Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Tất Cả Vì N

Trong một căn hộ tại tòa chung cư cao tầng “Skyrose Garden”, người ta đã phát hiện ra thi thể của Noguchi Takahiro và vợ bị chết trong hoàn cảnh kỳ lạ. Cùng ở trong căn hộ với họ lúc đó là bốn người trẻ hơn hai mươi tuổi, có nam có nữ. Qua những lời làm chứng của họ, một sự thật đáng kinh ngạc dần dần được hé lộ... N, nhân vật được mỗi người trong số họ dành tất cả tình thương mến, rốt cuộc là ai? Đây là tác phẩm trinh thám đầu tiên của Minato Kanae nói về tình yêu thuần khiết, mang đầy nỗi u buồn. *** Tất cả vì N tiếp nối thành công của tiểu thuyết đầu tay “Thú tội”. Tác phẩm không hề dễ đọc hoặc có những tình huống nghẹt thở và gay cấn như những tác phẩm khác, nhưng Tất cả vì N vẫn sẽ làm hài lòng những ai yêu mến Minato Kanae. Một vụ án với những lời khai chặt chẽ với nhau đến hoàn hảo, hung thủ cũng đã tìm ra, chân tướng đã lộ diện. Kết thúc? Không! Với cuốn sách này, yếu tố trinh thám chỉ là đòn bẩy để đẩy “tình yêu thuần khiết”  lên đỉnh điểm. Thế nhưng, vì yêu mà hận, mà tội lỗi thì cũng không còn quá xa lạ với dòng sách văn học hiện nay. Vậy điều gì khiến Tất cả vì N trở nên khác biệt? Nơi giao thoa của những “vết sẹo” quá khứ Mở ra bằng hình ảnh một cuộc thẩm tra, nhịp văn và cái bầu không khí lúc này khiến người ta ngột ngạt như thể đang ngồi trong chính căn phòng kín bị tra hỏi. Xoáy sâu vào đau thương, tác giả gắn kết 6 con người lại, mỗi người là một mảnh ghép của bức tranh đượm buồn mà điểm giao thoa giữa họ chính là những “vết sẹo” từ cả quá khứ lẫn hiện tại.  Một vụ án mạng, không quá bí ẩn, cũng không hẳn còn điều gì đó khúc mắc với những gì chúng ta có ban đầu, Minato Kanae đã dẫn dắt độc giả từ vạch đích, khi mà hung thủ đã lộ diện, bằng chứng gây án cùng những lời khai của những người liên quan đều trùng khớp một cách tuyệt đối.  Nhưng, quả thực không có gì là tuyệt đối, những thứ ta nhìn thấy ban đầu không phải hoàn toàn lúc nào cũng là sự thật, hoặc có thể đó chỉ là một nửa sự thật. Nửa còn lại được che dấu vì mỗi người đều hướng tới một điểm khác nhau, vì “người đó” mà hi sinh bản thân, nói dối, thậm chí trở thành kẻ sát nhân. Và cho đến cuối chuyện, sự thật ấy, mới thực sự lộ diện.  Chất “lạ” trong một cuốn sách tình yêu mang hơi thở trinh thám Thay vì sẽ có một “thám tử” lần theo dấu vết để chỉ ra hung thủ cùng cách thức gây án thì trong cuốn sách này, độc giả chính là người đóng vai trò ấy.  Và sự thật cũng không hiện hữu một cách rành mạch, như để khiến người đọc thêm lạc lối trong mê cung của sự tò mò mà cũng không kém phần rối trí, lời kể của các nhân vật không chỉ xuôi theo một trình tự nhất định mà luôn đan xen giữa thực tại và quá khứ. Có lẽ đây chính là thách thức dành cho độc giả tự mình sắp xếp, xâu chuỗi và tự mò mẫm lối thoát. Đây có thể được coi là một cuốn tiểu thuyết khá “lạ”, không chỉ so với những cuốn sách cùng thể loại mà còn so với giới tiểu thuyết nói chung. Cuốn sách dẫn dắt người đọc bằng ngôi kể thứ nhất, nhưng không phải chỉ có một người kể chuyện, mà ở đây là góc nhìn từ tất cả các nhân vật tham gia vào diễn biến câu chuyện chung, những người vẫn còn có thể lên tiếng.  Qua lời kể của mỗi cái tên N, câu chuyện dường như đi theo một hướng khác nhau, nhưng cũng nhờ đó mà diễn biến câu chuyện được nhìn một cách đa chiều, khiến con người ta có thể thấu hiểu tính cách và con người của nhân vật, cả cái cách nỗi đau quá khứ ảnh hưởng tới sự trưởng thành của một con người. Bức tranh xã hội phức tạp Hơn cả một cuốn tiểu thuyết trinh thám, ở Tất cả vì N hội tụ những góc khuất trong bức tranh xã hội phức tạp. Đó là nạn bạo lực gia đình, là những hành động kì quái và điên rồ- thứ mà mình phân vân đó có được gọi là trầm cảm hay không- đến từ đổ vỡ trong hôn nhân, từ khái niệm “yêu” và “được yêu” cho tới những thứ ẩn sâu trong bản chất con người, bên ngoài ánh hào quang hay ấn tượng ban đầu.  Thế nào là tình yêu thuần khiết? Có lẽ đây chính là câu hỏi lớn nhất được đặt ra xuyên suốt tác phẩm. Từ một phụ nữ đem tình yêu để bao biện cho hành vi bạo lực, cho tới đứa trẻ tự phủ nhận việc mình là một “đứa trẻ đáng thương” chỉ để giữ hình tượng đẹp về tình yêu. Tình yêu ở đây, nó là thứ mà con người ta luôn chấp mê bất ngộ mà chìm đắm để rồi khi quay về với thực tại thì không thể nào chấp nhận nổi, nhưng nó cũng là sự hi sinh thầm lặng, mỗi người chỉ nghĩ cho người quan trọng nhất với mình, đều tìm cách để người ấy không bị tổn thương. Giá trị đích thực của văn học Trong cuốn sách này cũng chứa đựng hai tác phẩm văn học nhỏ mà tác giả của chúng, Nishizaki, sau tất cả, có lẽ là người đáng thương nhất. Từ một đứa trẻ chạy trốn quá khứ, tìm đến văn học để cố chứng tỏ thứ “tình yêu” mà mình được nhận, vậy mà cho tới khi chấp nhận quá khứ và tưởng chừng tìm được chân ái, phút cuối cùng anh ta lại