóa. Tôi được kết nạp Thanh niên năm 1930; năm 1940 tôi gia nhập Đảng Cộng sản, Nhờ trường học lớn của Đảng bônsêvích mà tôi trở nên được một nhà văn.

Vừa tiếp tục cộng tác biên tập, tôi vừa viết truyện, nhưng, nghe đúng theo lời khuyên nhủ của Goócki, tôi chỉ cho đăng một phần nhỏ thôi trên báo hay trong tập niên lịch của vùng, là tập Ngày nay. Năm 1939, tập san Tháng Mười đăng cuốn tiểu thuyết đầu tiên của tôi: Xưởng nóng hổi. Tôi định cố tóm thâu trong cuốn sách đó toàn bộ kết quả của những điều tôi đã quan sát được về tình hình phát triển của phong trào thi đua xã hội chủ nghĩa trong những xí nghiệp ở Calinin và về hoàn cảnh trong đó phát sinh ra được những sáng kiến của những kẻ phát minh. Tôi đã tự mắt mình quan sát tất cả những cái đó và tôi đã viết phóng sự nhiều về việc này. Sách, sở dĩ thời ấy được đôi chút hoan nghênh, đó là nhờ trước hết ở sự vĩ đại của những sự việc mà sách viết ra, kể đến và của những con người đã là những vai chính của truyện. Tôi muốn được nhấn mạnh nhất là vào một điểm, là đề truyện và nhân vật trong truyện đều là từ trong đời sống mà lấy ra; những ai công tác từ lâu trong các xưởng chế tạo dụng cụ vận chuyển ở Calinin đều đã nhận ra ngay bạn mình trong đám nhân vật trong truyện, và, rốt cuộc, anh là vai nam chính trong truyện đã mời tôi dự lễ cưới chị là vai nữ chính. Hôm lễ, đã đùa khá nhiều về cái điều đó: chính là nhân vật trong tiểu thuyết bắt buộc phải làm cho xong hẳn công việc của tác giả, để cho tác phẩm được kết thúc có hậu, dầu không ly kỳ chi mấy.

Công tác lâu năm trong báo chí đã khiến tôi viết được những cuốn tiểu thuyết đầu tiên của tôi, nhưng chính công tác của tôi trong tờ Sự thật, mà tôi là thông tín viên chiến tranh khi cuộc chiến tranh dân tộc vĩ đại bùng nổ, đã là bổ ích nhất cho sự nghiệp nhà văn của tôi.

Có người đôi khi hỏi tôi:

- Cố nhiên là anh làm báo thành ra bị trở ngại nhiều trong công tác viết văn của anh; cái đời nhà làm báo vốn rồn rập, cứ bắt là phải viết về những đề tài nhất định phải gửi bài đến những ngày giờ hẹn trước, chẳng kể tâm tình mình mỗi lúc thế nào, rồi lại kèm vào đấy nữa là phải viết đúng là bao nhiêu hàng chữ.

Những câu hỏi loạt ấy không khiến tôi khó chịu, chỉ khiến tôi buồn cười, vì chính là công tác trong báo chí bônsêvích đã đưa tôi tới con đường văn chương. Làm báo giúp tôi biết rút ra cái chủ yếu, ghi cái gì là mới, là đã cộng sản rồi trong tâm tình của những người đương thời. Là thông tín viên chiến tranh của báo Sự thật, tôi lúc nào cũng ở những điểm quyết định của mặt trận mênh mông, nơi quyết định số mạng của Tổ quốc xã hội chủ nghĩa của chúng ta. Tôi đã thu thập được ở đó một khối lượng tài liệu vô giá. Mọi người đã biết rằng những vai chính trong những cuốn sách của tôi: Một Người chân chính và Người Xô viết chúng ta, đều là những nhân vật có thật. Phần lớn tên thật ngoài đời thế nào, tên trong sách của tôi cũng là thế, đôi khi có thay đổi rất ít mà thôi. Ý đầu tiên của hai cuốn sách này là do ở tòa báo Sự thật mà ra.

Sự việc xảy ra như thế này này.

Tháng 2 năm 1942, có đăng một bài tựa là: Thành tích của Mátvây Cuzơmin. Bài ấy, tôi đã viết vội vã, sau khi đưa ma vị anh hùng ấy. Đó là chuyện một nông dân tập thể, đã bát tuần, thuộc nông trang tập thể Bình minh, trồng gai, cụ nông dân này đã lập lại cử chỉ anh hùng của Ivan Xuxanin.

Bài viết vội và không có giá trị chi mấy. Lần đầu tôi ở mặt trận về, anh chủ bút báo Sự thật gọi tôi đến và trách tôi viết về một thành tích đáng kính phục như vậy một cách quá ư vội vã, y như một phóng viên nhà báo.

- Thật tiếc là lẽ ra có thể kể câu chuyện này một cách khác hẳn, - anh trách tôi như vậy. Rồi, với thói quen của anh là hay tổng quát, anh nói thêm: - Tôi đã bảo tất cả các anh thông tín viên chiến tranh, và tôi xin hết điều căn dặn anh: Cứ ghi cho đầy đủ chi tiết những công trạng của những người Xô viết mà các anh có cái may mắn được chứng kiến. Đó là bổn phận công dân của các anh, và, hơn thế nữa, đó là bổn phận đảng viên Đảng Cộng sản của các anh. Nghĩ coi: trong cuộc chiến tranh này, nhân dân Liên Xô đã vượt qua về dũng cảm tất cả các vị anh hùng của tất cả các thời đại xưa cũ. Và để cho không quên chi hết về những thành tích hiển hách ấy, để cho mọi người Xô viết biết rõ đồng bào mình đã đánh phát xít như thế nào, đã thắng nó như thế nào, thì phải ghi tất cả, tất cả.

Tôi liền mang theo một tập vở to, đóng bìa cứng, và tôi bắt đầu ghi vào đó thật là rành mạch địa chỉ các vị anh hùng hay những người đã chứng kiến những sự việc quan trọng, nhất là những tấm gương anh dũng mà tôi biết được.

