Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Tuổi Già Tập 1 - Simone de Beauvoir

Simone de Beauvoir (1908 - 1986) là nhà văn, nhà triết học và một nhà đấu tranh cho nữ quyền người Pháp. Là một nhà văn từng được giải Goncourt nhưng cũng là một học giả uyên bác, các tác phẩm của bà được lấy cảm hứng từ chính cuộc đời mình đồng thời đầy ắp các dữ kiện khoa học, lịch sử, thống kê… Hai tác phẩm non-fiction được biết ở Việt Nam nhiều nhất của bà là Giới tính thứ nhì và Tuổi già. Giới tính thứ nhì (xuất bản năm 1949), được xem là một trong những quyển sách hay nhất của thế kỷ 20, là một cuốn bách khoa toàn thư về các giai đoạn của cuộc đời phụ nữ từ lúc sinh ra, dậy thì, lấy chồng, làm mẹ; đồng thời vạch ra con đường giành quyền lợi cho nữ giới. Với tác phẩm này, bà được xem là “Bà mẹ của phong trào nữ quyền". Tuổi già được viết lúc Beauvoir hơn 50 tuổi, mô tả chi tiết cuộc sống của người già và đấu tranh giành quyền cho họ. Người ta chỉ có thể hiểu được thân phận người già khi ở tuổi đó. “50 tuổi, tôi giật nảy mình khi một nữ sinh viên Mỹ kể lại với mình câu nói của một cô bạn: "Nhưng Simone de Beauvoir là một bà già chứ sao!" Cả một truyền thống dồn cho từ ngữ này một cái nghĩa xấu; nó vang lên như một lời thoá mạ. Vì vậy, người ta phản ứng, thường bằng giận dữ, khi nghe người khác bảo mình già. Tôi có biết nhiều người phụ nữ được biết tuổi tác của mình một cách khó chịu qua một kinh nghiệm giống như kinh nghiệm Marie Dormoy: một người đàn ông, bị vẻ trẻ trung của hình bóng bà đánh lừa, đi theo bà trên đường phố; đến khi đi vượt qua bà và trông thấy gương mặt bà, thì thay vì bắt chuyện, ông ta rảo bước.” "Bạn có biết khuyết tật nào lớn nhất trong các khuyết tật không? Đó là tuổi trên 55" – Tourgueniev. Vào tuổi 55, Trotsky phàn nàn người mệt mỏi, mất ngủ, hay quên; ông có cảm giác sức lực sút kém; và lo lắng. Ông gợi lại quá khứ: "Anh buồn bã nhớ lại tấm ảnh của em, tấm ảnh của chúng ta, trong đó chúng ta trẻ trung biết chừng nào”. Già đi – đó là một điều không thể tránh khỏi và cũng là một quá trình chấp nhận đầy đau đớn. "Wagner kinh hãi thấy mình già đi, 80 tuổi, ông viết: “Hình hài tôi làm người ta khiếp sợ và khiến tôi u sầu một cách xót xa”. Sự suy sụp về thể chất khiến người già không còn có thể tham gia sản xuất hay xây dựng, do đó họ bị xem như gánh nặng, phải phụ thuộc vào người khác. Beauvoir viết về những trại dưỡng lão ở ngoại ô Paris với những người già như bị xã hội bỏ quên, sống mòn mỏi chờ đợi những cuộc viếng thăm của con cháu. Theo Beauvoir, đối đãi công bằng với người già là cách ứng xử có trước có sau mà nếu khác đi là làm lung lay gốc rễ của xã hội hiện đại. *** Khi còn là thái tử Siddharta, bị vua cha nhốt trong một tòa lâu đài tráng lệ, nhiều lần Thích Ca trốn đi dạo chơi bằng xe ngựa trong vùng. Trong lần dạo chơi đầu tiên, thái tử gặp một người tàn tật, tóc bạc, răng rụng, da nhăn nheo, cúi gập người trên một cây gậy, miệng lập cập, hai tay run rẩy. Chàng lấy làm ngạc nhiên và người xà ích giải thích đó là một ông già. Thái tử liền thốt: “Những kẻ hèn yếu và dốt nát, chuếnh choáng vì niềm kiêu hãnh của tuổi trẻ, không thấy được tuổi già. Khốn khổ biết chừng nào! Hãy trở nhanh về nhà thôi. Các trò chơi và niềm vui mà làm gì, vì ta là nơi ẩn náu của tuổi già mai sau”. Qua một ông già Thích Ca nhận ra số phận của chính mình, sinh ra để cứu vớt loài người, Thích Ca muốn chia sẻ hoàn toàn với số phận của họ. Và về điểm này, Người khác họ: họ lẩn tránh những gì không làm họ vui lòng. Và đặc biệt là tuổi già. Châu Mỹ đã loại trừ ra khỏi từ vựng của họ từ: người chết: mà chỉ nói người khuất bóng thân yêu; cũng giống như vậy, họ tránh liên hệ tới tuổi già. Ở nước Pháp ngày nay, đó là một đề tài cấm kỵ. Khi bắt buộc phải vi phạm điều cấm kỵ ấy, tôi đã bị người ta la ó! Chấp nhận mình đã bước vào ngưỡng cửa của tuổi già, tức là cho rằng nó rình rập tất cả mọi người phụ nữ, rằng nó đã tóm cổ nhiều người. Với thái độ dễ thương hay giận dữ, nhiều người, nhất là người già, không ngớt nhắc đi nhắc lại với tôi rằng làm gì có tuổi già! Có những người không trẻ bằng những người khác, chỉ thế thôi! Đối với xã hội, tuổi già xuất hiện như một điều bí ẩn đáng xấu hổ, mà nói tới là điều khiếm nhã. Trong mọi lĩnh vực, văn học viết rất nhiều về phụ nữ, về trẻ em, về thiếu niên; ngoài các công trình chuyên môn, người ta rất ít ám chỉ tới tuổi già. Một tác giả băng hoạt hình đã phải làm lại cả một loạt tác phẩm vì trước đó ông ta đã đưa vào trong số các nhân vật một cặp vợ chồng đáng tuổi làm ông làm bà: “Hãy loại bỏ người già đi!” - người ta hạ lệnh cho ông ta[1]. Khi tôi nói mình viết một cuốn tiểu luận về tuổi già, người ta thường thốt lên: “Sao lại kỳ thế!... Bà đâu có già!... Đề tài ấy, ngán lắm...” Chính vì lý do ấy mà tôi viết cuốn sách này: để phá tan sự đồng tình im lặng. Theo Marcuse, xã hội tiêu thụ đem một ý thức tốt đẹp thay thế cho ý thức xấu xa và bài xích mọi ý