Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Ba Bộ Mặt Của I-A-Nút

Xta-nhi-xlap Ga-ga-rin BA BỘ MẶT CỦA I-A-NÚT Truyện tình báo Liên Xô Người dịch: Nguyễn Thụy Láng NHÀ XUẤT BẢN THUẬN HÓA HUẾ - 1987 Số trang: 240 Dịch từ nguyên bản tiếng Nga BA BỘ MẶT CỦA I-A-NÚT Báo Tiểu thuyết - Tháng 6-1984 àu ngầm «Van-ki-ri-a» mất tích Vào tháng sáu năm 1944, chiếc tàu ngầm của hải quân Đức mang tên Van-ki-ri-a bị mất tích. Khi thời hạn thẩm tra kết thúc, thì ở căn cứ hải quân, nơi chiếc tàu ngầm Van-ki-ri-a có trong danh sách, các tàu khác đã treo cờ rủ và các sĩ quan đều mang băng tang. Ban tham mưu xếp nó vào danh sách các tàu ngầm và thủy thủ bị mất tích, còn người thân của các thủy thủ thì được biết là họ đã hy sinh anh dũng trong một trận chiến đấu với kẻ thù của nước Đức vĩ đại. Ít người được biết số mệnh thật sự của chiếc tàu ngầm này. Hành trình các chuyến đi kéo dài của nó người ta lại càng biết ít hơn. *** Một người dáng vóc vạm vỡ, bắp thịt nở nang, da rám nắng, từ biển bước lên bãi tắm óng ánh cát vàng, gạt những giọt nước đọng trên mình rồi thủng thẳng đi dọc theo mép nước. Giờ này trên bãi tắm Ca-pa-ca-ban ở Ri-ôđơ Gia-nê-rô chỉ có ít người. Từ Đại Tây Dương, từng luồng gió mát thổi vào sâu trong lục địa xô bạt luồng khí nóng oi bức đang bốc lên từ những con đường rải nhựa của thành phố. Hắn ta đứng lại, lấy chân hất chiếc vỏ ốc nửa chìm nửa nổi trong cát. - Chào Ghéc-man! Người đàn ông đứng tuổi có bộ râu hung hung kiểu thủy thủ với thân hình rắn chắc cất tiếng chào. Y đang nằm ngửa cách Ghéc-man chừng dăm bước và bây giờ lật sấp, chống khuỷu tay nhỏm dậy, đưa tay che mắt cho khỏi bị chói nắng. - Chào bác sĩ Dên-khốp! Ghéc-man đáp lại rồi ngồi xuống cát bên cạnh y. - Anh đến muộn 15 phút đấy. - Có một chuyện hoàn toàn tình cờ, thưa bác sĩ. Ghéc-man nói. - Khỏi cần chi tiết. Ta hãy nói vào việc đi. Mong sao anh tránh khỏi được mọi chuyện tình cờ, chàng trai ạ. - Thuyền đã đến vào đêm qua. Đội thủy thủ đã được bố trí ngay tức khắc, và bây giờ chắc là đang vung tiền vào tiệc rượu chè. Trên thuyền chỉ còn lại thuyền trưởng và một gã Mê-hi-cô tên là Pê-rết. - Thế gã Pê-rết này làm việc ra sao? - Một chàng trai đáng tin cẩn. Có thể trông cậy vào anh ta. - Bọn họ chỉ có hai người thì không thể đưa thuyền ra khỏi cảng được! - Vâng, tất nhiên, nhưng tôi đã chuẩn bị thêm hai người nữa. Ghéc-man trả lời. - Hãy thận trọng đấy ! Đừng quên rằng chính phủ nước này, về hình thức, đang theo con đường trung lập. - Tôi hiểu ngài. Thưa bác sĩ. Cuộc gặp gỡ sẽ diễn ra ở đâu ạ? - Ở vuông 27-15. Các anh cần phải có mặt ở đấy từ 23 giờ đến nửa đêm. Tín hiệu - pháo lửa đỏ để mọi góc độ nhìn thấy rõ và ở phía dưới là những đốm sáng xanh. Anh sẽ bắn pháo hiệu. Họ sẽ tự tìm đến chỗ anh. Mật khẩu của họ «Chào buổi sáng». Anh sẽ trả lời: «Địa bàn bị hỏng, bây giờ đêm nào cũng lạnh». - Tất cả đã rõ. Ngay đêm nay ạ? Ghéc-man hỏi. - Chính đêm nay. Hàng chở trên tàu là bao nhiêu? - Một trăm sáu mươi tấn - Ghéc-man trả lời. - Một trăm tấn ở dạng thỏi, còn lại là tiền đúc. Bác sĩ Dên-khốp cau mày. - Phải đúc lại tất cả. Với những số tiền đúc ấy thì nguy hiểm hơn đấy. Ghéc man nhún vai. - Đấy không phải là điều quan tâm của chúng ta, thưa bác sĩ. - Ghéc-man đáp... - Phải. - Dên-khốp xác nhận. - Thôi, đi đi, Ghéc-man! Trước tiên hãy xuống nước, sau đó lên bờ, ở đâu thì tùy ý. Ban ngày hãy nghỉ ngơi đi. Đêm nay anh phải đứng trước một công việc khó khăn nặng nề đấy. Hãy nhớ nhé: Ô vuông 27-15. *** Con cá Ma-rơ-lin to lớn lao nhanh vào tấn công. Đàn