Là thông tín viên chiến tranh, tôi bay nhảy từ góc mặt trận này đến một góc mặt trận khác, khi thì tôi tới cùng quân du kích, khi thì tôi vào rừng, nơi các biệt đội nhảy dù chuẩn bị đánh chớp nhoáng phía sau lưng địch, rồi tôi lại trở về chiến tuyến ở Stalingơrát, về tuyến lồi Cuốcscơ ở Goócxun Sépchengơrat, tới sông Visla, tới sông Naixơ, tới sông Spưtê, và đâu đâu tôi cũng đã được chứng kiến cái bản lĩnh anh hùng của người Xô viết, đã làm phai mờ cả những thành tích hiển hách của các bậc anh hùng xưa: Ivan Xuxanin, Mácpha, Côgina, Côsơca người thủy thủ Xêbastôpôn, và biết bao nhiêu người nữa mà lịch sử ta, văn chương ta còn nhớ tên, nhớ tuổi.

Suốt thời chiến tranh như thế là tôi đã ghi chép được sự việc về sáu mươi nhăm câu chuyện thuộc loại ấy. Một trong những câu chuyện ấy kể lại buổi gặp gỡ kỳ lạ với trung úy Vệ quốc Marétxép, phi công ở một phi trường lâm chiến, gần Oren, thời tấn công đánh lấy thành phố ấy. Đó là đề tài cuốn Một Người chân chính. Tôi đã rút ra từ những điều tôi đã ghi chép được hai mươi bốn câu chuyện tôi cho là quan trọng hơn cả, điển hình hơn cả, bộc lộ rõ hơn cả tinh thần của con người Xô viết. Và tôi đã viết thành những bài truyện ngắn, tập hợp lại trong một cuốn sách lấy tựa là Người Xô viết chúng ta.

Giờ đây, xong chiến tranh rồi, tôi cứ tiếp tục làm việc theo đúng phương châm ấy, là kể những cái mà tôi đã chứng kiến. Trong truyện lấy tên là Trở về, tôi đã cố gắng trình bày bằng một hình thức nghệ thuật một mẫu đời của một anh thợ đúc nổi tiếng ở Mátxcơva. Đề tài của cuốn tiếu thuyết Vàng cũng là lấy ra từ trong đời sống thực sự: nó kết liễu vào lúc tấn công trên mặt trận Calinin, đầu năm 1942. Cái quan tâm đến sự xác thực đó, không phải là một cái gì riêng cho một mình tôi chút nào. Đời sống của chúng ta, trong chế độ xã hội chủ nghĩa, cứ ngày một đổi thay hoài; nó tiến lên, nó cung cấp cứ mỗi ngày, mỗi giờ, cho nhà văn những đề vừa giản dị vừa say mê, lấy ở kinh nghiệm hàng ngày thấy có. Người Xô viết, được lý tưởng của chủ nghĩa cộng sản dìu dắt, đạt đến đỉnh cao của sự vĩ đại trong lao động cũng như trong chiến đấu. Những công lao cao cả làm nên vì Tổ quốc, ta cố suy diễn đặt để nó ra thì thật là rất khó, ngay đối với một nghệ sĩ có trí tưởng tượng mãnh liệt nhất. Nhưng đời sống Xô viết chúng ta thì cung cấp cho nhà văn biết bao nhiêu tâm tình thật vô cùng là phong phú.

Công tác làm báo luôn luôn đưa chúng tôi tiếp xúc với những người đáng lưu ý nhất của thời buổi này, và cho phép chúng tôi được thấy những người ấy trong lao động và trong đấu tranh. Nghề làm báo khiến cho mắt chúng tôi sắc hơn, tai chúng tôi thính hơn. Riêng về bản thân tôi, thì những sự việc mà đời sống hiến dâng cho, thay thế vào chỗ trí tưởng tượng văn chương của tôi bị thiếu sót. Những nhân vật mà tôi phác họa ra, mà đời sống vượt tràn ra khỏi những trang sách của tôi, hoàn thành cái gì còn chưa hoàn chỉnh trong sách tôi: chúng tôi đã cùng nhau gặp gỡ nhau lại với anh Marétxép ở Vácxava, không phải với danh nghĩa nhân vật và tác giả tiểu thuyết, mà lần này với danh nghĩa cùng là đại biểu Liên Xô tại Đại hội thế giới lần thứ hai của các Chiến sĩ Hòa bình. Malích Gápđulin, nhân vật truyện Một anh hùng ca ra đời hiện lãnh đạo Viện Văn học trong Viện Hàn lâm khoa học nước Cadắc và chị nông dân ở Pôntava, chị Uliana Bialôgơrút, người đã cứu được lá cờ của một trung đoàn chiến xa, trong truyện Lá cờ của trung đoàn của tôi, thì sau chiến tranh đã được tặng thưởng huân chương về kết quả chị đã thu được trong vụ mùa củ cải. Được chứng kiến hạnh phúc của những con người ấy, hoạt động say mê của những con người ấy, lao động sáng tác của những con người ấy, lòng ta thật là vui sướng không cùng không tận. Làm nhà văn ở xứ sở của chủ nghĩa xã hội, là được hướng một hạnh phúc lớn lao không bờ bến.

Bôris Pôlêvôi

Mátxcơva

Tháng 11 năm 1950

Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Một Người Chân Chính PDF của tác giả Boris Polevoi nếu chưa có điều kiện.

Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.

