Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Là Tôi Đã Giết Cô Ấy

Vùng nông thôn yên bình, một cô gái bị bệnh tâm thần thắt cổ ở rừng đào. Trên cổ cô ấy có không biết bao nhiêu vết bóp cổ, trên người còn có dấu vết bị ngược đãi. Cảnh sát Lương Hi vừa từ thành phố đến vùng nông thôn này, cô cố chấp cho rằng không phải cô gái kia tự sát, quyết định vi phạm chỉ đạo của đồn trưởng mà điều tra vụ án này. Chồng của cô gái tâm thần là một người què, gã phủ nhận việc mình giết hại vợ, cũng nói cho Lương Hi một sự thật kinh người: Đứa bé trong bụng vợ không phải của gã. Lương Hi lần theo manh mối này mà tiếp tục điều tra, và rồi, cô biết được rất nhiều chuyện mà cô gái này không muốn người khác biết. Người chết hai mươi mốt tuổi, đã từng hoạt bát, rộng rãi, là người duy nhất có hy vọng thi đậu vào đại học trọng điểm của trường trung học trấn Lương Vân. Sau khi người chết bỏ học đã từng ở bệnh viện tâm thần hai tuần. Người chết và tên côn đồ trên đường có quan hệ mờ ám. Người chết có nghi vấn bị gã bán hàng rong xâm hại. Người chết có mâu thuẫn với chủ cửa tiệm băng đĩa trên đường. … Vì sao người chết lại bị mắc bệnh tâm thần? Và vì sao lại trở thành thi thể trong rừng đào bí ẩn kia? … Chân tướng về cô gái này dần được Lương Hi điều tra và vạch trần. … Tag: Tình yêu chốn nông thôn, huyền nghi trinh thám, trưởng thành, thời đại mới. Lập ý: Tự cứu vớt chính mình. *** Mùa hè nóng nực. Tào Quốc An đi một đôi sandal da màu nâu dơ bẩn, tay ông đang xách một chiếc túi ni lông màu đỏ đựng bánh bao thịt, ông loạng choạng đi đến cổng lớn của đồn cảnh sát. Ông liếc nhìn tấm biển của đồn cảnh sát, mấy chữ “xã Lục Trình” trông cực kỳ chướng mắt, không biết một nét trong chữ “đồn” đã bị tên nhóc nào lấy mất, chỉ còn lại một vết keo bẩn thỉu. Vừa nghĩ đến khoản phí “như trứng chọi đá” phải bỏ ra cho tấm biển tồi tàn này, ông đã cảm thấy đau răng, chắc là chẳng cần sửa lại làm gì, được ngày nào thì hay ngày đó vậy. Tào Quốc An tặc lưỡi, ông đẩy cánh cửa sắt loang lổ vết gỉ sét ra, xốc đôi sandal rồi đi về phía căn nhà gạch loang lổ màu xám trắng trước mắt. Ông đi một cách ung dung, ánh mắt quan sát mọi nơi một cách đầy ngẫu nhiên, đầu thuốc lá rơi trên mặt đất, vết bẩn trên tường, cỏ dại giữa các viên gạch, chiếc xe Santana màu đen mà đơn vị khác bỏ đi – cũng là chiếc xe mà Tào Quốc An tốn trăm cay nghìn đắng mới lấy được từ trong huyện về, tất cả đều đập vào trong mắt. Chớp mắt một cái mà ông đã đến nơi này bốn năm rồi, mới đầu ông còn tràn đầy nhiệt huyết mà chạy đến đây lập nên đồn cảnh sát xã Lục Trình, còn bây giờ thì không chỉ mỗi công việc rối tinh rối mù, mà cuộc sống cũng rối bời không thôi, Tào Quốc An nghĩ thôi mà đã thấy bực bội. Ông xoa xoa lồng ngực, chỗ hôm qua bị đánh hãy còn âm ỉ đau, nếu không phải là một cảnh sát, thì e là hôm qua Tào Quốc An đã đánh đồ chó đó một trận thật tàn nhẫn rồi. Tào Quốc An vừa âm thầm chửi bới vừa đi vào phòng làm việc. Phòng làm việc bố trí sáu chiếc bàn làm việc đối diện nhau, chiếc bàn làm việc ở giữa bên trái có một cậu trai trẻ đang vùi đầu bận rộn. Cậu tên là Lâm Sinh Nguyên, đã đến đây được hai năm, do Tào Quốc An tuyển cậu vào. Tào Quốc An lặng lẽ đi đến bên cạnh Lâm Sinh Nguyên, ngón trỏ cong lại, khẽ gõ lên chiếc bàn. Lâm Sinh Nguyên mơ mơ màng màng mà ngẩng đầu lên khỏi đống tài liệu, thấy Tào Quốc An, sắc mặt cậu chợt sợ hãi: “Đồn… đồn trường, chú đến rồi.” “Ừm.” Tào Quốc An đằng hắng giọng, nhìn về phía chếch chếch đối diện, hỏi với chất giọng trầm thấp: “Lão Phương đâu?” “Chú ấy… chú ấy nói là muốn đi bón phân cho ruộng nên sẽ đến muộn một chút ạ.” Tào Quốc An nhíu mày, ông đưa cổ tay lên mà nhìn đồng hồ, bây giờ đã hơn chín giờ rồi, Phương Châu Minh này thật là, ỷ vào lý lịch của mình mà thường xuyên làm việc cầm chừng, chẳng chịu coi ông ra gì cả. Tào Quốc An không vui, ông bèn ném túi ni lông xuống, hương thơm của bánh bao toả ra và quẩn quanh chóp mũi Lâm Sinh Nguyên ngay tức thì. “Của cậu!” Tào Quốc An chỉ để lại hai chữ như thế. Lâm Sinh Nguyên cúi đầu ngửi ngửi, sắc mặt sáng sủa hẳn lên, cậu vạch mở túi ni lông ra, âm thanh của chiếc túi ni lông vang lên sột soạt. “Cảm ơn đồn trưởng ạ, bây giờ không có cơm của chú Dương nên cháu cứ phải ra ngoài quán ăn, cháu sắp không ăn nổi nữa rồi.” Cậu nói. “Ngày mai anh ấy sẽ quay về.” Tào Quốc An nói xong thì đi đến bên cạnh bàn làm việc sát cửa sổ. Trên bàn làm việc đặt hai bình mực nước, một đỏ một đen, một chiếc điện thoại để bàn, có cả một chồng tài liệu, mấy quyển sách, mấy cây bút. Đồ đạc được sắp xếp rất ngăn nắp, chỉ có một xấp giấy báo ném lộn xộn trên bàn, trông nó vô cùng nổi bật. Tào Quốc An cầm một xấp trên cùng lên, nhanh chóng lướt mắt qua và nhìn vào. Ngày tháng trên trang đầu tiên của xấp báo là: Thứ hai, ngày 21 tháng 7 năm 1997. “Mẹ nó.” Tào Quốc An ném tờ giấy báo lên bàn rồi nói: “Bưu điện có đáng tin không vậy, lại muộn mất hai ngày, tin tức mới cũng thành tin tức cũ, còn xem cái quái gì nữa!” “Đồn trưởng…” Lâm Sinh Nguyên vừa nhai vừa giải thích cho Tào Quốc An: “Bọn họ nói, trừ phi lái máy bay, còn không thì không có cách nào nhanh hơn nữa.” Tào Quốc An “hừ” một tiếng, kéo ghế ra rồi đặt mông ngồi xuống, ông ngã về phía sau, chiếc ghế cũ nát đó phát ra âm thanh kẽo kẹt. Sau đó ông lại mò mẫm túi áo đồng phục để lấy hộp thuốc lá và cái bật lửa, bật lửa chỉ còn lại một chút ít gas dưới đáy, ông bật mấy lần liền mới quẹt ra được đốm lửa nhỏ. Tào Quốc An châm điếu thuốc, hút mạnh mấy ngụm, ông dựa vào lưng ghế, ngẩn ngơ mà nhìn lên trần nhà. Quạt trần trên đỉnh đầu quay quay phát ra tiếng kêu cọt kẹt, tiếng ve sầu ngoài cửa sổ vang lên những thanh âm chói tai, đường phố ngoài kia truyền đến tiếng nổ rang ầm ầm của xe máy đi ngang qua. Tào Quốc An dựa vào lưng ghế, hết hút thuốc rồi lại nhả khói, trong đầu ông thì lại đang nghĩ đến cuộc điện thoại mà mấy ngày trước vừa nhận được. Trong trí nhớ của Tào Quốc An, không có người nào bằng lòng đến chỗ xa xôi hoang vắng như xã Lục Trình này, thị trấn nhỏ hẻo lánh này cách huyện hàng trăm ki-lô-mét, núi thì cao mà đường thì lại xa, một chuyến xe khách đi từ huyện đến đây phải mất hơn ba tiếng đồng hồ. Cũng vì giao thông không thuận lợi, kinh tế kém phát triển, nên có hơn một nửa số lao động trẻ tuổi khỏe mạnh của xã đã đi ra ngoài để kiếm sống, còn một nửa thì đang làm nghề trồng trọt, kiếm sống dựa vào ông trời. Tào Quốc An từng rất chán ghét nơi này, nhưng ông là quân nhân đã xuất ngũ, quân nhân xem việc phục tùng mệnh lệnh là thiên chức, ông phục tùng mệnh lệnh của cấp trên nên mới cắm rễ ở chỗ này. Ban đầu, khi