Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Hội Chứng E

"Franck Thilliez đã khéo léo đưa khoa học và thần kinh học vào những tình tiết trinh thám xuất sắc trong Hội chứng E, từ đó dẫn dắt người đọc vào mê cung lắt léo của bộ não con người cùng tất cả những lệch lạc mà bộ não đó có thể nảy sinh..." - Tạp chí Elle Một bộ phim ngắn bí ẩn và độc hại khiến người xem đột ngột bị mù... Vậy là đủ để đi tong toàn bộ kỳ nghỉ hè của trung úy cảnh sát Lucie Hennebelle. Năm xác chết bị cắt xẻ tàn bạo được tìm thấy trong tình trạng mất não, mất mắt, và phân hủy đến khó lòng nhận dạng... Chẳng cần gì hơn thế để mời gọi thanh tra trưởng Franck Sharko đang trong kỳ nghỉ cưỡng chế phải quay trở lại đội Hình sự. Hai hướng điều tra cho cùng một vụ án duy nhấ sẽ kết hợp Hennebelle và Sharko, đưa họ đi từ những khu ổ chuột nhơ nhớp ở Cairo đến các trại trẻ mồ côi ở Canada, để rồi đối mặt với một tội ác có một không hai, một thực tế tàn bạo, hé lộ sự thật rằng tất cả chúng ta ai cũng đều có thể phạm phải điều tồi tệ nhất. Với Hội chứng E, Franck Thilliez thêm một lần nữa giúp chúng ta hiểu thế nào là kinh hoàng khi đưa chúng ta vào tâm hồn con người, vào cội rễ của bạo lực và cái ác. *** Thực ra nói tôi thích trinh thám cũng đúng, nhưng nếu chính xác hơn thì tôi thích Trinh thám, kinh dị có hòa trộn hoặc được lấy cảm hứng hay đan xen, thậm chí đào sâu các vấn đề về tâm lý xã hội, tâm lý con người, và bởi vậy nên tôi không thể bỏ qua cuốn Hội Chứng E, một cuốn trinh thám đáp ứng đủ mọi yêu cầu của tôi ngay từ trang giới thiệu. Truyện lấy bối cảnh chính ở nước Pháp, năm cái xác được tìm thấy bị chôn sâu dưới lớp đất, kinh khủng hơn là các nạn nhân đã bị khoét sạch nhãn cầu, não bị lấy đi, răng bị nhổ sạch, bàn tay bị chặt đứt. Thực ra khá là dễ đoán lý do vì sao các nạn nhân bị lấy đi những bộ phận đó, là răng và bàn tay thì để tránh bị nhận ra danh tính, còn não và mắt thì chắc chắn là để nghiên cứu rồi, vấn đề là nghiên cứu điều gì, và kẻ nào có thể tỉnh táo và bệnh hoạn đến mức làm những việc như vậy mà không run tay? Đó chính là vấn đề mà thanh tra Sharko phải tìm ra. Song song đó thì thông tin về một đoạn phim ma quái làm mù mắt người xem cũng được nữ cảnh sát Lucie tiếp nhận và điều tra. Hai người, hai hướng điều tra hoàn toàn khác nhau, lại dẫn đến một con đường chung nhất về câu trả lời cho tất cả mọi thứ. Cá nhân tôi rất thích quá trình điều tra của vụ án này, cảm giác rất thực tế, rõ ràng, và có một quy trình cụ thể, được sự hỗ trợ và liên kết của rất nhiều thành phần, từ cảnh sát, chuyên gia tâm lý học tội phạm, bác sĩ, nhà nghiên cứu… tất cả đều có vai trò vô cùng quan trọng trong việc tìm ra những miếng ghép và đặt nó đúng chỗ, để từ đó hiện lên bức tranh kẻ thủ ác. Giống như đang chơi CoC vậy ;)). Một số truyện thì đề cao cảnh sát, một số khác thì lại đề cao vai trò thám tử, nhưng ở đây, mọi nhân vật từ chính đến phụ đều có vai trò quan trọng như nhau, không quá dìm hay quá nâng một bên nào, đó