Nguồn: thuviensach.vn

Đọc Sách

Cơn Mưa Định Mệnh (Thanhthanh)
Khi con người để cái phần "con" lấn át, không còn màng đến suy nghĩ, đạo đức, thì lúc đó cũng chẳng khác nào "thú vật". Cái kẻ mà có ý nghĩ ngủ với con gái ruột của mình, không phải thú vật thì là gì??? Không, kẻ đó thậm chí còn thua cả thú vật!!! Bà Ưng đau đớn cả thể xác lẫn tinh thần khi mà ông Ưng lại nổi "thú tính"lên... Bà đứng không nổi quỳ không xong bởi da bị bỏng, căng rát, chỉ cần cử động là toàn thân bà cảm giác như có ngàn mũi kim đâm vào da thịt, đau đớn vô cùng.*** Tìm mua: Cơn Mưa Định Mệnh TiKi Lazada Shopee Bà tránh ra! Tránh ra... Nhanh lên. Tiếng ông Ưng hét lên trong đêm tối. Tôi xin ông đấy, ông có còn tính người nữa không ông Ưng ơi? Bà Ưng đau đớn thể xác, bây giờ lại đau đớn cả tinh thần khi mà ông Ưng bỗng nhiên nổi lên cái tính "thú vật". Gọi là thú vật quả không sai, đời thủa nào bố đẻ đòi ngủ với con gái bao giờ??? Bà đứng không nổi quỳ không xong bởi da bị bỏng, căng rát, chỉ cần cử động là toàn thân bà cảm giác như có ngàn mũi kim đâm vào da thịt, đau đớn vô cùng. Ông Ưng không quan tâm đến sự đau đớn của vợ mình mà hung hăng gạt tay bà ra, trợn mắt giận dữ: Mày có tránh ra không con kia? Tao đang khó chịu đấy nhé, không cút ra tao đạp cho một đạp bây giờ? Từ bao giờ cái loại mày đòi lên tiếng cãi lại lời tao vậy hả?? Bà Ưng nước mắt lưng tròng, mấy ngày nay rồi bà chưa chợp mắt được tí nào cũng là bởi buổi sáng hôm trước bà đi tôi vôi thuê cho người ta. Nhà nghèo, bữa sáng ông Ưng không cho nấu cơm, bà nhịn ăn sáng rồi đi làm, đến nửa buổi, đói quá hoa mắt nên trượt chân ngã xuống hố vôi đang tôi. Phúc lớn mạng lớn là hố vôi đó còn chưa nóng đỉnh điểm, xung quanh có người cùng làm nên kịp thời cứu được bà lên ngay. Nhưng từ gối chân trở xuống bỏng nặng, theo lý thì phải nằm viện để điều trị nhưng ông Ưng không đồng ý. Nói là tốn kém viện phí, mấy đồng lương hưu của ông không đủ để trang trải... Sơ cứu qua loa bà Ưng đòi con gái đưa về nhà... Sống chung với người chồng vũ phu này mấy chục năm trời nên bà hiểu rõ, từ ngày bà bị bỏng, không giúp ông Ưng giải tỏa được cái máu "dê" trong người nên ông ấy mới hằm hè như vậy. Nhưng hỡi ôi, bà tưởng ông chỉ gia trưởng, vũ phu, keo kiệt thôi, nào ngờ ông ấy còn không bằng cả loài cầm thú nữa. Ông Ưng không làm gì được bà Ưng nên lăm le đòi ngủ với cô con gái út mới 15 tuổi là Thúy Hạnh. Bà nói nhẹ không được, nặng không xong, ông ấy nổi cơn thú tính lên lao vào căn buồng rách nát và đòi ngủ với cô con gái. Trong căn buồng tối, Thúy Hạnh nghe thấy tiếng cãi nhau, tiếng đồ đạc đập loảng xoảng nên sợ hãi, cô bé định chạy ra ngoài bênh vực cho mẹ vì mẹ đang bỏng nặng. Nhưng... khi nghe được ông Ưng muốn làm trò đồi bại với mình, Hạnh sợ hãi chốn vào trong góc tường, ngồi thu lu một chỗ, tay cầm cái chổi để phòng thân... Con Hạnh đâu rồi? Con Hạnh đâu? Ông Ưng đi vào trong buồng, tối quá nên ông không nhìn thấy gì, khi nãy còn đang hăng "máu", chưa được giải tỏa nên căng thẳng quá, cãi nhau với bà vợ một trận ông còn thấy khó chịu hơn. Quờ quạng tay trên giường không thấy con gái đâu, ông Ưng điên đú: Cái con đĩ con này nó đi đâu mất rồi? Con cái mất dạy, ba tuổi đầu đã xí xớn đi đêm không về? Cái thứ này không để cho bố mày đ!t thì để làm gì... Cái con mẹ nó chứ? Con mẹ nó đã đeo"" phục vụ được tao thì con đĩ con phải phục vụ bố mày... Mẹ con chúng mày biết chưa... Mẹ cha nhà chúng mày chứ... Ông mày đang nưng"""" kak quá... hừ hừ... Ông Ưng gầm gừ tìm kiếm trong chiếc chăn bông cũ rích, trời rét, chăn gối vứt ngổn ngang trên giường, tìm mãi không thấy con gái đâu ông ta phát điên lên rồi chợt nhớ ra: mình chưa bật đèn sáng lên! Ông Ưng hung hăng bật công tắc đèn lên và rồi ông ấy cười rú lên như một con sói: Hahahaha... Con Hạnh, mày đây rồi! Mày trốn ở đấy làm gì? Đến đây bố bảo. Ông Ưng chìa tay ra phía trước, ở dưới đũng quần, của nợ khốn nạn của ông đang chĩa ra phía trước, hai con mắt ông nhìn rất đáng sợ. Hạnh sợ hãi tới mức tim đập thật nhanh, cả người run rẩy co rúm lại, cô bé hoang mang không biết nên làm gì khi bố đang tiến lại gần. Bờ môi mấp máy không nói thành câu.. Bà Ưng ở ngoài nhà đau khổ gào khóc: Thằng khốn nạn... mày là chó chứ không phải người nữa... Ưng ơi, mày giết tao đi, mày giết tao đi còn hơn chứ mày làm thế này thì trời đất nào tha thứ cho mày được? Nó là con gái mày đấy... thằng khốn