vừa đến nơi này, ông không nể nang ai mà tìm ủy ban xã mượn nhà, ủy ban không lay chuyển được nên đành cho ông mấy căn phòng chuẩn bị làm chỗ mua bán súc vật trên phố, nơi đó chính là đồn cảnh sát xã Lục Trình hiện giờ. Đồn cảnh sát có hai dãy phòng, trước và sau, dãy trước là khu vực làm việc, có năm căn phòng, phía trong cùng bên trái là phòng thẩm vấn và phòng tạm giam, bên phải là phòng hồ sơ, căn phòng lớn nhất ở giữa là phòng làm việc; dãy sau là khu vực sinh hoạt, có bốn căn phòng, một nhà bếp, ba phòng ngủ, có một phòng riêng là nhà vệ sinh. Tào Quốc An, Lâm Sinh Nguyên và cả chú Trần đều sống ở trong đồn, Phương Châu Minh thì ở tại nhà của mình. Tào Quốc An vẫn luôn nói với bên trên rằng, trong đồn cần có “nguồn máu” tươi mới, nhưng bên trên lại chẳng chịu điều người đến, sau khi Tào Quốc An thúc giục mấy lần thì cũng không thúc giục nữa, ông nghĩ, về công việc thì ba người bọn họ có thể miễn cưỡng mà đảm đương được, thêm một người nữa đến thì phải nhường chỗ ở, phiền phức lắm, chẳng thà cứ cho qua đi thôi. Nhưng mấy hôm trước bên trên lại gọi điện thoại đến, nói có một sinh viên vừa tốt nghiệp muốn đến xã Lục Trình làm việc. Đã thế, người này còn là phái nữ. Tào Quốc An nghe tin này mà như sét đánh ngang tai, ông nhấn mạnh với bên trên rằng, người mà đồn cảnh sát cần là đàn ông trẻ tuổi, chứ không phải là một nữ sinh được nuông chiều. Nữ sinh viên thì có thể làm được gì cơ chứ? Được nuông chiều từ bé, tính tình nóng nảy, không gây ra phiền phức gì đã là tốt lắm rồi. Nhưng thái độ của bên trên kiên quyết, không cho ông bất kỳ cơ hội thương lượng nào. Tào Quốc An nói không lại, chỉ đành thỏa hiệp, mấy ngày nay ông nôn nóng khó chịu, ngày nào cũng buồn rầu u ám vì chuyện này. Thấy hôm nay chính là ngày mà cô gái đó đến, Tào Quốc An càng không yên lòng. “Lúc nào cô gái đó đến vậy?” Tào Quốc An mặt ủ mày chau hỏi Lâm Sinh Nguyên. Lâm Sinh Nguyên sững sờ, lập tức hiểu người mà Tào Quốc An đang hỏi đến là đồng nghiệp mới chưa từng gặp mặt đó, cậu nói: “Sáng hôm nay nhận được điện thoại rồi ạ, nói là chuyến xe khách hơn mười giờ sáng đó.” “Đợi gần tới khi ấy thì cậu đi đón cô ấy.” “Hả?” “Lẽ nào để tôi đi à?” “Không phải, đồn trưởng. Cô ấy nói…” Lâm Sinh Nguyên đằng hắng, dùng giọng điệu lạnh nhạt mà Tào Quốc An chưa từng nghe thấy bao giờ mà nói lại rằng: “Không cần đón, tự tôi có chân.” Mắt Tào Quốc An nheo lại, ông ném ánh mắt sắc lẹm về phía Lâm Sinh Nguyên. Lâm Sinh Nguyên giật mình, giải thích: “Cô ấy nói thế thật đấy ạ, cháu không bịa đặt đâu.” Tào Quốc An hừ lạnh một tiếng: “Một cô nhóc thôi mà giọng điệu cũng ghê gớm thật đấy, không đón thì không đón, chúng ta đợi cô ta.” Đồng hồ trên tường cứ tích tách, tích tách mà xoay đều, theo dòng thời gian dần trôi, mặt trời cứ lên cao dần, sự khô hanh trong không khí càng lúc càng nhiều, Tào Quốc An không ngừng thay đổi tư thế, nhưng dù có thay đổi thế nào thì vẫn thấy không thoải mái, cơn đau từ vết thương nơi lồng ngực làm ảnh hưởng đến ông, nếu không nghĩ đến chuyện mình là cảnh sát, thì hôm qua ông rất muốn đánh người đó một trận dữ dội. “Mấy giờ rồi?” Lâm Sinh Nguyên quay đầu nhìn lên trên tường, nói: “Mười giờ rồi ạ.” Tào Quốc An liếc nhìn về phía cổng đồn cảnh sát, chẳng có ai xuất hiện cả, ông chuyển sang nhắm mắt lại, dựa người vào lưng ghế, hơi thở phì phò phát ra từ lỗ mũi như đã giải tỏa bao khó chịu trong lòng ông. Mấy phút sau, hình như ngoài cổng vang lên tiếng “bịch bịch bịch”. Tiếng động này vang từ xa đến gần, Tào Quốc An mở mắt ra, lòng đầy cảnh giác mà nhìn ra bên ngoài. Một bóng người gầy yếu đứng ngay cửa phòng làm việc, cô đứng ngược chiều sáng nên người ta chẳng thể thấy rõ khuôn mặt của cô. Tào Quốc An vừa muốn mở lời hỏi chuyện thì bóng người đó đã nói: “Xin hỏi ai là Tào Quốc An – đồn trưởng Tào?” Giọng nói trong trẻo nghe hơi nghiêm túc, khiến cho Tào Quốc An chợt nhớ đến vị lãnh đạo bộ đội, ông trả lời: “Là tôi. Cô là Lương Hi?” “Vâng.” Lương Hi đi về phía trước, chìa tay ra và cúi chào: “Chào đồn trưởng Tào, tôi là Lương Hi, cảnh sát mới đến.” Chân mày Tào Quốc An nhíu chặt lại, ông cẩn thận quan sát Lương Hi, gương mặt trắng ngần, mắt phượng mày ngài, dáng người mảnh khảnh, tóc dài chạm bả vai, cô đang mặc một chiếc áo sơ mi sọc ca-rô và quần jeans, chân thì đi một đôi giày thể thao thời thượng, tay trái cô đang đỡ một chiếc vali màu đỏ có bánh xe, tay phải thì cầm một chiếc bình giữ nhiệt, trông có vẻ rất đắt tiền. Vừa nhìn đã biết là cô chưa từng trải qua bất kỳ nỗi khổ cực gì, Tào Quốc An thầm thở dài. Tào Quốc An không biết rằng, trong lúc ông đang quan sát Lương Hi thì cô cảnh sát nhỏ mới đến này cũng đang lén quan sát ông. Khi còn ở trong huyện, Lương Hi đã từng nghe đến tiếng tăm của Tào Quốc An, cô cho rằng vị quân nhân đã xuất ngũ – cũng là người lập nên đồn cảnh sát xã Lục Trình trong miệng người khác là một người trung niên có tinh thần khá tốt, thế nhưng, xem ra là không phải như thế rồi. Tào Quốc An trước mắt đang khom lưng, sắc mặt giống như trái khổ qua già đã qua mùa vụ thu hoạch, trên người ông đang mặc một bộ đồng phục cảnh sát không hề vừa người, hai chiếc cúc áo gần cổ áo đang mở bung ra, cái bụng bị quần áo thít chặt lại, dây nịt trên lưng không thể nịt lại được, cả người trông vừa lôi thôi nhếch nhác vừa sa sút tinh thần. Khác xa với dáng vẻ trong tưởng tượng của Lương Hi, Lương Hi bất giác lộ ra vẻ mặt thất vọng. “Cô chính là Lương Hi à, nghe danh không bằng gặp mặt, tôi là Lâm Sinh Nguyên.” Mạch suy nghĩ của Lương Hi bị Lâm Sinh Nguyên gọi về, cô thu ánh mắt lại, nhìn về phía người trước mắt này. Người tên Lâm Sinh Nguyên này thì lại mặc đồng phục khá cẩn thận tỉ mỉ, có điều, vẻ mặt cậu vàng như nến, gầy trơ xương, trên đầu ngón tay gầy nhom còn dính mấy giọt mực carbon, xem ra là người làm công việc liên quan đến giấy tờ. “Xin chào.” Lương Hi duỗi tay ra, bắt tay tượng trưng với Lâm Sinh Nguyên. “Đây là bàn làm việc của cô, chúng tôi đều làm việc trong phòng làm việc này.” Lâm Sinh Nguyên được bàn tay mềm mại nhẵn mịn của Lương Hi nắm lấy nên tâm trạng phơi phới bủa vây cậu, cậu nhiệt tình chỉ vào vị trí còn trống bên cạnh cho Lương Hi. Bấy giờ Lương Hi mới có thời gian quan sát môi trường bên trong phòng làm việc. Cô nhìn quanh một lượt cả phòng làm việc này, trên vách tường có mấy miếng dán tường đã tróc, vốn dĩ căn phòng đã không lớn cho lắm, mà vì có thêm sáu chiếc bàn nên trông nó có vẻ chật chội hơn hẳn, chuyện khiến Lương Hi thấy khó hiểu hơn nữa đó chính là, sáu chiếc bàn làm việc này có kích cỡ không đều nhau, màu sắc không giống nhau, giống hệt như