Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Hoàng Đình (Thân Vẫn Chỉ Tiêm)

Trong cõi đất trời bao la vô tận này, có nhiều người dành cả đời mình tìm tòi, khám phá những mong lý giải được hết thảy những điều họ có thể nhận biết, đồng thời ước vọng rằng thông qua đó họ có thể khám phá ra sự huyền bí của đất trời. Song, tuyệt đại đa số người trong số đó cho dù đã dùng cạn sinh lực của mình cũng chỉ có thể kéo dài được thêm mấy trăm năm tuổi thọ, có thể vận dụng một số quy luật thần diệu của đất trời, còn cái cụm từ 'thọ cùng trời đất' chẳng qua chỉ là trăng trong đáy nước mà thôi.

Lại có rất nhiều người suốt đời đều dồn vào việc lý giải những người và sự việc xung quanh mình, mong sao có thể tìm thấy sự siêu thoát trong tâm hồn, vậy mà cuối cùng lại được vinh danh là bậc thánh hiền của thế gian.

Bất kể là loại người nào đi chăng nữa, nếu như đem so với cả thiên địa cũng đều chỉ như muối bỏ biển, dẫu cho những người đó có dâng nên sóng cả bão bùng, nhưng chỉ chớp mắt một cái thôi rồi họ cũng sẽ lại im lìm tĩnh mịch mà hòa mình vào cõi hư vô.

Ở nơi đất trời kỳ lạ này có đủ loại sinh linh, khi ngược dòng thời gian tìm về thời điểm thiên địa còn đang diễn hóa thì có thể thấy mỗi loại sinh linh đó có khi cũng đã từng trải qua một thời quá khứ huy hoàng. Những sự việc và người trong quá khứ kia đã dần mai một theo sự xói mòn của dòng thời gian, nhưng cũng có một vài câu chuyện và con người trong số đó lại trở thành truyền thuyết, thần thoại.

Khi những truyền thuyết mà chúng sinh lưu truyền được tập hợp lại ở một nơi, nó sẽ hóa thành cơn sóng triều lịch sử của thiên địa, bao la và mạnh mẽ. Tìm mua: Hoàng Đình TiKi Lazada Shopee

Nếu như trên chín tầng trời có Thiên đình thống ngự các đấng tiên thần trong thiên hạ, trong Thiên đình lại có một tấm gương lớn soi rọi khắp nơi trên thế gian thì trong gương sẽ hiện lên hình ảnh vô số sinh linh trong thiên địa không ngừng bước tới đi lui, đó là hình ảnh của bọn họ kể từ khi sinh ra cho tới khi mất đi, kể từ khi còn phàm tục cho tới khi vang danh khắp sơn hà. Nếu thật sự nhìn kỹ thì có lẽ sẽ phát hiện rằng trong số những sinh linh hỗn loạn kia có một ông lão đi khắp thiên địa, dấu chân lão lưu lại khắp nơi, bất kể cho đó là danh sơn đại trạch hay là nơi tà địa hung sát.

Bỗng một ngày, ở phía sau ông lão có thêm một đứa trẻ. Nó đi theo sau lão, dần dần trưởng thành, cuối cùng hai người dừng chân trong một tòa thành rồi chia tay. Ông lão vẫn như trước kia, một thân một mình đi tới khắp nơi trong thiên địa như đang mải mê tìm kiếm thứ gì. Còn đứa trẻ đã trưởng thành kia tựa như giọt nước đã hòa mình vào sông lớn, có lẽ, đôi khi có sóng gió bão bùng nổi lên trong dòng lịch sử cũng chính là do một giọt nước ấy tạo thành...***

Đôi lời từ nhóm dịch:

Tác giả Thân Vẫn Chỉ Tiêm có lẽ không còn xa lạ với các đồng đạo chuyên "cày" convert qua những bộ truyện Tiên hiệp cổ điển mang hơi hướng mông lung, mờ ảo xen lẫn chút bi thương và bí ẩn như Nhân Đạo Kỷ Nguyên, Bạch Cốt Đạo Cung, Chúng Diệu Chi Môn v.v... Hoàng Đình cũng không ngoài số đó, nó như một chốn tĩnh lặng để ta chiêm nghiệm về cái tình, hòa mình vào thiên địa.***

Tháng chạp cuối đông, tuyết bay đầy trời.

Tuyết lớn đã phủ trùm lên cả một dải Thiên La dài hơn trăm dặm, cây lớn bị tuyết đọng gãy cành, suối đóng thành băng. Núi Thiên La là tên gọi chung cho một vùng núi non lớn nhỏ hơn ngàn ngọn như sao giăng, ngọn trung tâm là nơi Thiên La môn tu hành huyền môn đại đạo. Tính trong toàn bộ thiên địa, Thiên La Môn là một môn phái nhỏ, nhưng trong phương viên ngàn dặm thì đây là môn phái hàng đầu, đã có lịch sử hơn ba trăm năm.

Lúc lập phái, Thiên La tổ sư đã lấy kiếm dẹp yên yêu linh khắp núi, chấn nhiếp ngàn dặm, được tôn làm Thiên La Tiên Quân. Nhưng bởi tiên đạo khó cầu, tuy pháp lực cao cường, đạo hạnh cao thâm nhưng cuối cùng Thiên La Tiên Quân vẫn không thoát khỏi luân hồi. Ông đã tọa hóa trong núi từ trăm năm trước.

Hơn trăm năm trôi qua, Thiên La Môn không những không còn uy thế như hồi Thiên La Tiên Quân còn sống, mà ngay cả sự trầm tĩnh an tâm tu đạo, một lòng cầu trường sinh cũng gần như đã mất.