nạn kia... Mày thèm thì mày mang tiền đi mà kiếm gái, tại sao mày lại đối xử với con gái tao như vậy... Ưng ơi... Ông Ưng nghe thế thì điên lên, ông giậm chân xuống nền nhà thật mạnh, chỉ tay ra ngoài nhà rồi nói: Con đĩ kia mày im mồm. Con gái mày đã chết đâu mà mày phải khóc? Không im tao ra tao vả cho giờ? Thúy Hạnh mở to mắt, trời mùa đông mà mồ hôi trán vẫn ướt đầm đìa, cô bé còn quá nhỏ để hiểu được những việc sắp tới sẽ kinh khủng như thế nào nếu như người bố- người đàn ông khốn nạn kia tiến đến. Hạnh vẫn cầm cái chổi, hai cánh tay run run... Đến đây bố bảo... đừng sợ, có cái đéo gì mà phải sợ? Rồi thể nào chả phải làm người lớn?? Đến đây... Nhanh lên... Khi ông Ưng đi đến gần Hạnh, ông ta đưa cánh tay lên phía trước định giật cái chổi từ tay HẠNH thì bất ngờ con bé phản đòn. Hạnh vung chổi lên vụt vào tay ông Ưng một cái, bị đánh bất ngờ ông ta rụt tay lại mồm tru tréo lên: Á. con đĩ con này mày dám đánh bố mày à?? Hả! Hạnh ghê tởm ông ấy đến mức buồn nôn, cô bé chứng kiến hết những nỗi đau mà mẹ phải chịu đựng suốt thời gian qua. Cộng thêm hành động vô liêm sỉ ông ta đang định làm với mình càng làm cho Hạnh thấy hận bố, ghét bố, ghét đến mức muốn ông ấy chết ngay tức khắc. Ông Ưng vung tay tát đốp vào mặt Hạnh, cô bé thấy tai mình ù đi, má đỏ ửng lên, Hạnh nhìn bố bằng ánh mắt căm thù: Ông cút đi... huhu... Nói rồi Hạnh đứng vùng dậy, cô vung chổi liên tiếp đánh trả vào người bố, vừa đánh con bé vừa gào lên: Chết đi! Chết đi! Chết mẹ ông đi. Ông Ưng không ngờ con gái lại phản ứng như vậy vì ngày thường Hạnh khá hiền và ít nói, nhất thời ngây ra vì hành động của con gái, ông ta không đánh nữa mà lặng thinh suy nghĩ. Phải chi ông đã thức tỉnh rồi? Ông đã biết việc mình làm là trái luân thường đạo lý nên vậy? Nhưng không, không hề có chuyện đó, chỉ là ông ngạc nhiên trước thái độ của Hạnh mà thôi, ông ta định đánh tiếp thì Hạnh nhanh như con sóc vụt cái chổi vào mặt ông ấy thật mạnh rồi chạy ù ra khỏi gian buồng. Hạnh sợ hãi, sợ bố đuổi theo nên cô bé không quay lại nhìn mẹ lấy một cái, cắm đầu cắm cổ chạy trong đêm tối. Bị vụt vào mặt một cái đau điếng người, ông Ưng sa xẩm mặt mày choáng váng ngã phịch xuống đất, hai tay ôm lấy mặt rên rỉ: Cha tiên nhân con đĩ này nó dám đánh ông! Tiên sư chúng mày... con đĩ mẹ lại đẻ ra con đĩ con, ông nuôi chúng mày để chúng mày đối xử với ông thế này đây! Để ông tóm được mày ông giết, con ranh con ạ... á á... đau quá... Ông Ưng ngồi ở dưới nền nhà kêu than, bà Ưng ở bên ngoài thấy mừng thay cho con gái, không biết con bé bỏ chạy đi đâu ngoài trời đêm kia... nhưng thà vậy còn hơn ở nhà để thằng già kia nó giở trò đồi bại. Bà Ưng chắp tay lại khẽ khấn vái mong trời phù hộ cho con gái bà không nghĩ quẩn. Chỉ sợ tâm hồn ngây thơ của nó nghĩ không thông mà làn điều dại dột thì bà không sống nổi nữa. Hạnh ơi, con đừng bỏ mẹ mà đi nhé! Gió bên ngoài trời thổi rất mạnh, lúc đi khỏi nhà Hạnh chạy như bay nên không hề thấy lạnh, thậm chí trong người vừa sợ vừa hận thù nên cô bé quên đi cả cái giá lạnh. Hạnh không biết bản thân mình nên đi đâu, chỉ sợ bố đuổi theo nên cứ cắm đầu chạy. Nếu là bình thường, có lẽ Hạnh không bao giờ có gan đi một mình giữa đêm khuya thế này. Vì cô bé sợ ma, sợ bóng đêm. Nhưng hôm nay, trong lúc chạy được một quãng dài rồi Hạnh mới nhận ra, thì ra bóng tối chẳng có gì đáng sợ cả... Chỉ có lòng dạ con người mới thực sự ghê tởm, Hạnh không ngờ bố mình lại trở nên đê tiện đến như vậy. Ngay từ phút giây nghe thấy bố mình - ông Ưng nói rằng "Mẹ cô không phục vụ được ông ấy chuyện giường chiếu thì Hạnh sẽ phải là người thay thế..." Hạnh đã rất ghét bố, ghê tởm bố và sợ hãi đến mức không muốn nhìn thấy mặt ông ta nữa. Tiếng gió vẫn rít từng cơn, hai má Hạnh lạnh cóng, hai bàn tay nắm tròn thành nắm đấm, Hạnh vẫn cắm đầu cắm cổ chạy. Đến khi mệt quá dừng lại nghỉ chân cô bé mới phát hiện không có ai đuổi theo mình cả, nhìn lên phía trước là một ngôi chùa, nơi đây Hạnh có biết vì thỉnh thoảng dịp lễ đầu năm hoặc có việc gì đó cô bé vẫn theo mẹ lên chùa cầu may. Cây đa trước cổng chùa hứng trận gió đông mạnh nên lá rơi lả tả, cánh cổng chùa đóng im lìm, nhìn qua khe cửa, Hạnh thấy có bóng đèn thắp ở giữa đình để canh kẻ trộm, ngoài ra không thấy bóng dáng một ai. Hạnh không sợ đêm tối nữa, cô bé cũng chẳng sợ ma, chỉ cần nghĩ đến câu chuyện vừa diễn ra khi nãy cũng đủ khiến cô bé rùng mình