chúng được vơ vét từ nơi khác đến vậy. Trước khi đến thì Lương Hi đã chuẩn bị tư tưởng xong xuôi, thế nhưng, cô không ngờ rằng ngay cả môi trường làm việc mà cũng lộn xộn như thế này. Cô đi theo Lâm Sinh Nguyên đến bên cạnh bàn, quay sát chiếc bàn và cái ghế một chút, rồi cô duỗi một đầu ngón tay ra lau lau mặt bàn. “Tôi vừa mới lau, sạch sẽ lắm.” Lâm Sinh Nguyên nói. Lương Hi khẽ gật gật đầu, bình tĩnh gỡ bình giữ nhiệt xuống, đặt lên trên bàn. “Cảm ơn.” Cô nói. “Đừng khách sáo, trong hộc tủ thì tôi đã đặt mấy món đồ văn phòng phẩm cho cô, cô tự lấy nhé.” “Được,” Lương Hi chợt hỏi: “Còn một người đồng nghiệp nữa đâu rồi?” “Hả?” Lâm Sinh Nguyên sững sờ. “Ở đây,” Lương Hi chỉ vào vị trí bên cạnh, nói: “Chắc là có người mà nhỉ? Sao chú ấy lại không đến?” Lâm Sinh Nguyên bỗng hiểu ra: “Lão Phương à, chú ấy đi…” “Anh ấy đi thị sát rồi.” Tào Quốc An ngắt lời Lâm Sinh Nguyên: “Người mới, chuyện không nên quan tâm thì đừng quan tâm.” Lương Hi bĩu môi. “Cô là người của Học viện Cảnh sát tỉnh thật ư?” Tào Quốc An nhìn Lương Hi, như thể là đang dò xét, hình như ông đang nghi ngờ lai lịch của cô. “Đúng, chắc chắn là thật, chuyên ngành trinh sát hình sự.” Lương Hi đáp. Tào Quốc An ngả người ra sau, nói: “Chỗ này của chúng tôi chỉ là một chốn nhỏ bé, không cần đến chuyên ngành có học vấn cao như thế.” Theo bản năng, Lương Hi phản bác: “Chốn nhỏ bé cũng có thể sẽ có người phạm tội.” Tào Quốc An kinh thường mà liếc Lương Hi, kiểu người trẻ tuổi này ông đã gặp nhiều rồi, tự cho mình là đúng, tự cho mình là giỏi, ắt rằng sau này sẽ phải chịu khổ. Ông hừ lạnh một tiếng, lười biếng dạy bảo rằng: “Tôi không quan tâm cô thế nào, nếu đã đến xã Lục Trình thì phải tuân thủ quy tắc, đừng gây chuyện.” Lương Hi còn muốn nói thêm vài câu, có điều, cô còn chưa kịp mở lời thì một giọng nói thảm thiết đã ập vào màng nhĩ cô. “Không ổn rồi! Đồn trưởng Tào! Tai nạn chết người rồi!” Một bóng người vội vã xông vào đồn cảnh sát.. Mời các bạn mượn đọc sách Là Tôi Đã Giết Cô Ấy của tác giả Mặc Dữ.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Phong Thanh
Phong Thanh là sự biến đổi của dòng "Tiểu thuyết mật thất", cũng là một trò ảo thuật nguy hiểm, nó có một sức mạnh kể chuyện to lớn... Đây là cuốn tiểu thuyết viết về những con người bình thường nhưng đã làm được những việc phi thường, là một bi ca về một ý chí của nhân loại. Truyện lấy bối cảnh năm 1942, khi Trung Quốc chịu sự xâm lược của Nhật Bản. Sau một loạt vụ ám sát nhằm vào các quan chức của chính phủ bù nhìn do Nhật Bản dựng lên. Kawa Hihara - Trưởng cơ quan đặc vụ nghi ngờ có nội gián trong nội bộ đã ra lệnh cho Tư lệnh Trương Nhất Đỉnh của ngụy quân triệu tập 5 người bị tình nghi về biệt thự Cầu Trang để tra xét. Nhóm 5 người đó (ba nam, hai nữ) đều là bộ hạ cũ của Tiền Hổ Dực, quan quân ngụy cả trước khi Trương Nhất Đỉnh lên thay: Ngô Chí Quốc – Trưởng ban tham mưu quân sự dưới trướng Tư lệnh Trương; Kim Sinh Hỏa – Trưởng ban cơ yếu quân sự, nắm cơ mật nòng cốt của toàn quân; Lý Ninh Ngọc, nữ, Tổ trưởng tổ dịch điện Ban quân cơ; nhân vật thứ tư là Bạch Tiểu Niên – quan tháp tùng của Tư lệnh Trương Nhất Đỉnh; cuối cùng là Cố Ninh Ngọc, nữ, là nhân viên của Lý Ninh Ngọc. Những kẻ tình nghi bị canh giữ cẩn mật, được đưa đi thẩm vấn riêng biệt. Trò chơi mèo vờn chuột dần dần được đẩy đến cao trào. Những đòn tra tấn tấm lý và thể xác lần lượt được Kawa Hihara tung ra. Cuộc đấu trí để lật mặt “Lão Quỷ” ngày càng hồi hộp nghẹt thở, sự mưu trí của nhân vật nằm vùng cũng được thể hiện sâu sắc. Ngôn ngữ trong tác phẩm của Mạch Gia cao thâm khó lường, mỗi khi bạn tưởng rằng đã biết được sự thật, lại luôn cảm thấy nghi hoặc khi câu đố cuối cùng đã được giải mới cảm giác nút thắt như được mở ra. Tính cách nhân vật dưới ngòi bút của Mạch Gia vô cùng phong phú, không có những hạn chế như ở các nhân vật trong tiểu thuyết cùng loại, dường như mỗi nhân vật đều đáng để chúng ta suy nghĩ. Tác giả Mạch Gia sinh năm 1964 tại Phú Dương, Chiết Giang. Năm 1986 ông bắt đầu nghiệp sáng tác, nối tiếng với các tiểu thuyết dài kỳ như Giải mật, Lắng nghe trong gió, và Phong Thanh. *** 1 0 năm đã sắp trôi qua, cuộc sống của tôi vẫn giới hạn trong một vòng tròn nhỏ hẹp, không đến cơ quan làm việc, người thân và bạn bè đa số đều ở xa, chỉ có vài người bạn ở gần nhưng thường cũng rất ít giao du. Tôi khá thích cuộc sống cô độc này. Thực ra thì cũng không phải là thích mà là đành phải chịu. Một mình ở nhà cũng đã đủ khó chịu, nhưng ra ngoài phải chịu đựng những thói thường của người khác, hay để người khác nhường nhịn mình thì càng thấy khó chịu hơn. Tôi không uống rượu, sợ cãi cọ, cũng không bài bạc, đúng hơn là không biết, mà hễ ngồi xuống là chỉ thích đàm đạo chuyện văn chương, muốn tìm một người cùng sở thích như vậy có lẽ còn khó hơn tìm đồng chí. Đồng chí còn có thể gặp ở câu lạc bộ hay những nơi hoạt động cố định nào đó, ở Thành Đô, nghe nói chỗ bảng đọc báo ở trước cổng Tòa soạn Nhật báo Tứ Xuyên là nơi hoạt động của cánh đồng chí, cũng chỉ là có chút ước định mà thành. Cảm giác như salon kiểu Anh trước đây. Thành Đô là một thành phố hưởng lạc, đâu đâu cũng thấy quầy rượu, phòng trà, quán ăn từ hạng bét đến hạng sang đều có cả. Lương thấp lương cao, công nhân, trí thức đều có nơi tụ tập của riêng mình. Tôi đã từng sống ở bảy thành phố, vì vậy tôi có thể khẳng định rằng cuộc sống của người Thành Đô rất xa hoa, xa hoa giống như bông hoa anh túc, có phần phung phí, có phần lạ đời. Vậy mà tôi vẫn thấy rất tẻ nhạt, cùng con trai đánh bài, bói bài (kiểu chơi do tôi tự nghĩ ra), đánh cờ vua, cờ tướng đã trở thành thú vui chính của tôi. Thời gian của tôi ư? Ngoài thời gian nghỉ ngơi bình thường và dành cho cái gọi là công việc như đọc sách hay viết lách một thứ gì đó ra thì tôi không biết làm gì nữa. Nếu như nhất định phải nói thì đành chịu, có khi còn suy nghĩ lung tung. Lắng nghe trong gió (Âm mưu đen tối) chính là do nghĩ ngợi lung tung mà thành. Thực ra tiểu thuyết của tôi đa số là như vậy, chỉ dựa vào một chút sự thật rồi tưởng tượng thêm, không có tư liệu gì, cũng không có bất kỳ trải nghiệm thực tế nào. Cứ ngỡ như vậy sẽ chẳng có ai bắt bẻ hay phạt vạ mình, cũng chẳng sợ bị lịch sử lên án. Thế nhưng kỳ lạ là mấy bộ tiểu thuyết hơi có chút ảnh hưởng của tôi mấy năm gần đây, luôn có người bắt bẻ phạt vạ, họ tìm mọi cách để liên lạc với tôi, chỉ ra vô vàn những điều phi thực tế và sai lầm trong tác phẩm của tôi. Có người còn kỳ lạ hơn, nói rằng cuốn Giải mã của tôi viết về vị cha đẻ của kỹ thuật tên lửa Trung Quốc, Tiền Học Sâm. Sự kỳ lạ theo suốt hành trình và chắc