Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Án Mạng Mười Một Chữ

Tình cờ phát hiện những điều bất thường sau cái chết thảm khốc của người yêu, nhân vật “tôi”, một nữ nhà văn viết tiểu thuyết trinh thám đã cùng bạn mình, Hagio Fuyuko, cũng là biên tập viên phụ trách sách của “tôi” quyết định điều tra về cái chết này. Trong quá trình điều tra hai người phát hiện người yêu của “tôi” đã từng gặp tai nạn lật thuyền trong chuyến du lịch đảo một năm trước. Và khi họ tìm tới những người cũng tham gia chuyến đi đó để tìm hiểu thì những người này cũng lần lượt bị sát hại. Cuối cùng “tôi” buộc phải tự mình phán đoán, điều tra để tìm ra chân tướng sự việc. Án mạng mười một chữ cũng đã được chuyển thể thành phim truyền hình vào năm 2011. GIỚI THIỆU TÁC GIẢ: Higashino Keigo là tiểu thuyết gia trinh thám hàng đầu Nhật Bản với nhiều tác phẩm hàng triệu bản bán ra trong và ngoài nước, gặt hái vô vàn giải thưởng. Ông từng là Chủ tịch thứ 13 của Hội nhà văn Trinh thám Nhật Bản từ năm 2009 tới năm 2013. Mỗi tác phẩm của ông đều có phong cách khác nhau, nhưng nhìn chung đều có diễn biến bất ngờ, khắc họa tâm lý nhân vật sâu sắc, làm nên nét riêng biệt trong chất văn của Higashino Keigo. *** Review Mọt Mọt:   Án mạng mười một chữ: Higashino Keigo – Những kẻ vừa là nạn nhân, vừa là hung thủ Khi một vụ án chẳng ai là người trong sạch. Khi tình bạn bị lợi dụng cho mục đích cá nhân. Khi sự thật được phơi bày khiến tất cả đều thương tổn. Bên tình, bên lý, biết chọn bên nào? Án mạng mười một chữ, nỗi đau quá khứ, kéo dài tới hiện tại, lạnh lùng, tàn nhẫn mà đắng cay, chua chát. Cuốn tiểu thuyết mang âm hưởng của trinh thám cổ điển Ra đời vào năm 1987, có thể nói, Án mạng mười một chữ được Higashino Keigo xây dựng rất khác so với các tác phẩm sau này: ngắn gọn, súc tích, tập trung nhiều hơn về mặt tình tiết, quá trình điều tra, phá án. Từ đấy, ông đã đưa sáng tác tiến gần hơn với thể trinh thám cổ điển. Xét về mặt dung lượng, tiểu thuyết Án mạng mười một chữ chỉ gói gọn trong 258 trang truyện, ngắn hơn nhiều khi đặt cạnh hàng loạt các tác phẩm về sau của Keigo-sensei như Bí mật của Naoko, Đơn phương, Bạch dạ hành hay Phương trình hạ chí… Bởi thế, dòng sự kiện của tác phẩm được chú trọng vào cốt truyện chính: quá trình một nhà văn chuyên viết truyện trinh thám đi tìm lời giải đáp cho cái chết đầy bí ẩn của người đàn ông cô yêu. Và trong quá trình đó, cô gái ấy khám phá ra hàng loạt bí ẩn cả trong quá khứ lẫn hiện tại, cả các bí mật về những con người cô vốn không quen biết tới người bạn cô vốn tưởng đã rất thân quen. Từ đấy, Keigo tiên sinh tạo lên kết cấu truyện lồng truyện, sự việc này nối tiếp, là nhân quả cho sự việc kia: Bí ẩn hôm nay, liên đới với cái chết năm xưa; hành động trả thù cho quá khứ, làm nên án mạng trong hiện tại. Một khía cạnh nữa khiến cho Án mạng mười một chữ trở lên gần gũi với các tác phẩm trinh thám cổ điển còn nằm ở yếu tố: Keigo-sensei đặc biệt chú trọng tới việc xây dựng tình tiết và tạo dựng những cuộc đối thoại, tương tác giữa các nhân vật. Nói như thế không có nghĩa Án mạng mười một chữ thiếu đi các phân cảnh miêu tả nội tâm hay sự biến đổi tâm trạng nhân vật. Vẫn có những day dứt, những hối hận, những mệt mỏi, những sợ hãi… của một con người theo đuổi đến cùng hai chữ chân lý, của một cô gái lần đầu vướng vào những bí ẩn liên hoàn đã cướp đi người đàn ông cô yêu, người bạn thân của cô, thậm chí bản thân cô thiếu chút nữa cũng đã mất mạng. Nhưng trong cuốn sách 258 chương, tình tiết liên tiếp, dồn dập diễn ra; cùng với đó là bản thân nhân vật tôi gặp gỡ hàng loạt nhân vật khác, những người liên đới trực tiếp tới vụ án; vì thế tần suất của các cuộc đối thoại cũng trở nên dày đặc. Không chỉ vậy, trong Án mạng mười một chữ, tác giả còn kết hợp sử dụng nhiều câu văn ngắn, điều đó càng góp phần đẩy mạnh nhịp truyện cũng như tiến trình sự kiện diễn ra nhanh hơn nữa. Nhưng tất cả, đều nằm trong một trục quá trình: Hành trình tìm kiếm sự thật của nữ nhà văn viết truyện trinh thám, đang tự đặt mình vào vai thám tử trong câu chuyện cuộc đời của chính cô. Đồng thời, tác giả cũng khước từ việc gắn Án mạng mười một chữ với những vấn đề quá mức đao to búa lớn trong xã hội. Cho nên tác phẩm dẫu mang hình thức truyện lồng truyện, một án mạng không đứng độc lập mà luôn gắn với bí ẩn phía sau – động cơ gây án của hung thủ và án mạng có thể tiếp nối án mạng mãi chẳng dừng nếu hận thù con người chẳng dứt thì cốt truyện của Án mạng mười một chữ vẫn rất gọn. Từ đó mà làm cho cuốn tiểu thuyết trở nên gần gũi hơn với trinh thám cổ điển. Những kẻ, vừa là nạn nhân, vừa là hung thủ. Mặc dù mang nội dung, cốt truyện và cách triển khai cốt truyện gần với trinh thám cổ điển thì Án mạng mười một chữ vẫn là một tác phẩm trinh thám chứa đựng những yếu tố trinh thám hiện đại do Higashino Keigo sáng tạo lên. Nhân vật trung tâm trong tác phẩm – xưng tôi, tự kể lại trải nghiệm của bản thân về vụ án, về quá trình cô điều tra, phá án để đi tới được ánh sáng ẩn sau bức màn. Nhưng nhân vật ấy lại không phải thám tử hay điều tra viên chuyên nghiệp. Cô chỉ là một nhà văn tự do viết tiểu thuyết trinh thám mà thôi. Vì thế bản thân cô hẳn chưa khi nào tưởng tượng tới việc chính mình lại trở thành nhân vật chính cho tấn bi kịch kéo dài với đủ plot twist như một cuốn truyện trinh thám như vậy. Cũng bởi không phải người điều tra chuyên nghiệp, tiếp cận vụ án với tâm thế của người đến sau, bị động nên “tôi” không tránh khỏi những hành động, suy đoán có phần nghiệp dư, nhẹ dạ, thậm chí ngây thơ. Và đây hoàn toàn là tâm lý tự nhiên của con người khi phải ứng phó với một hoàn cảnh bất ngờ, khi phải đối diện trước sự phức tạp của sự việc lẫn lòng người như thế. Sáng tạo lên một nhân vật chuyên sáng tác trinh thám đồng thời đặt nhân vật đó một tác phẩm trinh thám để giải quyết vụ án chính nhân vật vướng phải, đây vừa là sáng tạo, cũng vừa là cách thức Keigo-sensei phần nào tái hiện hiện thực: sự khác biệt rất lớn giữa đời sống với trang văn. Bên cạnh đó, ngoài hình thức truyện lồng truyện, Án mạng mười một chữ còn mang kết cấu đa thanh, đa bội ngôi kể, đa dạng điểm nhìn ở từng chương truyện. Đó là sự đan xen của bốn màn độc thoại ngắn vào mạch truyện chính. Ở đó, người độc thoại không phải nhân vật “tôi” – nữ nhà văn trinh thám mà là một “tôi” khác, theo sát bước chân nhân vật chính đồng thời tham gia trực tiếp vào hàng loạt vụ án mạng trong hiện tại. Tất nhiên, nếu độc giả là một người đã quá quen thuộc với dòng truyện trinh thám thì không thật khó khăn để biết được, tôi trong bốn màn độc thoại ngắn kia là ai. Nhưng sáng tạo lên một cái “tôi” bí ẩn, Keigo-sensei đã tạo lên tính phức hợp, phức điệu cho cuốn tiểu thuyết chỉ hơn 200 trang của ông. Ở đấy, có sự đa thanh của lời kể, đặt độc giả vào những dòng tự sự khác nhau, qua những điểm nhìn khác nhau để từ đó, người đọc có được cái nhìn tổng quan, toàn diện, đa chiều về hệ thống nhân vật cũng như toàn bộ câu chuyện ông xây dựng. Để từ đó, người đọc nhận ra, Án mạng mười một chữ gần gũi với trinh thám cổ điển, cũng dễ đoán biết hung thủ của những vụ án liên hoàn là ai, song đây không phải một cuốn tiểu thuyết được tạo dựng lên một cách đơn giản. Mà trong câu chuyện đó, trong tấn bi kịch kéo dài mãi từ quá khứ cho tới hiện tại và có thể vẫn tiếp nối tới tương lai, là muôn vàn gương mặt: vừa là nạn nhân, vừa là hung thủ, không ai hoàn toàn trong sạch song cũng không ai lại đáng trách hoàn toàn. Kẻ là nạn nhân hôm nay, trong quá khứ khi xưa đã từng là hung thủ của một vụ ám sát đầy tàn độc. Hung thủ trong hiện tại, lại là nạn nhân của bi kịch quá khứ. Nạn nhân trong quá khứ, phần nào lại trở thành hung thủ khi đặt trên sự phán xét của khía cạnh đạo đức. Kẻ như đứng sau tất cả bi kịch, lại bỗng trở thành nạn nhân nếu toàn bộ sự thật bị phơi bày… Ai cũng có động cơ riêng, ai cũng có nỗi khổ tâm riêng đẩy người ta vướng vào tội ác. Xây dựng lên những khuôn mặt đó, Keigo-sensei lần nữa, đưa tác phẩm của ông tiến gần tới hiện thực cuộc sống. Bởi cuộc sống đa diện và phức tạp, phải – trái, trắng – đen, đúng – sai,… vốn đâu thể lúc nào cũng có thể phân định rạch ròi. Vì thế, sự thật vốn được giấu trong chiếc hộp Pandora, khi người ta nhất quyết khai mở, chạm vào đó chỉ là nghiệt ngã, khổ đau, day dứt. Và con người, đứng trước hiện thực tàn nhẫn, chỉ có thể lựa chọn cách giải quyết để xoa dịu tâm hồn, để bản thân không phải hối hận về sau. Giống như một phương trình có vô số nghiệm, người ta chỉ có thể lựa chọn nghiệm tối ưu cho cuộc đời mà thôi. Và ở khía cạnh này, Higashino Keigo đã gặp gỡ tác giả Agatha Christie, khi bà viết lên Án mạng trên chuyến tàu tốc hành Phương Đông cũng với những gương mặt vừa là hung thủ, vừa là nạn nhân như vậy. Nhưng với lối tạo dựng cốt truyện, cách tạo dựng hệ thống nhân vật và khắc họa từng cá nhân, mỗi cái “tôi” khác nhau mà Keigo-sensei đã tạo lên Án mạng mười một chữ thật sự là của riêng bản thân ông, một tác phẩm, vừa cổ điển cũng vừa hiện đại. Dẫu sự thật ra sao, cuộc sống vẫn tiếp tục chảy trôi không ngừng. Có lẽ, cách kết truyện của Án mạng mười một chữ với