Cuối đông giá lạnh, vào lúc nửa đêm.

Vài tia sáng yếu ớt chiếu qua khe cửa Tàng Kinh các, nơi trọng địa Thiên La Môn, lộ rõ vẻ cô tịch trong trời tuyết yên tĩnh lạnh lẽo này.

Từ cửa các đi vào, bên phải là một cái bàn gỗ dài cũ kỹ, giữa bàn có một ngọn đèn xám, bên cạnh ngọn đèn là một thanh trường kiếm vỏ gỗ bình thường đặt nằm ngang. Một thanh niên đang cúi đầu chăm chú đọc một quyển sách lụa.

Dưới ánh đèn yếu ớt có thể thấy được trong phòng này ngoại trừ mấy hàng giá sách và sách thì chỉ có một bàn, một ghế dựa, một đèn, một người, toát ra cảm giác cô tịch lạnh lẽo.

Chỉ có người của Thiên La môn mới biết, trông coi Tàng Kinh các là một việc cực kỳ kham khổ và buồn chán, bởi vì sau khi nhận trách nhiệm sẽ không thể tự ý rời đi, dẫu ăn hay ngủ cũng đều ở trong Tàng Kinh các.

Người thanh niên này tên là Trần Cảnh, hắn gia nhập Thiên La môn đã được ba năm. Lúc hắn nhập môn cũng là lúc trời đông giá rét, tuyết lớn cũng bay đầy trời như bây giờ. Hắn được đệ tử duy nhất của chưởng môn tiền nhiệm là Diệp Thanh Tuyết đưa về núi Thiên La, sau đó được chưởng môn thu làm đệ tử. Tuy tính là đệ tử của chưởng môn nhưng lại chưa từng gặp mặt người, ngay cả phương pháp luyện khí của Thiên La môn cũng do sư tỷ Diệp Thanh Tuyết truyền thụ. Cho dù là như thế nhưng những đệ tử nhập môn lâu hơn cũng không có một ai khinh khi hay vô lễ với hắn.

Không thể ngờ rằng khi hắn vừa mới học được phương pháp luyện khí của Thiên La Môn thì môn chủ Thiên La môn là Đạo Trùng chân nhân lại đột nhiên tọa hóa. Hắn lập tức cảm nhận được sự biến hóa cực lớn trong thái độ của các đệ tử khác, vừa lúc Tàng Kinh Các thiếu một gã đệ tử trông coi, gã bèn xin nhận việc này, môn chủ đương nhiệm Giang Lưu Vân cũng chỉ động viên vài câu rồi chấp nhận. Hắn thủ hộ nơi này đã gần ba năm rồi.

"Cốc cốc cốc..."

Tiếng gõ cửa với nhịp điệu không nhanh không chậm vang lên. Nó thể hiện sự trầm ổn của người gõ cửa, không nóng vội, không gấp gáp.

Trần Cảnh khẽ cau mày, nhẹ nhàng cầm thanh kiếm dựng vào góc khuất của chân bàn. Hắn không lập tức đứng dậy mà mở miệng hỏi:

- Ai đó?

- Trần Cảnh sư đệ, là ta, Huyền Đồng đây.

Từ ngoài cửa truyền vào một giọng nói điềm đạm. Giọng cũng như tên, rất điềm đạm.

- A, Huyền Đồng sư huynh đó ư!?

Trần Cảnh đáp rồi đứng dậy đi ra mở cửa.

Đứng ngoài cửa là một công tử mặc áo gấm, nhác trông ấm áp như ngọc. Hắn tên Tôn Huyền Đồng, là đệ tử thân truyền thứ ba của môn chủ đương nhiệm Giang Lưu Vân. Chỉ là bây giờ đã vào dịp cuối năm, đệ tử đại gia tộc như y đáng lẽ là đã sớm về nhà, sao lại tìm đến mình lúc đêm hôm khuya khoắt?! Trần Cảnh lấy làm khó hiểu nhưng vẫn mỉm cười đón Tôn Huyền Đồng vào bên trong, hắn đi phía sau Tôn Huyền Đồng, vừa đi vừa nói:

- Sư đệ lo việc trà nước đang không ở đây, trong phòng không trà, mong sư huynh thứ lỗi.

- Ha ha, không sao, sư đệ trông coi Kinh các đúng là khổ cực, đợi lúc ta trở lại sẽ kêu người đưa trà ngon tới, mong sư đệ đừng cự tuyệt.

Tôn Huyền Đồng chắp tay đứng, y liếc mắt nhìn quanh Tàng Kinh các rồi nói một cách ôn hòa. Từ thái độ nói chuyện của y có thể thấy hiển nhiên lời nói của y có trọng lượng trong nhà, chiêu thi ân thi huệ này dùng cực kỳ tự nhiên.

Trần Cảnh cười nói:

- Đa tạ sư huynh quan tâm.

- Ha ha, sư đệ khách sáo rồi, nói ra thì có rất nhiều sư huynh đệ ước ao công việc của sư đệ đấy.

Trần Cảnh chỉ cười cười chứ không nói gì.

Tôn Huyền Đồng nói thêm:

- Không ai quản thúc, lại có thể thoải mái đọc kinh thư trong các, tuy cuộc sống vắng lặng nhưng với những người tu hành như bọn ta mà nói thì đó không hẳn là một chuyện không tốt.

- Ha ha, sư huynh nói giỡn rồi, huynh là đệ tử thân truyền của môn chủ tất rõ hơn đệ chuyện tu hành pháp thuật không cần đa mà cần tinh. Nếu tâm cảnh không đủ, đọc càng nhiều pháp chú, càng nhiều kinh thư lại càng vô ích.

Hắn dừng một chút rồi hỏi:

- Không biết có chuyện gì mà sư huynh tới muộn như thế?

Trần Cảnh đi vòng qua người Tôn Huyền Đồng tới cạnh chiếc ghế ngồi lúc trước.

- Sư đệ nói rất đúng, pháp thuật cần tinh mà không cần đa. Ài, chỉ là một tiểu muội trong nhà gần đây say mê pháp thuật, tháng trước ta về nhà bị nó bám riết nên đành đáp ứng lúc hạ sơn sẽ mang về một quyển pháp chú cho nó mượn. Ha ha, sư đệ yên tâm, chỉ mượn ba tháng là trả, không biết sư đệ có thể giúp đỡ một chút được không?

Lời nói thái độ của Tôn Huyền Đồng vẫn ôn hòa, miệng mỉm cười, mắt nhìn thẳng vào mắt Trần Cảnh.

Trần Cảnh khẽ giật mình, thầm nghĩ: "Với thân phận của y thì nếu xin linh phù mượn sách tuyệt không khó, sao lại phải đêm hôm khuya khoắt tới tìm ta cơ chứ?"

Trong lòng nghĩ vậy, hắn tỏ vẻ khó xử nói:

- Sư huynh, có lẽ huynh không biết, lúc đệ nhận trông coi Tàng Kinh các đã được chưởng môn nhắc nhở, nếu tự ý cho mượn kinh thư đem ra ngoài mà bị phát hiện thì cả hai sẽ bị phế pháp lực, trục xuất khỏi sơn môn.

- Ha ha, sư đệ đừng lo, đệ không nói, huynh cũng không nói thì tự nhiên không ai biết, dù cho có người đã biết ta cũng có thể bảo hộ được cho sư đệ, sư đệ cứ yên tâm.

Tôn Huyền Đồng khẳng định xong, lập tức hiển lộ vẻ bề trên đảm đương trách nhiệm.

Đa số người tu hành trong Thiên La môn là đệ tử các danh môn phú quý trong các thành ở ngàn dặm xung quanh. Bọn họ không lấy đạo trường sinh làm mục tiêu mà chỉ muốn học pháp thuật hay rồi trở về trần thế hưởng phú quý.

Trần Cảnh mỉm cười, nghênh đón ánh mắt Tôn Huyền Đồng rồi nói:

- Sư huynh chớ trách, đó là chức trách của sư đệ, thực sự không thể đáp ứng.

- Tốt tốt...

Tôn Huyền Đồng khe khẽ vỗ tay, vừa cười nhẹ vừa nói:

- Sư đệ có trách nhiệm như vậy đích xác không sai. Nhưng mà, đệ với huynh đều là kẻ tu hành, không phải là những người chức tước trong thành trì ở nhân gian. Cái chúng ta tu chính là đạo, vậy cũng không nên tư duy bó buộc như đám Nho môn trần thế. Ha, đột nhiên mới nhớ, tháng trước về nhà phát hiện một chuyện hay, muốn kể cho sư đệ nghe một chút.

Trần Cảnh nhìn Tôn Huyền Đồng chắp tay thả bộ bước đứng ở cạnh cửa nhìn bầu trời, âm thầm cảnh giác nói:

- Thỉnh sư huynh dạy bảo.

- Tháng trước quay về Bá Lăng, ta ngẫu nhiên nghe được chuyện ba năm trước đây ở thành tây từng xảy ra một vụ án mạng.

Tôn Huyền Đồng quay đầu lại, vừa nói vừa nhìn Trần Cảnh.

Trần Cảnh thì hơi cúi đầu lắng nghe, dưới ánh đèn mờ không thể thấy rõ sắc mặt hắn.

Tôn Huyền Đồng tiếp tục:

- Một tú tài giết ba danh môn đệ tử nơi thanh lâu, việc này lúc đó chấn động toàn thành, đáng tiếc lúc đó ta ở trong núi, mãi ba năm sau mới biết được. Nói cũng khéo, kẻ sát nhân kia cũng tên là Trần Cảnh, y như sư đệ.

- Ha ha, thật là thú vị, không ngờ lại trùng tên trùng họ với đệ.

Trần Cảnh ngẩng đầu lên vẻ mặt tự nhiên nói:

- Chỉ là không biết ảnh của kẻ sát nhân giống đệ hay không?

Nơi hắn đứng chính chỗ mới vừa rồi ngồi đọc sách, cổ tay buông xuống vừa khéo được bàn che, nếu có người phía sau hắn thì có thể thấy ngón tay buông dưới mặt bàn đang như có như không đụng vào thanh trường kiếm dài ba thước trong bóng tối.

Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Hoàng Đình PDF của tác giả Thân Vẫn Chỉ Tiêm nếu chưa có điều kiện.

Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.