chắn sẽ còn ở phía sau. Cuốn Nốt ruồi (Hắc ký) viết về một cô gái, trên ngực cô ấy có một nốt ruồi thần bí, đầy gợi cảm. Khi chạm vào nó còn khiến cô ấy bị kích thích hơn là sờ vào đầu nhũ hoa. Đây hoàn toàn là những thứ tưởng tượng, vậy mà vẫn có người tìm đến bắt bẻ, còn tìm ra một vị bác sỹ giống thế ngoài đời, tố cáo ông ấy đã tiết lộ bí mật. Thật là có lỗi với vị bác sĩ ấy, tôi là đàn ông hay đàn bà, ông ấy còn chả biết thì làm sao có thể tiết lộ bí mật cho tôi chứ? Cuốn Lắng nghe trong gió thì càng không cần phải nói, do sự bùng nổ phim truyền hình, số người đến tìm tôi kiếm chuyện thị phi càng nhiều, đến nỗi trong một thời gian dài tôi phải trốn về quê. Bởi vì người ta tìm tôi quá nhiều, đã làm ảnh hưởng đến cuộc sống bình thường của tôi. Trong số những người đó có một vị tướng quân đội quyền cao chức trọng, cũng có những nhân vật kiểu A Bỉnh, Hoàng Y Y, Trần Nhị Hồ trong cơ quan 701[1] hoặc là những hậu bối của họ. Trong số họ, có người đến với tư cách cá nhân, gia đình, có người đại diện cho cơ quan, đơn vị, có người đến cảm ơn tôi, có người đến lên án tôi. Thôi thì cảm ơn cũng tốt, lên án cũng được, tôi đều tiếp cả, muốn gặp, muốn giải đáp tất cả thắc mắc. Thực ra những điều tôi nói đều giống như nhau, chẳng thế mà một dạo tôi giống như chị Tường Lâm[2], không ít lần chỉ toàn là “chuyện cũ nói lại”. [1] Các nhân vật trong cuốn Lắng nghe trong gió của cùng tác giả Mạch Gia (Chú thích trong cuốn sách là của người dịch). [2] Một nhân vật vật trong truyện ngắn Chị Tường Lâm của Lỗ Tấn. Trong số những người đến tìm tôi có một người tìm tôi với mục đích có chút mơ hồ, không hẳn là cảm ơn cũng không phải là lên án tôi. Nói theo một ý nghĩa nào đó, ông ấy không phải đến nghe tôi nói mà là đến để nói với tôi. Ông ấy đến từ Thượng Hải, họ Phan, tên Hướng Tân, là một giáo sư hóa học của một trường đại học, năm trước vừa nghỉ hưu, giờ thơ thẩn và nhàn rỗi ở nhà. Ông ấy tự đến, nhưng lưu lại trong cuộc đời tôi một dấu ấn thật đậm. Vào tuần đầu tháng Giêng năm ngoái, giáo sư Phan nhận lời mời đến giảng bài tại trường Đại học Sư phạm Tứ Xuyên, trong thời gian đó nhờ bạn bè của tôi liên lạc với tôi, và bạn tôi đã đứng ra mời chúng tôi cùng ra ngoại ô ăn một bữa cơm dã ngoại. Trong bữa ăn, giáo sư đàm luận chuyện văn chương, lời hay ý đẹp nhiều vô kể, ông đã để lại cho tôi ấn tượng sâu đậm. Thậm chí ông ấy còn tài tình và khéo léo gắn nghề viết tiểu thuyết của tôi với nghề hóa học của ông ấy, hai thứ khác nhau một trời một vực. Ông nói rằng, tiểu thuyết hay cũng chính là hóa học, là xử lý cuộc sống theo hóa học. Ngược lại, tiểu thuyết dở thì là vật lý, nghiêng về sự thật, rập khuôn cuộc sống vân vân. Đúng sai không bàn tới, nhưng cách nói mới mẻ, khiến người nghe khó quên. Trong bữa ăn, chúng tôi cũng nói về bộ phim truyền hình Lắng nghe trong gió, ông bảo rằng ông vừa xem Đài Truyền hình Thượng Hải chiếu xong, mỗi ngày ba tập, ông xem liền một mạch không bỏ tập nào, sau đó còn mua đĩa xem lại phần ba Người bắt gió, với học vấn và kiến thức của ông, một thứ mà đã xem đến hai lần thì thứ đó cơ bản đã thành của ông ấy, tình tiết lớn bé, cả chi tiết nội dung đều thông hiểu hết. Ông không đưa ra bình luận tốt xấu, chỉ hỏi tôi câu truyện đó có xuất xứ không và khẩn cầu tôi nói thật. Với người bình thường tôi không cần phải nói thật, nhưng với một người trí thức như ông ấy, tôi lo rằng nếu nói dối và lừa bịp sẽ bị ông ấy nhận ra ngay, thêm nữa lại vướng tình cảm bạn bè, tôi không tiện nói bừa, đành phải nói thật. Thẳng thắn mà nói, câu chuyện trong phần đầu Kẻ nghe gió và phần hai Kẻ xem gió của cuốn Lắng nghe trong gió không có nguyên mẫu nhất định, ví dụ như gã mù A Bỉnh trong phần một, nguyên mẫu là một thằng ngốc ở quê tôi, tên gã là Lâm Hải, 40 tuổi vẫn chưa biết gọi bố mẹ, không thể tự lo liệu cuộc sống, nhưng thị lực của gã thì đáng kinh ngạc, mang tính bẩm sinh đặc biệt, đến cả vuông tròn cách xa mấy km, tính cách và gia cảnh của hàng chục nghìn người, gã đều có thể đoán được thông qua con mắt, đọc ra vanh vách. Công việc mà tôi đã làm chẳng qua chỉ là chọc mù mắt đôi mắt kỳ diệu của gã, để cho đôi tai của gã trở nên vô cùng thần kỳ. Còn về câu chuyện trong phần ba Người bắt gió, quả thực hoàn toàn là hư cấu, nếu như nhất định phải biết về xuất xứ, thì tôi miễn cưỡng đưa ra hai phương án: Một là từ bộ phim Thảm án trên sông Nile đọng lại trong ký ức tôi, hai là trò chơi giết người một thời thịnh hành tại Bắc Kinh. Cả hai kỳ thực chỉ là một, đều là cuộc tìm kiếm hung thủ trong một môi trường khép kín, thậm chí tôi còn hoài nghi bản thân cái sau bắt nguồn từ cái trước. Nói cho cùng là năm 2001, cơ quan tôi, đài Truyền hình Thành Đô muốn làm một phim mừng dịp 80 năm thành lập Đảng, phần tôi thì đảm nhiệm viết kịch bản, tôi đã lôi kéo anh bạn thân Hà Đại Thảo cùng viết hai tập phim ngắn mang tên Bầu trời dưới lòng đất, cần phải nói cảm hứng sáng tác chính là từ bộ phim Thảm án trên sông Nile, đó chính là lịch sử cách mạng hóa cốt truyện mà thôi. Hai năm sau, tôi học tại Học viện Văn học Lỗ Tấn, trong đám sinh viên rộ lên trò chơi giết người, tôi thấy rất thú vị, nổi hứng viết lại cuốn Bầu trời dưới lòng đất. Câu chuyện Người bắt gió thực ra là như vậy. Là tôi mượn cốt truyện kinh điển, dựa vào sở trường tư duy lôgic và niềm đam mê với công việc điệp báo, mà viết nên câu chuyện này. Giáo sư Phan nghe song, trầm ngâm khá lâu. Tôi đoán im lặng như vậy không phải là ông ấy không có gì để nói mà ông ấy có điều quan trọng muốn nói. Quả nhiên, sau một hồi trầm ngâm ông bắt đầu chầm chậm nói, bởi vì qua trầm ngâm ‐ trầm ngâm suy nghĩ, lời nói của ông quả nhiên đầy triết lý và có sức thuyết phục vô cùng, ông nói với tôi như thế này: “Trên thế giới này không có hai chiếc lá giống nhau, càng không thể có hai câu chuyện giống nhau, nhưng… Nói sao nhỉ, nếu anh hứng thú, tôi không ngại kể cho anh nghe một câu chuyện, thật một trăm phần trăm, có ghi chép lại trong lịch sử. Tôi không dám khẳng định, câu chuyện tôi kể hay hơn của anh, nhưng tôi tin rằng anh nghe xong sẽ rất ngạc nhiên. Có thể nói như thế này, trước khi anh viết nên câu chuyện ấy, Thượng đế đã thảo xong rồi. Tôi từng cho rằng, anh dựa vào tài liệu lịch sử để rồi thay hình đổi dạng viết nên câu chuyện của anh, nhưng nghĩ kỹ lại thì không phải như vậy, bởi vì anh đã vứt bỏ hết những thứ tinh hoa nhất, xuất sắc nhất trong tư liệu lịch sử. Xin lỗi anh, hãy thứ lỗi cho tôi nói một câu mạo phạm, cá nhân tôi cho rằng, tay nghề của anh còn kém Thượng đế rất nhiều.” Sau đó, trong vòng nửa tiếng đồng hồ, giáo sư đã kể cho tôi nghe câu