cá chuồn vọt lên, bay trên mặt nước, giương những cặp vây dài lướt sẹt trong màn đêm dày dặc để thoát nạn... Một lúc sau chúng lại hạ xuống nước. Chỉ còn một con vì bay cao hơn cả đàn nên không trở về với biển được. Bị mắc vào kính tiềm vọng, nó rơi xuống dưới chân những người đang đứng trên cầu tàu, chút nữa làm rơi chiếc mũ lưỡi trai của viên chỉ huy tàu. - Đồ dơ dáy! - Viên chỉ huy rủa rồi lấy chân hất con cá chuồn vào một góc. - Nửa giờ nữa là đến hẹn! - Tê-ô-đo Phôn Bết-man nhận định. - Anh tin rằng chúng ta đang ở đúng địa điểm đã định chứ? - Viên chỉ huy hỏi. - Hoàn toàn tin chắc. - Tốt. Chúng ta chờ đợi vậy. Chiếc tàu ngầm Van-ki-ri-a đã tắt đèn, đậu đúng ô vuông 27-15 trong tư thế chiến đấu: thân tàu dài và hẹp ẩn chìm dưới nước, chỉ có buồng chỉ huy, như một mỏm đá ngầm, nổi mập mờ trên mặt nước khó mà đoán nổi trong đêm tối. Địa điểm chúng ta đậu đúng trên chí tuyến Ma-kết. Viên thuyền phó thứ nhất phá tan sự im lặng. Trong khi đó chiếc thuyền «Ô-ri-nô-cô» đang tiến đến địa điểm hẹn. Vài giờ trước, dưới sự chỉ huy của Han-xơ Đrê-vít, một người Đức sinh ra ở Ác-hen-ti-na, con thuyền rời cảng Ri-ô đơ Gia-nê-rô ra khơi. Các nhà chức trách trên cảng theo thông báo của viên thuyền trưởng đã nhận xét trong các giấy tờ: cảng đến là Xan-tô Ca-ra-vê-lốc; hàng chuyên chở là máy khâu, đoàn thủy thủ gồm năm người. Đứng bên cạnh viên thuyền trưởng trên mạn tàu là người giúp việc có vẻ mặt rầu rĩ, đó là Pê-rết, mà trước đây theo lời đồn là một tên cướp sừng sỏ, gốc Mê-hi-cô. Ở đây còn có cả Ghéc-man và hai thủy thủ bỏ trốn từ chiếc tàu thủy Ác-hen-ti-na vì bị cám dỗ bởi viễn cảnh sẽ kiếm thêm chút đỉnh trong chuyến đi này. Tên chúng là Jô và Lu-ít. Trên thuyền gắn một máy nổ công suất lớn. Giờ đây, thuyền Ô-ri-nô-cô đang đi vào ô quy định, viên thuyền trưởng và Ghéc-man nhìn về phía trước. Pê-rết đứng bên tay trái, các thủy thủ đang chơi xúc xắc trong buồng của họ. - Có lẽ ta đã đến địa điểm - Viên thuyền trưởng nói và cho thuyền chạy chậm lại. - Dừng máy và chuẩn bị lửa hiệu. Mười lăm phút nữa chúng ta sẽ bắt đầu. Trên bầu trời, một phát pháo hiệu đỏ bùng lên như một ngôi sao và phía dưới nó nhấp nháy một đốm lửa xanh. *** - Lẽ ra đã đến lúc họ phải xuất hiện. Viên chỉ huy tàu ngầm Van-ki-ri-a vừa càu nhàu vừa đưa chiếc đồng hồ dạ quang lên tận mắt. - Mới quá có 10 phút. Phôn Bết-man trả lời - có thể họ đến muộn. - Thế anh tin chắc rằng chúng ta đang ở đúng vị trí ta phải có mặt chứ? - Viên chỉ huy hỏi lại. Tê-ô-đo Bết-man nói với vẻ bực mình: - Tôi đã đích thân kiểm tra lại những tính toán của hoa tiêu. Chính ông cũng có thể thấy rõ được điều đó. - Tôi đã thấy các đốm lửa rồi! - Tên nhận tín hiệu kêu lên. - Không thể nói khẽ hơn được à! - Viên chỉ huy càu nhàu - các anh không phải đang đi dạo chơi ở ngoại ô đâu nhé. Đứng bên bánh lái đi. Việc chuyển các hòm nặng từ thuyền lên tàu ngầm kéo dài đến tận lúc rạng đông. Tham gia vận chuyển có đoàn thủy thủ của cả hai chiếc tàu và thuyền. Pê-rết đã hai lần xuống tàu ngầm và trở về với một chai rượu vốt-ca chính phẩm trên tay. Trong một lần đi như vậy, chớp lấy thời cơ khi trong khoang không có ai. Pê-rết đã nhanh như cắt rút từ trong áo khoác ra một hộp kim loại dẹt to như hộp thuốc lá, cúi xuống nhét dưới một ống chạy dọc theo boong tàu Van-ki-ri-a. Đến sáng, tất cả các máy khâu đã nằm gọn trong chiếc bụng thép của tàu Van-ki-ri-a. Ghéc-man lên cầu tàu nói thầm vào tai viên chỉ huy khoảng 5 phút, sau đó trở về thuyền Ô-ri-nô-cô. Các thủy thủ tàu Va-ki-ri-a tháo dây buộc, và