nghĩ tội phạm. Cần khuấy động sự yên ổn của nó. Đối với người có tuổi, nó chẳng những là phạm tội, mà còn là một tội ác. Ẩn náu phía sau các huyền thoại bành trướng và phong túc, nó cho người già là những kẻ khốn cùng. Ở Pháp, nơi tỷ lệ người già cao nhất thế giới - 12% dân số trên 65 tuổi - họ bị dồn vào cảnh khốn cùng, cô đơn, tàn tật, thất vọng. Ở Mỹ, số phận của họ cũng không sung sướng hơn. Nhằm dung hòa sự man rợ này với thứ đạo lý nhân văn chủ nghĩa mà họ thuyết giáo, giai cấp thống trị có cách đơn giản là không xem họ là những con người; nếu nghe tiếng nói của họ, người ta bắt buộc phải thừa nhận đó là một tiếng nói của con người; tôi sẽ buộc độc giả của mình nghe tiếng nói ấy. Tôi sẽ miêu tả hoàn cảnh của họ và cách họ sống; tôi sẽ nói những gì diễn ra thực sự trong đầu óc và trong con tim họ - những thứ bị dối trá, huyền thoại và những lời sáo rỗng của nền văn hóa tư sản xuyên tạc. Vả lại, thái độ của xã hội đối với họ mang tính chất đồng lõa sâu sắc. Nói chung, xã hội không coi tuổi già là một lớp tuổi rõ rệt. Cuộc khủng hoảng về tuổi dậy thì cho phép vạch ra giữa một thiếu niên và người trưởng thành một đường ranh giới chỉ mang tính võ đoán trong những giới hạn chật hẹp; ở tuổi 18, 21, thanh niên được chấp nhận vào xã hội con người. Hầu như bao giờ xung quanh sự thăng tiến ấy cũng có những “nghi thức chuyển giai đoạn”. Còn thời điểm bắt đầu tuổi già thì không được xác định rõ rệt, nó thay đổi theo từng lúc, từng nơi. Không ở đâu, người ta bắt gặp “nghi thức chuyển giai đoạn” thiết lập một quy chế mới[2], về chính trị, suốt đời, cá nhân giữ nguyên những quyền lợi và nghĩa vụ giống nhau. Luật Dân sự không mảy may phân biệt giữa một cụ già trăm tuổi và một người tuổi bốn mươi. Các nhà làm luật cho rằng ngoài những trường hợp bệnh lý ra, trách nhiệm hình sự của người có tuổi cũng hoàn toàn đầy đủ như của thanh niên[3]. Trong thực tiễn, người ta không coi họ là một lớp người riêng, vả lại, họ cũng không muốn như vậy; có sách, báo, sân khấu, những buổi truyền hình và truyền thanh dành cho trẻ em và thiêu niên: còn đối với người già thì không[4]. Trên tất cả những bình diện này, người ta đồng hóa họ với lớp người lớn tuổi trẻ hơn. Nhưng khi quyết định quy chế kinh tế của họ, hình như người ta cho là họ thuộc một lớp người xa lạ: họ không có những nhu cầu cũng như những tình cảm giống như những người khác, nếu chỉ cần ban cho họ một chút bố thí khốn khổ là cảm thấy hết nợ đối với họ. Các nhà kinh tế học, các nhà làm luật tin vào cái ảo ảnh thuận tiện ấy khi phàn nàn cái gánh nặng những người không hoạt động gây nên cho những người hoạt động: như thể những người này không phải là những người không hoạt động trong tương lai và không bảo đảm chính ngày mai của mình trong lúc xây dựng việc nhận lấy trách nhiệm đối với những người có tuổi. Còn các nhà hoạt động công đoàn thì không nhầm lẫn: khi đưa ra những đòi hòi, bao giờ họ cũng coi trọng vấn đề hưu trí. Những người già không tạo nên một lực lượng kinh tế nào thì không có cách gì để đòi hỏi quyền lợi của mình: lợi ích của những kẻ bóc lột, là tiêu diệt tình đoàn kết giữa người lao động và người không sản xuất, sao cho không một ai bênh vực những người này. Những huyền thoại và lời sáo rỗng theo tư duy tư sản tìm cách chỉ ra một con người khác trong người già. “Chính với những thiếu niên sống khá nhiều năm mà cuộc đời tạo nên lớp người già” - Proust từng nhận định như vậy - họ giữ lại những nết tốt và những tật xấu của con người trong họ. Điều đó, dư luận không muốn biết tới. Nếu biểu thị những ham muốn, những tình cảm, những đòi hỏi giống như những người trẻ tuổi, thì người già làm người ta công phẫn; ở họ, tình yêu nam nữ, lòng ghen tuông hình như là bỉ ổi hay lố bịch, còn tình dục thì đáng ghê tởm và bạo lực thì chẳng có nghĩa lý gì. Họ phải là tấm gương về mọi đức tính. Trước hết, người ta đòi hỏi ở họ sự thanh thản; người ta khẳng định họ có lòng thanh thản ấy, nên cho phép người ta không quan tâm tới nỗi bất hạnh của họ. Cái hình ảnh người ta tô vẽ về họ là hình ảnh một nhà Hiền triết trong ánh hào quang của một mái tóc bạc trắng, giàu kinh nghiệm và khả kính, vượt lên rất xa thân phận con người; nếu rời khỏi hình ảnh ấy, là họ rơi xuống phía dưới; cái hình ảnh đối lập với hình ảnh trên đây, là hình ảnh một lão già điên lẩm cẩm, lố lăng, bị trẻ em chế giễu. Dẫu sao, do đức độ hay do sự đê tiện của họ, họ ở ngoài nhân loại. Vì vậy, người ta có thể không ngại ngần khước từ đối với họ những gì tối thiểu được coi là cần thiết cho một cuộc sống con người. Người ta đẩy xa sự loại thải này tới mức làm cho nó quay trở lại chống chính bản thân mình; người ta sẽ không công nhận bản thân mình trong hình ảnh ông già mà chính mình là ông già đó. Proust nhận xét một cách xác đáng: “Trong mọi hiện thực, (tuổi già) có lẽ là hiện thực mà chúng ta giữ lại một khái niệm thuần túy trừu tượng lâu bền nhất trong đời”. Tất thảy mọi người đều khả