như bị phản bội, và rồi cũng chính vì tình yêu mà anh chấp nhận trở thành kẻ sát nhân. Hình ảnh Nishizaki hiện lên chẳng khác nào con chim thiêu thân trong tác phẩm của mình, cũng chính là hình ảnh xuất hiện ở bìa cuốn sách. Tất cả vì N mang tới cho độc giả một cái nhìn hoàn toàn mới về tình yêu, đây có thể là cuốn sách đáng lưu tâm, nhất là đối với những ai vừa hứng thú với thể loại tình cảm, vừa yêu thích thể loại trinh thám, nhưng cũng không hẳn là một cuốn tiểu thuyết xuất sắc ngay từ cảm nhận ban đầu. Cuốn sách này sẽ dành để tư duy, nhìn nhận và suy luận nhiều hơn là chỉ những gì hiện hữu trên từng trang giấy! *** Tôi tên là Sugishita Nozomi, hai mươi hai tuổi. Là sinh viên năm thứ tư chuyên ngành Văn học Anh khoa Văn Đại học K. Địa chỉ các anh muốn hỏi là địa chỉ thường trú hay tạm trú? Hay cả hai? Địa chỉ thường trú của tôi là ở nhà số 5-37 thôn Aokage huyện XX, tỉnh Aichi. Vâng, nó là một ngôi làng, không phải trên đất liền đâu mà là làng trên đảo. Còn địa chỉ hiện tại của tôi là ở phòng số 102 nhà trọ Nobara-so, số 2-4, quận XX, Tokyo. Nó chỉ là một căn hộ cho thuê hai tầng tồi tàn bằng gỗ, không thể so sánh với khu chung cư cao cấp của anh Noguchi được. Tôi gặp vợ chồng anh Noguchi mùa hè hai năm về trước. Lúc đó tôi đang cùng với Ando - anh bạn thân hơn tôi một tuổi sống cùng nhà trọ - đi du lịch tới đảo Ishigaki ở Okinawa. Mục đích chuyến đi là để chúc mừng Ando vừa tìm được việc. Chúng tôi có duyên gặp vợ chồng anh Noguchi do cùng đi lặn biển với họ. Chúng tôi thuê một nhà nghỉ rẻ tiền do người dân mở, còn hai vợ chồng nhà họ ở tại một khách sạn nghỉ dưỡng nổi tiếng. Chúng tôi cùng thuê một tour dịch vụ lặn biển, cả bốn người đều lặn theo lộ trình cho người mới bắt đầu. Đây mới là lần lặn biển thứ năm của tôi và Ando, nhưng cũng chẳng sao vì tôi và cậu ấy dù không cùng quê quán nhưng từ khi còn nhỏ đều đã quen với biển, nên khi lặn xuống không có cảm giác “sợ sệt” gì cả. Thuyền chúng tôi cập bến ở một hòn đảo nhỏ không người. Chặng đầu tiên chạy từ bờ cát xuống nước, cái bình nặng trịch đeo sau lưng khiến chúng tôi muốn phàn nàn, nhưng rồi chúng tôi đã hoàn toàn mê mẩn ngắm nhìn những đàn cá nhiệt đới nhỏ nhiều màu hiện ra trước mắt mình. Ở chặng thứ hai, chúng tôi ra ngoài khơi bằng thuyền. Vùng biển này rất nổi tiếng vì có thể nhìn thấy cá nạng hải, chúng tôi quyết tâm đăng ký lộ trình đắt đỏ này cũng với hy vọng được ngắm chúng. Vậy mà chị Naoko - vợ anh Noguchi lại bị hoảng loạn khi đang lặn dưới tầm sâu mười mét. Chị ấy dù đã trèo lên thuyền nhưng vẫn không hết run, thế là chúng tôi đành quay về mà chưa kịp nhìn thấy gì. Thực sự chúng tôi đã thất vọng và định đòi họ trả lại nửa số tiền của chuyến đi, cũng may là tôi chưa kịp nói ra. Tối hôm ấy vợ chồng anh Noguchi mời chúng tôi đến khách sạn dùng bữa tối. Họ nói lý do là muốn xin lỗi, nhưng có vẻ anh Noguchi đã có ý mời chúng tôi từ trước đó rồi. Hồi ấy tôi và Ando mê chơi cờ shogi... sở thích chẳng hợp với một nữ sinh đại học như tôi nhỉ? Tôi được giáo viên dạy chơi cờ thời còn học cấp ba. Ở giờ nghỉ giải lao giữa chặng một và chặng hai, chúng tôi trải bàn cờ shogi di động dưới bóng cây dừa trên bãi biển, một tay cầm cơm nắm ăn trưa, tay còn lại di chuyển quân cờ. Anh Noguchi có vẻ cũng thích cờ shogi. Mặc dù chỉ nhìn từ xa nhưng anh cũng đã nhận ra trình độ của chúng tôi, bản thân anh hình như cũng muốn đọ với chúng tôi một ván. Nói “trình độ” vậy thôi chứ cả hai chúng tôi đều chỉ là dân nghiệp dư. Tôi chỉ đơn giản là bắt chước những gì đã học lỏm được từ các cao thủ cờ mình từng xem trên truyền hình mà thôi. Bữa tối hôm ấy rất tuyệt. Lần đầu tiên trong đời tôi được ăn con tôm hùm to như vậy đấy. Sau bữa tối chúng tôi lên quán bar sáng rực đèn ở tít trên tầng thượng. Chúng tôi cùng uống rượu và Ando đã nói chuyện suốt với anh Noguchi. Thật trùng hợp là công ty nhận Ando vào làm cũng chính là công ty anh Noguchi đang làm việc. Hai người họ đã đấu với nhau một ván cờ thay cho việc chào hỏi xã giao thường lệ. Tôi và chị Naoko vừa xem hai người họ đánh cờ, vừa nói chuyện. Phần lớn chủ đề câu chuyện xoay quanh lớp dạy nấu ăn mà chị Naoko đang theo học. Tôi có nhớ chị ấy từng nói, nếu sau này có dịp theo chồng đi công tác nước ngoài, việc tiếp khách bản địa ở nơi đó sẽ là bổn phận của người vợ. Chị tuy nấu ăn không ngon nhưng vì không muốn cản trở con đường thăng tiến của chồng, nên chừng nào còn ở Nhật Bản chị vẫn sẽ cố gắng học nấu ăn. Họ quả là một đôi vợ chồng lý tưởng. Anh Noguchi làm ở công ty thương mại M thuộc một công ty thương mại tổng hợp lớn, có vẻ ngoài ưa nhìn, cả cử chỉ và cách nói chuyện đều toát lên phong thái đĩnh đạc. Còn chị Naoko thì là con gái của vị quan chức, dáng cao da trắng đẹp như người mẫu, không chỉ thế tính cách cũng hiền dịu. Tôi và Ando đã luôn ngưỡng mộ họ kể từ lần đầu gặp mặt. Chúng