cả tàu lẫn thuyền đều tiến theo các hướng khác nhau. - Chúng ta đi lên phía bắc chứ, thuyền trưởng? - Ghéc-man nói - đến Rê-xi-phi, Pê-rết hãy đứng lên bánh lái đi. Ta muốn ứng tiền trước cho mấy anh bạn này. Ê! Jô, Lu-ít! Các thủy thủ đang ngồi trong khoang thuyền, buông thõng những cánh tay rã rời vì khuân vác từ đêm đến giờ, nặng nề đứng dậy đi về phía Ghéc-man đang đứng bên cửa buồng điều khiển. - Các chàng trai ơi, các anh giỏi lắm - Ghéc-man nói - các bạn nghĩ sao về một hớp rượu ngon và mấy đồng tạm ứng? Jô, một lên lai lực lưỡng, cười sung sướng và nhảy cẫng lên ở trên boong. - Tốt quá, thưa ông chủ, tốt quá! - Hắn nói. Lu-ít, một tên Ấn Độ bán thuần chủng có thân hình dài ngoằng và gầy gò, mỉm cười rụt rè. - Các bạn, hãy cầm lấy rượu và tiền đây này! Và có thể nghỉ ngơi được! - Ghéc-man nói. Các thủy thủ xoay lưng lại, sánh vai nhau đi về buồng thủy thủ ở phía mui thuyền. Ghéc-man nhìn viên thuyền trưởng đang đứng bên chiếc cửa sổ mở của buồng điều khiển, hắn đưa mắt về phía tấm lưng to bè của Lu-ít và dùng tay trái lấy khẩu súng máy trong chiếc tủ con ra. Những tiếng nổ vang lên liên tiếp. Lu-ít khựng lại, ngã sấp mặt xuống boong, co giật rồi hết cựa quậy: chai rượu từ từ tuột khỏi tay hắn. Viên đạn làm cho Jô sững lại dường như có một bức tường bỗng hiện lên trước mặt hắn. Hắn đứng sững trong giây lát, không nhúc nhích và thế là Ghéc-man lại nâng khẩu súng máy lên một lần nữa. Chỉ có điều hắn chưa kịp bắn thì Jô đã đột ngột quay ngoắt lại, đôi mắt mất hết thần sắc, nhìn thẳng, tiến về phía Ghéc-man đang giương súng. Jô tiến lại gần, còn Ghéc-man thì giật lùi về buồng điều khiển. Cuối cùng, trong buổi sáng yên tĩnh của biển khơi vang lên những tiếng nổ chát chúa của loạt súng máy, những viên đạn từ nòng súng bay ra cắm ngập và xé nát tấm ngực nở nang của tên lai. Hắn bước thêm được một bước cuối cùng, rồi thở khè khè đứt đoạn: - Ông... chủ... sao... lại… *** Hành trình của chiếc tàu ngầm hải quân Đức Van-ki-ri-a trong một thời gian được thực hiện trên mặt nước. Sau đó, viên chỉ huy ra lệnh bắt đầu lặn, vì tàu đi ngang qua khu vực nhiều tàu bè và thủy thủ tàu ngầm Đức không muốn để một ai phát hiện ra mình. - Tê-ô-đo, tôi sẽ ngủ chừng hai tiếng - viên chỉ huy nói với Phôn Bết-man - hãy cho tàu chạy về phía đảo Mác-tin Vác, từ đó ta sẽ rẽ về hướng xích đạo. Hai giờ nữa tôi sẽ thay ca cho anh. Tê-ô-đo suy nghĩ về những điều ngang trái mà số phận đã ném hắn - một sĩ quan tàu ngầm xuất sắc - vào cái hộp thép nhét đầy những máy khâu để thay thế cho những quả thủy lôi khủng khiếp. Tê-ô-đo Phôn Bết-man, tất nhiên hiểu rằng món hàng này quan trọng đối với nước đại Đức biết chừng nào. Nhưng công việc của hắn là đánh chìm các tàu địch chứ không phải là lẩn tránh giữa đại dương trên chiếc tàu ngầm không có máy phóng ngư lôi. Hắn liếc nhìn đồng hồ, mắng nhiếc tên cầm lái đã làm tàu lệch hướng mất 3 độ và lom khom chui qua những chiếc cửa hình ô-van của các ngăn buồng đi đến ca-bin. Song, Tê-ô-đo Phôn Bét-man đã không kịp tới đó. Một luồng khí nén từ phía sau xô hẳn ngã chúi xuống, đập cằm vào khung cửa. Hắn thấy đau ở cằm. Sau đó, viên thuyền phó thứ nhất không còn cảm thấy được gì nữa. Tên cầm lái ở vị trí trung tâm thấy lớp vỏ bọc có một chỗ bị bung vào phía trong và một dòng nước đen ngòm cuồn cuộn chảy về phía hắn rồi cuốn lấy hắn, vò xé hắn và dìm hắn chết ngập. Viên chỉ huy cũng chết ngập trong nước không kịp dậy. Các thủy thủ trong khoang mũi của tàu thì còn sống sót được một ít vì tiếng nổ làm cho chiếc tàu