tử: họ nghĩ tới điều đó. Nhiều người trong số họ trở thành người già: hầu như không một ai hình dung trước sự biến đổi ấy. Người ta không chờ đón, không dự kiến một cái gì khác ngoài tuổi già. Khi được hỏi về tương lai của họ, thanh niên, nhất là nữ thanh niên, cho đời mình kéo dài nhiều nhất đến tuổi 60. Một số cô gái bảo: “Em không chờ đến ngày ấy, em sẽ ra đi trước đó”. Và thậm chí, một vài cô nói: “Em sẽ tự sát trước ngày ấy”. Người trưởng thành hành động như thế không bao giờ phải trở thành người già. Thông thường, người lao động kinh hoàng khi điểm giờ nghỉ hưu: thời hạn nghỉ hưu vốn đã được ấn định trước, người đó biết thời hạn ấy, nhẽ ra họ phải chuẩn bị sẵn. Sự thật là sự hiểu biết ấy vẫn xa lạ đối với họ cho tới giây phút cuối cùng - trừ phi nó thực sự mang tính chất chính trị. Đến ngày đó, và khi đã bước tới gần, thông thường, người ta thích tuổi già hơn là cái chết. Tuy vậy, đứng cách xa, người ta xem xét cái chết sáng suốt hơn cả. Cái chết nằm trong phạm vi những khả năng trực tiếp của chúng ta, uy hiếp chúng ta ở mọi lứa tuổi; có lúc chúng ta suýt chết; thông thường, chúng ta sợ chết. Con người ta không trở nên già nua trong chốc lát; ở tuổi thanh niên hay lúc tráng niên, chúng ta không nghĩ là tuổi già tương lai đã tiềm ẩn trong con người mình như Thích Ca: tuổi già ấy cách xa chúng ta tới mức khoảng cách ấy lẫn lộn trước mắt mình với sự vĩnh hằng: tương lai đối với chúng ta như thể phi hiện thực. Vả lại, cái chết không là gì cả; người ta có thể cảm thấy một nỗi bàng hoàng siêu hình trước cái hư vô ấy, nhưng bằng một cách nào đó, nó làm người ta yên lòng, nó không đặt thành vấn đề. “Ta sẽ không còn nữa”. : ta giữ hình tích của mình trong sự tiêu vong ấy[5]. Ở tuổi 20, hay 40, tôi nghĩ mình già, tức là nghĩ mình là người khác. Trong mọi sự biến đổi, đều có một cái gì đó khủng khiếp. Ở tuổi ấu thơ, tôi bàng hoàng, và thậm chí kinh hoàng khi hiểu ra sẽ có ngày mình sẽ trở thành người lớn. Nhưng ý muốn mình vẫn là bản thân mình, thường được bù đắp ở buổi thiếu thời bởi những lợi thế của quy chế người trưởng thành. Còn tuổi già thì xuất hiện như một nỗi bất hạnh: ngay cả ở những người mà người ta cho là vẫn giữ được vẻ quắc thước, sự suy sụp về thể chất mà tuổi già kéo theo cũng vẫn lồ lộ trước mắt. Vì ở loài người, sự đổi thay do năm tháng là nổi bật nhất. Loài vật thì gầy đi, yếu đi, nhưng không biến đổi. Còn con người thì có. Người ta se lòng khi nhìn thấy bên cạnh một thiếu phụ trẻ, phảng phất trong gương hình ảnh chính mình những năm tháng sau này: tức là mẹ mình. Theo Lévi-Strauss, người Da đỏ Namblikwara chỉ có một từ để nói “trẻ và đẹp” và một từ để nói “già và xấu”. Trước hình ảnh người già gợi ý với chúng ta về tương lai của mình, chúng ta không tin; một tiếng nói nội tâm thầm thì một cách phi lý với chúng ta rằng điều đó sẽ không đến với mình: sẽ không còn là chúng ta nữa khi điều đó xảy tới. Trước khi nó ập xuống chúng ta, tuổi già là cái chỉ liên quan tới ngườl khác. Vì vậy, có thể hiểu vì sao xã hội có thể khiến chúng ta không coi người già là đồng loại của mình. Thôi, chúng ta đừng tự lừa dối mình nữa; ý nghĩa cuộc sống chúng ta nằm trong tương lai đang đón đợi mình; chúng ta không biết mình là ai, nếu không muốn biết mình sẽ là người thế nào: chúng ta hãy tự nhận biết mình ở ông lão kia, ở bà già nọ. Cần phải như vậy nếu chúng ta muốn đảm nhận thân phận con người của mình một cách trọn vẹn. Chỉ có như vậy, chúng ta mới không còn chấp nhận một cách thờ ơ nỗi bất hạnh của lứa tuổi cuối cùng, chúng ta sẽ cảm thấy mình ở trong cuộc: và quả chúng ta ở trong cuộc. Nỗi bất hạnh ấy tố cáo một cách vang dội chế độ bóc lột chúng ta đang sống. Người ta không thể tự mình thỏa mãn nhu cầu của mình, bao giờ cũng bị coi là một gánh nặng. Nhưng trong những tập thể có một sự bình đẳng nào đó - trong lòng một cộng đồng nông thôn, ở một số dân tộc nguyên thủy - người đứng tuổi, tuy không muốn biết, vẫn biết ngày mai thân phận của mình sẽ là thân phận mà ngày hôm nay người đó quy cho người già. Đấy là ý nghĩa truyện cổ tích của Grim, được thuật lại ở mọi miền thôn dã. Một gã nông dân bắt người cha già ăn riêng, trong một cái máng gỗ nhỏ; hắn bất chợt thấy đứa con trai đang ghép những miếng ván. Nó bảo ông bố: “Cho bố đấy, khi bố về già”. Thế là ông già lại ngồi vào bàn ăn cùng cả nhà. Trước lợi ích lâu dài và lợi ích trước mắt, các thành viên còn hoạt động trong tập thể sáng tạo nên những sự thỏa hiệp. Tình trạng cấp bách của nhu cầu buộc một số người nguyên thủy giết chết bố mẹ, dù về sau, có phải chịu một số phận như thế. Trong những trường hợp ít căng thẳng hơn, sự phòng xa và tình cảm gia đình chế ngự tính ích kỷ. Trong thế giới tư bản, lợi ích dài hơn không còn tác dụng: những kẻ có đặc quyền và quyết định số phận của đám đông không sợ phải nếm trải số phận ấy. Còn những tình cảm nhân văn chủ nghĩa thì không bao giờ can thiệp tới, mặc dù những lời huyênh hoang dối trá. Cơ sở của nền kinh tế là lợi nhuận; trên thực tiễn, toàn bộ nền văn minh phụ thuộc vào nó: người ta chỉ quan tâm tới tập thể người trong một doanh nghiệp trong chừng mực tập thể ấy có lợi. Sau đó, họ bị vứt bỏ. Tại một hội nghị gần đây, tiến sĩ Leach, nhà nhân chủng học ở Cambritgiơ tuyên bố: “Trong một thế giới đang chuyển động, trong đó máy móc có những cuộc đời rất ngắn ngủi, con người không nên phục vụ quá lâu. Tất cả những gì vượt qua 55 năm tuổi đều phải loại bỏ”[6]. Cái từ “đồ bỏ đi” nói đúng điều nó muốn nói. Người ta kể lể với chúng ta rằng nghỉ hưu là thời gian của tự do và giải trí; có những nhà thơ ca ngợi “lạc thú nghỉ ngơi”. Đó là những lời dối trá vô liêm sỉ. Xã hội áp đặt cho số đông người già mức sống khốn khổ tới mức từ ngữ “già nua và đói nghèo” trở thành hầu như một từ thừa (pléonasme); ngược lại, số đông người bần cùng là người già. Nhàn rỗi không mở ra cho người nghỉ hưu những khả năng mới; vào lúc cá nhân, đến phút cuối cùng, được giải thoát khỏi những sự ràng buộc, người ta tước đoạt của họ mọi phương tiện sử dụng quyền tự do. Họ buộc phải sống lay lắt trong cô đơn và phiền muộn, như một vật phế thải không hơn không kém. Khi trong mười lăm hay hai mươi năm cuối đời, một con người chỉ còn là một vật chẳng ai đoái hoài, thì đó là sự thất bại của nền văn minh chúng ta: sự thật hiển nhiên ấy khiến chúng ta nghẹn ngào nếu chúng ta coi người già là những con người từng có một cuộc sống con người phía sau họ, chứ không phải là những xác chết dật dờ. Những ai tố cáo cái chế độ đọa đày vốn là chế độ chúng ta, phải đưa điều điếm nhục ấy ra ánh sáng. Chính bằng cách tập trung nỗ lực của mình vào thân phận những người xấu số nhất, người ta có thể làm lay chuyển một xã hội. Để phá hủy hệ thống đẳng cấp, Gandhi tìm cách giải quyết thân phận tầng lớp Tiện dân (parias); nhằm tiêu hủy gia đình phong kiến, nước Trung Hoa cộng sản giải phóng phụ nữ. Đòi hỏi con người cứ phải là con người ở lứa tuổi cuối cùng của họ bao hàm một sự đảo lộn triệt dể. Không thể thu được kết quả ấy với một vài cải cách hạn hẹp không đụng chạm tới hệ thống: chính nạn bóc lột người lao động, chính quá trình phân hủy xã hội và sự khốn cùng của một nền văn hóa chỉ dành riêng cho tầng lớp quan lại, dẫn tới những cảnh già nua phi-nhân văn ấy. Chúng chỉ ra rằng cần làm lại tất cả, từ đầu. Chính vì vậy, vấn đề này bị nhấn chìm trong im lặng hết sức kỹ lưỡng; và chính vì vậy, cần phá tan sự im lặng ấy: tôi mong đợi độc giả giúp đỡ tôi trong công việc này.   Mời các bạn đón đọc Tuổi Già Tập 1 của tác giả Simone de Beauvoir.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Bắt Sóng Cảm Xúc: Bí Mật Lực Hấp Dẫn - Ori Brafman & Rom Brafman
Là cuốn cẩm nang gợi mở những ý tưởng mới nhất về hình thái giao tiếp giữa con người với nhau, "Bắt Sóng Cảm Xúc" còn là một chuyến đi thú vị khám phá cách bạn hòa nhịp với thế giới quan xung quanh mình, làm thay đổi  cách nghĩ của bạn trong những khoảnh khắc khi bạn rơi vào vùng cảm xúc đặc biệt và mọi thứ dường như đã được đặt vào vĩ đạo. Đến từ hai tác giả nổi tiếng của cuốn Sway ( Lối Mòn Của Tư Duy Cảm Tính)," Bắt Sóng Cảm Xúc" là cuộc khám phá tâm lý thú vị về những động lực và cảm xúc khiến chúng ta như bị hút vào những con người nhất định và đôi bên trở thành thân thiết với nhau trong các hoạt động hoặc các tình huống có liên quan. Nếu việc bắt sóng cảm xúc mang đến những điều kỳ diệu đến vậy, thì liệu chúng ta có thể tạo ra mối gắn kết đặc biệt đó trong một cuộc hẹn hò hoặc công việc hay không? Vì sao ngay lập tức chúng ta cảm mến người này mà không phải là người khác? Có cách nào để tạo nên những trải nghiệm đặc biệt như vậy không? Theo Ori và Rom Brafman, tất cả những câu hỏi trên đều có câu trả lời. *** Bạn nên đọc cuốn sách thú vị “Bắt sóng cảm xúc” của hai tác giả Ori Brafman và Rom Brafman, nếu muốn tìm hiểu sâu hơn nguyên nhân tại sao chúng ta lập tức có thiện cảm với người này chứ không phải người kia, hay muốn biết thêm về những tác nhân thúc đẩy mối quan hệ đó. Là cuốn cẩm nang gợi mở những ý tưởng mới nhất về hình thái giao tiếp giữa con người với nhau, “Bắt sóng cảm xúc” còn là một chuyến đi thú vị khám phá cách bạn hòa nhịp với thế giới quan xung quanh mình, làm thay đổi cách nghĩ của bạn trong những khoảnh khắc khi bạn rơi vào vùng cảm xúc đặc biệt và mọi thứ dường như đã được đặt vào quỹ đạo. Wayne Hurlbert - Blog Business World *** ORI BRAFMAN là nhà tư vấn tổ chức kinh doanh. ROM BRAFMAN là chuyên gia tâm lý với kinh nghiệm làm việc ở Pablo Alto, California. Hai anh em họ là đồng tác giả cuốn Sway (Lối mòn của tư duy cảm tính) – cuốn sách bán chạy do New York Times bình chọn. Họ cũng là đồng sáng lập tổ chức Global Peace với mục tiêu kêu gọi các nhà lãnh đạo, quản lý nỗ lực giải quyết vấn đề xung đột và phát triển kinh tế tại châu Phi và Trung Đông.   Mời các bạn đón đọc Bắt Sóng Cảm Xúc: Bí Mật Lực Hấp Dẫn của tác giả Ori Brafman & Rom Brafman.