Nguồn: thuviensach.vn

Đọc Sách

Mồ Hôi Nước Mắt (Nguyễn Vỹ)
Ánh đang ủi đồ, một đống quần áo của người lớn lẫn trẻ con để bên cạnh. Lúc ông giáo sư Ngọc-Minh nắm bàn tay Ánh, Ánh khẽ hất ra. Ánh biết rằng ông Ngọc-Minh không toan tính điều gì bất lương. Nhưng một chút cử chỉ thân thiện đó cũng đã làm cho Ánh hoảng sợ rồi. Ánh vùng đứng dậy chạy xuống bếp. Ông Ngọc-Minh thong thả bước theo. Ánh ngồi trầm ngâm trên ngạch cửa không ngó ông, Ông Ngọc-Minh đứng trước mặt nàng. Ông thò tay vào túi áo lấy ra gói thuốc, đánh lửa châm một điếu hút, rồi nói với con ở: - Xin lỗi Ánh, lúc nãy tôi đã làm phiền lòng Ánh. Ánh cúi đầu làm thinh. Ông giáo sư nói tiếp: - Tôi rất mến Ánh. Tôi để ý đến Ánh lâu rồi, chắc Ánh cũng đã cảm thấy. Ngay từ ngày Ánh vô giúp việc trong nhà này, nghĩa là cách đây sáu tháng, tôi đã hiểu Ánh nên tôi yêu Ánh. Nhưng chỉ yêu âm thầm mà thôi. Nay nhân cơ hội gia đình đi vắng, tôi muốn thú thực với Ánh cảm tình thiết tha chân thật của tôi. Nếu Ánh tin tôi, tôi sẽ thuê phòng riêng để ở với Ánh. Tìm mua: Mồ Hôi Nước Mắt TiKi Lazada Shopee Con ở điềm nhiên không đáp, Ông Ngọc-Minh ngồi xuống ngạch cửa, gần Ánh. Ông âu yếm nhìn vào khuôn mặt hổng hào tuyệt đẹp, khẽ hỏi: - Ánh có yêu tôi không? Ánh ngẩng mặt lên, nghiêm nghị ngó ông: - Tôi không thể yêu ông được. - Tại sao không thể? - Tại hoàn cảnh. - Tôi không thấy hoàn cảnh nào cản trở tình yêu của tôi với Ánh. Ánh biết rằng tôi góa vợ đã hai năm nay và không có con? - Dạ tôi biết. - Vậy thì tôi được tự do yêu Ánh và lấy Ánh làm vợ, có gì ngăn cản đâu? - Ông được tự do, nhưng tôi không được tự do. - Nếu tôi không lầm thì Ánh chưa có chồng. - Dạ, tôi chưa có chồng. - Vậy sao Ánh nói là không tự do? Con ở làm thinh. Ông Ngọc-Minh hơi ngạc nhiên vì những câu trả lời cứng rắn của người tớ gái mười chín tuổi. Rất đẹp và rất hiền lành, thường ngày Ánh ít nói, Lần đầu tiên ông thấy Ánh có cử chỉ và ngôn ngữ khôn ngoan cương quyết không ngờ. Ông gặng hỏi: - Ánh! Tại sao Ánh không được yêu tôi? Hay là Ánh đã có người yêu rồi? Con ở vẫn nghiêm nét mặt: - Dạ không phải. - Thế thì tại sao? - Ông là người trí thức, chắc ông hiểu nhiều. - Tôi thực không hiểu. - Xin ông tha lỗi tôi phải đi ủi đồ khuya rồi, ông Năm bà Năm sắp về. - Hai em tôi dẫn các cháu đi xem xi-nê, 12 giờ khuya mới về. Nhưng Ánh không muốn nói chuyện nữa, Ánh đi thẳng lên phòng giữa, ngồi lặng lẽ tiếp tục ủi đồ, làm công việc bỏ dở ban nãy. Ông Ngọc-Minh đến ngồi cạnh Ánh: - Ánh à, tôi muốn biết tại sao Ánh không được tự do yêu tôi, trong lúc tôi thiết tha yêu Ánh? - Thưa ông, tôi chỉ là đứa đầy tớ, tôi đâu có quyền được yêu một người ở giai cấp giàu sang, một bậc trí thức thượng lưu. - Tôi không cần giai cấp. Tôi không phân biệt giai cấp. Tôi chỉ biết Ánh là một thiếu nữ như tất cả các thiếu nữ khác. Ánh lại có tư cách đứng đắn, ngôn ngữ đoan trang, nết na hiền lành, và Ánh có đi học, đã ở Đệ-Tứ. Ánh có học thức, chỉ tại vì số phận quá hẩm hiu cực khổ nên Ánh phải đi ở mướn tạm một thời gian thôi. Tôi biết rõ hoàn cảnh của Ánh lắm chớ! Ánh ngạc nhiên: - Tại sao ông biết? Tháng bảy vừa rồi, bà cô của Ánh đến thăm Ánh, trong lúc Ánh đi chợ, Ánh có nhớ không? Nhân vui miệng với em tôi, bà đã kể hết chuyện của Ánh cho em tôi nghe. Ngồi ở pbòng khách tôi được nghe rõ cả. Do đó, tôi được biết rằng ba má của Ánh là người lao động ở một ngõ hẻm xóm An-Bình. Hồi nhỏ Ánh đi học đã được thầy thương bạn mến, vì Ánh học giỏi và hạnh kiểm tốt nhất trong lớp, Ánh đã đỗ bằng tiểu học và học đến lớp Đệ-Tứ thì ba của Ánh chết vì tai nạn lao động trong xưởng máy. Ánh phải thôi học, kiếm việc làm ở đâu cũng chưa được nên phải ở nhà giúp đỡ mẹ. Sau, Ánh đi bán hàng ở cầu Muối. Mẹ Ánh thì làm công trong một hãng thuốc lá. Rồi hai năm sau mẹ Ánh tái giá, gặp phải người chồng lưu manh, chỉ cờ bạc rượu chè, và giao du với bọn đàng