đứt làm đôi, nhưng phần mũi vẫn còn đủ kín. Chiếc quan tài bằng sắt vừa nhào lộn vừa chìm sâu xuống đáy đại dương, và ở đây nó bị một lớp nước dày chừng 300 mét đè lên. Chừng nửa dặm về bên phải, chiếc tàu chở hàng đang chạy từ Ri-ô Grăng đi Môn-rô-via thấy một vòm nước nổi lên lóng lánh dưới ánh mặt trời. Cột nước chùng chình giây lát rồi sau đó vỡ tung ra, gây nên sự kinh hoàng cho đoàn thủy thủ của chiếc tàu Bra-xin mang tên «Xao-pao-lô». Khoảng đen lấp lánh các màu lan rộng ra ở ngay chỗ vòm nước đã biến đi. Con tàu quay mũi đến gần nó, hạ xuồng, bắt đầu lượm lặt những mảnh vỡ và xác chết bị tung lên cùng với những bóng nước bị vỡ ra trên mặt biển. Bấy giờ là thời chiến và thuyền trưởng tàu «Xao- pao-lô» cấm không được báo tin về sự kiện đã xảy ra. Viên thuyền trưởng cố xác minh quốc tịch của những xác người đã được thủy thủ mình vớt lên, nhưng việc đó không thể được. Chẳng có giấy tờ gì, chẳng một dấu hiệu nào ngoài những dấu hiệu về chủng tộc. Ông ta không tìm được gì hết. *** Chiếc tàu ngầm «Van-ki-ri-a» bị mất trong tình trạng bí ẩn đối với các nhà chỉ huy Đức, nó chở 160 tấn ni-ken dưới dạng thỏi cùng với tiền đúc của Mỹ và Ca-na-đa. Ni-ken - một kim loại ánh bạc có giá trị bậc nhất trong bảng tuần hoàn của Men-đê-lê-ép với ký hiệu 28, là kim loại khó nóng chảy, cứng và không bị biến đổi trong không khí. Ni-ken trở thành một vấn đề nan giải đối với nước Đức cũng như nhiên liệu và còn có thể nan giải hơn. Dầu sao thì dầu lửa còn có thể thay thế được. Còn ni-ken thì không. Thiếu ni-ken không thể có vỏ thép. Thiếu vỏ thép không thể có xe tăng. Thiếu xe tăng thì không chiến thắng nổi trên những chiến trường của đại chiến thế giới lần thứ II. Thiên nhiên đã bớt xén, không cho nước Đức đủ ni-ken. Ở thung lũng sông Ranh chỉ có một trữ lượng ni-ken không đáng kể. Phần lớn ni-ken nước Đức phải mua của Ca-na-đa. Chiến tranh bắt đầu và nước Đức bị mất đi nguồn ni-ken từ Ca-na-đa. Hít-le chiếm được Hy-lạp và cùng với nó là các mỏ ni-ken. Nước chư hầu Phần Lan mở rộng cửa các mỏ ni-ken ở miền Bắc tại vùng Pết-xa-mô cho người Đức. Ở đó có các tù nhân và tù binh làm việc. Cả một quân đoàn SS đảm nhận bảo vệ các hầm mỏ và đảm bảo khai thác, liên tục loại quặng pyrit đỏ có hàm lựợng ni-ken và gửi về các nhà máy luyện kim ở Đức. Khi xe tăng T-34 của Liên Xô xuất hiện trên các chiến trường, các chuyên viên Đức kinh ngạc bởi độ bền của vỏ thép các xe tăng dó. Theo mệnh lệnh từ Béc-lin, chiếc xe tăng T-34 đầu tiên chiếm được đã được đưa về Đức. Ở đây, các nhà khoa học đã phân tích vỏ thép của nó. Họ xác định rằng vỏ thép của xe tăng Nga có một tỷ lệ ni-ken cao và do đó vỏ thép này cực kỳ bền vững. Việc thiếu ni-ken trong vỏ thép đã dẫn đến tình trạng là cho đến năm 1944, các nhà máy quốc phòng của Đức quốc xã phải sản xuất xe tăng vỏ dày hơn bình thường. Nhưng ngay vỏ như vậy vẫn dễ bị phá vỡ và các xe tăng «con hổ» «con báo» «phéc-đi-năng» rõ ràng là nặng nề hơn và yếu thế hơn các xe tăng và xe tự hành của Liên Xô. Ni-ken và ni-ken! Cần nhiều ni-ken hơn nữa! Mời các bạn đón đọc Ba Bộ Mặt Của I-A-Nút của tác giả Xta-nhi-xlap Ga-ga-rin.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Nợ Tình - Agatha Christie