6 Món Quà Của Mẹ - Hama Mineko
Trong cuộc sống không phải lúc nào mẹ cũng bên bạn để lo cho bạn mọi thứ. Khi bạn xa nhà, bất kể vì lý do gì thì cũng là lúc bạn phải sống tự lập, bạn phải tự lo cho cuộc sống của mình, và điều đó cũng đồng nghĩa rằng mẹ không thể ở bên bạn được nữa. Lúc này, bạn có cảm thấy cuộc sống của mình sẽ gặp nhiều trắc trở , việc sắp xếp đồ đạc, giao tiếp với mọi người, cách ứng xử trong các đám hiếu hỉ, các bước chuẩn bị khi có thiên tai xảy ra... quả là không đơn giản như bạn nghĩ. Bao nhiêu chuyện phải lo trong khi bạn chỉ có một mình. 6 món quà của mẹ của tác giả Hâm Mineko là món quà tràn đầy tình cảm yêu thương của mẹ dành cho con cái, đó là kết quả của tình yêu thương biến thành hành động của một bà mẹ Nhật Bản với cô con gái của mình. Bằng sự trải nghiệm với tư cách là một cựu nhà báo của tờ Town of Kobe và đã có nhiều năm sinh sống và làm việc ở nước ngoài, tác giả Hâm Mineko đã đưa đến cho người đọc sự cảm thông và hiểu biết sâu sắc của mình với những tình huống cụ thể mà các bạn trẻ hay gặp phairkhi mới bắt đầu sống tự lập. Cuốn sách bao gồm các phần sau: Phần một là thủ tục cần thiết khi ra sống tự lập. Phần hai và phần ba nêu cao tinh thần cảnh giác để bảo vệ bản thân khi gặp tai nạn, sự cố bất ngờ hay khi xảy ra thiên tai. Đây không chỉ là chú ý dành cho những học sinh, sinh viên khi sống xa gia đình mà còn dành cho tất cả những ai đang sống một mình, đặc biệt những người già và phụ nữ. Phần bốn là phương pháp ứng xử khi tham gia dự các buổi phỏng vấn xin việc hay khi bắt đầu đi làm. Phần năm là phần sử dụng album để lưu giữ mối quan hệ gia đình. Phần sáu là phần mà các bậc phụ huynh cùng con cái suy nghĩ về phương châm sống, tầm quan trọng của ước mơ và tính tự lập. Trong cuộc sống hằng ngày, những sự cố hay khó khăn có thể xảy ra bất cứ lúc nào, vì thế đây chính là lúc chúng ta hãy cùng đọc cuốn sách này để suy ngẫm và thực hành. *** Chuẩn bị chuyển nhà là việc cần thiết khi bạn quyết định đi học đại học hay đi làm xa nhà. Tuy nói là sống một mình, đồ đạc ít nhưng vẫn có rất nhiều công việc phải làm như chọn công ty vận chuyển, sắp xếp đồ đạc, chuẩn bị giấy tờ, thủ tục hành chính, gửi thiệp chào hỏi, thăm hỏi láng giềng. Do vậy, có lẽ bạn sẽ lúng túng không biết nên bắt đầu từ đâu. Sau 11 lần chuyển nhà, tôi đã rút ra kinh nghiệm sau: 1. CÁC BƯỚC CHUẨN BỊ TRƯỚC KHI CHUYỂN NHÀ * Chọn địa điểm trọ Đối với những người sống ngoài ký túc xá của trường hay ngoài khu tập thể của công ty, việc quan trọng đầu tiên là bạn cần chọn được địa điểm trọ an toàn. (Tham khảo trong phần Cách phòng chống tội phạm) * Xem xét khối lượng đồ đạc cần chuyển Nếu không xem xét khối lượng đồ đạc cần chuyển thì báo giá vận chuyển sẽ cao. Nếu bạn quyết định được số lượng đồ cần chuyển thì bạn có thể đàm phán với công ty vận chuyển để được hưởng mức giá rẻ hơn. Ngoài ra, khi mua đồ điện tử mới, bạn nên mua ở các cửa hàng gần nơi ở mới để tiết kiệm được tiền vận chuyển. Mời các bạn đón đọc 6 Món Quà Của Mẹ của tác giả Hama Mineko.
Sức Mạnh Bí Ẩn 11 Câu Thần Chú - Kevin Hall
Tôi gặp Kevin Hall lần đầu tiên cách đây hai mươi năm khi anh đang quản lý bộ phận bán hàng và đào tạo tại Franklin Quest. Anh đã mời tôi phát biểu tại hội nghị thường niên của công ty về các nguyên tắc giao tiếp và sự thấu cảm. Vào thời điểm ấy, anh đã thể hiện rất rõ niềm đam mê đối với các nguyên tắc bất biến và anh khao khát được giúp đỡ người khác tìm thấy con đường và mục đích sống. Kevin còn là huấn luyện viên của đội bóng đá mà cô cháu gái Lauren của tôi tham gia, nên tôi có thể tận mắt chứng kiến khả năng của anh trong việc khích lệ các vận động viên trẻ đạt được những mục tiêu mà nhiều người trong số đó chưa từng dám mơ đến. Anh quan tâm đến sự thành công trong đời sống cá nhân của các vận động viên như chính thành tích của họ trong lĩnh vực thể thao. Tôi còn nhớ trong một dịp đặc biệt, chúng tôi tổ chức một buổi định hướng phát triển cá nhân tại nhà cho các thành viên trong đội, Kevin đã mời một số diễn giả đến “thổi hồn” vào giấc mơ và khát vọng của bọn trẻ. Art Berg, một trong số những diễn giả đó, đã chia sẻ một thông điệp mạnh mẽ mà bạn sẽ tìm thấy ở Chương 7 cuốn sách này. Nhiều nguyên tắc được giảng dạy trong đêm hôm đó vẫn còn vang vọng trong tôi cho đến tận ngày nay. Theo thời gian, Covey Leadership Center đã sáp nhập với Franklin Quest để hình thành nên FranklinCovey. Trước khi sáp nhập, Kevin đã rời khỏi Franklin Quest để theo đuổi giấc mơ thành lập một tổ chức chuyên nghiên cứu về ý nghĩa tiềm ẩn và bí mật của ngôn từ, cũng như mối quan hệ của chúng đối với sự phát triển cá nhân. Từ đó, chúng tôi thường xuyên gặp nhau trong các buổi hội thảo và cùng hợp tác với các nhóm điều hành để nâng cao hiệu quả lãnh đạo. Giống như cách tôi đặt nền móng cho sự phát triển con người cách đây hai mươi năm thông qua việc khám phá những thói quen giúp tạo nên một cuộc sống hiệu quả và có ý nghĩa, Kevin cũng đang thực hiện một việc tương tự bằng cách khám phá ra mục đích và ý nghĩa thật sự của ngôn ngữ trong việc hình thành nên những thói quen đó. Tôi đã thảo luận với Kevin về cuốn sách này suốt bốn năm qua và tin rằng đây sẽ là một cẩm nang tuyệt vời để đạt đến một cuộc sống trọn vẹn và chính trực. Mỗi chương đều chứa đựng những nguyên tắc bất biến mà Kevin gọi là “những bí mật”. Ví dụ trong Chương 1, bạn sẽ khám phá ra một từ bí mật - GENSHAI. Đó là một từ cổ có nguồn gốc Ấn Độ mà bản thân tôi nhận thấy có một sức mạnh tiềm ẩn đáng kinh ngạc. Chỉ riêng việc khám phá ra từ này, và học cách đi sâu vào sức mạnh tột cùng của nó, cũng đủ để bạn dành thời gian cho cuốn sách. Khi tìm hiểu về hành trình khám phá những ngôn từ bí mật của Kevin, bạn sẽ sớm nhận ra được sức mạnh trong cuộc hành trình quả cảm của chính mình. Bóc vỏ củ hành Việc hiểu được ý nghĩa đích thực của một từ đồng thời nhận ra chiều sâu và bản chất thực sự của nó sẽ tạo nên sức mạnh vô cùng to lớn. Bằng cách lần lượt phá vỡ từng lớp vỏ bọc của ngôn từ, khám phá ý nghĩa thuần khiết và nguồn gốc ban đầu của chúng, ta sẽ thắp lên một ánh sáng mới cho ngôn từ, mà phần lớn trong số đó vẫn thường được sử dụng trong cuộc sống của chúng ta. Ví dụ, tôi luôn hướng dẫn mọi người rằng yếu tố cần thiết trước tiên