điếm. Nhiều lần cha ghẻ bắt ép Ánh đi làm nghề mãi dâm do y kiếm mối. Ánh cự tuyệt và hai lần phải bỏ nhà trốn đi đến nhà bà cô. Ánh muốn học đánh máy chữ để dễ kiếm việc làm, nhưng không có tiền. Ánh phải gánh nước thuê ở xóm Bàn-Cờ. Rồi có lần Ánh nhớ mẹ, về thăm mẹ thì mẹ Ánh đi vắng, người cha ghẻ khốn nạn lại ép buộc Ánh làm nghề mãi dâm. Ánh cương quyết không chịu liền bị y đánh đập tàn-nhẫn đến đỗi lổ đầu sưng mặt. Người cha ghẻ vũ phu, vô lương tâm, đạp Ánh té nhào xuống cạnh chum nước, Ánh nằm bất tỉnh, tưởng như chết rồi. May nhờ hai bà hàng xóm kêu xe chở Ánh vào nhà thương. Ở bệnh-viện ra, Ánh không về nhà cha ghẻ nữa, trốn đến nhà bà cô ở ngõ hẻm Bàn-Cờ. Từ đó Ánh đi ở mướn để kiếm tiền độ thân. Ánh xem, tôi biết rõ hoàn cảnh rất đau khổ của Ánh như thế đấy. Vì lẽ đó mà tôi đem lòng thương Ánh và yêu Ánh. Ánh ngồi ủi đồ, hai dòng nước mắt lặng lẽ trào ra trên đôi má hồng, âm thầm rơi xuống áo. Ông Ngọc-Minh khẽ hỏi: - Những điều bà cô của Ánh kể lại như thế có đúng không, Ánh? Ánh ngưng bàn ủi, gục đầu vào tường, khóc nức nở. Ông giáo sư bảo: - Ánh à, với tôi Ánh không phải một kẻ ty tiện đâu. Tôi coi Ánh như một người bạn gái đau khổ, vì nghèo, phải, chỉ vì NGHÈO, mà chịu cảnh lầm than cực nhọc! Tôi không có quan niệm giai cấp. Tôi chỉ có quan niệm LÀM NGƯỜI. Cho nên tôi thành thật đem lòng yêu Ánh, và tôi muốn giúp đỡ Ánh tìm hạnh phúc mà mọi người đều có quyền được hưởng, mọi người đều phải có, không phân biệt ở từng lớp nào, không chia ranh giới một giai cấp nào. Ánh có tin lời nói của tôi không? Ánh càng khóc, nước mắt càng chảy ràn rụa. Ông Ngọc-Minh xúc động, âu yếm hỏi: - Ánh à, nếu tôi thành thật muốn cưới Ánh, thì Ánh nghĩ sao? Ông Ngọc-Minh hỏi đi hỏi lại ba lần, Ánh chỉ khóc mà không trả lời. Ông hỏi nữa, Ánh lau nước mắt, khẽ nói: - Thưa ông, ông có lòng tốt nói vậy, nhưng tôi đâu dám nhận. - Tại sao? - Tại vì tôi là một đứa ở. Tôi là hạng người hèn hạ như ông thấy. - Tôi đã nói với Ánh rằng tôi không nghĩ như thói thường nhiều người đã nghĩ. Quả thật trong xã hội có những thành kiến giai cấp quá vô lý, nhưng tôi sẽ tỏ cho mọi người thấy rằng, không giai cấp nghèo và giàu, không có giai cấp tư bản và vô sản, mà chỉ có giai cấp lương thiện và bất lương, chỉ có giai cấp quân-tử và tiểu-nhân, chỉ có giai cấp cao thượng và đê tiện, chỉ có giai cấp ở phẩm giá của con người mà thôi. Trước mắt tôi, một thiếu nữ nghèo nàn mà tính tình cao đẹp như Ánh, có tư cách đứng đắn, đoan trang như Ánh, là đáng quí, đáng trọng hơn một tiểu thơ khuê các ở nhà cao cửa rộng, đi xe hơi Mỹ, mà tính tình bất hảo, tư cách đê tiện, phẩm giá hèn hạ. Tôi đánh giá trị con người không phải với những hào nháng bề ngoài của vật chất, mà với giá trị tinh thần và đạo đức. - Thưa ông, ông nói thế chớ làm sao xóa bỏ những thành kiến giai cấp cho được? Tôi đã nói, tôi không được tự do, bởi tôi bị ràng buộc trong thành kiến giai cấp. Tôi ít học, tôi chỉ thấy thực tế đời người trong xã-hội, cho nên tôi đâu đám mơ tưởng đến danh vọng-cao xa. - Nhưng tôi yêu Ánh, tôi muốn chánh thức cưới Ánh làm vợ, tức là tôi muốn phá tan những thành kiến bất công. - Tôi xin lỗi ông, dù ông thực lòng thương tôi chăng nữa, tôi cũng xin thành thật cảm ơn tấm lòng quá tốt của ông, nhưng thật tình tôi không dám nhận. Bởi lẽ gia đình của ông và xã hội thượng lưu của ông, vẫn khinh bỉ tôi, vì họ chỉ thấy tôi là một đứa đầy tớ, con gái của một người cu-li đi làm thuê ở mướn. Thưa ông, tôi hiểu như thế cho nên tôi phải giữ giá trị của tôi. Thà rằng tôi cam phận tôi đòi, một ngày kia tôi có lấy người chồng cu-li chăng nữa, cũng không ai khinh tôi được. Tôi tuy là ít học nhưng tôi cũng biết gìn giữ danh giá của một người con gái. Tôi vẫn thường nghe người ta nói rằng tình yêu không có giai cấp, nhưng tôi phải tự biết thân phận tôi ở một địa vị hèn hạ, thấp kém mọi