tôi giống như thể đã được khai sáng - thì ra có những con người như thế này tồn tại thật. Sau đó chúng tôi được hai người họ mời đến thăm nhà sau khi về Tokyo, làm sao mà từ chối được chứ. Nhà của hai người họ ở tầng bốn mươi tám khu chung cư cao cấp “Skyrose Garden” năm mươi hai tầng nổi tiếng. Nhưng nghe nói đó cũng chỉ là nhà ở tạm thời khi hai vợ chồng còn ở Nhật Bản thôi, không biết sau này sẽ ra sao... Nghe nói anh Noguchi xuất thân từ một gia đình bề thế, nhưng chúng tôi chưa bao giờ được nghe anh kể chi tiết chuyện gia đình. Họ cũng từng vài lần mời chúng tôi đi ăn ở những nhà hàng cao cấp, loại được đánh dấu sao trên sách hướng dẫn du lịch ấy. Nhưng nếu chơi cờ tướng thì thường là họ mời chúng tôi đến nhà riêng. Mỗi tháng chúng tôi được mời qua chơi khoảng một, hai lần. Hầu như lần nào tôi cũng đi cùng Ando, nhưng tháng Tư năm ngoái Ando bắt đầu đi làm nên từ đó tôi hầu như ghé qua một mình. Xin đừng hiểu lầm, khi chúng tôi chơi cờ luôn có chị Naoko ở đó. Gần như toàn là Ando chơi cờ cùng anh Noguchi. Ando từng kể do làm cùng phòng với anh Noguchi nên giờ giải lao hay được anh rủ cùng chơi cờ. Tôi cũng nhiều lần cùng chị Naoko ra ngoài chơi. Khi thì đi xem phim, khi đi nghe nhạc, khi đi mua sắm, khi cùng đi ăn... Tôi được chị chiều chuộng như cô em gái nhỏ vậy. Em gái cơ đấy, tôi đúng là trơ trẽn thật nhỉ. Xét cả về ngoại hình lẫn học thức, chúng tôi đều một trời một vực mà. Chị Naoko có nói chưa từng sống một mình bao giờ nên muốn xem phòng của tôi ra sao, vì vậy chị đã ghé thăm căn hộ tồi tàn của tôi đúng một lần. Sau khi nhìn qua một lượt căn phòng rộng sáu chiếu và hầu như không có đồ đạc ấy, chị lặng thinh một lúc rồi như thể nhớ ra điều gì đó, thốt lên: “Căn phòng đẹp quá. Như thể ‘Ngôi nhà nhỏ trên thảo nguyên’ vậy!” Tôi đâu có sở thích sưu tầm mấy món đồ vật nhỏ xinh, nội thất cũng chẳng gợi nhớ gì về cảnh đồng quê cả. Không lẽ chị thấy trong phòng tôi một chút không khí gì của những người đi khai phá, giống như bộ phim truyền hình đó sao? Vài ngày sau, chị gửi cho tôi một cái bàn trang điểm rất đẹp, giống kiểu nội thất người ta sắm sửa khi mới về làm dâu, bảo là để cảm ơn vì đã đi chơi cùng với chị. Nhưng đến khoảng tháng Mười một không thấy chị rủ tôi cùng đi đâu nữa. Tôi nhớ là mình chưa từng nói gì sai làm mất lòng chị. Lần cuối cùng gặp nhau chị còn nói về những dự định như là “Chị muốn đi ăn một bữa tối có nhạc sống” hay “Thấy bảo tháng sau có quán cà phê này sắp mở cửa, đẹp lắm đấy”. Tôi thấy hơi lo nên đã gửi tin nhắn đến di động của chị: “Đã lâu không gặp. Chị có khỏe không?” Nhưng tin nhắn không gửi đi được. Điện thoại cũng không gọi được nên ngày nghỉ tôi đành gọi điện vào số di động của anh Noguchi. Mặc dù vợ chồng anh Noguchi sống ở nơi đắt đỏ như vậy nhưng nhà lại không có điện thoại bàn, tôi cũng không có địa chỉ mail của anh. Sau khi nghe tôi nói không gọi được vào di động của chị Naoko, anh Noguchi lập tức chuyển máy cho chúng tôi nói chuyện. Chị nói “Chị xin lỗi, gần đây chị không được khỏe”, đúng như tôi đã đoán. Tôi ngạc nhiên khi nghe chị giải thích “Chị không đi ra ngoài, dùng điện thoại cũng chẳng để làm gì nên chị cắt luôn hợp đồng điện thoại”. Chị thì nói là không có chuyện gì, nhưng tôi chỉ lo chị có bệnh nặng gì đấy nhưng giấu tôi. Vì vậy, tôi rủ Ando - gần đây do bận bịu công việc nên ít qua lại với họ - cùng đến chung cư thăm chị. Chúng tôi đến vào trưa thứ Bảy của tuần thứ hai tháng Mười hai. Giọng nói của chị trên điện thoại nghe không được khỏe và khi gặp trực tiếp, tôi thấy da mặt vốn trắng trẻo của chị Naoko đã tái xanh, như thể khuôn mặt chị sắp trở nên trong suốt và biến mất vậy. Chỉ nhìn thôi tôi cũng thấy xót. Nhưng hai vợ chồng anh chị ấy vẫn ân cần tiếp đón chúng tôi. Nhà anh Noguchi có một phòng nhỏ dành cho sở thích cá nhân, kiểu giống như phòng đọc sách, hình như anh cũng thích nghe nhạc jazz nên phòng có cách âm. Chúng tôi thường chơi cờ trong phòng đó nhưng hôm ấy anh mang bàn cờ ra phòng khách và chơi cờ cùng Ando ở ngoài ấy, để lại tôi trong phòng pha trà và nói chuyện cùng chị Naoko. Lúc đầu tôi đã yên tâm vì có vẻ chị Naoko khỏe mạnh hơn ấn tượng khi thoạt nhìn, nhưng càng lúc tinh thần chị càng trở nên bất an, thỉnh thoảng chị lại im bặt không nói gì, nước mắt rơi lã chã, tay run rẩy. Anh Noguchi bình thường lúc chơi cờ tập trung đến mức điện thoại rung cũng không thèm nghe, nhưng có vẻ hôm ấy anh vừa chơi vừa để mắt đến chị Naoko. Đến khi chị Naoko đột ngột bật khóc to thành tiếng, anh lập tức đứng dậy vừa ôm chị vừa nói “Không sao, không sao mà” rồi dẫn chị vào phòng phía trong. Mang tiếng là đến thăm nhưng cảm giác như chúng tôi đang làm phiền vợ chồng họ vậy. Tôi và Ando xin lỗi anh Noguchi rồi xin phép ra về. Anh Noguchi tiễn chúng tôi ra cửa. Khi đến cửa cả hai cùng lúc nhận ra “Ơ, sao lại có cái này ở đây?” Không biết phải diễn đạt cảm giác khó hiểu lúc đó thế nào, chúng tôi chỉ nhìn chằm chằm vào vật ấy. Là cái khóa xích. Ngoài nó ra trên cánh cửa còn có hai chỗ bắt khóa nữa, dùng loại khóa tối tân mà tôi cũng không hiểu phần nào là khóa, có vẻ rất phù hợp với một chung cư an ninh cẩn mật, nhưng phía dưới chúng lại thêm một cái khóa xích - loại khóa rẻ tiền hay bán ở các siêu thị mà căn hộ nhà tôi cũng dùng. Thế nên chúng tôi mới thấy khó hiểu, nhưng không chỉ có thế.   Mời các bạn đón đọc Tất Cả Vì N của tác giả Minato Kanae & Nga Pháp (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Sao Đen - Triệu Huấn