một hiện thực phơi bày: ai cũng là nạn nhân, ai cũng là hung thủ và chẳng kẻ nào phải trả giá trước pháp luật là một cái kết khó chiều lòng tất cả độc giả, đặc biệt những ai muốn có sự rạch ròi, muốn kiếm tìm sự trắng – đen phân minh trong một tác phẩm trinh thám. Nhưng như đã nói, cuộc đời vốn không phải lúc nào cũng thể phân rõ phải – trái, đúng – sai và dẫu sự thật có ra sao, người ta chọn cách sống thế nào, thì thời gian vẫn tiếp tục chảy trôi, cuộc đời vẫn tiếp tục diễn tiến và con người vẫn phải tiếp tục hướng đến tương lai. Chỉ là, hận thù chắc chắn không thể giải quyết bằng hận thù, kéo dài đau thương, bi kịch chỉ khiến cho tâm hồn thơ dại, trong sáng của những đứa trẻ vô tội như cô bé Yumi càng thêm đau khổ mà thôi. Vậy tại sao, mỗi người không buông bỏ thù hằn, như nhân vật “tôi”, đã chấp nhận sự phức tạp của cuộc đời để có thể đối diện với tương lai bằng thái độ bình thản nhất: “Nhưng từ giờ mọi chuyện ra sao cũng được, tôi sẵn sàng đón nhận. Vì tôi đã chuẩn bị sẵn tinh thần. Dù ngày mai có xảy ra chuyện gì, thì hôm nay cứ đi ngủ cái đã.” *** Anh đang bị đưa vào tầm ngắm đấy.” Anh nghiêng ly rượu bourbon. Những viên đá trong ly lanh canh nhảy múa. “Bị đưa vào tầm ngắm?” Nghĩ anh đang đùa, tôi nhếch môi cười, hỏi lại. “Nhưng cái gì… bị ngắm cơ?” “Tính mạng anh.” Anh trả lời. “Hình như ai đó đang muốn giết anh.” Tôi vẫn cười. “Tại sao người đó lại muốn giết anh?” “À thì…” Anh im lặng chốc lát rồi tiếp tục. “Anh cũng không biết. Tại sao vậy nhỉ?” Giọng anh nặng nề quá đâm tôi không cười nổi nữa. Ngắm nghía khuôn mặt nhìn nghiêng của anh một hồi, tôi quay qua nhìn gương mặt người pha chế đang đứng quầy, rồi nhìn lại tay mình. “Tức là anh không biết tại sao, nhưng linh cảm thế à?” “Không chỉ linh cảm thôi đâu.” Anh nói. “Anh đang gặp nguy hiểm thật đấy.” Rồi anh gọi thêm một ly bourbon nữa. Tôi nhìn quanh, để chắc chắn không ai để ý, rồi mới quay sang gương mặt nhìn nghiêng của anh, cất lời: “Anh có thể giải thích rõ hơn được không? Rốt cuộc đã có chuyện gì?” “Thì đấy…” Anh uống cạn ly rượu, rồi châm lửa hút thuốc. “Anh đang gặp nguy hiểm. Vậy thôi.” Rồi anh nói khẽ: “Anh cũng thật là… Không định nói với em, mà lại lỡ lời. Chắc do ảnh hưởng của câu chuyện hồi trưa.” “Chuyện hồi trưa?” “Không có gì đâu,” anh lắc đầu. “Nói chung em không cần biết chuyện này.” Tôi chăm chú nhìn cái ly trong tay mình. “Vì em có biết cũng chẳng giải quyết được gì à?” “Không chỉ vì mỗi lý do đó.” Anh nói. “Em biết chỉ thêm lo thôi. Trong khi nỗi bất an của anh thì vẫn còn đó.” Tôi không đáp lại lời anh, chỉ bắt tréo hai chân đang để dưới quầy. “Này, tức là ai đó đang muốn hãm hại anh à?” “Ừ, cứ cho là vậy đi.” “Anh có thấy gì khả nghi không?” “Em hỏi lạ quá!” Lần đầu tiên anh bật cười kể từ lúc bước vào quán bar này. Làn khói màu trắng bồng bềnh phả ra từ kẽ răng. “Em nghĩ có ai đang yên đang lành lại kêu tính mạng mình đang bị đe dọa không? Em thì sao?” “Ừ thì…” tôi ngập ngừng. “Có thể không mà cũng có thể có. Vì em nghĩ chủ ý sát nhân xét cho cùng cũng giống với quan điểm sống thôi.” “Anh cũng nghĩ vậy.” Anh khẽ gật đầu. “Vậy là anh thấy gì đó khả nghi đúng không?” “Không phải tự mãn đâu, nhưng anh tìm được manh mối ở nhiều việc lắm.” “Nhưng anh lại không thể nói ra.” “Vì anh có cảm giác nếu nói ra rồi, thì những hoài nghi ấy sẽ trở thành sự thực.” Rồi anh tiếp. “Anh nhát gan lắm.” Sau đó chúng tôi im lặng ngồi uống rượu, đến khi mệt rồi thì đặt ly xuống, rời khỏi quán, thả bộ trên con đường mưa rơi. _Anh nhát gan lắm._ Tôi vẫn nhớ lời sau cùng của anh. 2 Tôi quen Kawadu Masayuki qua sự giới thiệu của một người bạn. Người bạn đó biên tập sách của tôi, tên Hagio Fuyuko. Fuyuko bằng tuổi tôi, là người phụ nữ chỉ biết đến công việc, và làm ở nhà xuất bản đã gần mười năm nay. Cô luôn đóng bộ áo vest đĩnh đạc như phụ nữ nước Anh, bước đi đầy tự tin. Tôi chơi với cô từ khi bước vào giới này, thấm thoắt cũng đã được ba năm. Nhưng khoảng hai tháng gần đây, một Fuyuko như thế bỗng nhiên lại hăng say bàn tán chuyện đàn ông nhiều hơn là bản thảo. Đúng cái hôm có thông báo quần đảo Amami sắp bước vào mùa mưa. “Tớ biết một anh chàng tuyệt lắm.” Cô nói với gương mặt nghiêm túc. “Một nhà văn tự do tên là Kawadu Masayuki. Cậu biết anh ấy không?” Tôi trả lời là không biết. Tên người cùng ngành lắm lúc tôi còn chẳng biết. Huống chi mấy nhà văn tự do. Theo lời Fuyuko kể thì anh Kawadu Masayuki đó sắp ra sách, và họ đã dần trở nên thân thiết sau vài lần tình cờ cùng tham gia mấy buổi họp xuất bản. “Anh ấy cao, đẹp trai lắm.” “Ừ.” Fuyuko mà lại nói về đàn ông cơ đấy, thật hiếm hoi làm sao. “Tớ thật muốn gặp người được Fuyuko khen hết lời như vậy một lần.” Nghe tôi nói, cô cười đáp: “Ừ, vậy để lần tới nhé.” Tôi chỉ tiện miệng nói chơi, mà hình như cô cũng chẳng cho là thật. Thế nên chẳng bao lâu sau tôi đã quên béng mất lời hẹn như mấy câu chuyện làm quà khác ấy. Nhưng sau đó vài tuần, rốt cuộc tôi cũng gặp Kawadu Masayuki. Anh tình cờ có mặt trong quán bar tôi đến cùng Fuyuko. Cùng đi với anh là một họa sĩ to béo đang mở triển lãm cá nhân tại Ginza. Kawadu Masayuki quả là một người đàn ông bảnh bao. Anh cao khoảng một mét tám, gương mặt thon gọn, rám nắng. Chiếc áo jacket màu trắng trông thật hợp với anh. Vừa nhìn thấy Fuyuko, anh liền vẫy cánh tay đang đặt trên mặt quầy gọi. Fuyuko thoải mái bắt chuyện với anh, rồi giới thiệu tôi. Đúng như tôi dự đoán, anh chưa từng nghe đến tên tôi. Kể cả khi nghe giới thiệu tôi là nhà văn viết truyện trinh thám, anh cũng chỉ gật đầu như thể đang bối rối. Hầu hết mọi người đều có phản ứng tương tự khi nghe tôi giới thiệu như vậy. Sau đó, cũng tại quán bar ấy, chúng tôi trò chuyện một lúc lâu. Giờ ngẫm lại, tôi vẫn thấy lạ, không hiểu sao chúng tôi có thể nói chuyện lâu đến vậy. Tôi cũng không nhớ nổi chúng tôi đã nói những gì với nhau. Trừ một việc là sau cuộc nói chuyện đó, chỉ có tôi và Kawadu Masayuki rời khỏi quán. Chúng tôi đi đến một quán khác, rồi rời đi sau khoảng một tiếng đồng hồ. Tôi hơi say, nhưng chưa tới mức cần anh đưa về. Mà anh cũng không gượng ép đề nghị. Ba ngày sau, anh gọi điện, mời tôi đi ăn. Tôi không có lý do nào để từ chối, sự thực thì anh là một người đàn ông không tồi, nên tôi cũng chẳng mấy do dự, cứ thế nhận lời. “Tiểu thuyết trinh thám hay ở điểm nào vậy?” Anh hỏi khi chúng tôi đang nhâm nhi chút rượu vang ở nhà hàng trong khách sạn. Tôi không nghĩ ngợi gì, chỉ máy móc lắc đầu. “Nghĩa là cô không biết?” anh hỏi. “Tôi mà biết thì sách của tôi đã bán chạy hơn rồi,” tôi đáp. “Thế anh nghĩ nó hay ở điểm nào?” Anh vừa gãi gãi mũi vừa nói, “Hay ở điểm người ta đã tạo ra nó chăng?” “Những vụ án trong đời thực nhiều khi không phân định rạch rời trắng đen. Ranh giới giữa cái đúng và cái sai rất mơ hồ. Vậy nên dù vấn đề được đặt ra rồi, nhưng người ta lại không thể mong chờ một kết luận tương xứng. Bởi vì nó chỉ là một phần của cái gì đó lớn lao mà thôi. Nhưng ở điểm đó thì tiểu thuyết lại làm trọn vẹn. Đó là một dạng kết cấu. Và tiểu thuyết trinh thám chẳng phải là thể loại kỳ công nhất trong việc xây dựng kết cấu đó hay sao?” “Có lẽ là vậy,” tôi nói. “Anh đã bao giờ phải trăn trở trước ranh giới giữa cái đúng và cái sai chưa?” “Có chứ.” Anh nhếch môi. Tôi nghĩ anh không nói dối. “Rồi anh có đem nỗi trăn trở ấy viết vào sách không?” “Cũng có,” anh đáp. “Nhưng phần lớn là tôi không thể làm được.” “Tại sao lại không thể?” “Vì nhiều lý do lắm.” Gương mặt anh hơi khó chịu, nhưng chỉ một loáng sau anh đã lấy lại vẻ hiền lành vốn có, và rồi bắt đầu nói về tranh vẽ. Tối hôm đó anh đến căn hộ của tôi. Căn hộ vẫn còn vương lại mùi của người chồng cũ. Thoạt đầu trông anh có vẻ hơi lúng túng nhưng chỉ một lát sau anh lập tức quen ngay. “Anh ấy từng là nhà báo,” tôi nói về chồng cũ. “Anh ấy hiếm khi ở nhà. Rồi rốt cuộc cũng chẳng còn lý do nào để trở về ngôi nhà này nữa.” “Và thế là anh ta không quay lại đây nữa?” “Vâng.” Trên chiếc giường chồng cũ từng ôm ấp tôi, Kawadu Masayuki đã cho tôi những khoái cảm dịu dàng hơn rất nhiều so với người chồng cũ. Làm tình xong, anh còn vòng tay ôm vai tôi, đề nghị, “Lần sau em đến chỗ anh nhé?” Chúng tôi gặp nhau khoảng một, hai lần một tuần. Hầu hết là anh đến chỗ tôi, nhưng cũng đôi khi tôi tới nhà anh. Anh độc thân, hình như cũng chưa từng kết hôn, vậy mà phòng ốc lại ngăn nắp như thể phòng của người đã lập gia đình. Tới mức tôi còn tưởng tượng hay là có ai đó dọn dẹp phòng giúp anh? Rồi chẳng mấy sau đó, mối quan hệ của chúng tôi bị Fuyuko phát hiện. Số là Fuyuko đến chỗ tôi lấy bản thảo đúng lúc anh đang có mặt ở đó, nên tôi không thể bịa ra được lý do nào để giải thích. Mà thật ra tôi cũng đâu cần phải giải thích điều gì. “Cậu yêu anh ta à?” Fuyuko hỏi lúc chỉ có hai người chúng tôi. “Tớ thích anh ấy,” tôi trả lời. “Thế cậu có định kết hôn không đấy?” “Làm gì có chuyện.” “Vậy à.” Fuyuko thở phào như trút được gánh nặng, đôi môi khẽ nở một nụ cười duyên dáng. “Thấy hai người thân thiết, người bắc cầu như tớ đây cũng vui lắm. Nhưng cậu đừng sa đà quá. Cứ duy trì mối quan hệ như hiện tại thôi.” “Không sao đâu. Tớ đã có bài học nhớ đời rồi mà,” tôi