bề, tôi đâu có tham vọng lớn lao. - Nhưng một khi tôi yêu Ánh, thì Ánh có quyền yêu tôi chớ, Ánh có quyền tỏ cho mọi người thấy rằng một cô gái nghèo cũng có thể là một người vợ tốt, một người mẹ hiền, một phụ nữ xứng đáng trong xã hội… Tôi đã nói những ý nghĩ của tôi cho Ánh nghe, tôi mong Ánh suy nghĩ, và hiểu lòng tôi. Tôi mong Ánh sẽ đồng ý với tôi, và Ánh đừng tưởng rằng tôi muốn ve vãn Ánh để làm trò chơi, hoặc lừa gạt Ánh như một kẻ trưởng giả bất lương. Không phải vậy đâu Ánh à. Tôi thật lòng yêu Ánh và muốn lấy Ánh làm vợ, công khai trước gia đình và xã hội. Thôi tôi lên lầu… Ánh suy nghĩ, và mai mốt Ánh trả lời cho tôi biết nhé. Tôi tha thiết chờ đợi câu trả lời của Ánh. Ông Ngọc-Minh chúc Ánh ngủ ngon đêm nay, rồi ông thong thả bước lên lầu, Ánh điềm nhiên ngồi ủi đồ. Một đống áo quần của gia đình bà Năm, Ánh giặt từ lúc sáng sớm, phơi cả ngày, rồi bắt đầu ủi từ lúc chín giờ tối, sau khi dọn rửa chén bát, đến bây giờ mới gần hết. Đồng hồ treo trên tường điềm mười một tiếng đã lâu. Một cây đèn nê-ông gắn trên trần nhà chiếu một ánh sáng xanh dịu xuống căn phòng khá rộng, nơi đây dựng một tủ lạnh, một tủ chứa đồ vặt, và một bao gạo, một xe mô-tô, một bàn máy may, một tủ đựng đồ chơi cho hai đứa con của ông Năm, bà Năm, là em rể và em gái của ông giáo sư Ngọc-Minh. Ông Năm làm chủ sự trong một văn phòng Bộ trưởng với ông giáo Minh đều là công chức vào hàng thượng lưu và trung lưu, bậc « ông » chớ không phải là bậc « thầy » theo thủ tục giai cấp ở miền Nam. Đây là căn nhà giữa, thông qua phòng ăn và phòng khách ở phía trước và nhà bếp ở phía sau. Nơi đây, con ở thường ủi đồ hoặc may vá, làm các việc lặt vặt. Vợ chồng bà Năm kêu con ở bằng « nó », gọi nó là « Con Ánh ». Hai đứa con bà gọi bằng « Chị Ánh ». Riêng ông Ngọc-Minh thì gọi thân mật bằng tên: « Ánh ». Phòng ngủ của Ánh ở kế bếp, có cửa nhưng chật, vừa đủ kê một chõng tre, một bàn con và treo một ngọn đèn mười lăm nến mù mờ, Ánh tuy là đứa đầy tớ đi ở mướn cho gia đình bà Năm mỗi tháng sáu trăm đồng bạc lương, nhưng với tuổi mười chín, Ánh có thân hình nở nang tuyệt đẹp và sạch sẽ, lễ phép, nhu mì. Ông Ngọc-Minh góa vợ đã cảm mến Ánh và yêu Ánh thành thật, hay là chỉ mê sắc đẹp « con nhỏ ở » rồi tìm cách lợi dụng, quyến rũ nó, như trăm nghìn ông chủ nhà khác đã tư tình với con ở, lừa gạt lấy con ở cho có chửa rồi tống cổ nó ra khỏi nhà? Ông giáo sư Ngọc-Minh có thật yêu Ánh hay không, chỉ có lương tâm ông biết mà thôi. Nhưng có điều chắc chắn là làm vinh dự cho ông, là ông không bao giờ khinh khi người nghèo. Thật sự, ông không hề có thành kiến giai cấp và giả sử ông có thật lòng yêu Ánh thì chắc vi hoàn cảnh xót xa đau khổ của Ánh, vì tư cách đứng đắn của Ánh, chứ không phải hoàn toàn vì nhan sắc diễm kiều của cô gái đang tuổi dậy thì. Ông đã lén lút nhiều lần tìm cơ hội để chuyện trò với con ở. Nhưng không có dịp nào ông được toại nguyện cả, vì Ánh cứ tìm cách thối thoát và trốn tránh ông hoài. Ánh không tàn nhẫn đâu, trái lại Ánh rất lễ phép, dịu dàng nhưng Ánh cũng rất cương quyết và khéo léo chối từ. Đã nhiều lần ông muốn tặng Ánh một vài món tiền khi hai trăm đồng khi năm trăm đồng, nhưng không lần nào Ánh nhận. Ánh nhã nhặn cảm ơn ông mà không bao giờ Ánh cầm lấy những tờ giấy bạc mới tinh của ông âu yếm trao tặng Ánh. Một hôm đầu tháng lương ông Ngọc-Minh có mua một chiếc đồng hồ đeo tay của phụ nữ đáng giá gần ba ngàn đồng. Thừa lúc cơm trưa xong, vợ chồng ông chủ sự đã lên lầu, ông Ngọc-Minh lén xuống bếp đưa cho con ở và nói thầm với nó: - Tôi tặng Ánh chiếc đồng hồ này làm kỷ niệm. Nhưng Ánh khẽ bảo: - Thưa ông, ông thật có lòng cao quí, tôi xin đa tạ ơn ông. Nhưng tôi không dám nhận. - Tại sao Ánh không nhận? Tôi thành thật tặng Ánh đây mà. - Dạ, xin cám ơn ông. Nhưng tôi ít có dịp dùng đến đồng hồ. - Tôi đã mua nó để tặng Ánh, có hóa đơn để tên của Ánh đấy. Ánh nhận món quà kỷ niệm nầy cho tôi vui lòng. - Dạ thưa ông, tôi không dám. Nhưng tôi rất cảm ơn lòng tốt của ông. Ánh đi rửa chén bát. Ông Ngọc-Minh khẽ nắm lấy cánh tay con ở, cánh tay trắng nõn nà, xinh xắn làm sao! Nhưng Ánh nghiêm nghị ngó ông: - Thưa ông, xin ông buông cháu ra!Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Mồ Hôi Nước Mắt PDF của tác giả Nguyễn Vỹ nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Mây Mùa Thu (Duyên Anh)