của một nhà lãnh đạo là phải truyền cảm hứng cho người khác. Khi bạn nhận ra rằng “truyền cảm hứng” có nghĩa là truyền hơi thở vào giấc mơ của người khác, và “kết thúc” có nghĩa là ngừng thở, thì những từ ngữ này sẽ tạo nên sức sống của riêng nó. Bằng việc học cách sử dụng những từ ngữ tạo cảm hứng, bạn có thể giúp người khác đạt được giấc mơ của họ. Ngược lại, với những từ ngữ mang nghĩa kết thúc, bạn sẽ dập tắt hy vọng và ước mơ của mọi người. Một ví dụ khác là “cơ hội”. Tôi tin rằng những người thành đạt không suy nghĩ về khó khăn mà thay vào đó, họ hướng đến cơ hội. Nguồn gốc của từ cơ hội (opportunity) là port (cổng), có nghĩa là đường dẫn nước vào thành phố hoặc địa điểm kinh doanh. Thời xưa, mỗi khi thủy triều dâng, cánh cổng này sẽ được mở ra để mọi người ra vào buôn bán, thăm viếng, hoặc trong thời chiến là để xâm lăng và chinh phạt lẫn nhau. Tuy nhiên, chỉ những người có hiểu biết về điều này mới có thể tận dụng hết lợi thế của nó, mới tận dụng được cơ hội. Tôi mong rằng bạn sẽ nắm bắt trọn vẹn cơ hội mà cuốn sách quý giá này mang đến để làm cho cuộc sống của mình phong phú hơn. Bên cạnh những từ ngữ được sử dụng trong giao tiếp hàng ngày, cuốn sách này còn chứa đựng những từ ngữ sâu sắc, độc đáo từ các nền văn hóa khác nhau. Ví dụ, “Ollin” là một từ sâu sắc của người Aztec. Nó mô tả những biến cố lớn như động đất hay một cơn gió lốc làm rung chuyển trái đất. Ollin có nghĩa là di chuyển hoặc hành động với tất cả trái tim mình. Để trải nghiệm từ Ollin, bạn phải “cống hiến hết mình” (“All in”). Những từ ngữ mang tính toàn cầu này có thể gắn kết mọi người khắp thế giới bằng một ngôn ngữ chung. Tìm kiếm hạnh phúc của bản thân Càng nắm rõ ngôn từ và các lớp ý nghĩa của nó, bạn càng hiểu được con đường và mục đích của mình. Nhà thần thoại học vĩ đại Joseph Campbell đã đưa ra cụm từ “Hãy nghe theo niềm hạnh phúc của mình”. Ngôn từ chính là những dấu hiệu chỉ đường để đưa bạn đến với niềm hạnh phúc đó. Khi được kết hợp với những hành động mà chúng truyền cảm hứng, ngôn từ sẽ giúp bạn trở thành một nhà lãnh đạo tài giỏi hơn, một người vợ - người chồng tốt hơn, một bậc phụ huynh hiểu con cái hơn, một người bán hàng nhạy bén hơn, một vận động viên khéo léo hơn… và danh sách này sẽ kéo dài đến vô tận. Sức mạnh của ngôn từ sẽ tạo ra của cải, sức khỏe, năng suất, kỷ luật, tinh thần, và vô số đặc điểm đáng khao khát của con người. Bố cục của cuốn sách Cuốn sách được chia thành 11 chương với 11 từ cốt lõi, và bạn có thể đọc đi đọc lại nhiều lần để trau dồi quá trình thay đổi hành vi lâu dài. Mô hình và bố cục của các chương phản ánh nền tảng kiến thức và kinh nghiệm của tác giả trong quá trình đào tạo và phát triển con người suốt hai mươi lăm năm qua. Năm chương đầu sẽ bàn về quá trình phát triển cá nhân – cách sử dụng sức mạnh bí ẩn của ngôn từ để tìm thấy con đường và mục đích của riêng bạn. Chương giữa có vai trò độc lập bởi đó là chủ đề trọng tâm của toàn bộ cuốn sách. Từ cốt lõi của nó là “humility”, tức sự khiêm tốn, một đặc điểm có sức ảnh hưởng mạnh mẽ mà tôi xem như “khởi nguồn của mọi đức hạnh” vì nó là yếu tố mấu chốt cho quá trình phát triển và hoàn thiện không ngừng. Năm chương cuối bàn về việc dẫn dắt người khác, bao gồm ngôn ngữ về vai trò lãnh đạo: nó không nói về bạn, nó nói về người khác. Giống như sự vận hành của bánh xe, các chương này phản ánh phạm vi ảnh hưởng của bạn được mở rộng từ trục bên trong, sau đó lan rộng ra để chi phối sự chuyển động của toàn bộ bánh xe. Chương cuối cùng – “Integrity” – có nghĩa là toàn vẹn hoặc hoàn chỉnh – sẽ hoàn thiện toàn bộ bánh xe phát triển này. Bạn có thể dễ dàng đọc hết cuốn sách này chỉ trong một lần. Bạn cũng có thể chọn riêng bất cứ chương nào bạn cho là phù hợp với mình và chậm rãi khám phá chiều sâu của nó một cách độc lập. Dù bằng cách nào thì cuốn sách vẫn sẽ tiết lộ những điểm mấu chốt giúp bạn khám phá ra tiềm năng thật sự ẩn bên trong con người bạn. Dù mục tiêu, niềm đam mê và niềm tin của bạn là gì, tôi tin rằng Aspire sẽ tạo ra sức mạnh giúp bạn thắp sáng con đường đạt đến khát vọng và phát triển bản thân. Tôi khuyên bạn nên cầm theo một cây bút khi đọc cuốn sách này. Tôi biết mình cũng sẽ làm như vậy. - Stephen R. Covey *** Lời khen tặng dành cho “Sức mạnh bí ẩn 11 câu thần chú”: “Aspire là một trong những cuốn sách vĩ đại thực sự làm thay đổi cuộc đời tôi. Kevin Hall có thể xứng ngang tầm với Og Mandino và Napoleon Hill.” ~Bob Proctor, tác giả cuốn You Were Born Rich “Cuốn sách này không chỉ đơn thuần khám phá sức mạnh của ngôn từ mà còn giúp ta đạt đến một cuộc sống trọn vẹn. Những tiết lộ trong cuốn Aspire là công cụ cần thiết cho mỗi bước ngoặt của cuộc đời.” ~Gail Sheehy, tác giả cuốn Passages và Passages in Caregiving “Với khả năng khám phá tiềm năng con người, Kevin là một trường hợp hiếm hoi và vô cùng quý giá. Trong cuốn Aspire, anh đã tiết lộ một hệ phương pháp hoàn toàn mới cho quá trình trưởng thành và phát triển cá nhân với khả năng làm thay đổi cuộc sống.” ~Norman E. Brinker, sáng lập viên kiêm chủ tịch của Emerius, Brinker International *** Thông tin về tác giả “Sức mạnh bí ẩn 11 câu thần chú”: Kevin Hall là cố vấn kinh doanh, diễn giả và chuyên gia đào tạo nổi tiếng. Ông từng làm việc tại Franklin Quest; và với tư cách phó giám đốc phụ trách bán hàng và đào tạo, ông đã tạo ra nguồn động lực cho quá trình phát triển toàn cầu của Công ty Franklin. Ông được mọi người công nhận về phương pháp nền tảng để khám phá ra ý nghĩa tiềm ẩn và bí mật của ngôn từ. Kevin còn nổi tiếng với khẩu hiệu “Hãy thắp sáng ngọn lửa bên trong” cho Thế vận hội mùa đông năm 2002. Ông cũng xuất hiện trên các tạp chí danh tiếng như Forbes, Worth, Nation’s Restaurant News, Restaurant Business, và Food Network. Kevin cùng vợ Sherry có sáu người con và các cháu thân yêu. Ông thích đạp xe, chạy bộ, câu cá, nấu ăn và đọc sách. “Kevin Hall đã chứng tỏ được sức mạnh đáng kinh ngạc của ngôn từ – những công cụ mà ta có thể sử dụng để định hình suy nghĩ và niềm tin của mình – nhằm giúp ta thay đổi và tạo ra những điều tốt đẹp hơn cho chính mình cũng như thế giới xung quanh.” ~Spencer Johnson, M.D., tác giả cuốn Who Moved My Cheese.   Mời các bạn đón đọc Sức Mạnh Bí Ẩn 11 Câu Thần Chú của tác giả Kevin Hall.