nói. Rồi hai tháng trôi qua. Mối quan hệ giữa tôi và Kawadu Masayuki vẫn được duy trì đúng mực như lời hứa với Fuyuko. Ngay cả hồi tháng Sáu, khi chúng tôi đi du lịch cùng nhau, may thay anh cũng không đả động gì tới chuyện kết hôn. Bằng không hẳn tôi phải bối rối lắm. Nhưng nghĩ lại, dẫu anh có nhắc đến chuyện kết hôn thì cũng chẳng có gì là lạ. Anh đã ba mươi tư tuổi, tính chuyện lập gia đình cũng là lẽ đương nhiên. Hay là anh cũng đang cố duy trì một mức độ nhất định nào đó trong mối quan hệ với tôi? Nhưng nếu cứ mải bận tâm đến điều đó e là tôi sẽ làm mất đi ý nghĩa của mối quan hệ này mất. Thế rồi khi chúng tôi quen nhau được hai tháng. Thì Kawadu Masayuki chết ngoài biển. 3 Vào một ngày tháng Bảy, cảnh sát đến thông báo cho tôi về cái chết của anh. Anh ta điềm tĩnh, song vẻ ngoài tầm thường hơn nhiều so với những cảnh sát tôi vẽ ra trong tiểu thuyết của mình. Có thể dùng từ “có sức thuyết phục” để miêu tả về người này. “Sáng nay, người ta phát hiện một thi thể nổi trên vịnh Tokyo. Khi vớt thi thể ấy lên, từ di vật còn sót lại chúng tôi xác định đó là anh Kawadu Masayuki.” Vị cảnh sát nhỏ nhắn nhưng có vẻ khỏe mạnh gần bốn mươi tuổi thông báo. Bên cạnh anh ta là một cảnh sát trẻ khác. Anh này thì chỉ yên lặng đứng đấy. Tôi mất vài giây không thốt nên lời, sau đó nuốt nước bọt. “Vậy là các anh xác định được danh tính rồi ạ?” “Vâng,” vị cảnh sát thu cằm lại. “Nạn nhân quê ở Shizuoka. Em gái anh ta đã đến nhận dạng thi thể, ngoài ra chúng tôi cũng đã giám định răng và chụp X quang.” Rồi vị cảnh sát nhấn mạnh thêm, “Kết quả cho thấy đó là anh Kawadu Masayuki.” Thấy tôi vẫn im lặng, anh ta tiếp, “Có thể phiền cô bớt chút thời gian để chúng ta thong thả trao đổi không?” Cánh cửa trước sảnh ra vào vẫn đang mở. Tôi đề nghị họ đợi ở quán cà phê gần nhà, nghe vậy hai vị cảnh sát khẽ gật đầu rồi rời đi. Nhưng đến khi họ đi khuất, tôi vẫn đứng ở cái sảnh ấy, lơ đễnh nhìn ra bên ngoài, mãi sau mới thở dài, đóng cửa, đi về phòng ngủ, thay đồ để ra khỏi nhà. Đứng trước bàn trang điểm để tô chút son mà tôi như ngừng thở. Gương mặt phờ phạc của tôi phản chiếu trong tấm gương. Trông tôi có vẻ mệt mỏi ngay cả với việc biểu lộ cảm xúc. Tôi rời mắt khỏi cái gương, lấy lại nhịp thở, rồi nhìn lại khuôn mặt mình trong gương. Lần này có vẻ khá hơn rồi. Tôi gật gù hài lòng với biểu cảm ấy. Tôi thích anh ấy. Nhưng anh đã chết, tôi buồn là lẽ đương nhiên. Vài phút sau, tôi đã ngồi đối diện hai vị cảnh sát trong quán cà phê mình vẫn thường hay lui tới. Ở đây còn bán cả bánh ngọt nữa. Bánh ở đây tươi, vị ngọt thanh. “Anh ta bị sát hại,” vị cảnh sát nói như tuyên bố. Nhưng tôi không lấy gì làm ngạc nhiên lắm. Vì đó là lời mà tôi đã lường trước. “Anh ấy bị sát hại như nào vậy ạ?” tôi hỏi. “Cực kỳ khủng khiếp,” vị cảnh sát nhăn mặt. “Gáy bị đập mạnh bởi một vật cùn. Thi thể thì bị vứt lại bên cạnh vịnh. Chỏng chơ như rác.” Người yêu tôi đã bị người ta vứt ở đó như một đống rác. Vị cảnh sát ho một tiếng. Tôi ngẩng mặt lên. “Vậy nguyên nhân tử vong là do xuất huyết bên trong não hay là…?” “Không phải.” Anh ta ngắt lời, nhìn lại gương mặt tôi rồi nói tiếp. “Hiện tại chúng tôi chưa thể khẳng định chắc chắn điều gì. Tuy có dấu vết bị đập vào gáy, nhưng chừng nào chưa có kết quả giải phẫu thì tất cả chỉ là phỏng đoán.” “Vậy ạ?” Nghĩa là có khả năng anh ấy bị sát hại bằng một phương thức khác, nhưng sau đó hung thủ còn đập mạnh vào gáy và vứt anh đi ư? Nếu đúng như vậy, thì tại sao hung thủ phải tàn bạo đến mức đó? “Còn chuyện này…” Vị cảnh sát gọi tôi, chắc do thấy tôi lơ đễnh quá. “Hình như cô cũng gần gũi với anh Kawadu Masayuki nhỉ?” Tôi gật đầu. Chẳng có lý do gì để phủ nhận điều đó. “Cô là người yêu của anh ấy à?” “Tôi nghĩ vậy.” Vị cảnh sát hỏi quá trình chúng tôi gặp gỡ. Tôi trả lời thành thật. Tôi cũng sợ sẽ phiền đến Fuyuko nhưng cuối cùng vẫn nhắc đến tên cô. “Lần cuối cùng cô nói chuyện với anh Kawadu là khi nào?” Tôi suy nghĩ giây lát rồi trả lời. “Tối hôm kia. Anh ấy gọi tôi tới.” Chúng tôi dùng bữa ở nhà hàng, sau đó uống rượu ở quán bar. “Hai người đã nói những chuyện gì?” “Chúng tôi nói nhiều chuyện lắm… trong đó…” Tôi cúi mặt, mắt nhìn cái gạt tàn bằng thủy tinh. “Anh ấy có nói rằng mình đang bị ai đó nhắm.” “Bị nhắm sao?” “Vâng.” Tôi kể những điều mình đã nghe từ anh trong buổi tối hôm kia. Đôi mắt vị cảnh sát bỗng sáng lên lấp lánh. “Và anh Kawadu cũng thấy có điều gì khả nghi?” “Tôi không dám khẳng định.” Vì anh cũng không khẳng định chắc chắn điều đó. “Nhưng cô thì không thấy có gì khả nghi à?” Tôi gật đầu. “Vâng.” Sau đó vị cảnh sát hỏi về quan hệ bạn bè và công việc của anh. Tôi hầu như không biết gì. “Tiện đây xin hỏi tối qua cô đã ở đâu vậy ạ?” Câu hỏi cuối cùng của anh ta nhằm mục đích xác nhận chứng cứ ngoại phạm của tôi. Họ không hỏi thời gian cụ thể hẳn là do chưa xác định được thời gian tử vong chính xác. Nên dù tôi có đưa ra thời gian cụ thể thì cũng chẳng giúp ích gì cho chứng cứ ngoại phạm của mình cả. “Hôm qua tôi ở nhà cả ngày,” tôi trả lời. “Tôi làm việc.” “Nếu có ai làm chứng được cho cô thì tốt.” Vị cảnh sát ngước lên nhìn tôi với vẻ kẻ cả. “Tiếc là không có,” tôi lắc đầu. “Việc đó e là không thể. Vì tôi ở nhà một mình, cũng chẳng có ai đến chơi cả.” “Tiếc thật. Cuộc đời đúng là có nhiều chuyện đáng tiếc quá.” Sau đó vị cảnh sát xin lỗi vì đã làm phiền tôi rồi đứng dậy. Đúng như tôi đoán, chiều tối hôm đó Fuyuko tới. Cô thở gấp như thể đã chạy như bay đến nhà tôi vậy. Khi ấy tôi đã mở sẵn văn bản để soạn thảo, dù chưa đánh được chữ nào, và đang uống bia. Trước khi uống bia tôi đã khóc. Khóc mệt nên tôi mới uống bia. “Cậu nghe rồi chứ?” Vừa nhìn thấy tôi, Fuyuko lập tức hỏi. “Cảnh sát tới đây rồi,” tôi đáp. Cô có vẻ hơi ngạc nhiên, nhưng nhanh chóng chấp nhận điều hiển nhiên ấy. “Cậu có thấy gì khả nghi không?” “Tớ không, chỉ biết là anh ấy bị người ta nhắm đến thôi.” Đôi mắt Fuyuko tròn xoe, miệng há hốc vì ngạc nhiên, tôi kể cho cô chuyện hôm kia. Cô ấy lắc đầu tiếc nuối y chang vị cảnh sát đó. “Chẳng nhẽ không có cách gì để ngăn chặn sao? Như là báo cảnh sát chẳng hạn.” “Tớ cũng không biết. Nhưng chắc anh ấy có lý do riêng nên mới không làm vậy.” Cô lại lắc đầu. “Vậy nghĩa là cậu không thấy có gì khả nghi à?’ “Không. Thật ra…” tôi ngập ngừng, rồi tiếp tục, “Tớ hầu như chẳng biết gì về anh ấy cả.” “Thế à?” Fuyuko nghe chừng thất vọng lắm. Biểu cảm của cô y hệt vị cảnh sát đến đây hồi trưa. “Từ nãy tới giờ tớ cứ nghĩ về anh ấy mãi,” tôi nói. “Nhưng mà tớ không biết gì cả. Có một đường kẻ được vạch ra giữa tớ và anh ấy, cả hai đều cố để không xâm phạm đường kẻ ấy. Mà vụ án lần này lại xảy ra bên vùng của anh ấy.” Tôi hỏi Fuyuko có muốn uống gì không, cô gật đầu nên tôi vào bếp mang bia ra. Giọng Fuyuko vang lên từ sau lưng tôi. “Trong số những chuyện anh ấy nói, có chuyện nào để lại ấn tượng với cậu không?” “Dạo gần đây bọn tớ không chuyện trò với nhau nhiều.” “Nhưng cũng phải nói chuyện gì chứ. Chẳng lẽ gặp nhau là lên giường ngay à?” “Cũng gần như là vậy đó,” tôi nói, má hơi rúm lại. Mời các bạn đón đọc Án Mạng Mười Một Chữ của tác giả Higashino Keigo & Phương Phương (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Cái Chết Từ Trên Trời - James H. Chase
Truyện hình sự với khá nhiều án mạng, hung thủ là một ông trùm xã hội đen. Nhân vật chính diện là cảnh sát Conrad, lần này không phải là một anh hùng hào hoa đẹp trai với các cô nàng vây quanh, cũng không phải là một tay thám tử cừ khôi bách trận bách thắng. Nữ chính là nạn nhân, được nam chính bảo vệ nhưng không yêu nam chính. Vì không phải nam chính bách trận bách thắng nên kết thúc là không bảo vệ được nữ chính. Nàng chết. Hung thủ không bị bắt. Và kẻ chiến thắng là một tên sát thủ cừ khôi. *** Tiếng chuông điện thoại réo gắt vào lúc Janey Conrad đang bước vội xuống cầu thang. Cô mặc chiếc áo dạ hội vừa may màu xanh da trời, kiểu mới nhất. Tiếng chuông khiến cô dừng phắt lại, nét mặt đang hân hoan vụt trở nên cau có, thay đổi thật đột ngột như khi ta bấm vào một nút điện. Cô cất giọng lạnh lùng và bình tĩnh thường có vào lúc nổi giận. — Paul, chớ có trả lời! Chồng cô từ phòng khách bước ra. Anh khoảng ba mươi lăm tuổi, cao lớn và rắn chắc, mặc bộ smoking, tay cầm chiếc mũ dạ mềm. Lúc Janey mới quen, cô ngạc nhiên thấy anh giống kép James Stewart quá chừng và chính vì thế mà cô đồng ý lấy anh. — Nhưng anh phải trả lời, biết đâu họ cần đến anh, - anh nói với giọng dịu dàng kéo dài. Paul bước về phía điện thoại và cầm ống lên. Anh mỉm cười với vợ và giơ tay ra dấu im lặng. — Alô! — Paul đấy à? Bardin đây! Câu nói của viên thanh tra vang lên trong tai Paul và vọng ra ngoài khoảng im vắng của phòng chờ. Vừa nghe được giọng nói đó, Janey nắm chặt tay lại. Bardin tiếp: — Anh phải nhập cuộc rồi. Một cái lò sát sinh nơi biệt thự “Ngõ Cụt” của June Arnot. Xác ngập đến cổ, trong đó có cả nàng tiên kiều diễm June. Trời ơi! Một vụ sôi động! Bao lâu thì anh đến được? Conrad nhăn mặt và liếc nhìn Janey. Anh thấy bước chân cô cứng nhắc tiến về phía phòng khách. Anh nói: — Được rồi, tôi đến ngay. — Tốt. Tôi sẽ không để ai đụng chạm gì trước khi anh