Trong khi hầu hết tiểu thuyết tình báo ở nước ta đều dựa vào một nguyên mẫu có thật: “Ông cố vấn” của Hữu Mai có nguyên mẫu là điệp viên huyền thoại Vũ Ngọc Nhạ; “Tiếng nổ trên chiến hạm Amyot D’inville” của Văn Phan đi từ câu chuyện của Anh hùng liệt nữ Nguyễn Thị Lợi; “Ông tướng tình báo với hai bà vợ” của Nguyễn Trần Thiết cũng là câu chuyện hoàn toàn có thật... thì “Sao đen” của Triệu Huấn lại có “nguyên mẫu” từ... “nhiều trong một” hư cấu mà thành. Ngay sau khi xuất hiện, (năm 1986) tiểu thuyết tình báo (TTTB) “Sao đen” (sau thành tên của cả bộ sách) của nhà văn Triệu Huấn đã gây được hiệu ứng nồng nhiệt với độc giả. Số lượng in hơn 200.000 bản mà nhiều người vẫn phải mua sách “chợ đen”. “Ly hương” (tập 2) cũng có số lượng không kém. “Cái tẩu” (tập 3), “Những người đến muộn” (tập 4) và “Vũ điệu thoát y” (tập 5) in vào thời điểm TTTB đã qua thời hoàng kim mà vẫn ở mức 30.000 bản... Cho đến nay, cả 5 tập đều đã được NXB CAND tái bản nhiều lần. Những con số lặng lẽ khiêm nhường mà có sức lan tỏa khi phần nào nói được sức hấp dẫn của “Sao đen”. Văn học là nhân học! “Sao đen” đã có cái kết nhân bản và hòa hợp, bởi tác giả có quan điểm rõ ràng: cần phải kết thúc đau thương và bớt tranh chấp, vì cuộc chiến 30 năm nhưng lại nhỏ bé so với chiều dài lịch sử dân tộc, nên cần lấy cuộc sống con người với con người làm trọng. Như khi trả lời phỏng vấn một phóng viên nước ngoài, ông cũng nói: “Quá khứ nên khép lại, nhưng không có nghĩa là bỏ và quên nó đi, bởi lịch sử là bất biến!”. *** Vừa hành quân từ Điện Biên Phủ về Phan Lương nghỉ ngơi được vài ngày thì đồng chí đại đội trưởng gọi tôi lên gặp riêng. Anh nói: - Cấp trên có lệnh điều cậu đi nhận công tác mới. Mình cũng chưa biết nội dung công việc, nhưng mình cứ chúc cậu gặp nhiều may mắn. Chỉ có điều là cả trung đoàn ta trên chỉ gọi mình cậu, do đó cậu cũng không nên nói rộng chuyện này cho ai. Chia tay anh em thì cậu cứ nói ra được chuyển sang đơn vị khác. Việc điều động quả bất ngờ với tôi. Thật tình tôi luôn luôn bị ám ảnh về thành phần giai cấp của của mình, khó mà có thể nhận được một sự tín nhiệm lớn lao. Tôi biết có một số con em địa chủ lúc đó buộc phải rời khỏi quân đội. Một số tuy là rất ít có vấn đề đối với nông dân được trả về địa phương để đối chứng với cuộc đấu tranh giai cấp. Phải chăng tôi cũng thuộc loại này? Tôi thấy tâm hồn mình u tối lại. Nhưng rồi lý trí cũng đánh thức tôi. Khi ở nhà tôi hãy còn trẻ đã làm nên tội lỗi gì. Hơn nữa vùng quê tôi còn trong địch hậu, chưa có cải cách ruộng đất. Như vậy làm gì có chuyện nông dân đòi tôi về. Thế là tôi lại yên tâm vui vẻ lên đường. Tôi nhớ mãi hôm chia tay đồng đội. Anh em nhìn tôi lưu luyến, nhưng cũng có những cặp mắt chứa đựng những dấu hỏi im lặnng. Đã vào sinh ra tử với nhau ngoài mặt trận, đã chân thành với nhau trong chỉnh quân chính trị thì mối thiện cảm với nhau cũng đã được xây dựng bền vững. Chúng tôi ôm nhau xúc động. Tôi ra đi một mình không ai đưa tiễn. Chỉ khi lên đến Phòng chính trị sư đoàn đồng chí trợ lý cán bộ mới đưa cho tôi giấy tờ và một bức thư nhỏ. Tôi mở ra đọc vội. Bức thư chỉ vẻn vẹn có mấy dòng: Cháu Phan Quang Nghĩa. Mẹ cháu ốm. Cậu xin phép cho cháu về thăm, tiện chuyến về Khu Ba công tác. Cậu chờ cháu ở xóm Trung xã Hoàng Văn Thụ, Đại Từ - Thái Nguyên. Cháu phải thu xếp nhanh, cậu sợ không kịp. Cậu của cháu - Nguyễn Hữu Đức 11 tháng 6 năm 1954 Thì ra câu chuyện chỉ có thế. Tôi vừa mừng vừa lo cho mẹ tôi. Không hiểu tại sao cậu Đức lại biết tôi hành quân về mà xin cấp trên cho tôi nghỉ phép. Câu chuyện đơn giản thế mà đại đội lại không thông báo cho tôi rõ ràng? Tại sao tôi lại phải mang toàn bộ tư trang và tấm giấy phép lại kèm theo cả giấy chuyển cung cấp về P.46? Khi tôi chưa thể lý giải được những sự kiện trên thì ký ức về người cậu họ lại dần dần tái hiện trong tôi lọc qua những lớp bụi thời gian mờ ảo. Cậu Đức là em họ xa của mẹ tôi. Là người có học hành đỗ đạt nên cậu nổi bật trong số những người thân bên ngoại. Quê mẹ tôi ở xa nên từ nhỏ tôi chỉ về thăm vài lần và cũng chưa được gặp cậu. Nhưng lần nào về tôi cũng được nghe họ hàng nói về cậu. Mười hai tuổi đầu cậu đã học xong những bộ sách chữ nho Luận ngữ, Mạnh Tử, Đại học, Trung Dung... dày