chuyện của ông, nghe xong quả thực tôi cứ ngây ra. Đúng như vậy, câu chuyện ông kể hay hơn chuyện của tôi rất nhiều, hay gấp mười lần, gấp một trăm lần. Ngay lúc ấy, tôi yêu cầu ông kể lại tường tận một lần nữa. Ông bảo, người có tư cách nhất kể câu chuyện này nhất chính là đương sự của câu chuyện, rất nhiều người trong số họ hiện vẫn còn sống, trong đó có bố của ông. Ông nói với tôi, nếu như tôi thực sự hứng thú thì hãy đi cùng ông một chuyến, chắc chắn sẽ không uổng công vô ích. Hơn cả mong đợi, tôi đã thu hoạch được rất nhiều. Tôi tìm được nguyên mẫu của câu chuyện Người bắt gió. Cùng với niềm vui, tôi luôn miệng khen kỳ diệu: Một câu chuyện hư cấu hóa ra lại có nguyên mẫu! Chẳng trách có người đem tiểu thuyết của tôi ra để bắt bẻ. Trước đó, tôi luôn thấy kỳ quái, một người hầu như không bước chân ra khỏi nhà như tôi, chỉ trong lúc bột phát, nghĩ vẩn vơ viết ra câu chuyện mà lại có người tìm đến bắt bẻ? Bây giờ thì tôi đã hiểu, đó là do cuộc sống mênh mông hơn hư cấu. Tôi nghĩ quan hệ giữa hư cấu và cuộc sống giống như quan hệ giữa phép Cân đẩu vân của Tôn Ngộ Không với lòng bàn tay của Phật tổ Như Lai, anh cứ chạy đi, xem anh có thể chạy được đến đâu. Sau vụ này, tôi có lý do để tin rằng giáo sư Phan không đến với tôi một cách ngẫu nhiên, mà là có chủ ý, và dùng cách của riêng mình để đạt được mục đích: để tôi tự dựng lại cốt truyện về hình tượng Người bắt gió. Tôi phải thừa nhận, so với câu chuyện mà tôi đã hư cấu, câu chuyện này phức tạp hơn, ly kỳ hơn và cũng chân thực hơn. Bố của giáo sư Phan, cụ Phan cùng năm người khác nữa như cụ, sau nửa thế kỷ, với thời gian và địa điểm khác nhau, nhưng đều cung cấp cho tôi những nội dung giống như nhau, giống nhau đến mức như là chỉ có một người kể vậy. Trong trải nghiệm của tôi, đây là lần đầu tiên có chuyện ngoại lệ như vậy. Cho nên tôi cũng ngoại lệ tin tưởng và thản nhiên với tính chân thực của nó. Mời các bạn đón đọc Phong Thanh của tác giả Mạch Gia.
Bóng Đen - Bóng Đen Của Vầng Ánh Dương
Một phụ nữ trẻ bị ám sát ở bồn hoa trong công viên lâu đài hoàng gia. Vài ngày sau, một người chết trong cung cầu nguyện. Cảnh sát trưởng Axel Beaumont chịu trách nhiệm điều tra, sẽ phải tìm ra hung thủ "giết người hàng loạt" này trước khi hắn tiếp tục gây thêm những nạn nhân mới. Phải chăng đó chỉ là tác phẩm của một kẻ khốn quẫn đơn thuần hay những án mạng này có liên quan đến lịch sử của tòa lâu đài? Những phiến đá cổ xưa lầm lũi kia chứa đựng điều bí mật ghê gớm gì kể từ thời kỳ tráng lệ xa hoa của vị Vua vĩ đại Louis XIV? *** Án mạng trong sân rồng của Vua-Mặt Trời. Một phụ nữ trẻ bị ám sát được tìm thấy tại một trong những bồn hoa trong công viên lâu đài hoàng gia. Vài ngày sau, lại một người nữa chết trong cung cầu nguyện. Cảnh sát trưởng Axel Beaumont, chịu trách nhiệm điều tra, sẽ phải tìm cho ra hung thủ “giết người hàng loạt” này trước khi hắn tiếp tục gây thêm những nạn nhân mới. Liệu chăng đó chỉ là tác phẩm của một kẻ khốn quẫn đơn thuần hay những án mạng này có mối liên quan với lịch sử của tòa lâu đài? Những phiến đá cổ xưa lầm lũi kia chứa đựng điều bí mật ghê gớm gì kể từ thời kỳ tráng lệ xa hoa của vị Vua Vĩ Đại Louis XIV? Được xuất bản tháng 11 năm 2005, Bóng đen của vầng ánh dương đã đạt giải của Quai des Orfèvres 2006. Giải thưởng này được trao cho cuốn tiểu thuyết trinh thám hay nhất trong năm của một nhà văn viết bằng Pháp ngữ. Năm nay, Christelle Maurin vinh dự được nhận giải này nhờ một tác phẩm mang đầy tính hiệu quả và thông thái. Nữ tiểu thuyết gia đã mang đến cho bạn đọc một sự hồi hộp, thú vị và nhất quán từ đầu đến cuối tác phẩm. Quá khứ – hiện tại, hiện tại cho bạn – quá khứ, Maurin luân chuyển nhuần nhuyễn những sự kiện phức tạp, đôi khi quá rối rắm thông qua các nhân vật của mình, thông qua những cuộc hội thoại say mê của họ, sự hiểu biết của họ về lịch sử cung đình, lịch sử nước Pháp. Chính vì thế, tác phẩm thu hút được tất cả những ai thích tìm hiểu về gia đình Hoàng gia và các đời Vua Pháp, ngoài ra nó còn nắm bắt được cả một lượng bạn đọc đông đảo nhờ lối viết đơn giản, súc tích và cách dẫn chuyện tài tình. Cũng giống như nữ hoàng tiểu thuyết trinh thám Pháp Fred Vargas hay Dan Brown, Christelle Maurin xem ra muốn xâm nhập vào làn sóng của những bí mật văn hoá truyền thống. Là người có khiếu viết văn từ khi còn rất trẻ, mới tám tuổi, Maurin đã cầm bút sáng tác truyện, nữ tiểu thuyết gia trẻ tuổi này đã đem đến một làn sóng mới cho làng trinh thám Pháp bằng câu chuyện mang màu sắc xã hội – chính trị của mình. Nhà xuất bản Công an nhân dân trân trọng giới thiệu cuốn sách cùng bạn đọc. Paris ngày 12 tháng 06 năm 2006 Hiệu CONSTANT *** Sau nhiều cuộc thương thảo trên đảo Faisant giữa Hồng y giáo chủ Manzarin và Bộ trưởng Tây Ban Nha Don Luis de Haro, cuộc hôn lễ của Vua Louis thứ XIV với người em họ của mình là công chúa Tây Ban Nha Marie-Thérèse mới hoàn toàn ngã ngũ. Hôn lễ được cử hành vào tháng 6 năm 1960, tại nhà thờ Saint-Jean de Luz. Khắp nơi bàn tán xôn xao. Hai triều đình Pháp, Tây Ban Nha, cùng các vương tước kèm các lệnh bà ăn vận ngất trời đến chen chúc nhau vào tận các ngõ hẻm chật chội nhất của thành phố nhỏ bé xứ Basque. Nghi lễ được dự đoán là rất xa hoa. Cuộc hôn lễ theo uỷ quyền diễn ra ở San Sébastian, trên lãnh thổ Tây Ban Nha. Đám đông đổ dồn vào nhà thờ và các khu vực lân cận. Quốc vương Philippe Đệ Tứ, vẻ mặt bình thản, trịnh trọng bước về phía ban thờ, công chúa khoác nhẹ cánh tay cha. Nàng chỉ mặc độc một bộ xiêm y bằng len trắng khiến đám nữ hầu đài các của nước Pháp che quạt cười khẩy. Nàng cũng bận khung độn váy nhiều vòng, khiến chiếc váy vốn đã nặng nề của nàng mang vóc dáng thật ấn tượng. Đó là một thiếu nữ còn rất trẻ, nước da lóng lánh, mắt xanh lơ và mái tóc màu vàng nhạt. Một vẻ đẹp chẳng có gì đặc biệt, khuôn mặt nàng mang dấu ấn của kẻ cam chịu và hết sức bình thản. Vật thế chấp vì hoà bình, nàng sẽ cô đơn, một thân một mình trên đất khách, tựa như thần tượng được hiến tế cho vầng Ánh Dương. Ngày hôm sau, nghi lễ chính thức được cử hành trên đất Pháp. Đoàn tháp tùng hoàng tử ăn vận cực kỳ lộng lẫy tiến vào nhà thờ. Hồng y giáo chủ Manzarin, bận áo chùng tím trịnh trọng bước lên. Ngài hoan hỉ đắc thắng: hoà bình đạt được trên vùng Pyrénées là do cuộc hôn thú này, chủ yếu là công của ngài. Ngài đã lấy lại được quyền lực cho mình, những nỗi nhục của ngài trong suốt thời kỳ La Fronde đã được báo thù. Tiếp đó là nhà Vua tiến tới, tuyệt vời trong lớp xiêm gấm vàng đính đầy đăng ten. Hai bắp chân ngài chắc nịch, uốn cong, mái tóc tốt, đen xoắn thành từng múi khiến