Duyên Anh tên thật là Vũ Mộng Long, những bút hiệu khác là Thương Sinh, Mõ Báo, Thập Nguyên, Vạn Tóc Mai, Lệnh Hồ Xung, Thái Anh, Nã Cẩu, Bếp Nhỏ, Bếp Phụ và Độc Ngữ. Ông sinh ngày 16 tháng 8 năm 1935 tại làng Tường An, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình. Ông học tiểu học và trung học ở Thái Bình và Hà Nội. Năm 1954, ông di cư vào Nam và từng làm đủ nghề: bán thuốc sơn đông mãi võ, theo đoàn cải lương lưu diễn, quảng cáo cho gánh xiếc rong, giữ xe đạp hội chợ, dạy kèm, dạy đàn ghi ta, dạy sáo. Năm 1960, được sự nâng đỡ tận tình của nhà văn Nguyễn Mạnh Côn, Duyên Anh bắt đầu sự nghiệp văn chương và nổi tiếng ngay với tác phẩm đầu tay Hoa Thiên Lý. Tiếp theo đó là một loạt Thằng Côn, Thằng Vũ, Con Thúy. viết về những kỷ niệm ấu thơ tại miền quê Bắc Việt, giọng văn tha thiết, nhẹ nhàng và tình cảm. Sau đó ông trở thành một ký giả, chủ bút, chủ báo, giám đốc nhà xuất bản. Duyên Anh đã cộng tác với hầu hết những tờ báo lớn ở miền Nam trước năm 1975 như: Xây dựng, Sống, Chính Luận, Công Luận, Con Ong, Tuổi Ngọc... Có một dạo, Duyên Anh thường viết về giới giang hồ, bụi đời trong xã hội trước năm 1975. Trong tác phẩm của Duyên Anh ca ngợi lối sống phóng khoáng, bất cần đời của giới trẻ bị bế tắc trong cuộc sống. Tuy nhiên vẫn thấm đậm một tính cách nghĩa khí và các nhân vật của Duyên Anh đều sẵn sàng chết vì tình nghĩa và chữ tín của mình. Ngoài ra, ông cũng viết nhiều truyện ngắn và truyện dài cho thiếu nhi. Tìm mua: Mây Mùa Thu TiKi Lazada Shopee Sau sự kiện 30 tháng 4 năm 1975, cùng với Doãn Quốc Sĩ, Dương Nghiễm Mậu, Nhã Ca, Phan Nhật Nam, Thanh Tâm Tuyền, Duyên Anh bị liệt danh là một trong 10 nghệ sĩ nêu danh là "Những Tên Biệt Kích của Chủ nghĩa Thực Dân Mới Trên Mặt Trận Văn Hóa - Tư Tưởng" và tác phẩm bị cấm lưu hành. Ngày 8 tháng 4 năm 1976, Duyên Anh bị bắt đi tù cải tạo trong Chiến dịch bắt văn nghệ sĩ miền Nam (tháng 4 năm 1976). Sau khi ra khỏi trại cải tạo vào tháng 11 năm 1981 ông vượt biên đến Malaysia. Tháng 10 năm 1983 Duyên Anh sang định cư tại Pháp. Một số tác phẩm ông viết ở Hải ngoại được dịch ra tiếng nước ngoài và dựng thành phim, như Đồi FanTa, Một Người Nga ở Sài Gòn. Thời gian này, ông cũng có viết thơ và soạn nhạc. Năm 1985, ông bắt đầu cộng tác với tờ Ngày Nay và trở thành một trong những cây bút trụ cột của báo này. Ngày 6 tháng 2 năm 1997, Duyên Anh mất vì bệnh xơ gan tại Paris, Pháp. Gần như có hai con người đối lập trong ông. Một Duyên Anh nhà văn có lối viết nhẹ nhàng, trong sáng, mơ mộng, đầy ấp tình người. Và một Duyên Anh nhà báo ngổ ngáo, tai tiếng, lắm kẻ thù với những bài viết sống sượng và cay độc. Ông được đánh giá là một nhà văn, nhà báo có chỗ đứng cao trong văn học nghệ thuật Việt Nam, sức sáng tạo dồi dào: 34 năm cầm bút với 101 tác phẩm.Dưới đây là những tác phẩm đã xuất bản của tác giả "Duyên Anh":Ảo Vọng Tuổi TrẻĐêm Thánh Vô CùngDzũng ĐakaoGiấc Mơ Một Loài CỏNhà TôiMây Mùa ThuTruyện Ngắn - Duyên AnhVết Thù Hằn Trên Lưng Ngựa HoangĐộc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Mây Mùa Thu PDF của tác giả Duyên Anh nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Mây Mùa Thu (Duyên Anh)