15 năm trước, thi thể của tướng Alistair và vợ ông, bà Molly Ravenscroft được phát hiện gần Overcliffe. Cả hai đều chết vì những vết đạn, và một khẩu súng, trên đó chỉ toàn dấu tay của họ, được tìm thấy bên cạnh thi thể. Trong cuộc điều tra, đã không ai có thể chứng minh được đây là một vụ tự sát của cả hai hay là một vụ giết người rồi tự sát theo?  Bà Ariane Oliver đã gặp và nói chuyện với một số người mà bà xem họ là “những con voi” do đặc tính nhớ lâu của giống vật này. Trong những mẩu chuyện chắp vá của mình, những người này đã đưa ra những tình huống khác nhau, nhưng một ông bạn của bà, Hercule Poirot, đã lưu ý nhất đến một chi tiết mà ông cho là có thể đặc biệt: Molly Ravenscroft có bốn bộ tóc giả và ông cho rằng cần phải đào thật sâu vào quá khứ hơn nữa hòng tìm ra sự thật... *** Hercule Poirot một lần nữa lại xuất hiện trên con đường hẻm lên vách đã quay ra biển có những đợt sóng ngầu bọt đập liên tiếp vào chân núi. Chính nơi đây người ta đã tìm thấy hai xác chết của đôi vợ chồng nhà nọ. Cũng chính nơi đây ba tuần lễ trước đó một người mắc bệnh mộng du đã tử nạn.    Lúc này đã có nhiều người tới đây nhóm họp: một chàng trai và một cô gái đi tìm sự thật và hai người khác biết rõ sự thật ấy.  Poirot quay mặt nhìn ra biển, rồi nhìn con đường hẻm dẫn tới biệt thự ngày xưa có tên là Overcliffe. Nó cách đây không xa, theo chiều ngang bức tường có nhiều ôtô đang đậu. Ở trước cửa treo một tấm biển ghi cần bán toà biệt thự. Trên hàng rào thép có tấm biển khác ghi Overcliffe thay thế chữ Down House ngày xưa. Nhà thám tử bước lại gần Desmond Burton-Cox và Célia Ravenscroft đang đi trên đường hẻm.  - Nhân viên phụ trách đã đưa cho tôi chìa khoá - Chàng trai nói - Trong trường hợp chúng ta muốn vào biệt thự. Nhưng ngôi nhà đã hai lần đổi chủ trong năm năm gần đây nên tôi nghĩ là chẳng còn gì mà xem nữa.  - Em không tin - Célia trả lời - Trước hết một người tên là Archer mua nó, sau đó người này bán lại cho ông Fallowfield vì người ta thấy ở đây quá hẻo lánh. Và giờ đây ông Fallofleld đang muốn phá nó đi. Có thể là nhà có ma chăng?  - Em biết là nhà có ma thực ư?  ... Mời các bạn đón đọc Nợ Tình của tác giả Agatha Christie.
Bản Thông Báo Tử Vong tập 5: Khúc Ly Biệt 2 - Chu Hạo Huy
Muốn chiến thắng được tên sát thủ trí tuệ tuyệt đỉnh không để lộ một chút sơ hở nào, anh buộc phải điên cuồng hơn hắn! Phàm những ai nhận được “Bản thông báo tử vong” đều bị tên sát thủ thần bí tàn sát đúng như thời gian đã báo trước. Cho dù nạn nhân đã báo cảnh sát, cảnh sát dốc lực lượng hùng hậu thiên la địa võng, đồng thời theo sát bên cạnh nạn nhân để bảo vệ. Dưới tầng tầng lớp lớp mai phục như vậy, tên sát thủ thần bí vẫn có thể giết chết được đối phương một cách vô cùng dễ dàng như trở bàn tay! Tất cả những vụ giết chóc đều ở ngay trước mắt cảnh sát, đợt vây bắt lần nào của cảnh sát cũng đều bị thất bại thảm hại. Thế nhưng không ai hay biết được thân phận thật sự của tên sát thủ thần bí, lần nào sự bố trí tỉ mỉ cẩn trọng của cảnh sát cũng đều nằm trong kế hoạch của hắn, đây là một cuộc đối đầu đọ trí vô cùng đặc sắc. Thủ pháp gây án dường như hoàn mỹ không chút khiếm khuyết, liệu có tồn tại sơ hở nào để có thể phá án được hay không? Một cuộc thi đấu hấp dẫn, chắc chắn cần phải có đối thủ hùng mạnh. Anh muốn giết tôi, tôi cũng muốn giết anh - Đây chính là câu chuyện giữa cảnh sát và sát thủ! Những tội nhân thoát khỏi sự khống chế của pháp luật, đều sẽ phải đón nhận sự trừng phạt của Eumenides. Và người đàn ông đi ngược lại pháp luật này, anh ta quyết không bao giờ để mình phải chịu sự phán xét của pháp luật… *** ĐỐi với A Hoa sân bay tỉnh thành chính là vùng đất đau thương. Vào cuối thu năm ngoái, Đặng Hoa- nhân vật xưng bá một phương chính là bị mất mạng ngay trong đại sảnh chờ máy bay ở đây, từ đó cũng vén bức màn chuyển biến lớn thời kì hưng thịnh của Tập đoàn