cộp mà nhiều người khác sôi kinh nấu sử từ thuở thiếu thời tới lúc vợ con đàn đống mà vẫn chưa thông hiểu chữ nghĩa của Thánh hiền. Gia đình thấy cậu sáng dạ và cái chữ Nho cũng đến thời mạt vận nên quyết định cho cậu theo tân học. Nhà ông bà nghèo nhưng cả họ xúm vào giúp đỡ, cậu được ra tỉnh theo việc đèn sách và cậu đã không phụ lòng cha mẹ. Tám năm sau cậu kiếm được cái bằng "đíp-lôm", làm rạng danh tổ tông làng xóm. Cậu không tiếp tục học nữa mà đi kiếm việc làm. Nhưng hình như cậu cũng không gặp may vì tuy chí thú như vậy cậu cũng chẳng đưa được đồng nào về nuôi dưỡng mẹ cha, đền ơn họ mạc. Năm 1944 không còn ai gặp cậu. Người đồn cậu bị vào tù, người nói cậu trốn đi Xiêm. Năm 1945 cách mạng thành công mọi người mới vỡ lẽ là cậu theo Việt Minh lên chiến khu hoạt động. Tôi đã tưởng tượng ra cậu và luôn luôn tự hào qua những giai thoại về cậu được bà con kể lại. Mãi tới sau ngày kháng chiến toàn quốc, trong một lần đi công tác cậu mới tạt qua thăm gia đình chúng tôi. Tôi được nhìn cậu lần đần trong bộ ka ki màu vàng của Vệ quốc quân, một khẩu súng ngắn đeo lệch bên sườn, một chiếc thắt lưng tổ ong to bản "rất đúng mốt" vào những năm 47, 48. Mẹ tôi rất kiêu hãnh về người em họ của mình, đặc biệt khi cậu ngồi nói chuyện về thời sự đất nước và quốc tế trước đám cử tọa gọi là am hiểu nhất của cánh nội chúng tôi. Tôi thấv trái tim mình tràn đầy lòng yêu nước, và nếu như lúc này người ta chấp nhận cho tôi đứng dưới lá Quân kỳ thì tôi sẽ không bao giờ lùi bước trong những trận đánh đầu rơi máu chảy. Đêm hôm đó hai cậu cháu tôi nói chuyện với nhau đến khuya. Tôi ngỏ ý xin đi theo cậu nhưng cậu chê tôi còn nhỏ quá. Cậu khuyên tôi cố gắng học hành, sớm muộn nguyên vọng của tôi sẽ được thực hiện. Từ đó thỉnh thoảng tôi có thư từ qua lại với cậu theo nhiều địa chỉ. ... Mời các bạn đón đọc Sao Đen của tác giả Triệu Huấn.
Cổ Cồn Trắng - Nguyễn Như Phong
Đây là cuốn tiểu thuyết điều tra hình sự viết về chiến công của những người chiến sĩ công an đã dũng cảm, ngoan cường đấu tranh với bọn tội phạm buôn bán và tàng trữ ma tuý, đem lại bao nhiêu bất hạnh và đau khổ đối với những gia đình có con em trót sa vào vòng nghiện ngập. Lồng vào trong đó là những hoàn cảnh, những bi kịch, số phận, cuộc đời của những con người trực tiếp, gián tiếp, bị buộc phải theo hoặc chủ động lao vào guồng xoáy đầy tội lỗi đó.  Cuốn tiểu thuyết cho chúng ta hiểu tường tận hơn những công việc, những chiến công đôi khi là thầm lặng, và cả sự hy sinh, mất mát cũng rất thầm lặng, để có thể mang lại yên bình, hạnh phúc cho nhân dân của những người chiến sĩ công an đấu tranh chống tội phạm. Bởi bên cạnh cương vị là một cán bộ làm việc vì nước vì dân, trong gia đình các anh vẫn là những người con, người chồng, người cha. Phải làm sao đây để cân bằng cả hai nhiệm vụ (chưa biết bên nào nặng nề, phức tạp và khó khăn hơn) để có kết quả tốt đẹp cho mình, cho mọi người.  Đó là bài toán mà các chiến sĩ phải tìm ra lời giải thích đáng nhất. Và lời giải sẽ được tìm trong bộ tiểu thuyết này. Vẳng nghe đâu đây tiếng hát Ai giữ ngọn lửa qua đêm đen? Ai đếm những bàn chân thân quen, gửi làn hương thầm theo về trong gió, suốt chặng đường gian lao.... *** Đêm đã về khuya. Trời cuối thu đầu đông se lạnh. Chạy sát ven hồ Thủy Nguyệt là con đường nhỏ mang cái tên của một danh nhân rất mực tài hoa: Cao Bá Quát. Trên đường, thấp thoáng bóng những đôi trai gái đi như dựa vào nhau để tận hưởng sự êm ả, thanh khiết của trời thu. Cuối phố, nơi có những cây hoa sữa cổ thụ mốc thếch rêu phong là một quán bar khá đẹp mang tên Hoa Sữa. Đây là một biệt thự kiến trúc hoàn toàn Pháp đã có tuổi thọ hơn bảy mươi năm. Chủ của ngôi biệt thự là một nhân sĩ được Nhà nước kính trọng, có lẽ vì vậy mà trong hồi cải tạo tư sản những năm cuối thập kỷ 50 của thế kỷ trước, ngôi nhà đã không bị tịch thu. Năm 1990, ông qua đời để lại ngôi nhà cho hai người con trai. Người con cả là một Thiếu tướng quân đội thì được ở toàn bộ ba phòng tầng một và khu sân trước rộng hơn năm chục mét vuông. Người con thứ hai là một kỹ sư hóa chất ở toàn bộ tầng trên. Nhà Thiếu tướng có ít người, hơn nữa ông cũng được quân đội chia cho một khu đất khá đẹp ngoài ngoại ô, và ông đã xây ngôi nhà bốn tầng. Từ khi có ngôi nhà mới ông hầu như không về phố ở nữa cho nên ông đem tầng dưới cho thuê mở quán bar. Người đứng ra thuê là một tay kinh doanh bất động sản khá tiếng tăm tên là Trần Dung và có biệt hiệu là Dung Tỉ Phú. Trần Dung cho sơn sửa lại với một gam màu vàng nhạt và trang trí quanh tường bằng những bức tranh phiên bản của những họa sĩ nổi tiếng như Văn Cao, Bùi Xuân Phái, Tô Ngọc Vân, Nguyễn Phan Chánh và đặc biệt là âm nhạc trong quán thường là nhạc cổ điển của Mozart, Chopin, Betthoven... Nhờ những cái đó, quán bar này đã tạo ra một bản sắc riêng biệt mà chỉ có những người ưa thích sự