Duyên Anh tên thật là Vũ Mộng Long, những bút hiệu khác là Thương Sinh, Mõ Báo, Thập Nguyên, Vạn Tóc Mai, Lệnh Hồ Xung, Thái Anh, Nã Cẩu, Bếp Nhỏ, Bếp Phụ và Độc Ngữ. Ông sinh ngày 16 tháng 8 năm 1935 tại làng Tường An, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình. Ông học tiểu học và trung học ở Thái Bình và Hà Nội. Năm 1954, ông di cư vào Nam và từng làm đủ nghề: bán thuốc sơn đông mãi võ, theo đoàn cải lương lưu diễn, quảng cáo cho gánh xiếc rong, giữ xe đạp hội chợ, dạy kèm, dạy đàn ghi ta, dạy sáo. Năm 1960, được sự nâng đỡ tận tình của nhà văn Nguyễn Mạnh Côn, Duyên Anh bắt đầu sự nghiệp văn chương và nổi tiếng ngay với tác phẩm đầu tay Hoa Thiên Lý. Tiếp theo đó là một loạt Thằng Côn, Thằng Vũ, Con Thúy. viết về những kỷ niệm ấu thơ tại miền quê Bắc Việt, giọng văn tha thiết, nhẹ nhàng và tình cảm. Sau đó ông trở thành một ký giả, chủ bút, chủ báo, giám đốc nhà xuất bản. Duyên Anh đã cộng tác với hầu hết những tờ báo lớn ở miền Nam trước năm 1975 như: Xây dựng, Sống, Chính Luận, Công Luận, Con Ong, Tuổi Ngọc... Có một dạo, Duyên Anh thường viết về giới giang hồ, bụi đời trong xã hội trước năm 1975. Trong tác phẩm của Duyên Anh ca ngợi lối sống phóng khoáng, bất cần đời của giới trẻ bị bế tắc trong cuộc sống. Tuy nhiên vẫn thấm đậm một tính cách nghĩa khí và các nhân vật của Duyên Anh đều sẵn sàng chết vì tình nghĩa và chữ tín của mình. Ngoài ra, ông cũng viết nhiều truyện ngắn và truyện dài cho thiếu nhi. Tìm mua: Mây Mùa Thu TiKi Lazada Shopee Sau sự kiện 30 tháng 4 năm 1975, cùng với Doãn Quốc Sĩ, Dương Nghiễm Mậu, Nhã Ca, Phan Nhật Nam, Thanh Tâm Tuyền, Duyên Anh bị liệt danh là một trong 10 nghệ sĩ nêu danh là "Những Tên Biệt Kích của Chủ nghĩa Thực Dân Mới Trên Mặt Trận Văn Hóa - Tư Tưởng" và tác phẩm bị cấm lưu hành. Ngày 8 tháng 4 năm 1976, Duyên Anh bị bắt đi tù cải tạo trong Chiến dịch bắt văn nghệ sĩ miền Nam (tháng 4 năm 1976). Sau khi ra khỏi trại cải tạo vào tháng 11 năm 1981 ông vượt biên đến Malaysia. Tháng 10 năm 1983 Duyên Anh sang định cư tại Pháp. Một số tác phẩm ông viết ở Hải ngoại được dịch ra tiếng nước ngoài và dựng thành phim, như Đồi FanTa, Một Người Nga ở Sài Gòn. Thời gian này, ông cũng có viết thơ và soạn nhạc. Năm 1985, ông bắt đầu cộng tác với tờ Ngày Nay và trở thành một trong những cây bút trụ cột của báo này. Ngày 6 tháng 2 năm 1997, Duyên Anh mất vì bệnh xơ gan tại Paris, Pháp. Gần như có hai con người đối lập trong ông. Một Duyên Anh nhà văn có lối viết nhẹ nhàng, trong sáng, mơ mộng, đầy ấp tình người. Và một Duyên Anh nhà báo ngổ ngáo, tai tiếng, lắm kẻ thù với những bài viết sống sượng và cay độc. Ông được đánh giá là một nhà văn, nhà báo có chỗ đứng cao trong văn học nghệ thuật Việt Nam, sức sáng tạo dồi dào: 34 năm cầm bút với 101 tác phẩm.Dưới đây là những tác phẩm đã xuất bản của tác giả "Duyên Anh":Ảo Vọng Tuổi TrẻĐêm Thánh Vô CùngDzũng ĐakaoGiấc Mơ Một Loài CỏNhà TôiMây Mùa ThuTruyện Ngắn - Duyên AnhVết Thù Hằn Trên Lưng Ngựa HoangĐộc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Mây Mùa Thu PDF của tác giả Duyên Anh nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Mặt Trời Đêm (Lê Xuyên)
Lê Xuyên tên thật là Lê Bình Tăng, sanh ngày 1 tháng 11 năm 1927, tại Ô Môn, tỉnh Cần thơ; năm 1945 đã đậu DEPSI (Diplôme d’étude primaire superieure indochinoise). Từng hoạt động cho Đại Việt Quốc Dân Đảng. Ông vào nghề báo bằng sự giới thiệu của Vương Hữu Đức - Tổng Thư Ký tờ Sài Gòn Mai (1963) với trách nhiệm viết tiểu thuyết trường thiên. Trước đó ông chỉ làm thơ. Tác phẩm văn xuôi đầu tiên có tên “Chú Tư Cầu” xuất bản năm 1965 và lập tức được đón nhận nồng nhiệt đến độ từ đó người ta gọi ông với biệt danh thân thương là: “Chú Tư Cầu Lê Xuyên”. Tuy nhiên những tác phẩm đi sau cũng bán rất chạy như: Rặng Trâm Bầu, Vợ Thầy Hương (1965), Đêm Không Cùng (1966), Kinh Cầu Muống (1968), Vùng Bão Lửa (1969), Nguyệt Đồng Xoài (1970), v.v.Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Mặt Trời Đêm PDF của tác giả Lê Xuyên nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.