đến. Tôi cần anh trước khi bọn nhà báo nhao nhao đến quấy rầy. — Tôi đi ngay, - Conrad nhắc lại rồi cúp máy. — Cứt! - Janey nói nhỏ. Cô đứng trước lò sưởi quay lưng về phía anh. — Xin lỗi Janey, anh phải đi ngay. — Cứt! Cứt! - Janey nói mà không lên giọng. - Lúc nào cũng chỉ có chừng ấy chuyện thôi, với mấy thằng khốn thám tử của anh. — Nào! Janey. Thật đáng tiếc nhưng biết làm sao. Anh hứa là tối mai sẽ đưa em đi. Janey nghiêng mình về phía trước và vung tay gạt văng mớ đồ đạc, ảnh lồng khung, cả cái đồng hồ trên mặt lò sưởi. Conrad nhào vào phòng. — Janey! Đủ rồi! — Anh đi đi! - Janey vẫn một giọng trầm lặng. (Cô nhìn hình Conrad trong gương, mắt sáng lên vẻ thù ghét). - Anh cứ chơi cái trò bắt cướp đi. Không cần phải lo đến tôi nhưng đừng hy vọng thấy tôi lúc trở về. Từ nay về sau, tôi sẽ đi chơi một mình. — Này Janey, June Arnot vừa bị ám sát đấy. Anh phải đến đó ngay. Em nghe đấy, mai anh sẽ dẫn em đi đến nhà hàng Quốc Tế. Chịu không? — Chừng nào mà còn cái điện thoại chết tiệt trong phòng thì chúng ta không thể nào còn đi chung với nhau được nữa, - Janey nói giọng chua chát. - Paul, tôi cần tiền. Anh nhìn cô: — Nhưng mà, Janey... — Tôi muốn lấy tiền ngay tức khắc! Nếu anh không đưa thì tôi mang đồ đi cầm và chắc chắn không phải là thứ của tôi đâu. Conrad nhún vai. Anh lấy tờ 10 đôla đưa ra. — Được rồi, Janey. Nếu em quyết định như thế thì... Sao em không gọi điện cho Beth? Đi chơi một mình thật là ngốc. Janey cất tiền, ngước mắt nhìn anh rồi quay lưng đi. Conrad hoảng kinh khi nhận ra ánh mắt của vợ thật dửng dưng. — Anh chớ lo cho tôi. Cứ việc lo tới cái vụ giết chóc quái quỉ này đi. Một mình tôi cũng đủ rồi. Conrad định nói nhưng kịp ngừng lại. Một khi cô tỏ thái độ như thế thì khó mà nói chuyện phải trái được. Anh bình tĩnh hỏi: — Em đi đâu, tiện đường xe anh... — Ồ! Đi cho khuất mắt, - Janey chận lại và bước ra phía cửa sổ. Conrad mím chặt môi, bước ra ngoài phòng chờ, đẩy cửa lớn và đi nhanh về phía xe. Trong lúc lướt mình ngồi vào sau tay lái, anh cảm thấy một mối lo âu đến nghẹn lời. Anh không chịu chấp nhận dẫu biết rằng giữa anh và Janey đang nảy sinh rạn nứt. Hai người lấy nhau bao lâu rồi? Anh nhíu mày và ấn vào nút phát động xe. Gần ba năm thôi. Năm thứ nhất thật êm đẹp. Nhưng vào lúc đó anh chưa phải là điều tra viên chính thức của phòng Biện lý. Anh làm việc theo giờ giấc và tối nào cũng có thể đi chơi với Janey được. Khi anh được lên chức, cô đã rất hân hoan. Chỉ một sớm một chiều, lương anh tăng gấp đôi và hai vợ chồng rời căn hộ ba gian ở đường Wentworth để dọn đến căn nhà xinh xắn bungalow ở đất Hayland trong một khu sang trọng. Nhưng rồi Janey không còn hài lòng khi nhận thấy anh có thể bị gọi đi bất cứ sớm tối. Cô nói: — Anh là điều tra viên chính thức mà cứ hùng hục làm như một tên cớm hạng bét. — Nhưng anh là thám tử, thám tử đặc biệt cho biện lý cục khi xảy ra vụ việc quan trọng, lẽ tất nhiên anh phải có mặt, - Conrad kiên nhẫn giải thích với vợ như thế. Lúc đầu thì Paul không cho những lời cằn nhằn ấy là quan trọng vì mấy cú điện thoại bất ngờ làm hỏng cuộc vui buổi tối, nếu cô giận thì cũng là tự nhiên thôi. Tuy thông cảm nhưng Conrad vẫn mong cô vợ biết điều hơn. Nhưng Janey không chịu. Các vụ cằn nhằn ấy chuyển dần qua cãi vã lớn tiếng làm anh đâm ngán. Nhưng đây là lần đầu tiên Janey đòi anh đưa tiền để đi chơi tối một mình. Hơn bao giờ hết, Conrad lo ngại về tình hình mới xuất hiện này, Janey nom ngon mắt quá, đi chơi một mình không được. Conrad biết tính vợ mình dễ nhẹ dạ sinh chuyện. Có nhiều lúc vô ý, cô thốt những lời lẽ khiến anh biết trước kia cô đã từng qua những thời kỳ sống buông thả. Anh đã quyết không coi quá khứ của cô là quan trọng nhưng bây giờ khi nhớ lại những lời vợ kể vanh vách những cuộc vui, tên một vài người bạn cũ mà cô vung ra trong những lúc tức giận, anh lại thấy hơi khó chịu và cứ tự hỏi không biết cô có lại tìm thú đi hoang nữa không. Janey chỉ mới 24 tuổi, luôn luôn đòi hỏi, mà anh thì cái việc chăn gối chỉ ở mức trung bình. Với đôi mắt lá răm, mái tóc vàng óng, làn da nõn nà, chiếc mũi thon dài, Janey có thể quyến rũ bất cứ gã đàn ông nào. — Thật cứt! - Conrad thở dài lặp lại lời của vợ mà không hay biết. Và anh mở máy. *** Ba năm nay, June Arnot là một ngôi sao màn bạc lừng danh và tiếng đồn cô ta là người giàu nhất Hollywood. Cô cho xây một tòa nhà lộng lẫy trên ngọn đồi, cách thành phố Pacific vài cây số và cách Hollywood khoảng mười lăm cây số. Đây là một dinh thự sang trọng, kiêu sa mà June Arnot với tính hài hước sẵn có, đặt tên nó là “Ngõ Cụt”. Conrad dừng xe trước ngôi nhà nhỏ của người gác cổng có dây nho chằng chịt. Khách đến thăm phải ghi tên ở đây trước khi bước trên một lối đi dài cả cây số mới tới biệt thự. Bóng hình to bè của thanh tra Sam Bardin thuộc đội hình sự vụt hiện lên giữa bóng tối. Thấy Conrad, ông nói: — À, ông tá! Chẳng cần phải nôn nóng như thế. Cả đời anh chỉ có mỗi việc này mà thôi. Conrad mỉm cười: — Tôi đang định đi chơi với bà xã. Rồi đây cả tuần nhà tôi biến thành địa ngục cho mà xem. McCann có ở đây không? — Rủi quá, anh ta đi San Francisco rồi, mai mới về. Chuyện lộn xộn lắm, may mà có anh, Paul ạ. Chúng tôi cần một tay thiện nghệ mới mong giải quyết được vụ này. — Ta bắt đầu ngay đi. Anh kể xem anh biết những gì. Rồi sau đó, ta đi liếc sơ qua một chút. Bardin lấy khăn tay thấm mồ hôi trên khuôn mặt to tướng đỏ bầm và hất chiếc mũ ra sau. Ông ta to con, nặng nề, lớn hơn Conrad 11 tuổi nghĩa là khoảng 45. — Lúc 8 giờ rưỡi, chúng tôi nhận được một cú điện thoại của Harrison Hedor, ông bạn của cô Arnot. Ông có hẹn làm việc với cô ta tối nay. Khi đến nơi, ông thấy cánh cổng sắt mở ra. Lạ đấy vì thường thường là cửa khóa kỹ. Ông bước vào nhà người gác cửa, thấy hắn lạnh tanh với một viên đạn bắn vào đầu. Ông bốc điện thoại ở đấy gọi vào nhà nhưng không thấy ai trả lời. Tôi đoán là ông ta đã hoảng lên. Nhưng ông nói với chúng tôi là không dám vào sâu trong nhà và vội gọi chúng tôi. — Bây giờ ông ta ở đâu? — Đang ngồi trong xe tìm cách lại hồn bằng whisky, - Bardin toét miệng cười. - Tôi không có thì giờ hỏi kỹ ông ta nên bảo ngồi yên đó. Tôi đi xem xét. Năm người giúp việc đều bị hạ sát bằng một viên đạn. Tôi tưởng cô Arnot ở đâu đó vì có hẹn nhưng cô ta không có mặt trong nhà. - Ông rút bao thuốc mời Conrad và lấy cho mình một điếu - Tôi thấy cô nơi hồ tắm. (Ông nhăn mặt) - Có kẻ nào đấy tò mò mổ bụng cô ta coi chơi và cắt béng cái đầu không biết dùng để làm gì. Conrad gừ gừ: — Đó là hành động của một kẻ mất trí. Bây giờ thì sao? — Nhân viên đang làm việc trong nhà và nơi hồ tắm. Nếu có gì tìm được thì họ sẽ tìm ra. Anh có muốn đi một vòng ngó qua không? — Có chứ! Anh chàng y sĩ có thể cho ta biết giờ chính xác không? — Lão đang lo vụ đó. Tôi đã dặn lão chớ xê dịch cái xác chết trước khi anh đến. Chắc lão sẽ cho ta biết ngay. Bây giờ ta vào nhà người gác. Conrad theo ông ta vào một căn nhà nhỏ có cái bàn, cái ghế, cái divan đệm và bàn điện thoại. Trên bàn có quyển sổ ghi chép người đến thăm đang được mở ra. Người gác mặc đồng phục xanh ôliu, giày bốt đánh vécni, nằm gập mình trên bàn, đầu loang trong một vũng máu đỏ bầm. Hắn bị bắn đúng giữa mặt. Conrad nhìn vào quyển sổ. Bardin nhạo: — Không chắc có ghi tên sát nhân trong đó. Với lại người gác biết mặt hắn nên mới mở cổng. Conrad nhìn trang giấy còn trắng một nửa: «15 giờ. Ông Jack Belling, đường Lennox số 3 Có hẹn. Cô Rita Strange, 14 Crown Court. Có hẹn. 19 giờ. Cô Frances Coleman. 145 đường Glendale.…» — Anh nghĩ sao? - Conrad hỏi. - Cô gái Coleman này có mặt ở đây sát với giờ xảy ra vụ tàn sát. Bardin nhún vai: — Chẳng biết. Lúc nào có thì giờ chúng ta sẽ dò hỏi. Nếu cô ta dính dấp gì đến vụ này thì đã xé ngay tờ giấy cho mất tang tích rồi. — Đúng vậy, trừ phi cô ta quên. Bardin phác một cử chỉ sốt ruột. — Được rồi, ta đi. Anh còn cả đống việc phải làm. Lên xe thôi. Đến khúc quanh thứ hai thì chậm lại. Người làm vườn bị giết ở đó. Conrad lái xe trên con đường viền những cây cọ khổng lồ và những cây nhỏ nở hoa. Khoảng 300 mét, Bardin báo trước: — Ngay chỗ quanh. Họ dừng bên một chiếc xe đậu sát đường. Bác sĩ Holmès và hai người nội trú mặc áo blu trắng cùng một cặp cảnh sát viên, vẻ mặt chán nản đang tụ tập trước xe, lưng quay phía đèn pha. Conrad và Bardin tấp vào nhóm, vây quanh một ông già Tàu mặt mày nhăn nheo nằm ngửa, các ngón tay màu vàng trông như các vuốt, co quắp người vì hấp hối. Phía trước chiếc áo blu xanh nhuộm một màu đỏ. Bác sĩ lên tiếng: — Chào Conrad. Anh đến xem trò tàn sát đấy à? — Chỉ thăm sơ qua thôi, - Conrad nói. - Lão chết bao lâu rồi? — Khoảng một tiếng rưỡi, không hơn. — Nghĩa là sau 7 giờ? — Gần gần như thế. — Cùng một vũ khí như với người gác? — Có thể. Tất cả đều bị giết bởi một khẩu 45. - Ông bác sĩ nhìn Bardin - Tôi thấy như là một công trình của một tay nhà nghề, ông thanh tra ạ. Tay đó thạo việc lắm. Bắn một phát là đủ rồi. Bardin thốt ra tiếng càu nhàu: — Như thế thì chẳng biết gì nhiều. Khẩu 45 mà bắn thì không ai thoát dù người bắn là dân nhà nghề hay tay mơ. — Ta lên nhà đi, - Coniad nói. Chiếc xe chở họ tới