rồi. Nghỉ ngơi một lát thần trí ổn định Hạnh bắt đầu thấy lạnh, nhiệt độ ban đêm quả nhiên xuống thấp. Hạnh đưa hai bàn tay lên trước mặt, hà hơi mấy cái để kiếm tìm hơi ấm nhưng không ăn thua. Trên người mặc có chiếc áo thu đông bên trong và chiếc áo len bên ngoài, hai manh áo mỏng không đủ để chống chọi với cái khí hậu khắc nghiệt thế này. Cô bé co ro ngồi xuống cạnh cổng chùa, thân hình bé nhỏ lạc lõng giữa đêm tối, thật đáng thương khi có nhà mà lại không dám trở về. Sáu giờ sáng. Trời mùa đông nên vẫn còn tối, chú tiểu dậy tụng kinh và quét sân chùa, khi mở cánh cổng ra thì chú giật mình chạy biến vào trong nói với sư thầy: Thầy ơi! Thầy ơi! Giọng chú tiểu gấp gáp. Gì mà nghiêm trọng thế? Sư thầy vừa tụng kinh xong đang từ trong đình bước ra, trời rét, thầy mặc chiếc áo khoác rất dài và to, nhìn dáng đi chậm chạp đến sốt ruột. Có người chết ở ngoài cổng thầy ạ! Sao cơ? Sư thầy ngạc nhiên. Con vừa ra mở cổng thấy có một người chết cứng vừa ngã vật xuống đất xong... Mặt chú tiểu cắt không còn giọt máu, sự tình thế nào không ai biết nhưng trời còn tối, hơn nữa rét buốt thế này tự nhiên có người ngã vật xuống đất bất động thì chắc hẳn ai chứng kiến cũng đều sợ hãi như vậy. Đi theo ta! Sư thầy nói xong liền cầm tràng hạt lên trước ngực, vừa đi vừa niệm chú a di đà phật.. Điện sáng được bật lên, đúng là ở giữa cổng có người. Là một cô gái còn rất trẻ. Khoảng lứa tuổi học sinh, thân hình co rúm vì lạnh, môi và mặt tái nhợt, mắt nhắm nghiền nằm co quắp trên nền đất. Sư thầy ngồi xuống đưa tay lên mũi cô bé xem còn thở không, kiểm tra xong thầy nói: Vẫn còn sống! Mau bế con bé vào trong, đốt một chậu than hồng để ở phòng bên trái... khả năng là bị nhiễm lạnh rồi, mặt nóng ran... Chú tiểu hấp tấp đỡ cô bé dậy và bế vào trong nhà, sư thầy chuẩn bị một chậu nước ấm và khăn sạch để lau mặt cho cô. Vào phòng kín có than hồng sưởi ấm, cộng thêm sư thầy lau mặt và chườm khăn ấm nên lát sau cô bé tỉnh dậy. Tuy nhiên, cô không tỉnh táo cho lắm, hai mắt nhìn lên trần nhà như vô hồn, mồm lẩm bẩm giống như mê sảng... Con bé sốt cao lắm, mau lấy thuốc hạ sốt đến đây! Dạ.! Không biết con cái nhà ai đêm đông giá buốt mà không biết đường về nhà là sao? Như này mà không phát hiện sớm là chết đấy.. Sư thầy nghiền nát viên thuốc hạ sốt hòa tan cùng nước và bón cho cô bé từng thìa một. Cơ thể ấm dần lên, thuốc ngấm, chú tiểu nấu một bát cháo loãng và đem lên. Ngủ một giấc đến trưa thì cô tỉnh dậy, đầu óc quay cuồng, nhất thời cô bé ngơ ngác không biết vì sao lại ở đây. Chú tiểu thấy cô tỉnh dậy thì mừng quá, vội chạy đi báo cho sư thầy biết. Con thấy trong người thế nào? Sư thầy nhìn cô bé nói nhẹ nhàng, thoáng nhìn đã thấy có thiện cảm. Thúy Hạnh nhìn thấy vị sư thầy trước mắt lúc này mới nhớ ra chuyện đêm qua ngủ quên trước cổng chùa. Bây giờ nằm ở đây, có lẽ được mọi người đưa vào trong chùa. Hạnh e ngại toan ngồi dậy thì sư thầy vội ngăn lại: Đừng vội... con còn mệt. Cứ nằm nghỉ thêm đi, dậy ngay sẽ chóng mặt đó.. Con cảm ơn thầy! Hạnh nói lí nhí, cô bé thấy đầu mình đau nhức khủng khiếp, cổ họng khô rát khàn cả tiếng, có lẽ cô đã bị nhiễm lạnh bởi cơ thể đã chịu rét cả đêm qua. Nhà con ở đâu? Sư thầy bắt đầu hỏi chuyện, bởi lẽ sư biết được một cô bé bỏ nhà đi đêm không về chắc chắn có nguyên nhân, mà lý do là gì thì người không suy luận ra nổi. Nhìn mặt cô bé cũng sáng sủa, dễ nhìn.. lý nào... Sư thầy trầm ngâm suy nghĩ... Hạnh không nói gì cả, nghe thầy hỏi nhà cô bé òa lên khóc, có phải họ muốn đuổi cô về nhà không nhỉ? Hạnh sợ cái cảnh phải quay về căn nhà đó, nơi đó có một người không bằng cầm thú. Cô không muốn về... Hạnh lắc đầu, cô ấp úng không nói được thành câu, liên tục xua tay... Đừng sợ... đừng sợ... Ta không làm hại con... Bình tĩnh nào, có chuyện gì cứ cứ bình tĩnh rồi hãy nói... Thầy ơi.. con không về nhà đâu, con mà về là ông ấy sẽ hại con đấy... Hạnh khóc tu tu, nước mắt nước mũi chảy ròng ròng. Sư thầy kiên nhẫn lắng nghe. Ông ấy là ai? Bố con! Bố con... Ông ấy... ông ấy đòi hại con... hu hu... huhu... bố con là người xấu... hu... hu... Hạnh khóc nấc lên, dù chưa biết đầu đuôi thế nào nhưng sư thầy cũng đoán được rằng con bé bị bố bạo hành. Bàn tay người lại lần tràng hạt, mồm niệm chú a di đà phật, thật không ngờ lại có người cha nhẫn tâm đến như thế.Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Cơn Mưa Định Mệnh PDF của tác giả Thanhthanh nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Cơn Mưa (Khang Thành)