nhà vua không phải dùng đến món tóc giả – một thứ tóc nhân tạo rất phổ biến trong triều đình ở thời kỳ đó. Những tiếng thì thầm nổi lên khi công chúa, bà hoàng mới của nước Pháp xuất hiện, được em trai nhà vua tháp tùng. Nhân dịp này, nàng diện một chiếc váy gấm màu bạch kim và chiếc áo choàng bằng nhung điểm những bông huệ tây. Hai mệnh phụ giữ chiếc vương miện phía trên đầu nàng. Đi liền sau đó là Anne d’Autriche, mẫu hoàng diện chiếc váy đen, gồm nhiều lớp voan điểm bạch kim, cùng tiểu thư De Montpensier, thường gọi là “Đại tiểu thư”, cô em họ của đức Vua. Buổi lễ diễn ra theo những tập tục của nghi thức, và hai vị tân lang tân nương thề nguyền đính ước hệt như người ta thường làm để hoàn thành một nghi lễ. Sau các lễ tiệc đình đám kéo dài cả ngày, bắt đầu đến nghi lễ động phòng. Tất cả cận thần triều đình đến kính cẩn trước chiếc giường rộng mênh mông mà đức Vua Louis XVI và công chúa Marie-Thérèse đang ngự trên đó, bất động dưới những lớp drap bằng đăng ten. Tất cả đều tráng lệ, hai người cố làm ra vẻ trịnh trọng và không dám nhìn nhau giống như những kẻ xa lạ. Sau đó những cận thần lui ra, và những tấm ri đô nặng nề buông xuống quanh giường, che chở sự thân mật thầm kín của cặp vợ chồng trẻ. Đêm tân hôn của những cặp vợ chồng hoàng gia diễn ra như thế. ••• Tất cả bỗng trở nên đen ngòm và bối cảnh vụt thay đổi. Cửa Saint-Antoine xuất hiện, sừng sững tự hào trấn ngay ở cửa ngõ Paris. Hôm nay nhà Vua sẽ hoan hỉ đi dạo lòng vòng trong thủ đô của mình, dẫn theo bà hoàng mới của nước Pháp. Cuộc diễu hành bắt đầu dưới tiếng hô hào cổ vũ của đám đông. Xuất hiện đầu tiên là các giáo sĩ thuộc dòng thánh Francois, dòng thánh Dominique, thánh Ausgustin, và thánh Carme, đeo những cây thánh giá và vác những cây nến. Theo sau là giới tăng lữ, kế tiếp là ba trăm cảnh sát và Thống đốc. Tiếp đến là những đoàn thương gia, những nhà đại diện cho quyền lực, những cấp bậc hành chính và tài chính tiền tệ. Trời ngột ngạt và cơn kích động tăng dần lên trong đám dân chúng đang sốt sắng chờ đợi những người trị vì vương quốc. Hồng y giáo chủ Mazarin huy hoàng rực rỡ ló ra, rồi đến nhập hội với mẫu hoàng Anne d’Autrice đang đợi ông. Tiếng vỗ tay vang lên gấp bội, khi đến lượt những quan hầu của vua. Các công tước và hầu tước diễu hành trong điệu bộ xa hoa tráng lệ. Sau đó bất ngờ, người ta nghe thấy tiếng kèn ầm vang đến đinh tai nhức óc. Nhà Vua đang tiến đến, rốt cuộc thì ngài cũng xuất hiện! Rực rỡ, đường bệ, ngài đĩnh đạc bước, rồi nhảy lên mình một con ngựa đen tuyền, được những người lính cận vệ hộ tống. Dân chúng trầm trồ thán phục khi Ngài đi qua. Ngài ăn bận hết sức xa hoa và điệu bộ kiêu kỳ đem đến cho Ngài vẻ bề ngoài của một ông hoàng được đám thần dân ngưỡng mộ. Phía sau vị vua trị vì là hoàng tử De Condé và Ông Lớn, em trai nhà vua. Sau cùng xuất hiện hoàng hậu trẻ Marie-Thérèse, ngự trên một cỗ xe vàng rực do sáu chú ngựa được thắng cương sang trọng kéo đi. Hiện tại, nàng đã ăn vận và vấn đầu theo lối Pháp. Kiểu này không hợp với nàng bằng cách trang điểm theo lối Tây Ban Nha của mình. Dưới vẻ mặt bề ngoài thật bình thản, nàng đang che giấu một nỗi phiền muộn cực độ do sự có mặt của đám đông kia và của thế giới xa lạ này đang mở ra ở phía trước. Bất chợt, quang cảnh bắt đầu xoáy tròn. Lúc đầu nhẹ nhàng, sau đó càng ngày càng nhanh. Trong lúc đoàn diễu hành vẫn tiếp tục con đường của mình, một tiếng sấm rền vang. Một lớp sương mù dày đặc tràn ngập sân khấu che khuất đám đông trang phục loè loẹt và một màn đêm đen kịt lạnh giá bắt đầu sụp xuống. Tiếng chuông chói tai của chiếc đồng hồ-đài báo thức xé tan sự im lặng. Hai con mắt hé mở, vẫn còn tối sầm do những ảo mộng trong đêm. Đồng hồ chỉ bảy giờ. Lúc này, đã đến giờ hành động. Mời các bạn đón đọc Bóng Đen - Bóng Đen Của Vầng Ánh Dương của tác giả Christelle Maurin.
Tượng Thần Sụp Đổ
Trong buổi yến tiệc tổ chức tại Cung điện, Hoàng tử George bị bắt quả tang đang ôm thi thể của Guinevere - vị phu nhân trẻ xinh đẹp của Hầu tước Anglessey. Trên cổ nàng đeo một sợi dây chuyền bằng bạc mặt đá xanh. Chủ nhân trước của nó là mẹ của Sebastian St. Cyr, Tử tước Devlin. Bà đã đeo nó vào ngày bà mất, cách đó 17 năm. Bị ám ảnh bởi quá khứ, Sebastian quyết định điều tra cả vụ ám sát phu nhân Hầu tước Anglessey lẫn bí ẩn về cái chết của mẹ mình. Những manh mối dẫn anh đi từ cung điện xa hoa tới những khu ổ chuột ở London, từ ngôi nhà thanh lịch của nạn nhân ở Mayfair đến một quán trọ tồi tàn ở Smithfield. Cho đến khi một vụ án mạng nữa xảy ra, Sebastian phát hiện ra đằng sau tất cả những chuyện này là một âm mưu đen tối không chỉ đe dọa đến những người thân của anh mà còn có nguy cơ lật đổ cả nền quân chủ. *** C.S. Harris (tên thật là Candice Proctor) là tác giả của hơn 20 cuốn tiểu thuyết. Bà có bằng tiến sĩ trong lĩnh vực lịch sử châu Âu và cũng là tác giả của những cuốn sách lịch sử nghiên cứu về phụ nữ trong thời kỳ Cách mạng Pháp. Sách của bà có mặt khắp nơi trên thế giới và được dịch ra hơn 20 thứ tiếng. Một trong những series nổi tiếng nhất của Harris là Sebastian St. Cyr. Nhân vật trung tâm của tựa sách này là Sebastian, một quý tộc người Anh. Anh hiểu rõ sự rối ren trong tầng lớp thượng lưu và đồng thời cũng dành lòng trắc ẩn cho những con người khốn cùng trong xã hội. Tượng thần sụp đổ (tựa gốc: When Gods Die) là một tựa sách trong series Sebastian St. Cyr. Câu chuyện bắt đầu khi thi thể Guinevere – vị phu nhân trẻ tuổi, xinh đẹp của Hầu tước Anglessey già nua – đang nằm trong tay Hoàng tử George, vị hoàng thân nhiếp chính ăn chơi của nước Anh. Tác phẩm: Tượng Thần Sụp Đổ Khi Thiên Thần Sợ Hãi Lời Nguyền Của Người Cá ... *** Chuyện gì sẽ xảy ra khi vị thần trong lòng ta chết đi? Khi ta có một người là cả mặt trăng, mặt trời và các vì tinh tú trong thế giới của ta, thế rồi một ngày ta lại phát hiện ra m Charles – lãnh chúa Jarvis, người nắm thực quyền trong bóng tối – nghi ngờ có âm mưu đằng sau vụ án này nhằm vào Hoàng gia để đảo chính. Sebastian St. Cyr quyết định điều tra vụ giết người vì nạn nhân đeo một món đồ trang sức lạ mắt có ý nghĩa rất đặc biệt với anh. Cùng với những trợ thủ đắc lực, Sebastian dần khám phá ra bí ẩn đằng sau vụ án mạng và món đồ trang sức đặc biệt kia. C.S. Harris đã tạo nên một nước Anh thế kỷ 19 hết sức sống động. Từ vẻ hào nhoáng của tầng lớp quý tộc đến sự nghèo khổ đến khó tin ở những khu ổ chuột, dưới ngòi bút của Harris, tất cả dần hiện lên qua từng trang sách. Ngoài ra, tất cả các nhân vật đều được khắc họa chi tiết, giúp người đọc nắm bắt được nội dung. Dù có rất nhiều nhân vật nhưng mạch