biệt thự sau ba phút. Đèn đã bật sáng khắp các phòng. Hai người cảnh sát gác cửa vào. Conrad và Bardin bước lên các bậc thềm vào khách sảnh nhỏ rồi bước xuống vào giữa nhà đến một sân trong lát gạch hoa. Các gian phòng quây ba mặt sân. Thanh tra O'Brien người cao nhưng gầy, mắt sắc, mặt đầy tàn nhang, từ phòng khách bước ra. Ông ta gật nhẹ đầu với Conrad, Bardin hỏi: — Anh tìm được gì không? — Chỉ có đầu đạn thôi, chẳng có dấu tay nào. Hình như kẻ sát nhân xộc vào giết hết rồi ra ngay không chạm vào vật gì cả. Conrad đến chân cầu thang ngước mắt nhìn lên. Ở các bậc cấp trên cao là xác một cô xẩm Trung Hoa. Cô mặc một áo ngắn trong nhà màu vàng, quần lụa có ren, màu xanh sẫm. Một vệt đỏ gớm ghiếc giữa hai bả vai. Bardin nói: — Hình như cô ta đang chạy trốn thì bị phơ. Anh muốn lại gần xem không? Conrad lắc đầu. Bardin nói tiếp: — Tang vật số 3 ở phòng khách. Ông dẫn Conrad vào một gian phòng bề thế, có bàn ghế, trường kỷ bọc da, đủ sức chứa từ ba mươi đến bốn mươi người. Gần cánh cửa ra vườn, người quản gia của June Arnot ngồi dưới đất, gập mình, lưng dựa vào thảm lót tường. Ông ta cũng bị một phát vào đầu. Bardin hỏi: — Anh muốn xem ở nhà bếp không? Còn hai người nữa ở đấy. Một đầu bếp Trung Hoa và một Philippines. Họ định chạy ra cửa nhưng không kịp. — Thôi đủ rồi, - Conrad nói. - Nếu có gì phải tìm thì nhân viên của anh sẽ thấy. — Ý kiến thâm thúy đấy. Ok! Ta xuống hồ tắm. Ông bước ra ngoài hành lang rộng. Trăng tròn đã lên tuôn làn sáng lạnh gắt xuống biển. Khu vườn thơm ngát hương hoa, một đài phun nước bóng loáng đằng xa tạo nên khung cảnh thần tiên. — Cô ta ưa thích ánh sáng và màu sắc phải không, - Bardin vừa nói vừa tiến về phía hồ tắm. - Nhưng cũng chẳng tới đâu. Kết quả cuộc đời phải nói là thê thảm: Đầu bị cắt, bụng bị phanh. *** Phía cầu nhảy cao 12 mét có mặt bác sĩ Holmès, hai người nội trú, một thợ ảnh và bốn cảnh sát viên. Họ đang nhìn về phía giữa hồ. Nước ở đó nhuộm màu đỏ tím, còn lại là một màu xanh tuyền. Khi Conrad và Bardin bước tới chỗ lát gạch xanh vây quanh hồ tắm, Bardin nói: — Tôi nhìn thấy một lần rồi và không muốn thấy lần thứ hai nữa. Họ họp với đám người kia dưới cầu nhảy. Bardin vung tay tiếp tục chỉ: — Trông kìa! Paul nhìn tấm thân trần truồng, bị cắt đầu, nổi bập bềnh. Bụng anh như thắt lại trước cảnh man rợ ấy. Anh quay mặt đi, hỏi: — Cái đầu ở đâu? — Tôi để nguyên chỗ đã tìm thấy. Trên bàn phòng mắc áo mũ. Anh muốn nhìn qua không? — Thôi cảm ơn. Có chắc là June Arnot không? — Chắc. Conrad quay sang bác sĩ Holmès. — Được rồi, ông thầy, tôi thấy đủ rồi. Ông bắt đầu công việc được đấy. Ông gửi bản sao báo cáo cho tôi chứ? Bác sĩ Holmès gật đầu. Bardin nói: — Này các bạn, móc cô ta lên. Chú ý nhẹ tay một chút. Ba người cảnh sát ngán ngẩm bước tới. Một người giơ cây sào tìm cách móc cái xác nổi. Conrad nói: — Trong lúc chờ đợi, ta đi nói chuyện với Fedor. Anh cho người gọi ông ta tới đây. Mọi người đi về phía ngôi nhà cùng với Conrad. Bardin hỏi: — Này, anh nghĩ thế nào? — Có vẻ như tay đó là khách quen nhà này. Đầu tiên là do người gác để hắn vào. Sau nữa hắn hạ sát tất cả gia nhân vì sợ bị nhận diện. — Trừ phi đó là một tên điên nổi cơn. — Nếu thế thì người gác không cho hắn vào. — Cũng có thể thế, tùy theo kẻ kia nói với người gác gì đó. Khi họ vào nhà, hai người cảnh sát vừa bước qua ngưỡng cửa, khiêng một cái cáng có phủ chăn lên xác người. Một anh cớm nói: — Hết rồi, sếp. Dọn sạch trơn. Bardin gừ gừ bước lên bậc cấp rồi xuống sân. — Theo anh thì Fedor không can gì vào đấy phải không? - Conrad ngồi xuống ghế hỏi. — Hắn không thuộc típ người làm nổi việc này. Cho dù đúng là hắn thì cũng phải có một cớ thật lạ. Vì cô ta là khách hàng duy nhất đã đem lại cho hắn một gia tài kha khá. — Một phụ nữ như cô ta tất phải có cả đống kẻ thù, - Conrad duỗi dài chân ra nói. - Kẻ nào làm cái cú này chắc phải nóng mũi lắm. — Hình như cô ta có liên hệ với khá nhiều kẻ không tốt, - Bardin đưa ra nhận xét. - Theo người ta nói, cô ta dính dấp với đủ thứ chuyện bê bối. Anh có nghe người ta đồn đại cô ta là bạn gái của Jack Maurer không? Conrad sững người chú ý. — Không, bạn gái là thế nào? Bardin mỉm cười: — Tôi nghĩ là anh nghe thì chú ý ngay. Tôi không có bằng cớ nhưng tiếng đồn thì nhiều. Cô ta không khoe nhưng người ta nói hai người là nhân tình nhân bánh của nhau. — Tôi muốn biết rõ chuyện này. Loại hành động như thế này đúng là gu của Maurer rồi. Hắn đủ sức tàn ác để xuống tay. Anh còn nhớ cú tàn sát hai năm trước đây không? Bảy người sắp hàng sát chân tường và thế là liên thanh bắn tằng tằng. — Chuyện đó không có gì chắc là của Maurer, - Bardin thận trọng nói. — Thế còn ai nữa? Bọn đó lấn quyền ông trùm, vậy là ông trùm xơi tái là có lý thôi. — Ông cảnh sát trưởng không tin. Ông ta nghĩ rằng đó là băng Jacobi đem trút tội cho Maurer. — Ông ta biết tôi nghĩ gì về cái luận cứ tồi tệ ấy rồi. Đúng là của Maurer và vụ này thì cũng có thể là của lão nữa... — Anh gầm gừ Maurer dữ quá, - Bardin nhún vai nói. - Chắc anh khoái thấy lão chui vô hộp lắm. — Không phải bị còng số 8 mà thôi đâu, - Conrad nói với vẻ hung dữ bất chợt. - Tôi muốn thấy lão lên ghế điện kia! Thằng chó chết ấy sống lâu quá rồi! Một cảnh sát viên bước vào sân. — Fedor đến rồi, sếp. Conrad và Bardin cùng đứng lên. Harrison Fedor, ông bầu của June Arnot đi tưng tưng bước vào sân. Đó là một con người mảnh dẻ, có cái nhìn sắc và trầm lặng, miệng như cái bẫy chuột chù và má hõm. Ông ta chộp lấy bàn tay Conrad lắc mạnh. — Ngọn gió lành nào đưa ông đến đấy? June có mạnh khỏe không? — Ngược lại thế kia, - Conrad bình thản trả lời - Cô ta bị giết rồi, cả đám gia nhân. — Trời! - Fedor nuốt nước miếng, mặt xịu xuống rồi gượng đến ngồi nơi chiếc ghế mây và nói tiếp. - Ông bảo cô ta chết rồi à? — Còn hơn là chết nữa! — Lạy Chúa! - Fedor giở nón ra và luồn các ngón tay vào mớ tóc lưa thưa. - Chết à? Khó tin quá! Ông ta nhìn sững Bardin rồi nhìn Paul. Cả hai không nhúc nhích, chờ đợi. — Lại bị giết! Yên lặng một chút, Fedor nói tiếp: — Chuyện chi lạ! Không biết tôi nên khóc hay nên cười đây? — Thế nghĩa là gì? - Bardin lầu bầu, mặt mày bất mãn. Fedor nhếch mép cười. — Ông không hiểu vì ông không làm việc với cô ta trong 5 năm như tôi. - Ông ta đứng lên, lấy ngón tay chỉ vào Bardin. - Tôi mà khóc được thì cứ treo cổ tôi lên. Có thể là tôi mất nồi cơm nhưng đỡ được gánh nặng. Con điếm ấy làm tôi đến mụ người. Có tôi thì không có nó, nó làm tôi nhức nhối vô cùng. Các ông không thể biết tôi phải chịu đựng như thế nào với con đĩ ấy. — Có ai đấy đã cắt đầu cô ta, - Conrad thong thả nói. - Rồi như chưa hả giận, hắn lại còn mổ bụng moi phèo ruột ra. Ông có biết ai có thể làm như thế không? — Cắt đầu! Trời ơi! Để làm gì vậy? — Cũng với lý do như mổ bụng: Kẻ đó thù hận cô ta. Ông có biết ai tức giận đến mức tàn ác như thế không? Fedor vụt ngoảnh mặt đi. — Không, tôi không biết. Trời! Báo chí biết chưa? — Không, họ chưa biết chừng nào mà tôi chưa tìm được gì chắc chắn để tiến hành công việc, - Bardin càu nhàu nói. - Này, nếu ông có biết ai có lý do làm như thế thì nên khai ra với chúng tôi. Hồ sơ sếp gọn nhanh chừng nào thì tốt chừng ấy cho mọi người, kể cả ông đấy. Fedor lưỡng lự rồi nhún vai: — Ông nói có lý. Ralph Jordan là thằng bồ hiện nay của cô ta. Tuy nhiên gần đây họ lại gấu ó nhau dữ dội. Cuộn phim hắn quay với June là cuốn cuối cùng. Hãng điện ảnh Thái Bình Dương phải xé hợp đồng với hắn. Họ chịu không nổi hắn nữa. — Tại sao vậy? - Conrad đốt thuốc hỏi. — Hắn phi cần sa sáu tháng nay rồi. Một khi hắn phê thì không gì ngăn hắn quậy. — Sao thế? — Hắn nổi điên - Fedor rút khăn tay thấm mồ hôi mặt. - Khoảng hơn tuần nay, hắn nổi lửa đốt sạch một phim trường. Và tuần qua, khi Laird tổ chức dạ hội nơi hồ tắm của ông ta, hắn làm trò nho nhỏ khiến Laird phải mất sạch tiền để dập tắt chuyện này. Jordan kiếm đâu ra được một chai axít đem rẩy vào áo tắm của các cô, thế là cả hơn ba mươi minh tinh nổi danh cứ tô hô như nhộng. Ban đầu chúng tôi còn khoái cười chí tử và được dịp rửa mắt nhưng sau thấy rằng cái chất lơ mơ đó không chỉ làm cháy áo tắm mà còn làm phỏng da nữa. Năm cô nàng phải vào bệnh viện, tình trạng thật thê thảm. Sáng hôm sau Laird xé hợp đồng với hắn. Conrad và Bardin nhìn nhau. Bardin gợi ý: — Tôi nghĩ là ta phải gặp ông bạn thích đùa dai ấy mới được. — Nhưng xin ông đừng nói tôi khai ra, - Fedor nằn nì. - Tôi đã khốn khổ về mấy chuyện ấy lắm rồi. — Ngoài Jordan, ông còn thấy ai có thể làm vụ này không? - Conrad hỏi. Fedor lắc đầu. — Không, phần lớn bạn hữu của June chẳng tốt đẹp gì nhưng chơi cái mảng này thì còn rét lắm. — Có phải là cô ta và Jack Maurer ngủ với nhau không? Fedor vội cúi mặt nhìn hai bàn tay. — Tôi không biết chuyện này. Conrad nhìn Bardin. — Thật kỳ diệu phải không? Hễ nghe đến tên Maurer là ai cũng nín khe. Hình như thằng cha đó không có trên cõi đời này. — Xin ông chớ phiền, - Fedor vụt chen vào. - Nếu biết chuyện gì thì tôi nói ngay, về Maurer thì tôi chỉ đọc trên báo chí thôi. — Cứ ca cái điệu ấy mãi, - Conrad chán nản nói. - Lúc nào gặp may, không biết chừng tôi sẽ tìm được một tay gồng mình không