Sống Mạnh Mẽ - Stephen R. Covey
Những Câu Chuyện Mang Đến Cho Bạn Niềm Cảm Hứng Và Hy Vọng (Sống Mạnh Mẽ là phiên bản mới của quyển sách Cảm Hứng Sống Theo 7 Thói Quen Thành Đạt với những câu chuyện được chọn lọc lại kỹ càng giúp bạn dễ đọc, dễ hiểu và dễ áp dụng vào cuộc sống hơn). Sống Mạnh Mẽ là một bộ sưu tập những câu chuyện có thật, sống động và đầy cảm hứng do chính những người trong cuộc kể lại. Đó là những con người, những mảnh đời khác nhau đã vươn lên mạnh mẽ khi phải đối mặt với những thách thức to lớn trong công việc, học tập, gia đình, cuộc sống và với cả chính bản thân họ. Một người vợ phải chịu đựng nỗi đau mất chồng khi đang hạnh phúc với một cuộc sống gia đình ấm êm, rồi từ trong tăm tối của cuộc đời, cô đã vươn lên để sống một cuộc sống ý nghĩa trọn vẹn với các con, với người thân yêu của cô. Một cặp vợ chồng đã hàn gắn lại tình cảm ở tuổi xế chiều, rồi thổi bùng lên ngọn lửa tình yêu tưởng như đã tắt ngúm trong hơn 30 năm chung sống, minh chứng cho việc không bao giờ là quá trễ cho một sự thay đổi. Một người chồng bất cẩn cướp cò trong lúc lau súng, đã bắn chết người vợ thân yêu và đứa con chưa kịp chào đời của mình chỉ trong một đêm. Hơn 3 năm sống trong đau đớn và tuyệt vọng, cuối cùng anh đã thức tỉnh, tha thứ cho bản thân và cống hiến một cuộc sống ý nghĩa cho cộng đồng. … và rất nhiều câu chuyện khác nữa đang đợi bạn khám phá. Những câu chuyện đời thật đó đã minh chứng cho sức sống mãnh liệt của con người, "chỉ cần có niềm tin và ý chí, không có gì là không thể!". Cho dù bạn là ai, làm gì và ở đâu, bạn cũng sẽ thấy cuộc đời của mình thấp thoáng qua từng câu chuyện. Thật vậy, quyển sách giống như viết ra để dành cho bạn, giúp bạn sống tốt hơn, mạnh mẽ hơn. Từ đó, giúp bạn nâng cao chất lượng cuộc sống để đạt được hạnh phúc và thành công. Chính những câu chuyện đời thật này sẽ chỉ cho bạn thấy: Cách thức đổi mới, tìm kiếm sự cân bằng và thanh bình trong cuộc sống; Cách thức nuôi dạy con nhỏ; Cách nâng cao chất lượng cuộc sống gia đình; Cách giúp đỡ người thân và bạn bè có một cuộc sống tốt đẹp hơn; Cách tăng năng suất làm việc cá nhân và tập thể tại công sở… Bạn sẽ đọc đi đọc lại quyển sách thú vị này với sự ngạc nhiên và khâm phục dành cho những nhân vật "sống" trong những câu chuyện. Cho dù bạn đang ở giai đoạn nào trong cuộc sống, một khi bạn áp dụng những bài học được chia sẻ trong quyển sách, bạn sẽ gặt hái được những thành quả mong muốn. TGM Corporation xin trân trọng giới thiệu với bạn quyển sách Sống Mạnh Mẽ - Những câu chuyện mang đến cho bạn niềm cảm hứng và hy vọng của tác giả Stephen R. Covey - một nhà lãnh đạo, chuyên gia tư vấn doanh nghiệp, tâm lý, hôn nhân gia đình… uy tín trên thế giới - được bình chọn là một trong 25 người Mỹ có ảnh hưởng nhất thế kỷ XX. Ông đã cống hiến cả cuộc đời mình để giúp hàng triệu người thấy được những ước mơ, chân lý sống của họ, và giúp cho nhiều thế hệ con người nhận ra sức mạnh nội tại của bản thân, để từ đó có khả năng điều khiển vận mệnh và cuộc sống của mình. Sống Mạnh Mẽ là một quá trình đổi mới trong tinh thần lẫn thể chất mà bạn cần có. Hãy cùng đọc và cảm nhận, nhưng quan trọng nhất, HÃY LỰA CHỌN SỐNG VỚI NHỮNG GÌ ĐƯỢC CHIA SẺ trong quyển sách, bạn sẽ không bao giờ phải hối tiếc! ... *** 7 THÓI QUEN Thói quen 1: Chủ động Chủ động không chỉ có nghĩa là đi bước đầu tiên. Đó là nhận lãnh trách nhiệm về hành vi của mình (trong quá khứ, hiện tại và tương lai) và có sự lựa chọn dựa trên những nguyên tắc và giá trị, hơn là cảm xúc và hoàn cảnh nhất thời. Người chủ động đại diện cho sự thay đổi, họ lựa chọn không trở thành nạn nhân, hoặc ở vào thế thụ động hoặc đổ lỗi cho người khác. Họ làm điều đó bằng cách phát triển và sử dụng bốn khả năng thiên phú của con người, đó là: nhận thức bản thân, lương tâm, trí tưởng tượng và ý chí độc lập, theo cách tiếp cận từ trong ra ngoài để tạo sự thay đổi. Họ quyết định trở thành nguồn lực sáng tạo trong chính cuộc đời mình, đó là quyết định quan trọng nhất mà một người có thể đưa ra. Thói quen 2: Bắt đầu bằng cái kết trong tâm trí Tất cả mọi thứ đều được sáng tạo hai lần – lần đầu tiên bằng tinh thần và lần thứ hai bằng vật chất. Các cá nhân, gia đình, tập thể và tổ chức định hình tương lai của mình bằng cách tạo ra một tầm nhìn và mục đích cho bất kỳ công việc nào. Họ không sống ngày qua ngày mà không có mục tiêu rõ ràng. Họ xác định và cam kết với các nguyên tắc, giá trị, các mối quan hệ, và những mục tiêu quan trọng