Long Vũ chuyển sang suy yếu. Và đối với A Hoa, đòn đả kích đối với cái chết của Đặng Hoa trên phương diện tình cảm vượt xa tất cả những ý nghĩa khác. Bởi vì trong con mắt A Hoa , Đặng Hoa quyết không chỉ đơn giản là một ông chủ - đó là một người đàn ông đem lại cho anh ta cuộc sống thứ hai. Giữa họ ngoài mối liên hệ chủ tớ, còn được liên kết bằng một thứ tình thân hơn cả huyết thống. Tối hôm đó A Hoa giương mắt nhìn Đặng tổng sụp đổ trước mặt thứ cảm giác bi thương và tuyệt vọng giống như khối băng dần dần tan chảy, trong khoảng khắc đã nhấn chìm anh ta; anh ta càng không thể nào quên được lúc đó bóng đen của kẻ gây ra tội ác ngay ở phía trên cao ngay ngoài phòng chờ máy bay đang cúi xuống nhìn tất cả mọi người, như thể một con điều hậu kiêu ngạo đang cúi xuống nhìn đám thỏ chuột không có chốn nương thân trên thảo nguyên trống trải. Mặc dù người đó đã dùng ánh sáng ngược sáng của sân bay để che giấu gương mặt mình, nhưng A Hoa lại có thể cảm nhận rõ được đôi mắt của đối phương giống như con dao quét qua toàn thân anh ta, còn anh ta thì lại giống như một đứa trẻ sơ sinh trần trụi không hề có khả năng phòng ngự. Hình ảnh này khắc sâu vào tâm khảm anh ta, định sẵn sẽ trở thành nỗi sỉ nhục trong cả cuộc đời anh ta. May mà A Hoa không vì nỗi sỉ nhục đó mà chạy trốn, anh ta cũng chưa bao giờ sợ bất cứ nỗi đau nào. Nỗi sỉ nhục và đau khổ chỉ càng thổi bùng lên ngọn lửa căm hận trong lòng anh ta-ngọn lửa báo thù. ... Mời các bạn đón đọc Bản Thông Báo Tử Vong tập 5: Khúc Ly Biệt 2 của tác giả Chu Hạo Huy.
Hãy Nghĩ Tới Một Con Số - John Verdon
BẠN NGHĨ TỚI MỘT CON SỐ TỰ NHIÊN KHÔNG QUÁ 1000, XÁC SUẤT ĐỂ AI ĐÓ ĐOÁN ĐƯỢC CON SỐ BẠN CHỌN LÀ BAO NHIÊU? 0,001  Không quá khó khăn phải không? Đến lần thứ hai, khi người đó lại tiếp tục đoán được con số bất kì mà bạn nghĩ tới trong đầu (xin nhấn mạnh là bất kì - nghĩa là xác suất, về lý thuyết là bằng 0) thì không còn ngạc nhiên thích thú ban đầu nữa, bởi chính là nỗi sợ hãi hoảng loạn khi kèm theo đó là những lời đe dọa trừng phạt những sai lầm trong quá khứ của bạn. Đó là những gì mà Mark Merelly, giám đốc Viện đổi mới tâm linh, đã trải qua... và rồi đột nhiên bị giết trong một vụ án mà hiện trường của nó cũng bí ẩn như khả năng đoán số nọ. Bắt đầu từ đây, Dave Gurney, người bạn cũ của ông ta, lên đường giải mã bí ẩn. Một kế hoạch khủng khiếp và một động cơ đầy bi kịch đã dần dần hé lộ...  ***   "Sự cuốn hút và cảm giác trọn vẹn tràn ngập... Verdon đã chơi đùa với nỗi sợ hãi sâu xa nhất, nguyên thủy nhất của chúng ta, khắc họa một tên sát nhân dường như có khả năng nhìn thấu tâm trí người khác..."  - Joseph Finder, tác giả Vanished  *** John Verdon sinh ngày 1/1/1942, là nhà văn trinh thám người Mỹ, hiện sống ở vùng núi Catskill cách không xa New York. Ông từng bỏ dở đại học, làm diễn viên đóng thế, theo đuổi đam mê với võ thuật, đua xe thể thao và làm việc trong ngành quảng cáo cho đến tận khi bắt đầu viết sách. Bắt đầu sự nghiệp khá muộn, nhưng những trải nghiệm cuộc sống phong phú và niềm đam mê dành cho tiểu thuyết trinh thám đã khiến những tác phẩm của Verdon nhận được tán thưởng lớn vì sự thuyết phục và chân thực. Tác phẩm: Hãy nghĩ tới một con số (2010) mở đầu cho một series trinh thám Dave Gurney gồm bốn tập, bao gồm cả các cuốn: Shut your eyes tight (2011), Let the Devil Sleep (2012) và Peter Pan must die (2014). *** Lúc Gurney băng qua cầu Tappan Zee và bắt đầu chặng đường tuyến 17 của hành trình thì tuyết đang rơi càng lúc càng nặng hạt, thu nhỏ thế giới trực quan trước