sợ Maurer lắm và biết được một chút gì đó. Nhưng có cái chán là chẳng biết khi nào. — Chớ nóng. Ông ta nói không biết thì hẳn là không biết thôi. - Bardin nói. Thanh tra O’Brien bước xuống sân. — Sếp, tôi có chuyện muốn nói. Bardin nắm tay ông ta đi vào phòng khách. Paul nói với Fedor: — Ông cứ ở đấy đi, - rồi anh theo hai người kia. — O’Brien tìm được súng lục rồi, - Bardin nói, nét mặt u ám của ông lúc này có dáng hân hoan. Ông giơ lên một khẩu súng 45 tự động. - Xem này! Conrad quan sát khẩu súng. Trên báng có khắc hai chữ viết tắt R.J, anh hỏi O’Brien: — Anh tìm ra ở đâu vậy? — Giữa bụi cây, cách cổng sắt khoảng 30 mét. Cá với anh trăm bạc là đúng rồi. Hết đạn, mới tác xạ không lâu và là một khẩu 45. — Tốt hơn là nên đi kiểm chứng, Sam ạ. Bardin gật đầu đưa khẩu súng cho O’Brien. — Mang về sở và đối chiếu với các đầu đạn anh vừa tìm được. - Rồi ông quay sang Conrad. - Chuyện trẻ con phải không? Có vẻ dễ dàng quá mà. Jordan chắc phải có chuyện nói với cánh ta. Đi chứ? *** Theo Fedor thì Ralph Jordan có một căn hộ trong chung cư ở đường Roosevelt. Hắn ta ở đấy không lâu sau khi June Arnot tống hắn ra khỏi biệt thự ở Hollywood và dù hắn còn giữ ngôi nhà sang trọng ở Beverley Hills nhưng hiếm khi hắn sống ở đó. Conrad ghé xe đậu vào một góc tối. Anh chú ý đến một chiếc Cadillac đen chui nửa thân trong nhà để xe. — Lái xe bạt mạng thật! Anh bước tới có Bardin theo sau. Cánh trái của chiếc Cadillac đâm vào vách làm vỡ miếng đèn pha nát vụn. Bardin mở cửa xe nhìn vào tấm thẻ đồng. — Đúng rồi. Xe của Jordan. Hắn sắp chết một cửa tứ rồi. — Ít ra là ta cũng biết chắc hắn đang có ở nhà, - Conrad nói. Rồi anh bước vào cửa, đẩy cánh cửa xoay, theo sát là Bardin. Một nhân viên to mập, hồng hào trắng trẻo, đôi tay nhỏ, trắng đặt trên chiếc bàn tiếp khách, ngước mắt kênh kiệu nhìn. — Ông cần gì? Bardin chồm tới trước, nhíu mày, nói oang oang. Khi muốn gây khó dễ thì ông cũng đủ sức để trả đũa. Tiếng ông rít lên: — Thanh tra Bardin. Cảnh sát thành phố. Jordan có ở đấy không? Hai bàn tay nhỏ nhúc nhích. — Chắc ông muốn hỏi về Ralph Jordan? Vâng, ông ta có ở đấy. Các ông muốn gặp? — Hắn về nhà lúc nào? — Sau 8 giờ một chút. — Lúc đó hắn có bình thường không? — Tôi không lưu ý. — Hắn ra đi khi nào? — Khoảng sau 6 giờ. — Hắn ở trên lầu chót phải không? — Thưa phải. — Được rồi. Chúng tôi lên đó. Anh muốn giữ sức khỏe thì chớ mó vào điện thoại. Tôi đến thăm bất ngờ đấy. Trên đó có ai ở cùng với hắn không? — Tôi không biết. Bardin đi thẳng đến thang máy bước vào. — Như vậy là hắn ra đi lúc 6 giờ, trở về 8 giờ, thừa đủ thì giờ để đến “Ngõ Cụt” làm điều cần làm. — Nên coi chừng hắn, - Conrad nói khi cửa thang máy khép kín. - Nếu nó cần hận thù thì nguy hiểm đấy. — Hắn không phải là tên điên đầu tiên tôi va chạm và chắc cũng không phải là tên cuối cùng. Khốn thật! Bardin ngừng lại trước cửa căn hộ. — Kìa! Cửa mở. Ông bấm chuông, đợi một lát rồi lấy chân đá cánh cửa mở toang, liếc mắt nhìn vào phòng chờ. Trước mặt là một cánh cửa khép hờ. Bardin đẩy ra, bên trong là một phòng khách lớn, đèn sáng choang. Ông rống lên làm rung cửa kính. — Ê! Có ai ở trong nhà không? Sự im lặng trả lời thật nặng nề và ngột ngạt, lạnh tanh. Hai người nhìn nhau. Bardin nói: — Ồ, anh có nghĩ là hắn nấp ở đâu đó không? — Có thể hắn ra phố rồi. — Lão dưới kia không nói mà! — Ta ghé mắt vào một tí đi. Conrad bước vào một gian phòng, gõ cánh cửa phía trái. Anh xoay tay nắm thấy một gian phòng lớn. Cũng không có ai. Họ mở cửa phòng tắm. Chưa bao giờ họ trông thấy một cảnh bài trí sang trọng đến thế nhưng họ chỉ chú ý ngay đến cái bồn tắm. Ralph Jordan nằm dài ra đó, đầu gập xuống ngực, mình mặc chiếc áo choàng màu cặn rượu vang, khoác ngoài bộ đồ ngủ xanh nhạt. Trên bờ bồn tắm và phần trước áo hắn có loang màu đỏ. Hắn nắm trong tay một lưỡi dao cạo có cán, máu loang như vệt mực trên tranh vẽ. Bardin sờ tay Jordan. — Lạnh như một khúc thịt bò bỏ tủ đá. Ông nắm tóc Jordan lôi đầu hắn lên. Gonrad nhăn mặt khi nhìn thấy vết thương mở toác ra, sâu đến tận một động mạch bị cắt tiện đứt đôi. Bardin lùi lại. — Đấy, thật đúng như tôi nói: Một vụ việc quá đơn giản. Hắn đến đằng kia giết cô gái rồi trở về nhà tự cắt cổ. Hắn có ý tứ lắm. Càng dễ cho tôi làm việc. - Ông hút thuốc phà khói vào mặt người chết. — Tôi nghĩ là bác sĩ có việc làm suốt đêm đấy. Conrad loanh quanh trong phòng tắm, anh tìm thấy một con dao cạo điện. — Lạ là sao hắn lại có dao cạo tay. Đời bây giờ phải chạy quanh mới lùng kiếm được thứ này và tôi không nghĩ là Jordan lại có nó trong nhà. — Anh chớ làm rối lên. Có lẽ hắn dùng để cắt chai chân, lưỡi dao đa dụng mà. Ông đẩy một cánh cửa và thấy một tủ áo thật đầy đủ sang trọng. Conrad đang bước qua phòng bỗng ngừng lại. — Sam, cho anh xem cái này chắc anh phởn lắm - Anh chỉ một vật dính máu nằm trên đất. Bardin bước lại gần. — Trời đất! Con dao phạng. - Ông quì xuống gần con dao lưỡi nhọn. - Cam đoan đấy là vũ khí giết người. Đủ để cắt cổ ai đó và mổ bụng như anh kéo fermeture vậy. — Bộ anh không thấy làm lạ là một gã như Jordan lại có một con dao rừng Nam Mỹ như vậy sao? Bardin ngồi chồm hổm. — Có lẽ hắn mang về làm kỷ niệm. Cam đoan là hắn có đi Nam Mỹ hay Antilles, chắc là Antilles thôi. Nhất định đúng là tang vật và dám đưa đầu cá với anh là máu dính ở đấy đúng là máu của June Arnot. Conrad lật qua lại áo quần vắt trên ghế. — Quần áo không có vết máu. Tại sao cắt đầu người khác lại không dính máu. — Ui, được rồi, - Bardin nóng nảy kêu lên. - Anh đâu có cần vặn vẹo từng li từng tí như thế. Có thể hắn mang áo khoác hay một thứ gì tương tự như vậy. Đâu có gì là quan trọng. Đối với tôi như thế là đủ rồi. Anh không chịu sao? — Tôi không biết, - Conrad nhíu mày. - Mọi sự gọn ghẽ quá nên tôi ngờ là một cuộc xếp đặt. Khẩu súng lục có chữ đầu tên Jordan, cái xe bị bẹp dúm, Jordan tự vẫn và bây giờ là vũ khí giết người được tìm thấy. Đẹp quá nên khó tin là thực. Theo tôi thì có chuyện gì đó xộc xệch trong này. — Chuyện không ăn khớp là vì anh tận tâm quá, - Bardin nhún vai trả lời. - Thôi hết chuyện rồi. Tôi tin thì Cảnh sát trưởng cũng tin. Anh cũng sẽ đồng ý như thế nếu trong đầu không bị ám ảnh bởi ý muốn đưa Maurer lên ghế điện. Phải không? Conrad trầm ngâm gãi gãi cánh mũi. — Có lẽ thế. Ok! Chắc là tôi xong việc rồi. Anh muốn tôi đưa anh về Sở không? — Tôi ở đây để gọi họ tới. Tôi muốn nhân viên lục lọi hết trong nhà này. Ngay sau khi cắt đặt xong công việc, tôi sẽ trở về “Ngõ Cụt” rồi thông báo cho báo chí. Anh về nhà à? Conrad gật đầu. — Hên thật! Không làm việc đêm, một căn nhà ấm cúng, nàng tiên bên cạnh. Sao, bà Conrad mạnh khỏe chứ? — Ồ, chắc là mạnh thôi, - Conrad trả lời mà buồn bã nhận ra rằng mình không thấy có hứng khởi. *** Conrad len qua các đường nhỏ để tránh các rạp cinema vừa vãn xuất hát. Anh lo lắng không biết Janey có thực hiện lời dọa đi chơi một mình và đã về chưa. Anh tấp xe để đốt thuốc. Khi ném que diêm qua cửa kính, anh đọc thấy tên bảng đường: Thông lộ Glendale. Mãi tới khi đến đầu đường, anh mới nhớ là cô gái có tên Frances Coleman đến thăm June Arnot lúc 7 giờ tối đã ghi địa chỉ số 145 Thông lộ Glendale. Anh vụt ghé sát lề và ngồi một lúc nhìn qua kính che gió con đường vắng và buồn. Bác sĩ Holmès đã nói June Arnot chết khoảng 7 giờ. Cô gái này có thể thấy được gì không? Anh bước xuống xe tiến đến số 145. Đây là một chung cư tồi tàn. Có vài cửa sổ còn sáng ánh đèn. Qua cánh cửa kính lối ra vào, Conrad nhìn thấy một tiền sảnh đèn mờ và một cầu thang tối thui. Đủ thứ mùi vị xông lên: Mùi tỏi phi, nước đái mèo và rác rưởi phân hủy. Anh hất ngược mũ, nhíu mày bước vào đến trước dãy hộp thư đặt sát tường. Hộp thư của cô Coleman sếp hàng thứ ba, cô ở lầu 3. Conrad lội bộ lên thang gác. Một tấm thiếp trắng ghi tên cô ghim vào cửa. Conrad định gõ cửa nhưng nhận thấy cửa mở hé. Anh gõ cửa, đợi một lúc rồi lùi lại, thủ thế. Tối hôm nay anh đã trông thấy sáu xác chết thê thảm, ghê gớm rồi. Gáy anh lạnh ngắt. Anh đốt thuốc nhưng nhận thấy tay mình không run. Anh mỉm cười, nghiêng mình tới, đẩy cửa nhìn vào bóng tối. — Có ai đấy không? Không có tiếng trả lời. Một sự yên lặng chập chờn cùng với một mùi hoa thuốc phiện California. Conrad bước tới mò mẫm tìm công tắc. Anh nín thở bật đèn và cứ tưởng nhìn thấy điều tồi tệ: nhưng thật ra không có xác chết, không có máu, không có thứ vũ khí giết người nào hết... đấy chỉ là một căn phòng nhỏ với chiếc giường sắt, tủ commos, vài cái ghế và chiếc tủ lớn. Trông thật sơ sài như chiếc giường đóng đinh của ông fakir Ấn Độ. Conrad đứng yên một lát rồi mở cửa tủ: không có gì hết. Anh gãi gáy rồi bước ra. Trên tường nơi tiền sảnh có bảng: Gác dan ở tầng hầm. “Nào có mất mát gì!” Anh nghĩ. Anh bước xuống một thang gác dơ bẩn tối om. — Có ai không? Cửa mở và ánh đèn làm anh chói mắt. Một giọng nói êm dịu, mơn trớn phát ra: — Không có phòng cho thuê đâu. Conrad nhìn vào. Một người to béo mặc áo ngắn, ngồi sau bàn. — Anh có một căn hộ trống trên lầu 3 phải không. Cô Coleman vừa dọn đi à? — Ai nói với ông thế? — Tôi vừa mới lên trên ấy. Phòng trống trơn. — Ông là ai? Conrad lên giọng: — Cảnh