nhất đối với họ. Tuyên ngôn sứ mệnh là hình thức cao nhất của lần sáng tạo bằng tinh thần của một cá nhân, gia đình hoặc tổ chức. Đó là quyết định quan trọng nhất vì nó chi phối tất cả những quyết định khác. Tạo ra nền văn hóa đằng sau một sứ mệnh, tầm nhìn và những giá trị chung chính là cốt lõi của sự lãnh đạo. Thói quen 3: Ưu tiên cho điều quan trọng nhất Ưu tiên cho điều quan trọng nhất là lần sáng tạo thứ hai hoặc sáng tạo bằng vật chất. Đây là lúc bạn tổ chức và hành động xung quanh việc sáng tạo tinh thần (mục đích, tầm nhìn, giá trị và những ưu tiên quan trọng nhất của bạn). Những việc thứ yếu không được đến trước. Những việc chính yếu không bị xếp lại phía sau. Các cá nhân và tổ chức tập trung vào những gì quan trọng nhất, bất kể nó có khẩn cấp hay không. Điều quan trọng nhất là giữ cho những việc quan trọng nằm ở vị trí quan trọng. Thói quen 4: Tư duy cùng thắng Tư duy cùng thắng là khi khối óc và con tim tìm kiếm lợi ích chung dựa trên sự tôn trọng lẫn nhau trong mọi tương tác. Đây chính là suy nghĩ về sự dồi dào của những cơ hội, của cải và nguồn lực cho tất cả mọi người, chứ không phải sự khan hiếm và cạnh tranh một mất một còn. Đây không phải là kiểu suy nghĩ ích kỷ (thắng-thua) hoặc nhượng bộ (thua-thắng). Trong công việc và cuộc sống gia đình, các thành viên suy nghĩ một cách tương thuộc – theo nghĩa “chúng ta” chứ không phải “tôi”. Tư duy cùng thắng thúc đẩy việc giải quyết mâu thuẫn và giúp các cá nhân tìm kiếm giải pháp đem lại lợi ích chung. Đó là sự chia sẻ thông tin, quyền lực, sự công nhận và phần thưởng. Thói quen 5: Lắng nghe để được thấu hiểu Khi chúng ta lắng nghe với ý muốn thấu hiểu người khác, chứ không phải để đối đáp, thì đó là khi chúng ta bắt đầu một cuộc giao tiếp thật sự và gầy dựng mối quan hệ. Khi người khác cảm thấy mình được thấu hiểu, họ sẽ cảm thấy được ủng hộ và tôn trọng, hàng rào phòng thủ được hạ xuống, cơ hội nói chuyện cởi mở và thấu hiểu lẫn nhau sẽ đến một cách tự nhiên và dễ dàng hơn. Muốn thấu hiểu người khác cần sự tử tế, muốn được người khác thấu hiểu cần sự can đảm. Tính hiệu quả nằm trong sự cân bằng giữa hai vế đó. Thói quen 6: Đồng tâm hiệp lực Đồng tâm hiệp lực nghĩa là tạo ra giải pháp thứ ba – không phải cách của tôi, không phải cách của bạn, mà là cách thứ ba tốt hơn cách mà mỗi người có thể tự nghĩ ra. Đó là kết quả của sự tôn trọng lẫn nhau, thấu hiểu và thậm chí tôn trọng sự khác biệt của người khác trong giải quyết vấn đề, và nắm bắt cơ hội. Những tập thể và gia đình đồng tâm hiệp lực phát triển mạnh mẽ dựa trên sức mạnh của từng cá nhân, khiến cho sức mạnh tổng thể mạnh hơn từng phần cộng lại. Những đội nhóm và các mối quan hệ kiểu này phản đối sự cạnh tranh thù địch (1+1 = ½). Họ không chấp nhận sự thỏa hiệp (1+1 = 1 ½) hoặc thậm chí cộng tác thuần túy (1+1 = 2). Họ tiến đến sự hợp tác sáng tạo (1+1 = 3, hoặc hơn). Thói quen 7: Không ngừng rèn luyện Không ngừng rèn luyện là việc liên tục đổi mới bản thân trên bốn lĩnh vực cơ bản của đời sống: thể chất, xã hội/tình cảm, tinh thần và tâm hồn. Đó chính là thói quen giúp chúng ta tăng khả năng áp dụng những thói quen hiệu quả khác. Đối với một tổ chức, Thói quen 7 nâng cao tầm nhìn, đổi mới, sự cải thiện liên tục, tránh tình trạng quá tải, kiệt quệ và đặt doanh nghiệp vào một lộ trình phát triển mới. Đối với gia đình, nó tăng cường tính hiệu quả trong những hoạt động thường lệ giữa các cá nhân, ví dụ như việc thiết lập truyền thống nuôi dưỡng sự đổi mới trong gia đình. Tài khoản tình cảm Tài khoản tình cảm là lối nói ẩn dụ về sự tin tưởng trong một mối quan hệ. Giống như tài khoản trong ngân hàng, nó là một khoản mà chúng ta có thể gửi vào và rút ra. Những hành động như nỗ lực thấu hiểu người khác, thể hiện sự quan tâm, giữ đúng lời hứa, tôn trọng người vắng mặt... gia tăng mức độ tin tưởng trong các mối quan hệ, được gọi là ký gửi vào tài khoản tình cảm. Trong khi đó, những biểu hiện thiếu thiện chí, không giữ lời, nói xấu người vắng mặt... làm giảm lòng tin trong các mối quan hệ, được gọi là rút ra khỏi tài khoản tình cảm. Nhận thức Nhận thức là cách thức mỗi người nhìn nhận thế giới, không nhất thiết phải đúng như trong thực tế. Nó là tấm bản đồ, không phải là lãnh thổ. Nó là lăng kính, qua đó chúng ta nhìn nhận mọi thứ, được định hình trong quá trình trưởng thành cùng những kinh nghiệm tích lũy theo năm tháng và những lựa chọn của chúng ta. ... Mời các bạn đón đọc Sống Mạnh Mẽ của tác giả Stephen R. Covey.