mắt anh. Cứ vài phút anh lại kéo cửa xe xuống để luồng không khí lạnh ập vào làm tâm trí anh được tỉnh táo trong giây phút hiện tại. Cách Goshen một vài cây số, suýt nữa anh đã lái xe ra khỏi đường lộ. Chính bánh xe đang rung nảy lộp cộp trên vệ đường đầy lằn gợn giúp anh không đâm đầu vào một đoạn đê. Anh cố gắng chỉ nghĩ đến chiếc xe, bánh lái, và con đường, nhưng không tài nào làm được. Thay vào đó anh lại bắt đầu mường tượng ra cảnh truyền thông đưa tin sắp tới, bắt đầu bằng buổi họp báo trong đó Sheridan Kline chắc chắn sẽ tự khen ngợi bản thân vì đội điều tra của mình đã có vai trò quan trọng trong việc giữ gìn trị an cho nước Mỹ qua việc chấm dứt sự nghiệp vấy máu của một tên tội phạm hung ác. Truyền thông nói chung làm Gurney rất khó chịu. Bản thân việc đưa tin ngu ngốc về tội ác như vậy đã là một tội. Bọn họ sẽ biến nó thành trò đùa. Dĩ nhiên, theo cách của anh, anh cũng như vậy. Anh thường xem án mạng là một câu đố cần phải tìm ra lời giải, xem hung thủ là một đối thủ mà mình cần phải khôn lanh hơn. Anh nghiên cứu các giả thuyết, tìm ra các góc nhìn, vấp phải bẫy, và đưa con mồi của anh vào miệng cỗ máy công lý. Và tiếp sau đó là cái chết bất thường chưa rõ nguyên nhân đòi hỏi một đầu óc khôn khéo để giải quyết. Nhưng đôi lúc anh lại thấy mọi chuyện một cách hoàn toàn khác – khi anh bị sự mệt mỏi đánh gục sau cuộc rượt đuổi, khi bóng tối khiến mọi mảnh ghép của câu đố trông như nhau hoặc không giống mảnh ghép của câu đố một chút nào, khi bộ óc bị phiền nhiễu của anh đi lạc khỏi khung lưới hình học của nó để men theo những con đường nguyên sơ hơn, phơi bày thoáng qua trước mắt anh sự khủng khiếp đích thực của thứ đề tài mà anh đã quyết định dấn thân vào. Một mặt, tồn tại tính logic của luật pháp, khoa học tội phạm, các quy trình phân xử. Mặt khác, tồn tại Jason Strunk, Peter Thú túi Piggert, Gregory Dermott, nỗi đau, cơn thịnh nộ đầy sát khí, cái chết. Và giữa hai thế giới này tồn tại câu hỏi gay gắt khiến người ta bứt rứt không yên – thế giới này liên quan như thế nào với thế giới kia? ... Mời các bạn đón đọc Hãy Nghĩ Tới Một Con Số của tác giả John Verdon.
Kasha - Miyuki Miyabe
Truyện dân gian Nhật Bản kể rằng, có một loài yêu quái gọi là Kasha, cứ ở đâu có người chết thì nó cưỡi mây đánh sấm bay tới, thấy đã chôn thì nạy bật quan tài, chưa chôn thì thẳng tay cướp xác, để ăn, để bêu, để làm những việc gì mà nó muốn. Kasha còn có nghĩa là cỗ xe lửa, do âm binh đẩy, lọc cọc, lọc cọc, đưa các linh hồn đến ngục hình mà hành hạ. Kasha, tiểu thuyết trinh thám của Miyuki Miyabe, kết hợp cả hai ý tưởng này, kể về một thứ yêu quái mang dáng hình đàn bà, chuyên vun xới đời mình trên xác tàn của kẻ khác. Chỉ chăm chăm nhảy vào cỗ xe lửa của thi hài, mà không hay mình đang thay thi hài đến nơi ngục hình chịu tội. Một đêm tuyết lạnh, một chàng trai trẻ tràn trề yêu thương lâm vào tuyệt vọng, vì vị hôn thê của anh thình lình biến mất, để lại căn hộ trống trải hăng hắc mùi xăng. Cô sinh tháng Chín, với đá phong thủy là ngọc bích, nhưng lại khăng khăng đòi mua nhẫn đính hôn gắn ngọc lục bảo, viên đá ứng với tháng Năm. Chàng trai đến gặp một cảnh sát đang nghỉ dưỡng bệnh, nhờ ông truy tìm dấu vết người vợ sắp cưới. Mỗi bước lần tìm, họ lại choáng váng vì nhặt được một mảng da phấn bung lở khỏi người cô, rụng lả tả trên mỗi bước chân cô để lại, hé lộ chân diện tăm tối bên trong. Không đổ đến một giọt máu tanh, không ngây ngấy mùi của tử thi đang phân hủy, câu chuyện trinh thám tỉ mỉ và lạnh lùng này vẫn làm người ta nôn nao vì