sâu lắng, nhẹ nhàng mới lui tới. Bar mở cửa từ 10 giờ 30 sáng và đóng cửa khi nào hết khách, nhưng thường thường là khoảng 12 giờ đêm thì vắng hẳn. Hôm nay cũng vậy, khi con chim cu từ trong chiếc đồng hồ quả lắc mang nhãn hiệu ODO thò đầu ra gáy mười một tiếng thì trong quán chỉ còn lại có bốn người. Hai thanh mến ngồi phía ngoài cửa và uể oải ngáp ngủ, còn phía góc trong của phòng có hai người vẫn đang nói chuyện - đó là một người đàn ông và một phụ nữ. Người đàn ông tên Tiên, biệt hiệu là Tiên Chỉ đã cứng tuổi, có mái tóc chải cẩu thả, mặt tròn, mắt nhỏ và môi mỏng. Tiên Chỉ tên chính là Hoàng Văn Tiên và do anh ta có tật khi nói chuyện cứ hay dùng ngón trỏ chỉ vào người đối thoại nên mới có biệt hiệu là Tiên Chỉ. Tuy nhiên, biệt danh Tiên Chỉ còn mang một ý nghĩa khác. Tiên vốn là một tay giang hồ có tiếng ở thành phố H, đã từng hai lần lĩnh án tù, tuy mỗi lần chỉ vài ba năm. Tiên được coi là thủ lĩnh của một băng nhóm tội phạm hoạt động theo kiểu xã hội đen trên các lĩnh vực cờ bạc, cho vay nặng lãi, bảo kê vũ trường, kinh doanh bất động sản; và ngoài ra, Tiên còn lập cả công ty kinh doanh hàng điện máy, điện tử. Là kẻ mưu mẹo, có ý chí, được giới giang hồ nể trọng, xếp vào hàng chiếu trên, vì thế Tiên Chỉ thường được gọi thêm là "Cụ Tiên Chỉ". Năm 1996, Tiên ra tù và từ đó người ta thấy anh ta hiền lành hẳn. Tuy nhiên, cảnh sát hình sự thì vẫn coi anh ta là đối tượng điểm. Còn cô gái khoảng gần 40 tuổi - đó là Oanh, biệt hiệu là Oanh Sói. Cũng là một ả giang hồ, là nữ quái nổi tiếng một thời của đất cảng Hải Phòng. Oanh Sói không đẹp nhưng có nét hấp dẫn, đặc biệt là mái tóc cắt tém như con trai và ánh mắt nhìn sắc lạnh. Oanh hút thuốc liên tục và nét mặt xem ra có vẻ căng thẳng: - Em rất cảm ơn ý tốt của anh. Nhưng bây giờ thì em chưa cần... Em muốn phải thanh toán sòng phảng với hắn. - Hắn là ai? Cô cho anh biết. Anh sẽ giúp cô thanh toán món nợ đó? - Chuyện này của riêng em. Em không muốn ai biết và cũng không muốn phải nhờ ai. Tiên nheo mắt nhìn hai gã thanh niên trông còn rất trẻ con đang ngồi phía ngoài: - Đệ tử của em đấy à? - Vâng, em cũng cần phải bảo vệ mình. Em biết có kẻ muốn "chơi" em, nhưng đâu có dễ. Nói rồi Oanh vẫy tay gọi một đứa đến và bảo: - Các em về trước đi. Chị ở đây, lát nữa về sau. Hai gã thanh niên lễ phép chào hai người rồi bước ra. Tiên gật gù, nhìn theo chúng rồi quay lại: - Nếu em đồng ý, anh giao cho em ba sòng ở ngoại thành. Em không cần góp thùng tẩy [1], nhưng được ba chục phần trăm. Chỉ có điều là mấy sòng này đang bị bọn thằng Phướn Chột quấy phá. Em đưa mấy thằng đệ tử của em về, chắc chúng chịu thôi? - Đến như anh mà cũng sợ thằng nào quậy ư? Thế những cảnh sát hình sự chiến hữu của anh đâu rồi? ... Mời các bạn đón đọc Cổ Cồn Trắng của tác giả Nguyễn Như Phong.
Tôi Vô Tội - Agatha Christie
Tiểu thuyết trinh thám tiếp theo về Thanh Tra Hercule Poirot. Elinor Carlisle, một người bị nữ bị kết tội giết Mary Gerrard vào ngày hai bảy tháng bảy năm nay. Liệu rằng Elinor Carlisle có tội hay không có tội? Elinor đứng thẳng người, đầu hơi cúi. Đó là một phụ nữ trẻ, kiều diễm với những đường nét thanh tú và mái tóc dầy đen nhánh. Hàng lông mày thành một nét mảnh giản dị nằm bên trên cặp mắt xanh biếc. Không khí đột nhiên lặng lẽ... bấy giờ vấy lên một sự lặng lẽ ngột ngạt. Edwin Bulmer, luật sư của bị cáo, cảm thấy hoảng sợ. Thân chủ của ông định nhận tội chăng? Cô ta đã mất hết sự tự chủ rồi. Elinor hé miệng, nói khẽ : - Tôi vô tội. *** ... Anh bạn nên biết rằng, - Hercule nói - điều dối trá nhiều khi đáng quý ngang với sự thật đấy. - Nghĩa là người ta đã nói với ông những điều dối trá? - Bác sĩ Peter Lord hỏi. Hercule Poirot gật đầu. - Tất nhiên, và với nhiều lý do khác nhau. Nhưng người làm tôi ngạc nhiên chưa từng thấy là Elinor Carlisle. Cô ta nói dối vì quá nghiêm khắc trước lương tâm. Cô ấy bị nghi oan nhưng không đấu tranh mà định đầu hàng ngay, nhận trước tòa một tội mà cô không làm. Bác sĩ Lord mệt mỏi thở dài. - Quả là khó ai tin nổi. - Vậy mà lại có! Cô ấy tự kết án... bởi cô ấy tự đặt ra một tiêu chuẩn đạo đức cao hơn hẳn tiêu chuẩn của con người nói chung. Lúc mới tiến hành điều tra, tôi đã nghi cô ta chính là thủ phạm. Nhưng vì anh yêu cầu tha thiết nên tôi tiếp tục tìm hiểu thêm và tôi hiểu ra rằng các bằng chứng đều nói lên, thủ phạm là người khác. - Mụ y tá Hopkins? - “Đúng thế. Nhưng không phải tôi nghi mụ ấy ngay. Đầu tiên tôi nghi Roddy, mà trường hợp này cũng do một lời nói dối. Anh ta bảo anh ta rời nước Anh ngày 9 tháng Bảy và trở về ngày 1 tháng Tám. Trong khi mụ Hopkins lại tình cờ lộ ra với tôi rằng Roddy đến gặp Mary ở London, nhắc lại lời cầu hôn, nhưng Mary từ chối. Theo tin tức của anh thì ngày 10 tháng Bảy, Mary mới đến London... Một ngày sau khi Roddy rời khỏi đó. Vậy làm sao Roddy gặp cô ta được? Tôi bèn xem hộ chiếu