truyện không bị rối. Trong từng chương, các tình tiết và manh mối được khéo léo hé lộ, người đọc sẽ không thể rời mắt. Không những thế, câu chuyện sẽ đi hết từ bất ngờ này đến bất ngờ khác, đặc biệt là về danh tính hung thủ và động cơ đằng sau. Tượng thần sụp đổ không chỉ xoay quanh hành trình phá án căng thẳng mà còn lồng ghép những câu chuyện tình yêu nhẹ nhàng. Sebastian và Kat Boleyn yêu nhau sâu đậm nhưng không thể đến được bên nhau do rào cản địa vị. Kat cũng có những bí mật của riêng cô. Tình yêu của Guinevere dành cho người bạn thời ấu đã khiến cô mất mạng. Tuy nhiên, chủ đề lớn nhất của tác phẩm chính là sự phản bội. Niềm tin của Guinevere dành cho người mà cô yêu mến nhất đã khiến cô trả giá bằng mạng sống. Sebastian cũng phải đối diện với nỗi đau trong quá khứ cũng vì người anh luôn yêu thương và tôn trọng. Người con gái anh yêu cũng giấu những bí mật động trời. Review Hương Ly *** Một nhà văn luôn mang ơn rất nhiều người và điều này đặc biệt đúng với tôi và cuốn sách này, một cuốn sách mà trước khi được phát hành đã phải trải qua một khoảng thời gian vô cùng khó khăn sau khi cơn bão Katrina càn quét và phá hủy mảnh đất quê hương tôi - New Orleans. Tôi vô cùng cảm kích: Biên tập viên của tôi, Ellen Edwards, người đã hết lòng thông cảm và luôn cố gắng hết sức để có thể hợp tác làm việc với tôi bất chấp những gián đoạn vì bão, di tản và tái xây dựng, cũng như đã luôn đưa ra những lời khuyên sáng suốt và sâu sắc. Cuốn sách sẽ không thể đủ đầy được như hôm nay nếu không có chị. Cảm ơn chị. Con gái tôi, Samantha, người đã không ngại ngần đón cả một gia đình ba thế hệ với năm con mèo về căn hộ sinh viên Baton Rouge bé xíu của mình và con gái Danielle của tôi, người đã ngủ trên một chiếc ghế gỗ nhiều tuần mà không một lời phàn nàn. Hai đứa đều là những chiến binh kiên cường. Mẹ tôi, bà Bernadine Wegmann Proctor, người đã cho phép chúng tôi đến chiếm cứ căn nhà gỗ một tầng may mắn thoát khỏi lũ quét của bà vô thời hạn và chị gái tôi, Penelope Williamson, vì đã ở bên lúc chúng tôi cần chị nhất. Cảm ơn hai người. Emily và Bruce Toth (và Beauregard và Ngài Fussy), những người đã hào phóng mở rộng cánh cửa ngôi nhà Baton Gouge của họ cho rất nhiều thành viên gia đình chúng tôi cùng hai chú mèo và người đại diện của tôi, Helen Breitwiezer. Những người bạn như Ed và Lynn Lindahl, Paula và Adriel Woodman đã cho chúng tôi mượn nhà của họ từ Beverly Hills cho tới Arizona và cả Alabama. Tấm lòng hào phóng của các bạn làm tôi vô cùng cảm động. Cảm ơn các bạn. Tất cả những người bạn và gia đình thân thích đã liên lạc với tôi trong những ngày tối tăm điên rồ sau trận đại hồng thủy để bày tỏ tình cảm và tiếp thêm sức mạnh tinh thần cho tôi. Đặc biệt cảm ơn những người bạn cũ Tom Hudson, Nick Fielder và Tony Lutfi, những người bạn từ nước Úc xa xôi Virginia Taylor, Trish Mullin và Gill Cooper và cả anh họ tôi, Greg Whitlock. Mọi người đã giúp tôi nhiều hơn những gì mọi người tưởng tượng. Ben Woodman, người đã bỏ ngang kì nghỉ Giáng sinh của mình để gỡ lớp cách nhiệt cùng những tấm ván gỗ đã mốc meo và Jon Stebbins, người không chỉ dành hết thời gian rảnh của mình hết tuần này đến tuần khác để giúp chúng tôi xây lại ngôi nhà mà còn vực tinh thần của chúng tôi dậy lúc chúng tôi chán nản nhất. Những người bạn như vậy thật sự là hiếm có khó tìm. Các thành viên của hội Nhà văn Wordsmiths họp mặt thứ Hai hàng tuần, Kathleen Davis, Elora Fink, Charles Gramlich, Laura Joh Rowland và Emily Toth, những người vẫn cố giữ liên lạc, dù cho ban đầu chỉ có thể thực hiện qua e-mail. Tôi thực lòng cảm kích trước tấm lòng, những cuộc trò chuyện và sự cổ vũ của các bạn nữa. Cảm ơn. Và cuối cùng, là chồng tôi, Steve Harris, người không chỉ là một cặp bài trùng trong việc dựng cốt truyện với tôi mà còn là một vị phù thủy tài ba với máy móc. Có lẽ em đã không sống nổi qua cơn bão Katrina lẫn những ngày sau đó nếu không có anh bên mình. Cảm ơn anh. Mời các bạn đón đọc Tượng Thần Sụp Đổ của tác giả C. S. Harris.
Mai Hương và Lê Phong
"Đọc truyện trinh thám của Thế Lữ có thể thấy tuy mức độ đậm nhạt khác nhau trong từng tác phẩm nhưng chi tiết này, chi tiết khác đều gợi liên tưởng mạnh mẽ đến những truyện tiêu biểu nhất làm nên tên tuổi Edgar Poe... Mở đầu và chứng cứ cũng như cách phá án đều phảng phất các truyện nêu trên của Poe. Mọi bí mật đều được phanh phui nhờ vào tài quan sát, phán đoán tâm lý nhân vật và những giả thuyết lập luận chặt chẽ logic của nhà thám tử nghiệp dư chứ không phải những thanh tra nhà nước, cảnh sát trưởng chuyên nghiệp. Cuối cùng hung thủ phải lộ mặt đúng như tiên đoán của Dupin, hay Lê Phong. Ở phần kết thúc truyện, việc tập họp đông đủ mọi người để công bố tên hung thủ tương tự như trong Mi cũng là một con người." (Hoàng Kim Oanh) *** Lê Phong một phóng viên chuyên mảng phóng sự của báo Thời thế, có trụ sở tại Hà Nội. Phong là người nhanh nhẹn, vui vẻ, có đôi mắt sáng, linh động, có tài quan sát. Với tài năng đó, Lê Phong thích tham gia vào các vụ án bí ẩn và khám phá các sự thật bị che giấu. Lê Phong là người hâm mộ Sherlock Holmes và áp dụng phương pháp suy luận của Holmes để suy luận. Cộng sự với Lê Phong là Văn Bình, là nhân vật đóng vai trò ghi chép lại quá trình điều tra vụ án.   Với truyện trinh thám, Thế Lữ đã sáng tạo ra cặp nhân vật thám tử Lê Phong và Mai Hương – một chàng và một nàng - được bạn đọc nhiều thế hệ yêu thích. Họ là những người thông minh, có óc phán đoán và khả năng suy luận cao. Họ say mê nghề nghiệp, họ quyết liệt trong việc truy tìm cái ác để bảo vệ và đề cao cái thiện. Nhưng cũng cần phải nhìn ra rằng, cặp nhân vật Lê Phong và Mai Hương chính là hiện thân cho kiểu con người lãng mạn có tính lý tưởng của Tự Lực văn đoàn: trẻ trung, được giáo dục theo mô hình châu Âu, yêu tự do dân chủ, yêu khoa học và luôn hướng tới sự tiến bộ xã hội. ” “    Học tập, vay mượn mô hình tiểu thuyết trinh thám phương Tây, cả Thế Lữ và Phạm Cao Củng đều xây dựng những series truyện về các thám tử như thám tử Lê Phong (Thế Lữ), thám tử Kỳ Phát (Phạm Cao Củng). Cả hai thám tử đều thông minh, lý trí, giỏi suy luận, phán đoán và lập luận logic để điều tra phá án. Thông qua hai thám tử, người đọc dễ dàng nhận thấy dáng dấp thám tử Sherlock Holmes của Conan Doyle. Điều này cũng không có gì là lạ, khi mà quá trình hiện đại hóa văn học đòi hỏi mọi thể loại phải diễn ra gấp rút, phải nhanh chóng đưa văn học Việt Nam hiện đại bước vào quỹ đạo của văn học thế giới. Thành công của Thế Lữ và Phạm Cao Củng là điều đáng ghi nhận và trân trọng. *** Mai Hương và Lê Phong gồm có: 1. Người