một thực tế, rằng mỗi con người cô lẻ trong thế giới kim tiền hiện nay, đều có thể thức dậy và nhận ra mình đã biến mất, hoặc soi gương mà không còn nhận ra mặt mũi mình. Tiểu thuyết này đã được chuyển thể thành hai phiên bản truyền hình của Nhật, vào năm 1994 và 2011 và chuyển thể phiên bản điện ảnh của Hàn vào năm 2012, nhan đề Helpless. Miyuki Miyabe nhà văn nổi tiếng của văn học hiện đại Nhật Bản, sáng tác rất nhiều thể loại khác nhau và đạt được nhiều giải thưởng và thành công thương mại về tiểu thuyết huyền bí, lịch sử, khoa học viễn tưởng, và trinh thám. *** Tàu vừa chuyển bánh rời ga Ayase thì mưa đổ sập xuống. Một trận mưa đá. Chẳng trách đầu gối anh đau nhức suốt cả ngày. Shunsuke Honma đứng cạnh cửa toa tàu nhìn ra bên ngoài. Để khỏi dồn trọng lượng cơ thể lên một bên chân, anh bám một tay lên thanh vịn, tay còn lại đặt trên chiếc ô chống chúc đầu xuống sàn. Vào lúc ba giờ chiều, hầu như bất cứ chuyến tàu nào ra ngoại ô cũng đều vắng vẻ cả. Còn vô số chỗ trống, đấy là nếu anh muốn ngồi. Chẳng có mấy hành khách, chỉ có hai cô bé mặc đồng phục cấp ba, một bà nội trợ ngồi gà gật bên chiếc túi xách to đùng, và một thanh niên ngồi hàng đầu gần khoang của người lái tàu đang lắc lư theo giai điệu từ chiếc headphone. Ít người đến nỗi có thể quan sát kỹ từng khuôn mặt, lần lượt từng người một. Chẳng việc gì phải đứng mãi thế cả. Rõ ràng là ngồi xuống anh sẽ thoải mái hơn bội phần. Anh đã ra khỏi nhà từ quãng giữa buổi sáng, đầu tiên là đi vật lý trị liệu, sau đó ghé qua Cục. Anh không gọi taxi mà cứ đi bộ hoặc chọn phương tiện công cộng. Lưng có cảm giác nặng như đeo chì. Các thành viên đội điều tra đã ra ngoài theo lệnh, ngoại trừ đội trưởng, người đón anh với vẻ khoa trương ngụ ý “Anh đang làm gì ở đây thế?”. Điều này khiến anh thấy khó chịu, nhất là vì đây mới là lần thứ hai anh xuất hiện kể từ sau đợt nghỉ ốm cuối năm ngoái. Nhưng làm cho anh hài lòng đâu phải là phần việc của gã ta, phải không nào? Công việc này không phải một trò chơi, họ sẵn sàng thay người nếu anh bị đánh bật trong một tình thế bất lợi. Họ cũng dễ dàng thay đổi mọi quy tắc và xóa sổ vị trí của anh. Có gì ngăn cản được họ chứ? Lần đầu tiên anh có cảm giác hối tiếc vì đã từ bỏ. Lòng tự tôn của anh bị tổn thương. Đó là lý do khiến anh cứ đứng mãi như thế. Kể cả khi chẳng ai ngó ngàng. Hoặc bởi vì chẳng ai ngó ngàng, cũng chẳng ai hỏi han kiểu, “Hình như độ này anh vất vả lắm?” Honma nhớ lại quãng thời gian còn đương chức đội trưởng phụ trách các tội phạm vị thành niên. Từng có một tay trộm vặt, một kẻ rất chuyên nghiệp. Nếu cô ta không bị một người bạn bán đứng, có lẽ bọn anh sẽ chẳng bao giờ tóm được. Cô ta chọn xoáy những món đồ hạ giá đặc biệt chỉ ở những cửa hàng sang trọng nhất, nhưng không bao giờ diện chúng ở chốn đông người, và cũng chẳng vội vàng bán tống bán tháo chúng đi. Cô ta sẽ trở về phòng, khóa trái cửa lại, rồi dùng thử đám đồ đó trước một tấm gương lớn. Quần áo, đồng hồ và các loại phụ kiện khác... Cô ta tạo dáng như một siêu mẫu trên tạp chí thời trang. Chỉ trước gương mà thôi, ở ngoài đường, cô ta vẫn mặc đi mặc lại những chiếc quần jean đã sờn lộ cả đầu gối. Chuyện đó thực sự diễn ra cách đây hai mươi năm rồi sao? Có lẽ cô gái đó bây giờ đã trở thành một bà mẹ, có con ngang độ tuổi cô ta thuở ấy. Liệu cô ta có lúc nào nhớ đến một tay cảnh sát non choẹt ra sức quở mắng bất chấp bức tường im lặng mà cô ta dựng lên, nhưng rồi gã ta thậm chí chẳng nói được một câu nên hồn? ... Mời các bạn đón đọc Kasha của tác giả Miyuki Miyabe.