"Cơn mưa" là câu chuyện không chỉ về tình yêu, mà sau khi đọc xong, bạn sẽ hiểu thêm rất nhiều điều về cuộc sống và cách làm người. Ví như rằng, trong cuộc sống, dù bất đắc dĩ đến như thế nào đi nữa, bạn vẫn sẽ luôn có sự lựa chọn của riêng mình. Giống như Khổng Tú Trân, cô gái cũng có xuất thân nghèo khổ, đã nhắm mắt đưa chân, lựa chọn làm người tình của người đàn ông có vợ; cuối cùng mất tất cả, mất thân thể mất tự trọng mất tiền, liên lụy cả đến những người xung quanh. Nghèo có phải là cái tội không?! Không, nghèo không phải là cái tội. Nhưng nếu vì nghèo mà đánh mất bản thân mình, lầm đường lạc lối, vậy thì bạn đã có tội rồi. Nghèo mà không chịu cố gắng vươn lên, thay đổi số phận của mình, vậy thì bạn cũng đã có tội rồi. Đừng đổ lỗi, cũng đừng trách cứ. Bởi vì giống như Tôn Bằng dù khó khăn đến thế nào vẫn luôn quyết tâm bảo vệ Tôn Phi, bảo vệ những tín ngưỡng tốt đẹp trong lòng anh; cũng giống như Trần Nham, ngày hôm đó đã chọn bước về phía hai người họ, đến cùng lại vẫn bất chấp bao sóng gió mưa bão cuộc đời để kiên định bước về phía Tôn Bằng, chờ đợi anh. Mỗi một sự lựa chọn đó, dù phải đánh đổi bằng nước mắt và đớn đau, một tương lai không thể bảo đảm, nhưng ít nhất, mỗi một giây phút trôi qua, họ đã không phải hổ thẹn, không phải hối hận vì những gì đã làm hay đã bỏ lỡ. "Chúng ta không cách nào hứa hẹn với thế giới này, chúng ta chỉ có thể hứa hẹn với bản thân, ít nhất đừng dễ dàng bỏ cuộc, đừng cô phụ chính mình đã từng một thời nhiệt huyết."*** Với mình, không thể nghi ngờ, Cơn mưa là một trong những truyện ngôn tình hiện đại xuất sắc nhất. Mình từng đọc được ở đâu đó rằng, một tác phẩm trở nên tuyệt vời không phải là khi bạn đồng cảm với tác giả mà là bạn cảm thấy được những gì trải ra trên trang sách đồng cảm với chính bạn****. Và Cơn mưa thực sự đã mang đến cho mình sự thấu cảm bất tận đó. Không phải là cái cảm giác thỏa mãn hoặc vui vẻ nhất thời sau khi đọc xong, để rồi ngủ một giấc dậy thì những gì bạn nhớ lại có lẽ chỉ còn là một nụ cười mỉm qua quýt, mà là cái cảm giác trăn trở, băn khoăn, vừa vui lại vừa buồn, khuấy đảo những góc sâu kín trong con người bạn. Nhưng những xúc cảm đó, dù mạnh mẽ, đồng thời cũng rất dịu dàng. Chính là cái cảm giác như kiểu bên ngoài trời mưa tầm tã, còn bạn thì ở nhà, trong chăn ấm đệm êm, nghe tiếng mưa rơi như trút nước ngoài hiên vậy. Dữ dội mà lại bình yên, ấm áp vô ngần. Vậy nên, nếu những ai muốn tìm một câu chuyện thực tế, đủ để đánh thức những rung động nơi bạn, đủ để tiếp sức cho bạn dũng cảm hơn trong tình yêu, hay đủ để bạn lại muốn thấy mình mạnh mẽ hơn nữa giữa dòng đời vốn nhiều bất trắc, thì mình xin được nhiệt liệt đề cử cuốn truyện này. Chúc cho mỗi "chú lính chì dũng cảm"*****nhỏ bé mà can trường trên thế giới, đều có thể: sau Cơn Mưa, trời sẽ sáng! P/s 1: Nếu bạn thích Cơn Mưa, nhớ hãy đọc cả Xuân Khởi của Kim Bính nhé. Còn nếu bạn đã thích Xuân Khởi, hãy đến với Cơn Mưa. Hai cuốn truyện có mô típ khá tương tự nhau, đều thực tế và rất hay, rất cảm động ạ. P/s 2: Đây lại là một cái review vô cùng dài của mình nữa rồi. Dù mình cam đoan, mình không hề cố ý. Chỉ là có những cuốn truyện sâu sắc đến nỗi nó khiến mình muốn trải lòng thật nhiều, về nhân vật, về nhân sinh. Cảm ơn những ai đã chịu khó đọc đến những dòng cuối cùng này. Mình hứa lần sau mình sẽ viết dài hơn ạ ~ (ahihi)*** Tìm mua: Cơn Mưa TiKi Lazada Shopee Văn án: Khi mới bắt đầu, chưa ai yêu ai, trong cơn mưa, chỉ có cơn gió lướt nhẹ qua ngọn cây.Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Cơn Mưa PDF của tác giả Khang Thành nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Con Mèo Tự Dưng Biết Nói (Claude Roy)