Phải Chết 2. Người Thiếu Nữ Kỳ Dị 3. Phóng Viên Và Trinh Thám 4. Mỹ Châu Và Trọng Thủy 5. Tin Dữ Trong Giây Nói 6. Ta Còn Gặp Nhau 7. Mặt Đối Mặt 8. Cái Bóng Theo Hình 9. Những Chuyện Kín Của Cô Mai Hương 10. Lê Phong Nổi Giận 11. M.H: Mai Hương 12. Lý Tuyết Loan 13. Năm Bộ Sách Quý 14. Trá Hình 15. Mắc Bẩy 16. Những Phút Cuối Cùng Của Lê Phong 17. Thế Rồi... 18. Những Câu Chuyện Lạ Lùng Của Lê Phong 19. Con Chim Xanh 20. Mai Hương Và Lê Phong *** Thế Lữ, tên khai sinh là Nguyễn Thứ Lễ) là nhà thơ, nhà văn, nhà hoạt động sân khấu Việt Nam. Thế Lữ nổi danh trên văn đàn vào những năm 1930, với những tác phẩm Thơ mới, đặc biệt là bài Nhớ rừng, cùng những tác phẩm văn xuôi, tiêu biểu là tập truyện Vàng và Máu (1934). Trở thành thành viên của nhóm Tự Lực văn đoàn kể từ khi mới thành lập (1934), ông hầu hết hoạt động sáng tác văn chương trong thời gian là thành viên của nhóm, đồng thời cũng đảm nhận vai trò một nhà báo, nhà phê bình, biên tập viên mẫn cán của các tờ báo Phong hóa và Ngày nay. Truyện của Thế Lữ, theo cách xếp quen thuộc được chia làm 3 thể loại chính: truyện kinh dị (Vàng và Máu, Bên đường Thiên Lôi), truyện trinh thám (Lê Phong và Mai Hương, Gói thuốc lá, Đòn hẹn, Tay đại bợm...) và truyện lãng mạn núi rừng (Gió trăng ngàn, Trại Bồ Tùng Linh). *** Trời lạnh nhưng nắng ráo. Ánh mặt trời buổi sáng tươi cười gội xuống những chòm lá cây thu, tươi cười chiếu lên các mặt tường cao lộng lẫy, vuốt ve màu áo của những cô nhan sắc đi cạnh những cậu lịch sự, và soi lấp loáng những xe hơi tối tân đang đỗ ở trước Đông Dương đại học đường. Lớp dinh cơ nghiêm trang yên lặng này hôm đó bỗng như nhuộm màu trai trẻ. Một người thiếu niên ăn mặc chải chuốt quần áo "flanelle"xám, đầu trần mượt láng, tay đeo một chiếc máy ảnh contax nhỏ, nhanh nhẹn bước lên thềm. Chàng ta vui vẻ chào bọn người đứng tụ họp ở bên cửa chính, nhẹ nhàng len qua mấy bọn người khác, lúc vào tới"phòng đợi" .-một cái phòng trống trơn rất cao và rất rộng-Chàng ta đứng ghé vào cần bên phảI là cửa giảng đường. Hai tay xoa vào nhau ra chiều thích ý, người thiếu niên lẩm bẩm: -Mình đã tưởng đến muộn thế mà chưa có gì. Ngoắt quay ra, chàng ta nhìn mấy ông giáo sư, mặc áo rộng đen bằng đôi mắt kính cẩn, nhưng hơi có vẻ ranh mãnh khôi hài rồi lại nhìn mấy người sinh viên trường y học đứng gần đấy. Họ đạo mạo trong bộ lễ phục mới và khấp khởi sượng sùng như mấy chú rể đến nhà tân nhân. Đó là mấy ông y khoa bác sĩ mới đỗ kỳ vừa rồi. Những tiếng nói chuyện vang lên . Câu chuyện phần nhiều nói về cuộc phát bằng long trọng đầu tiên ở nước Việt Nam và về bài luận án rất có giá trị của Trần Thế Đoàn một người đỗ đầu y khoa bác sĩ. Mấy người trông đây trông đó tỏ ý ngạc nhiên: - Gần chín giờ rồi. Mà này, anh có thấy Đoàn đâu không? -Không, có lẽ chưa đến. -Sao bây giờ chưa đến nhỉ? Anh này có vẻ một danh nhân muốn cho mọi người chờ đợi mình... Mấy tiếng cười lanh lảnh ở gần đó. Người thiếu niên chú ý thì thấy một cô thiếu nữ đang đọc tấm bảng yết tên những nhà tân khoa. -Trần Thế Đoàn. Cái tên nghe lạ nhỉ. Rồi cô hỏi một người bên cạnh: - Người thế nào anh biết không? -Biết. Người còn trẻ lắm, giỏi trai nữa. Anh Đoàn không có vẻ một nhà thông thái như các cô tưởng đâu. - Thế chúng tôi tưởng thế nào? Anh chỉ hay nói mò. Một nhà thông thái cũng như người thường chứ sao? Mà nhà thông thái bây giờ có lẽ lại lịch sự hơn các anh nữa. Nhưng không để ý đến vẻ náo động ấy, người thiếu niên cứ đi đi lại lại một cách lơ đãng, thỉnh thoảng đứng lại biên mấy chữ lên một cuốn sổ tay. Rồi lại thản nhiên lững thững đi trong phòng như đi giữa chỗ vắng. Tuy vậy, ai nhận kỹ, cũng thấy đôi mắt anh ta vẫn tinh nhanh và quan sát từng cử chỉ của mọi người, quan sát rất chóng nhưng rất chu đáo. Nét mặt linh động với cái miệng mím lại chốc chốc thoáng qua một nụ cười tỏ ra anh đương nghĩ đến một chuyện gì, mà chuyện ấy hẳn là vuilắm. Đi tới cạnh bọn phóng viên, họ đến đó để làm bài tường thuật, người thiếu niên bỗng trông ra ngoài đường, vẻ mặt sáng hẳn lên, rối vội vã như có việc khẩn cấp vô cùng, anh chàng chạy ra cửa, ở đó, người ta đang dồn lại bắt tay một người mới đến, hấp tấp và lúng túng trong bộ Smoking mới may. Người thiếu niên đến trước mặt người kia lễ phép nói: -Thưa ông, nếu tôi không nhầm, ông chính là ông Trần Thế Đoàn? Người mặc Smoking nhã nhặn thưa: - Vâng, chính tôi. - Còn những ba phút nữa mới mở cuộc phát bằng, vậy tôi muốn xin ông ba phút ấy. - Nhưng... - Ông đừng từ chối, ông Toàn quyền chưa đến. Tôi có một việc rất quan trọng muốn thưa với ông. Rồi dìu Đoàn vào một góc phòng, người thiếu niên mỉm cười rút sổ tay đưa mắt nhìn Đoàn và nói: - Xin ông thứ lỗi cho, tôi biết ông vội lắm, nhưng ông còn đủ thời giờ. Tôi là một người đi nhặt tin cho báo "Thời Thế" và muốn phỏng vấn ông ở đây. Đoàn có vẻ ngạc nhiên và tỏ ý khó chịu: -Ông phỏng vấn tôi? - Vâng, tôi biết ông vẫn khiêm tốn, ông không ưa việc vô ích ấy, và không nhận cho ai phỏng vấn bao giờ. Nhưng báo "Thời Thế" là một báo đứng đắn rất xứng đáng được truyền những lời quý hóa của một nhà thông thái của quốc dân. Không để Đoàn ngắt lời, người thiếu niên lại nói: -Vả lại cuộc phỏng vấn sẽ rất nhanh chóng. Hai phút là cùng. Tôi sẽ đề tựa là: "Cuộc phỏng vấn vội vàng hai phút với bác sĩ Đoàn, tác giả tập luận án về những ánh sáng trong sự kinh nghiệm của y học Đông Dương". Thưa ông, những điều dẫn chứng trong y lý đó là do sách tây dịch hay ông đọc trong nguyên bản? Giọng nói thành thực và đôi mắt vui vẻ của người thiếu niên, khiến bác sĩ Đoàn không nỡ cự tuyệt. Đoàn ôn tồn đáp: -Tôi đọc toàn ở các sách Tàu. -Tôi cũng đoán thế. Nhưng chữ nho ông mới học, hay trước kia ông đã học rồi. . . Trần Thế Đoàn đáp: -Tôi tưởng điều đó có quan hệ gì... - Có chứ, xin ông cứ cho biết... - Tôi cần phải khảo cứu đến các sách Tàu nên mới để tâm học cẩn thận, trước kia thì không. -Đó là một điều chưa báo nào biết mà nói đến. Ngoài việc y học, ông còn để tâm đến khoa học nào khác nữa không -Có,có vật lý học và hóa học tôi vẫn chuyên chú đến, có hai khoa ấy giúp ích cho những cuộc nghiên cứu của tôi sau này rất nhiều, nhưng bây giờ hết giờ rồi, nếu ông muốn, tôi xin đáp sau khi về nhà . Người thiếu niên bỗng hỏi một câu đột nhiên: - Lúc nãy ông ở nhà viết một bức thư dài phải không ? Ông cần viết đến nỗi chút nữa thì lỡ mất một việc quan trọng là hôm nay có cuộc phát bằng long trọng. Đoàn kinh ngạc nhìn người thiếu niên thì anh ta tiếp: - Mà lại vừa nhận được một bức thư lạ, một bức thư làm cho ông bối rối có phải không?   Mời các bạn đón đọc Mai Hương và Lê Phong của tác giả Thế Lữ.