của Roddy, thì ra anh ta có về Anh hai ngày, từ 25 đến 27 tháng Bảy. Anh ta đã cố tình nói dối tôi. Tôi nghĩ đến quãng thời gian ngắn ngủi từ lúc Elinor rời khỏi bếp, ra chỗ trạm bảo vệ rủ hai người phụ nữ kia vào cùng ăn. Tôi đã nghĩ có kẻ nào định giết Elinor, chứ không phải giết Mary. Mà Roddy lại có một động cơ rất quan trọng để thủ tiêu Elinor. Dùng một cách hỏi khéo léo, tôi phát hiện ra là anh ta có biết nội dung bản di chúc của Elinor Carlisle”. - Vậy sao ông lại biết anh ta vô tội? - “Nhờ một lời nói dối... Một lời nói dối vớ vẩn chẳng để làm gì. Mụ Hopkins bảo rớm máu ở cổ tay là do gai hoa hồng leo. Tôi đến tìm hiểu thì ra cây hoa hồng leo ở trạm bảo vệ không có gai. Câu nói dối đó rõ ràng là vô ích và ngu xuẩn, chẳng để làm gì, nhưng lại khiến tôi chú ý. Thế là từ đấy tôi bắt đầu quan tâm nhiều đến mụ ta. Trước kia tôi tưởng mụ ta thành thật. Tuy mụ ta đổ diệt tội cho Elinor, tôi vẫn nghĩ là tại mụ ta yêu Mary quá. Nhưng sau khi mụ nói dối một cách vụng về kia, tôi chợt hiểu tôi đã bỏ sót một chi tiết. Mụ ta biết một điều gì đó về Mary Gerrard nhưng giấu biệt, mà chỉ nói theo lời đồn của mọi người”. Viên bác sĩ ngạc nhiên kêu lên : - Vậy mà tôi lại đánh giá khác kia chứ! - “Mụ rất giảo quyệt. Mụ đóng vai một người biết một điều nhưng không nỡ nói ra. Sau khi suy ngẫm, tôi thấy mụ ta có một dụng ý, một mục đích. Và tôi đã tìm ra được mưu mẹo của mụ. Từ lúc ấy, tôi nhận ra sự khác nhau giữa kiểu nói dối của mụ với kiểu nói dối của người khác, thí dụ kiểu của Roddy Welman. Một bên là nói dối tội lỗi và một bên là nói dối vụng về nhưng vô tội. Roddy chính là thuộc loại thứ hai này. Vì không có mặt ở nơi xảy ra vụ án nên anh ta nói dối cho gọn là lúc đó ở nước ngoài. Roddy thuộc loại người ngại mọi phiền phức. Lọ moóc-phin vẫn trong tay mụ, nhưng mụ lại rao ầm lên là bị mất để đánh lạc hướng. Mụ sử dụng chị y tá O’Brien khờ khạo làm cái loa, để mỗi khi cần tung ra một cách hiểu nào đó. ... Mời các bạn đón đọc Tôi Vô Tội của tác giả Agatha Christie.
Thủy Triều Đen - Andrew Gross
Là đồng tác giả của 5 tiểu thuyết ăn khách với nhà văn nổi tiếng James Patterson, Andrew Gross một lần nữa khẳng định tài năng trong thể loại trinh thám với tiểu thuyết mới “Thủy Triều Đen”. Tác giả đặt người đọc vào trạng thái hồi hộp ngay ở những trang đầu tiên bằng vụ đánh bom ở nhà ga trung tâm thành phố New York. Vụ nổ đã khiến cho cuộc sống hạnh phúc và phẳng lặng của Karen Friedman rơi vào khủng hoảng bởi chồng cô cũng có mặt trên chuyến tàu định mệnh ấy. Charles Friedman, nhà quản lý tài chính thành đạt, chồng của Karen, là một trong những nạn nhân. Vài ngày sau, nghe tin nhiều thi thể không tìm thấy được, Karen phải chấp nhận sự thật đau buồn là người chồng sống với cô 18 năm nay đã mất. Cũng vào ngày hôm đó, một vụ tai nạn ôtô làm thiệt mạng một thanh niên cùng quê với Karen ở Greenwich, Connecticut. Ty Hauck, một nhà thám tử nhận điều tra vụ này và tìm được manh mối cho thấy mối liên hệ bất ngờ giữa hai sự kiện tưởng như không hề liên quan. Đọc Thủy Triều Đen, độc giả sẽ ít thấy những cảnh máu me, súng ống, đường hầm tăm tối hay những đường vòng quanh co khúc khuỷu lờ mờ ở xa phía trước, nhưng cuốn tiểu thuyết vẫn rất gay cấn ly kỳ đến nghẹt thở. Bởi Andrew Gross đã khéo léo xây dựng một nhân vật chính thú vị và một câu chuyện kết hợp giữa yếu tố hình sự truyền thống xen lẫn một âm mưu nhẹ nhàng và xúc động. Thủy Triều Đen còn khiến người ta phải đặt câu hỏi về cuộc sống hôn nhân hiện đại. Phải chăng sự hòa hợp của những đôi vợ chồng tưởng chừng như hạnh phúc nhất cũng chỉ là sự giả tạo bên ngoài khi vẫn còn nhiều bí mật riêng đáng sợ luôn tồn tại. *** Sáu giờ mười sáng. Khi ánh nắng ban mai xuyên qua lớp kính cửa sổ phòng ngủ, Charles Friedman mới thả chiếc gậy gỗ truyền tay chạy tiếp sức xuống. Đã nhiều năm rồi Charles không hề gặp lại giấc mơ đó, ấy vậy mà giờ đây anh thấy mình đang đứng đó, cao lớn ở cái tuổi mười hai, chạy tiếp sức vòng ba trong cuộc thi cắm trại hè, cuộc đua đấu loại trực tiếp giữa đội Xanh và đội Xám. Bầu trời xanh đến tận cùng, đám đông ngoài kia đang nhấp nhô như những làn sóng - làn sóng những đầu đinh, những cái má đỏ hồng mà cậu sẽ chẳng bao giờ được thấy ở một nơi nào khác ngoại trừ nơi này. Đồng đội của cậu là Kyle Bergman đang chạy về phía Charles, dẫn trước đội bạn ở khoảng cách không nhiều, hai má phập phồng theo từng nhịp thở. Tới rồi... Charles chuẩn bị tinh thần, sẵn sàng đón lấy chiếc gậy tiếp sức. Những ngón tay cậu giật nhẹ, chờ đón chiếc gậy đập vào lòng bàn tay. Và đây rồi! Đã đến lúc! Charles đón lấy chiếc gậy. Bỗng nhiên một tiếng rên lớn vang lên. Charles ngừng lại, nhìn xuống hoảng sợ. Chiếc gậy nằm chỏng chơ dưới đường chạy. Đội Xám đã hoàn tất cung tiếp sức, vụt qua trước mặt Charles để tiến tới một chiến thắng mà trước đây không chắc sẽ xảy đến