Bí mật của mọi bí mật, đó chính là tất cả các con mèo đều biết nói. Có những loài mèo biết nói ngay từ khi mới sinh ra. Và tất nhiên, có những con mèo chậm nói hơn... vào thời điểm này của cuộc đời, chúng chẳng còn gì là không biết cả, kể cả lời nói. Đúng vậy đấy, loài mèo biết nói. Nhưng chúng chỉ quá khôn ngoan và quá kín đáo không để chúng ta nhìn thấy. Quá thận trọng và quá khiêm nhường không để chúng ta biết. Loài mèo nói - mỗi khi chúng ta không có ở đó. (Con mèo tự dưng biết nói) ***Claude Roy sinh ra tại Paris ngày 28 tháng 8 năm 1915. Thuở nhỏ, ông sống tại Jarnac, rồi sau đó chuyển tới Paris và bắt đầu học luật. Trong chiến tranh, ông tham gia vào tổ chức Kháng chiến và đã gặp gỡ nhiều đại văn hào Pháp như Louis Aragon, Elsa Triolet, André Gide và Jean Giraudoux. Sau cách mạng, ông là một trong những trí thức nổi tiếng nhất tại Pháp Tìm mua: Con Mèo Tự Dưng Biết Nói TiKi Lazada Shopee Là một nhà thơ, một tiểu thuyết gia, và một người ưa chu du khám phá, ông không cho rằng một nhà văn phải nói với trẻ em giống như là với những kẻ chậm hiểu và nói với người lớn như là họ đã mãi mãi hết tuổi thơ. Các tác phẩm dành cho người lớn của ông, và bộ tác phẩm dành cho độc giả từ 4-104 tuổi: Ngôi nhà biết bay, Chú mèo dễ thương, Con mèo tự dưng biết nói… Năm 1985, Viện hàn lâm Goncourt đã trao giải nhất Goncourt Thơ cho ông, và đến năm 1995, ông đã nhận giải Guillaume Apollinaire cho sự nghiệp sáng tác của mình. Claude Roy mất ngày 13 tháng 12 năm 1997.***Chàng mèo Gaspard Mac Kitycat, bạn chí cốt của Thomas, một hôm bỗng tự dưng biết nói. Chuyện đến tự nhiên như không. Gaspard mang dòng máu Scotland thừa hưởng từ bố, một danh miêu tiếng nổi như cồn trong loài Mèo Xanh của Anh, còn ở Pháp thì được gọi là mèo sác-trơ, thế nhưng màu lông lại xám xịt chứ không như cái tên. Tristram Mac Kittycat, tức công tước thứ mười ba của dòng họ Garth (một dòng họ lâu đời xứ Ê-cốt), ngay từ cái nhìn đầu tiên đã phải lòng một nàng mèo Pháp màu xám cũng dòng sác-trơ quyến rũ bậc nhất thiên hạ tên là Mouflette de Vaneau, nam tước Flon. (Nàng là hậu duệ của ngài Flonflon lừng danh đã tham gia chuyến tàu chở quân trang phục vụ Đại Quân. Vị tướng mèo này được Napoléon Đệ nhất đích thân phong tước nam tước trên chiến trường Austerlitz. Vinh dự này tưởng thưởng việc ngài đã có công giúp thống chế Murat diệt trừ lũ chuột đã dám to gan ra răng nghiến ngấu cả toa yến mạch của quân đội.) Cuộc hôn nhân mỹ mãn của công tước Tristram xứ Scotland và nữ nam tước Flon lần lượt cho ra đời bốn nhóc mèo nhà nòi. Gaspard Mac Kitycat, kẻ được định sẵn sau này sẽ kế tục cương vị Công tước thứ mười bốn dòng họ Garth, là anh cả. Người thân gọi cậu là Gaspard. Gaspard là một chú mèo can trường có bộ lông màu xám sac-trơ đặc trưng. Những kẻ ngù ngờ vẫn hay bảo: “Đó là một con mèo xám lông chuột”, dù rằng thật thiếu văn hóa mới đi so sánh một chú mèo với một con chuột. Gaspard mê tít trò vờn nhay-rí rách-nhấm nháp đám cỏ mọc cuối vườn. Một buổi sớm giống như bao buổi khác, Gaspard ngồi ăn sáng với Thomas. Khi Thomas đi học, Gaspard còn tiễn cậu chủ nhỏ ra tận cửa và đúng thủ tục tạm biệt hàng ngày, chú nói “Tạm biệt!” bằng một tiếng meo khe khẽ và một tiếng gừ gừ mãnh liệt. Gaspard nổi tiếng trong giới mèo là được trời phú một chất giọng mê ly. Tuy nhiên, có vẻ ý kiến của loài người về vấn đề này lại không được thống nhất cho lắm. Thomas quả quyết rằng Gaspard có một điệu meo meo tuyệt vời, và một âm meo hay lịm người. Nhưng bố của Thomas, lúc nào đang đọc báo mà nghe tiếng Gaspard nhặng lên đòi ăn tối là y như rằng khăng khăng: “Con mèo này có tiếng kêu y như tiếng cửa xát.” Nhưng dù gì, Thomas cũng luôn bảo vệ Gaspard đến cùng mỗi khi có ai nói xấu mèo cưng của cậu. Ngay từ hồi còn bé, Thomas đã luôn đối xử tốt với Gaspard. Cậu không bao giờ kéo đuôi, giật râu hay vuốt ngược lông Gaspard. Cậu cho Gaspard ăn, nói chuyện với Gaspard bằng giọng tôn trọng và trìu mến. Tóm lại, cậu đối xử với chú mèo của mình chẳng khác gì một con người, mà lại còn như người bạn thân nhất. Vậy là, sáng hôm đó, sau khi Thomas ra khỏi nhà, Gaspard lang thang trong vườn và lại bắt đầu chơi trò vờn nhay-nhấm nhẳng-nhí nhách với đám cỏ. Có một loại cỏ cậu chàng chưa bao giờ nhìn thấy nhưng trông lại có vẻ đúng loại khoái khẩu. Gaspard xông vào vờn, nhai, nhí nhách, nhấm nháp và cuối cùng nuốt chửng lấy nó. Vừa nuốt qua khỏi cổ họng, Gaspard đột nhiên thấy như có một dòng điện kỳ lạ chạy rần rật từ vòm miệng xuống dạ dày. Một giây sau, một con bướm bay vèo qua râu chú ta và Gaspard, khi nhảy lên bắt bướm, nghe thấy một giọng nói nhỏ giống hệt tiếng một cây vĩ cầm đồ chơi. Cái giọng đó thì thầm: “Bướm kia, tao mà bắt được mày, tao chén thịt không tha!” “Ai đang nói thế nhỉ?” Gaspard nhìn quanh quất, tự hỏi. Chú chẳng thấy bóng ai, nhưng lại nghe thấy giọng khe khẽ nói tướng lên suy nghĩ thầm kín của chú: “Ai đang nói thế nhỉ?” “Chẳng có ai đang nói cả, vì làm gì có ai”, Gaspard tự nhủ. Và cùng lúc đó, chú vẫn lại nghe thấy cái tiếng nói bé tí, hao hao tiếng cây vĩ cầm đồ chơi. Nó lại nhại: “Chẳng có ai đang nói cả, vì làm gì có ai.” “Chả đúng thế còn gì. Gaspard tự nhủ. Chẳng ai nói gì bởi vì làm gì có ai ngoài mình, và bởi vì mình thuộc họ nhà mèo, là mèo thì làm sao nói được chứ. Ấy thế mà mình lại nghe thấy ai đó nói: “Chẳng có ai nói cả, vì làm gì có ai.” Thế thì phải có một ai đó. Vì theo lẽ thường mà nói, không có người làm sao có tiếng.”Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Con Mèo Tự Dưng Biết Nói PDF của tác giả Claude Roy nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Con Mèo Trời (Elizabeth Coatsworth)