sát! Ông to béo nhăn mặt. — Cô ta đi vào lúc nào? - Conrad nghiêm giọng hỏi. — Tôi không biết cô ta đã dọn đi. Buổi sáng vẫn còn. Thế là may, tôi đỡ phải trục xuất cô ta vào sáng mai này. — Tại sao? — Thì cũng bấy nhiêu chuyện đó. Chưa trả tiền thuê ba tuần. — Anh biết gì về cô ta? Cô ta ở đấy từ bao giờ? — Độ một tháng nay. Hình như là một diễn viên phụ cinema. Cô ta không tìm được việc ở Hollywood. Cô thật ngoan. Tôi mà có con gái thì mong nó được như cô ta. Ăn nói mềm mỏng, người xinh, tính tình trầm lặng, thật là có giáo dục. - Ông nhún vai. - Nhưng lại không có tiền. Mấy con người khá thì lại không kiếm ra tiền. Tôi đã khuyên về quê đi nhưng cô ta không nghe. Cô ta nói rằng sáng nay trả tiền cho tôi. Chắc lại không kiếm ra chứ gì. — Chắc vậy, - Conrad nói. Anh bỗng cảm thấy mỏi mệt vô cùng. Một cô phụ diễn đang thất nghiệp lại đến thăm June Arnot thì có mục đích nào khác hơn là hỏi vay tiền. Loại cô ta chắc không qua được nhà người gác. Khó tin rằng June Arnot chịu tiếp cô ta. Anh nhìn đồng hồ, đã quá nửa đêm. — Cảm ơn. Tôi chỉ cần biết bấy nhiêu thôi. Ông to béo hỏi: — Sao? Cô ta không gặp lôi thôi gì phải không? — Không đâu. Conrad quay trở ra. Bardin đã nói rằng chính Jordan làm cú đó. Sáng mai ông sẽ nói chuyện với ông Biện lý. Giá như anh biết rõ June và Maurer có cặp bồ với nhau nhỉ! Nếu họ đã ngủ với nhau thì có nhiều khả năng Maurer đã tổ chức cuộc tàn sát, mà cũng có thể chính Maurer ra tay. “Ui, kệ mẹ Maurer!”, Conrad nghĩ trên đường vào cổng nhà. “Mình không quên hắn được lấy 5 phút. Thật cực hơn là cảnh một gã si tình trồng cây si trước nhà người yêu”. Anh mở khóa bước vào phòng chờ tối thui. Khung cảnh vắng lặng. Anh mở cửa phòng ngủ và bật đèn: Chiếc giường đôi nằm trơ vơ. Janey quả đã đi hoang chưa về.   Mời các bạn đón đọc Cái Chết Từ Trên Trời của tác giả James H. Chase.
Những vụ kỳ án của Sherlock Holmes - Arthur Conan Doyle (Bản Đinh Tị - Thái Hà dịch)
Sherlock Holmes là một nhân vật thám tử hư cấu vào cuối thế kỉ 19 và đầu thế kỉ 20, xuất hiện lần đầu trong tác phẩm của nhà văn Arthur Conan Doyle xuất bản năm 1887. Ông là một thám tử tư ở Luân Đôn nổi tiếng nhờ trí thông minh, khả năng suy diễn logic và quan sát tinh tường trong khi phá những vụ án mà cảnh sát phải bó tay. Nhiều người cho rằng Sherlock Holmes là nhân vật thám tử hư cấu nổi tiếng nhất trong lịch sử văn học và là một trong những nhân vật văn học được biết đến nhiều nhất trên toàn thế giới. Đã có rất nhiều vở kịch và bộ phim được sáng tác dựa trên những tác phẩm của Conan Doyle về Holmes, về mặt này có thể so sánh Holmes với những nhân vật hư cấu nổi tiếng khác như Hamlet hay Dracula. Sherlock Holmes được độc giả hâm mộ tới mức đã có rất nhiều hội những người hâm mộ ông được thành lập. Năm 1990 người ta đã mở Bảo tàng Sherlock Holmes ở phố Baker, đây là bảo tàng cho một nhân vật hư cấu đầu tiên được mở trên thế giới. Sherlock Holmes đã xuất hiện trong 4 tiểu thuyết và 56 truyện ngắn của nhà văn Conan Doyle. Hầu như tất cả các tác phẩm đều được viết dưới dạng ghi chép của bác sĩ John H. Watson, người bạn thân thiết và người ghi chép tiểu sử của Holmes, chỉ có 2 tác phẩm được viết dưới dạng ghi chép của chính Holmes và 2 tác phẩm khác dưới dạng ghi chép của người thứ ba. Hai tác phẩm đầu tiên trong số này, 2 tiểu thuyết ngắn, xuất hiện lần đầu tiên trên tờ Beeton's Christmas Annual năm 1887 và tờ Lippincott's Monthly Magazine năm 1890. Thám tử Holmes trở nên cực kì nổi tiếng khi loạt truyện ngắn của Doyle được xuất bản trên tạp chí The strand Magazine năm 1891. Các tác phẩm được viết xoay quanh thời gian từ năm 1878 đến năm 1903 với vụ án cuối cùng vào năm 1914. *** Một buổi sáng cuối năm 1896, tôi nhận được tờ giấy viết vội của Sherlock Holmes, mời tôi lập tức tới phố Baker ngay. Tới nơi, tôi thấy anh đang ngồi trong một căn phòng mù mịt khói thuốc, trên chiếc ghế đối diện là một phụ nữ đẫy đà đã luống tuổi và có dáng dấp một bà chủ nhà trọ. - Anh Watson, đây là bà Merrilow ở quận South Brixton. - Ông bạn tôi giơ tay giới thiệu - Bà đây không phản đối việc hút thuốc, nên anh cứ mặc sức tận hưởng thú vui của mình. Bà Merrilow muốn kể cho chúng ta nghe một câu chuyện vô cùng thú vị. Và có thể sự việc sẽ còn tiến triển, nên sự có mặt của anh ở đây là vô cùng hữu ích. - Nếu tôi có thể giúp được gì… - Bà Merrilow, chắc bà cũng hiểu rằng nếu tôi tới gặp bà Ronder thì tôi hy vọng có một người làm chứng. Xin bà hãy nói với bà ấy về điều này trước. - Chúa sẽ phù hộ cho ông, ông Holmes ạ! - Người khách nói - Bà ấy rất muốn gặp ông, nên ông có gọi tất cả mọi người trong khu này đến thì bà ấy cũng chả bận tâm gì đâu. - Vậy chiều nay chúng ta nên xuất phát sớm một chút. Trước khi đi, phải đảm bảo là chúng ta đã nắm rõ mọi việc. Bà hãy kể lại tất cả một lần nữa, giúp bác sĩ Watson có thể hiểu được tình hình. Ban nãy bà có nói, bà Ronder đã trọ ở nhà bà bảy năm rồi, nhưng bà mới nhìn rõ mặt bà ấy chỉ một lần duy nhất phải không? Bà Merrilow nói: - Thề có Chúa, tôi ước gì mình chưa bao giờ nhìn thấy mặt bà ấy thì hơn! - Mặt bà ấy bị thương tổn rất nặng nề, phải vậy chứ? - Thưa ông Holmes, không thể gọi đó là một cái mặt người được! Thật là vô cùng khủng khiếp. Một lần, người đưa sữa cho tôi nhác thấy bà ấy đang đứng ngắm cảnh ở cửa sổ tầng trên, anh ta kinh hoàng tới mức làm đổ cả thùng sữa! Lần nọ, bất ngờ tôi chợt nhìn thấy mặt bà ấy, bà ấy lập tức che mặt lại và nói: “Bà Merrilow, chắc bây giờ bà đã hiểu vì sao tôi luôn luôn che mặt bằng tấm mạng này rồi chứ?”. - Bà có biết tí gì về quá khứ của bà ấy không? - Tôi hoàn toàn không biết gì về bà ấy cả. - Khi bà ấy tới thuê nhà, có sự giới thiệu của ai không? - Không, nhưng bà ấy trả bằng tiền mặt và luôn trả trước rất nhiều. Tiền thuê nhà trả cả quý, hơn nữa cũng không hề cò kè mặc cả. Tôi ngần này tuổi rồi, lại bơ vơ một mình trong thời buổi khó khăn, ngài bảo làm sao có thể từ chối được một người khách giàu có và hào phóng như vậy được? - Lý do gì khiến bà ấy chọn thuê căn hộ của bà? - Căn hộ của tôi cách đường khá xa, yên tĩnh hơn so với các căn hộ cho thuê khác. Hơn nữa, tôi chỉ nhận mỗi một người khách trọ; bản thân tôi cũng không có người thân. Tôi đoán rằng bà ấy đã từng thuê nhiều nơi, nhưng bà ấy thích căn hộ của tôi nhất. Bà ấy cần yên tĩnh và không tiếc tiền. - Bà có nói rằng, kể từ khi tới ở, bà ấy chưa bao giờ để lộ khuôn mặt của mình, chỉ trừ một lần duy nhất kia thôi. Đây quả là một chuyện khá đặc biệt và vô cùng kỳ lạ. Do đó tôi hiểu vì sao bà muốn điều tra xác minh nó đến vậy. - Không phải tôi muốn thế, thưa ông Holmes. Với tôi mà nói, chỉ cần có tiền thuê nhà là tôi đã cảm thấy rất hài lòng rồi. Không có vị khách thuê nhà nào yên lặng hơn, ít chuyện hơn bà ấy. - Vậy thì tại sao bà lại tới đây? - Thưa ông Holmes, đó là vì sức khỏe của bà ấy. Bà ấy càng ngày càng yếu đi. Hơn nữa, trong lòng bà ấy có những bí mật rất hãi hùng nào đó. Có lúc bà ấy la to: “Giết người! Giết người!”. Lần khác lại nghe tiếng bà ấy hét toáng: “Đồ súc sinh tàn ác! Đồ yêu ma quỷ quái!”. Bà ấy kêu gào vào lúc nửa đêm, tiếng hét của bà ấy vang dội khắp nhà làm tôi sợ run lên. Sáng hôm sau, tôi lên thăm bà ấy. Tôi chân thành khuyên: “Bà Ronder này! Nếu trong lòng bà có điều gì u uất không thể nói ra, bà có thể tìm tới cha xứ hoặc cảnh sát, biết đâu họ có cách giúp bà”. “Ơn Chúa, tôi không cần tới cảnh sát!” - Bà ấy nói - “Cha xứ thì không thể làm gì để thay đổi được quá khứ. Nhưng trước khi tôi chết, nếu có một ai đó biết được toàn bộ câu chuyện này thì tôi có thể được an ủi phần nào”. Tôi mách cho bà ấy: “Ồ, nếu bà không muốn nhờ cảnh sát, thì bà hãy nhờ đến ông thám tử nổi tiếng mà mọi người đều biết là Sherlock Holmes ấy”. Thưa ngài, xin lỗi vì tôi đã nhanh mồm như vậy. Nhưng bà ấy vừa nghe liền đồng ý ngay: “Đúng rồi, tôi cần một người như thế”. Bà ấy nói: “Tại sao tôi lại không nghĩ ra nhỉ? Xin bà hãy mau chóng mời ông ta tới đây, bà Merrilow! Nếu ông ta không chịu tới, bà hãy nói với ông ta rằng tôi là vợ của Ronder, người dạy thú ở đoàn xiếc. Bà chỉ cần nói vậy thôi và cho ông ta cái tên “Abbas Parva””. Bà ấy viết chữ đó lên mảnh giấy đưa cho tôi rồi nói: “Cái tên này sẽ khiến ông ta tới ngay, nếu ông ta đúng là người như tôi nghĩ”. - Đúng là tôi phải đi thật, bà Merrilow ạ! - Holmes nói - Giờ tôi cần trao đổi với bác sĩ Watson một lúc và cuộc nói chuyện này phải kéo dài tới bữa trưa. Khoảng ba giờ chiều, chúng tôi mới có thể tới nhà bà được. Vị khách của chúng tôi vừa lạch bạch bước ra khỏi phòng, vì không còn từ nào có thể miêu tả đúng hơn dáng đi của bà ấy, thì Holmes liền đứng bật dậy, vùi đầu vào lật tìm đống tài liệu trong góc phòng. Vài phút sau, chỉ có tiếng lật giấy “soạt, soạt”, sau đó anh à lên một tiếng đầy thoả mãn. Nghe thế, tôi biết là Holmes đã tìm ra được điều gì đó. Anh ngồi bệt xuống sàn nhà, hai chân khoanh lại, một đống sách to đùng bao quanh, và trên đùi lại có một tập báo đang mở nữa. ... Mời các bạn đón đọc Những vụ kỳ án của Sherlock Holmes của tác giả Arthur Conan Doyle. Mời các bạn đón đọc Những vụ kỳ án của Sherlock Holmes của tác giả Arthur Conan Doyle.