với họ. Đám cổ động viên cho đội Xám rồ lên vui sướng, tiếng hoan hô mừng vui hoà lẫn trong những lời chế giễu đầy thất vọng cứ vọng mãi trong đầu Charles. Đó cũng chính là lúc Charles bừng tỉnh. Bao giờ cũng vậy. Tỉnh dậy, thở nặng nhọc, ga trải giường ướt đẫm mồ hôi. Charles đưa mắt nhìn hai bàn tay trống không. Anh đập xuống tấm ga trải giường như thể chiếc gậy tiếp sức vẫn còn ở đó, sau ba mươi năm đã qua. Nhưng ở đó chỉ có Tobey, chú chó tha mồi Cao nguyên miền Tây màu trắng, đang nằm, hai chân xoài dưới ngực, chăm chăm nhìn anh chờ đợi. Charles thở dài, thả người xuống gối. Anh liếc nhìn đồng hồ. Sáu giờ mười. Mười phút trước chuông báo thức. Vợ anh, Karen, đang nằm úp thìa bên cạnh. Anh ngủ chẳng được bao nhiêu. Anh đã thức trắng từ ba giờ đến bốn giờ sáng, chăm chú theo dõi Giải vô địch Nữ lực sĩ trên kênh ESPN2, không bật tiếng vì không muốn làm ảnh hưởng tới vợ. Có điều gì đó đang đè nặng tâm trí Charles. Có lẽ đó là cái vị trí lớn lao mà anh đã chiếm được trên thị trường cát dầu ở Canada hôm thứ năm vừa qua và đã nắm giữ vị trí đó suốt mấy ngày cuối tuần đầy rủi ro, khi giá dầu đã bị rò rỉ ra ngoài bằng một cách nào đó. Hoặc có thể là cái cách anh dồn thêm vốn cho các hợp đồng khí đốt có thời hạn sáu tháng, trong khi lại rút bớt đi đối với những hợp đồng một năm. Hôm thứ sáu, chỉ số chứng khoán đối với các mặt hàng nhiên liệu tiếp tục giảm. Anh thực sự sợ hãi mỗi khi bước ra khỏi giường ngủ, bởi sợ không dám nhìn vào màn hình sáng nay để xem những gì đang diễn ra ở đó. Hay đó là Sasha? Trong mười năm qua, Charles điều hành quỹ đầu tư hợp tác năng lượng tại Manhattan, có năng lực tài chính thực sự trên mức đi vay lên đến một phần tám. Nhìn bên ngoài, với mái tóc hung hung nâu, cặp kính gọng sừng cùng dáng vẻ bình thản, trông anh giống nhà đầu tư bất động sản hay một nhà tư vấn hơn là một người sống nội tâm (trong cả những giấc mơ) luôn nghĩ về một thực tế là đã và đang phải sống trong địa ngục, mà thậm chí là địa ngục tầng hai. Charles, trong chiếc quần hộp, chống khuỷu tay đẩy người lên, và ngừng lại. Tobey nhảy ra khỏi giường, cuống quýt cào lên cánh cửa. “Cho nó ra đi anh.” Karen cựa quậy, cuộn người lăn sang bên, giật mạnh chăn phía trên đầu. “Có chắc là mày muốn ra ngoài không?” - Charles hỏi lại chú chó, lúc này hai tai đang vểnh lại phía sau, đuôi ngoáy tít, nhảy trên hai chân sau chờ đợi, như thể nó có thể sắp xoay nắm đấm cửa với hai hàm răng của mình đến nơi. - "Mày biết chuyện gì sẽ xảy ra mà.” “Thôi nào, Charles, sáng nay đến lượt anh đấy. Cho nó ra ngoài đi.” "Những từ cuối cùng mới thật hay...” Charles ra khỏi giường, mở cánh cửa dẫn ra khoảnh sân rộng chừng nửa yard (1) có hàng rào bao quanh, một khu nhà gần eo biển ở Old Greenwich. Tobey lao vụt ra khoảnh sân, đuổi theo mùi một con thỏ hay sóc nào đó vừa để lại. Rồi ngay lập tức, con chó bắt đầu rít lên cái thứ tiếng bản năng có thanh vực cao của nó. Karen vò chiếc gối trên đầu và cũng thốt ra những tiếng gầm gừ. "Ggggừừ....." Vậy đấy, mỗi ngày đều bắt đầu như vậy, Charles chậm chạp bước vào bếp, bật kênh CNN và cắm điện bình cà phê, nghe tiếng chó sủa vọng vào từ bên ngoài. Sau đó, anh vào phòng làm việc kiểm tra lượng hàng bán qua mạng ở châu Âu trước khi đi tắm. Sáng hôm đó, hàng bán không được tốt lắm, chỉ đạt giá 72.10 đô. Lại tiếp tục giảm. Charles làm nhanh một phép tính trong đầu. Anh lại buộc phải bán ra thêm ba hợp đồng nữa. Vài triệu đô đã không cánh mà bay. Charles ngâm mình trong bồn tắm, lúc đó mới chỉ hơn sáu giờ sáng một chút. Bên ngoài, Tobey đang sủa tới tấp, tới ba phút không nghỉ. Trong phòng tắm, Charles điểm lại hoạt động trong ngày. Anh sẽ phải thay đổi vị trí liên tục. Giải quyết các hợp đồng dầu phi truyền thống, sau đó là họp với một trong những nhà đầu tư vốn. Liệu đã đến lúc anh gột rửa sạch sẽ? Anh đã chuyển tiền vào tài khoản của cô con gái, Sam, để dành cho nó học đại học; mùa thu tới con gái anh sẽ bước vào năm cuối trung học. Khi đó cũng chính là lúc mọi việc đổ ụp lên anh. Chết tiệt thật! Anh sẽ phải đi lấy chiếc xe khốn kiếp đó vào sáng nay. Để bảo dưỡng cho xe Mercedes đã chạy được mười lăm ngàn dặm, tuần trước Karen đã kỳ kèo buộc anh phải làm chuyện này. Thế có nghĩa là anh sẽ phải đi tàu đến nơi làm việc. Anh sẽ bị muộn một chút. Trong khi anh muốn có mặt tại bàn làm việc của mình vào lúc bảy giờ ba mươi để thực hiện những công việc trong ngày như dự kiến. Sau đó Karen sẽ đón anh tại nhà ga vào buổi chiều. Quần áo chỉnh tề, thường thì giờ này Charles đã sẵn sàng cho giờ cao điểm. Đúng sáu giờ ba mươi, việc cần làm là đánh thức Karen dậy, gõ cửa phòng hai đứa con Alex và Samatha cho chúng kịp đến trường. Và còn một việc nữa là lướt qua tiêu đề các bài viết trên tờ Tạp chí Phố Wall (2) được đưa tới ở cửa trước. ... Mời các bạn đón đọc Thủy Triều Đen của tác giả Andrew Gross.