Câu chuyện ngụ ngôn cảm động “Con mèo trời” đã trở thành một tác phẩm kinh điển kể từ khi được xuất bản năm 1930 và được nhiều thế hệ độc giả yêu thích. Người đọc sẽ không khỏi bất ngờ, khi Elizabeth Coatsworth, một tác gia phương Tây, lại có thể viết một câu chuyện cảm động mang đậm chất Á châu đến vậy. “Con mèo trời” là một tiểu thuyết của nhà văn Elizabeth Coatsworth, giành giải thưởng Newbery cho các tác phẩm thiếu nhi của Mỹ vào năm 1931. Câu chuyện xảy ra tại Nhật Bản cổ xưa, về một người họa sĩ nghèo và một chú mèo trắng…***Elizabeth Coatsworth Sinh ngày 31 tháng Năm năm 1893 ở Buffalo, New York, Mỹ. Bà tốt nghiệp Vassar College năm 1915, sau đó hoàn thành chương trình thạc sĩ tại trường Đại học Columbia năm 1916. Thuở niên thiếu và sau khi tốt nghiệp, bà đã đi du lịch nhiều nơi trên thế giới. Khi Chiến tranh thế giới thứ nhất nổ ra, bà đang ở Anh; trong khoảng 1916-1918, bà đã dành 13 tháng chu du khắp châu Á. Tinh thần ham xê dịch cùng những trải nghiệm của bà ở nhiều quốc gia khác nhau đã đóng một vai trò quan trọng trong các sách và thơ của Coatsworth. Coatsworth bắt đầu sáng tác thơ từ năm 1914 và có thơ được đăng trên nhiều tạp chí khác nhau. Cuốn sách đầu tay của bà, tập thơ Dấu chân cáo, được phát hành năm 1923. Năm 1927, bà xuất bản cuốn Con mèo và thuyền trưởng, cuốn sách sau đó được chỉnh sửa và tái bản năm 1974. Năm 1930, bà ra mắt cuốn Con mèo trời, câu chuyện dựa trên một truyện ngụ ngôn Nhật Bản nói về lòng từ bi của Phật dành cho tất cả các loài vật. Cuốn sách được Newbery Award năm 1931 này là minh chứng cho thấy sự ngưỡng mộ văn hóa phương Đông và tình yêu thiên nhiên của tác giả, chủ đề còn trở đi trở lại nhiều lần trong các sáng tác của bà. Năm 1955, bà nhận được bằng tiến sĩ danh dự của Đại học Maine.*** Tìm mua: Con Mèo Trời TiKi Lazada Shopee Ngày xửa ngày xưa, ở nước Nhật xa xôi, trong một căn nhà nhỏ có một chàng họa sĩ nghèo ngồi mộc mình. Chàng đang đợi bữa tối. Bà lão giúp việc đã đi chợ, còn chàng thì ngồi thở dài, mơ tưởng đến những món ăn bà sẽ mang về. Bà đi đã lâu và chàng ngóng bà từng giây từng phút, tưởng bà sẽ xuất hiện ngay nơi cửa, cúi chào rồi mở chiếc giỏ nhỏ ra đế khoe với chàng bà đã khéo tiêu tiền như thế nào. Nghe tiếng chân bà, chàng bật dậy. Chàng đói mốc meo rồi! Nhưng bà vẫn nấn ná ở cửa với chiếc giỏ đậy kín. “Thôi nào,” chàng trai van vỉ, “bác mua gì thế?” Bà lão run rẩy, hai tay giữ chặt lấy chiếc giỏ. “Thưa cậu chủ,” bà lão nói, “tôi thấy nhà ta cô quạnh quá.” Khuôn mặt nhiều nếp nhăn của bà trông vừa đáng thương vừa ương bướng. “Cô quạnh ư!” chàng họa sĩ nói. “Cháu cũng nghĩ vậy! Ta chẳng có gì đãi khách thì khách nào đến nhà ta? Cháu còn quên mất cả mùi bánh gạo rồi. Lâu lắm chả được miếng nào!” Và chàng lại thở dài, bởi vì chàng thích bánh gạo nếp, và bánh xếp, rồi cả bánh thạch đậu ngọt nữa. Chàng thích được uống trà trong nhũng chiếc tách sứ tinh xảo cùng bạn bè, hay ngồi trên nệm êm, cùng đàm đạo về cành hoa anh đào đang nở trong góc phòng, trông như một nàng công chúa nhỏ nhắn. Nhưng lâu nay chẳng ai đoái hoài tới tranh của chàng. May là thỉnh thoảng vẫn còn có tép vụn mà ăn. Nếu không sớm bán được một bức tranh, thì tép vụn cũng chẳng còn. Chàng lại đưa mắt nhìn chiếc giỏ. Có lẽ bà lão đã mua đưọc một hay hai củ cải, hay một trái đào chín nẫu quá nên người ta không buồn mặc cả. “Cậu chủ,” bà lão nói khi thấy chàng nhìn chiếc giỏ, “dạo gần đây tôi thường hay bị lũ chuột phá làm mất ngủ.” Nghe vậy chàng cười phá lên. “Chuột hả?” chàng lặp lại. “Chuột sao? Bác ơi, chuột nào vào nhà nghèo như nhà ta? Đến hạt tấm cũng chả có mà ăn.”Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Con Mèo Trời PDF của tác giả Elizabeth Coatsworth nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.