Mười Người Da Đen Nhỏ - Agatha Christie
Mười người phát hiện rằng mình đã bị lừa ra đảo để "trả giá" cho "tội ác" đã gây ra, họ ứng với 10 bức tượng nhỏ đặt trên bàn ở phòng khách. Những ngày sau đó từng người lần lượt thiệt mạng tương tự cái cách bài đồng dao trong phòng mỗi người đã mô tả. Kỳ lạ hơn là sau khi một người qua đời, số tượng trong phòng khách bằng cách nào đó đều giảm đi một. Người đầu tiên thiệt mạng là Anthony Marston, anh ta chết vì ngộ độc với triệu chứng tương tự người bị nghẹn. Sau Marston là Ethel Rogers, bà quản gia chết được chồng phát hiện đã chết vì dùng thuốc ngủ quá liều. Vị tướng Macarthur dường như linh cảm được cái chết sẽ đến nên đã bỏ ăn mà ngồi nhìn ra biển và lảm nhảm một mình, bác sĩ Armstrong sau đó phát hiện ông đã chết vì bị một vật cứng đập vào sau đầu. Người thứ tư thiệt mạng là Thomas Rogers, trong lúc bổ củi chuẩn bị cho bữa sáng, dường như Thomas đã để trượt tay và làm lưỡi búa bay thẳng vào đầu. Là người luôn tin rằng mình không làm gì trái với Đức tin, rằng những người khác chết là do bị Chúa trừng phạt, tuy nhiên Emily Brent cũng không thể sống sót, bà bị tiêm thuốc độc vào cổ sau bữa ăn trưa, vết tiêm trên cổ bà tương tự như vết ong đốt. Buổi tối hôm đó đến lượt quan tòa Wargrave được bác sĩ Armstrong phát hiện đã thiệt mạng vì bị bắn vào đầu trong khi đang đội bộ tóc giả của quan tòa. Bản thân bác sĩ vào ngày hôm sau cũng được những người còn lại phát hiện đã chết đuối ở vách đá. Blore là người thứ tám thiệt mạng trên đảo, viên thám tử tư bị bức tượng trong phòng cô Vera Claythorne rơi trúng đầu trong lúc hai người còn lại đang ở ngoài bờ biển bên xác bác sĩ Armstrong. Rơi vào trạng thái hoảng loạn, Claythorne lừa cướp được súng của Lombard và giết chết tay cựu lính đánh thuê. Cuối cùng cô trở lại phòng và treo cổ tự tử với chiếc ghế và dây thòng lọng do một ai đó đã bày sẵn… Đây là một vụ án mà không hề có sự hiện diện hay dấu vết của thủ phạm. *** Mười người da đen nhỏ, nguyên bản tựa gốc tiếng Anh: Ten Little Niggers (10 gã mọi đen nhỏ) hoặc And Then There Were None (Và rồi chẳng còn ai) là một tiểu thuyết hình sự của nhà văn Agatha Christie được nhà xuất bản Collins Crime Club phát hành lần đầu ở Anh ngày 6 tháng 11 năm 1939[2]. Tác phẩm đôi khi còn được xuất bản (và chuyển thể thành phim) dưới tên Ten Little Indians (10 gã da đỏ nhỏ). Tiểu thuyết nói về vụ án bí ẩn trên hòn đảo Soldier Island với 10 người bằng cách này hay cách khác đã thiệt mạng mà không hề có sự hiện diện hay dấu vết của thủ phạm. Đây được coi là một trong những tiểu thuyết hình sự xuất sắc và nổi tiếng nhất của Agatha Christie, trên 100 triệu bản sách đã được bán ra khiến tác phẩm này trở thành tiểu thuyết hình sự bán chạy nhất trong lịch sử xuất bản thế giới. Mười người da đen nhỏ cũng là tác phẩm của Agatha Christie được chuyển thể nhiều lần nhất, cả trực tiếp và gián tiếp, dưới dạng phim điện ảnh, truyền hình và kịch sân khấu. Mời các bạn đón đọc Mười Người Da Đen Nhỏ của tác giả Agatha Christie.
Xác Chết - Carter Brown
Cô gái tóc vàng đã có thể. Cô gái tóc nâu đã sẵn sàng. Và Al Wheeler đã sẵn sàng ... vì tình yêu. Cho đến khi tìm thấy ba xác chết. Cảnh sát California bắt đầu cuộc chạy đua truy tìm hung thủ khi xác chết đầu tiên xuất hiện. Xác chết thứ hai xuất hiện trong một căn nhà phòng. Và rồi người thứ ba. Xác chết là một câu chuyện về những cô gái tóc vàng, và những kẻ tống tiền. Và viên cảnh sát tên là Al Wheeler xuất hiện với mục tiêu ngăn chặn tên sát nhân. *** Annabelle Jackson sôi nổi quảng cáo, “Đó là một nơi ăn chơi thật độc đáo, rồi anh sẽ thấy!” Tôi như một thằng ngố mặc cho Annabelle muốn dẫn đi đâu thì dẫn. Khi Annabelle dừng lại trước tấm bảng cũ kỹ có hai chữ ‘Guốc Vàng’ chạy đèn néon vàng óng, tôi ngước nhìn lên và thấy rõ hàng chữ cũng được chạy đèn néon nổi bật “Minuit - nửa đêm”. Tôi giơ tay gãi đầu, hỏi, “Ở đây à?” Không trả lời, Annabelle chộp tay tôi lôi tới trước một cánh cửa, nơi có cầu thang dẫn xuống nhà hầm. Khi đã chọn được chiếc bàn sát tường ưng ý, tôi kéo ghế ngồi và bắt đầu quan sát xung quanh. Nhà hầm rộng mênh mông nhưng nom nó có vẻ giống một cái hang nhiều hơn là một nhà hàng, chẳng có tới một cái máy điều hòa không khí dù là loại tồi tàn nhất. Không khí nóng bức trộn lẫn mùi nước hoa lan tỏa càng tạo cho tôi một cảm giác khó chịu. Thêm vào đó là thứ ánh sáng lờ mờ của nhà hầm khiến tôi phải cố gắng căng mắt lắm mới nhìn thấy được một mái đầu với mớ tóc vàng đang lắc lư bên cạnh. Tôi chồm tới ghé sát mặt để yên chí rằng mình không nhìn lầm. Một gã hầu phòng béo mỡ, thứ lề mề bất cần việc, cặp mắt láo liên tiến đến, gã chống hai bàn tay bẩn thỉu lên mặt bàn và hỏi một cách xấc xược, “Hai người ăn uống ra làm sao? Kể mau nghe!” Tôi ngáp dài, “Hai scotch có đá. Mà này, lần sau nên lịch sự một chút nhé. Nhớ tráng sạch ly trước khi mang ra cho chúng tôi!” Gã nhe răng cười nhăn nhở, “Tại sao vậy? Đêm nay anh không định thầu hết chỗ này chứ?” Gã trả đòn, rồi nhún vai biến nhanh như gió. Tôi nheo một bên mắt, nhìn cô bạn, “Trước đó anh luôn thắc mắc, không hiểu em sẽ tìm đâu ra thứ hang ổ hắc ám trong Pin City này. Bây giờ mới hiểu ra. Thánh thật!” Cô nàng đáp nhanh, “Nếu chịu khó nhìn chung quanh, anh sẽ nhìn thấy tín đồ ở đây đều có trán bóng lưỡng và những tròng kính dày cộm. Chúng ta đang trong hậu cung của các nhà học giả đấy!” “Quí vị đó chui vào hốc bò tó này làm gì?” “Họ đến vì… Jazz. Đó là bộ sậu gồm Clarence Nesbitt đàn bass, Cubn Carter trống và Wesley Stewart kèn đồng, ba tay này trước đây là những kẻ vô danh tiểu tốt, giờ thì mọi người đều ngưỡng mộ họ.” “Hừ, không có tôi trong số đó đâu nhé.” “Chưa hết, còn một nguyên nhân nữa.” “Nguyên nhân gì?” “Cái này dứt khoái là anh ngưỡng mộ: Nàng Minuit, như tấm biển đề ngoài cửa.” “Chà, hấp dẫn đấy. Nàng trốn đâu, sao không thấy? Biệt danh à?” “Không, nàng có tên Minuit O’Hara, chỉ xuất hiện vào.nửa đêm. Lý do như thế nào, hiện giờ chưa rõ. Còn ít phút nữa…” Tôi cắt ngang, lay nhẹ khuỷu tay Annabelle. “Các ca sĩ lớn đang chờ em, ở nhà anh, trong băng nhựa. Máy thu băng của anh thuộc loại thượng hảo hạng, một trong những…” “Anh khoan kể nốt,” cô chặn lại giọng lạnh tanh. “Annabelle là cô gái không dễ mắc câu!” Rượu Scotch được mang ra và gã hầu phòng béo mỡ đang ném cái nhìn chòng chọc vào Annabelle, trước khi đặt chiếc ly trước mặt nàng. “Ối dào, phù… phù! Xin cho biết.” Gã hít một hơi thật sâu. “Cái gì đây?” “Một cô gái,” tôi quát vẻn vẹn ba chữ tạo thành câu. “Tôi nhắc nhở anh! Có cần hiểu rộng thêm ý nghĩa tôi muốn nói không?” “Mẹ kiếp, đêm nay mình gặp hên..” Thốt xong, hắn phe phẩy chiếc khăn trên tay như chó vẫy đuôi, rồi lỉnh vào bếp. Annabelle đầy hưng phấn, nói với vẻ háo hức, “Anh nghe đấy, ta còn thưởng thức dài dài. Từ New Orleans thuần nhất có thể rút tỉa ra vài câu thơ theo cung cách Chicago. Qua thể điệu Wing anh sẽ túy lúy bằng những tiếng ‘hí… hê’ thoát ra từ…” Lạy chúa, giọng lưỡi của cô nữ tín đồ sùng bái được bộ tam sên trên bục diễn che lấp mất qua bản “Có một đứa ngu”. Tôi lơ đãng nhấm nháp Whisky, những điều nghi ngờ tệ hại nhất của tôi về Annabelle Jackson đã được xác nhận rồi. Khi bài hát vừa dứt, Annabelle quay sang tôi, đôi mắt lóng lánh, cuồng nhiệt. Cô hăm hở, “Anh cảm thấy thế nào?” Tôi nhăn mặt, ngáp dài, “Ồn ào quá,” tôi đáp. “Trong khi anh chỉ cần ấn nhẹ cái nút, âm thanh đã vừa đủ nghe và hàng loạt ca sĩ nổi danh đương thời lần lượt cất giọng…” Annabelle vờ ngơ ngác, “Chúa ơi, ở đâu có?” “Trong băng nhựa! Xin nói thêm, tủ rượu của anh có vô số rượu khai vị. Còn Whisky thì khỏi nói, toàn là thứ còn nguyên con dấu và nhãn hiệu đàng hoàng, chưa hết…” ... Mời các bạn đón đọc Al Wheeler [#6]: Xác Chết của tác giả Carter Brown.