là điều khiến tôi hài lòng. Không có ai là thần thánh hay thông minh tài giỏi đến mức khiến người đọc khó chịu. Liên quan đến đoạn phim ma quái kia thì có chuyên gia phân tích phim, phục chế phim, liên quan đến não bộ và mắt nhìn của con người thì có những nhà nghiên cứu chuyên sâu, còn quá trình điều tra, những lý giải về tâm lý tội phạm thì đó là việc của hai nhân vật chính của chúng ta, Sharko và Lucie. Mọi thứ đều theo đúng logic và quy trình thực tế, giúp người đọc không bị ngợp và không có cảm giác khó chịu khi bị qua mặt hay đùa giỡn, kiểu như nhân vật chính là hiện thân của Superman hay vị thánh nào đó vậy! Quá trình điều tra vụ án này cũng đưa người đọc phiêu lưu qua không gian và thời gian, từ Pháp, đến Bỉ, rồi đến vùng đất xa lạ Ai Cập, hay Canada, từ vụ án ngày hôm nay mà lật giở lại những vụ án từ nhiều năm trước, rồi các vụ thảm án có thật trong lịch sử, những sự kiện tác động trực tiếp đến xã hội, rất nhiều rất nhiều chuyến phiêu lưu, mà đích đến chung nhất của tất cả những đường nhánh này đều là vụ án của hiện tại. Không dừng lại ở đó, mức độ đồ sộ của vụ án này còn nằm ở những lý giải và phân tích liên quan đến kỹ thuật làm phim, đến mắt và não bộ của con người. Bạn có tin không, có một kỹ thuật gọi là phim chồng phim, nhà làm phim sẽ dùng những thủ thuật về ánh sáng, màu sắc, sự tương phản và tốc độ chạy của cuộn phim mà ẩn giấu ở đó là một đoạn phim thật sự, không thể nhìn thấy bằng mắt thường, mà chính là Bộ não của chúng ta sẽ nhìn thấy, rất lạ đúng không? Mục đích của họ là khiến bộ não của chúng ta bị tác động trực tiếp từ những đoạn phim như vậy, mắt thì nhìn thấy một cô bé ngồi chơi trên chiếc xích đu thật yên bình, nhưng song song lúc đó, bộ não sẽ nhìn thấy đoạn phim bị ẩn giấu, đó là những đứa trẻ đang dùng tay không đập chết những con thỏ… Chính lúc đó thì não bộ chúng ta sẽ xuất hiện những xung động, khiến bản thân có cảm giác khó chịu mà không thể lý giải nổi. Lý giải sâu xa hơn, kỹ thuật này nếu xuất hiện phổ biến trong đời sống con người hiện nay, những đoạn quảng cáo bạn xem, những đoạn phim tưởng như vô bổ, nhưng rất có thể, có những hình ảnh ẩn giấu đang tác động trực tiếp đến não bộ của bạn, và khi một tác động nào đó đủ, thì nó sẽ khiến bạn có những suy nghĩ và hành vi như họ mong muốn mà chính bạn cũng không ý thức được. Thật sự đáng sợ! Những kẻ thủ ác của truyện đã lợi dụng kỹ thuật này, kết hợp với thuốc, và những âm thanh, giọng nói… để biến những đối tượng thí nghiệm của chúng trở nên bạo lực cực đoan, không biết sợ hãi, những người này sẽ trở thành những kẻ “táng tận lương tâm”, giết người không ghê tay, và không còn lương tri nữa. Nếu điều này được phổ biến và nhân rộng thì hậu quả sẽ như thế nào, cũng dễ đoán thôi… Vậy thì, Hội Chứng E là gì? Có thể nói đơn giản đó là hội chứng điên loạn bạo lực tập thể, mà có thể lân lan qua đường thần kinh, chứ không theo một mô thức cụ thể nào, có vẻ mông lung khó hiểu và khó tin nhỉ? Nhưng quả thật là tác giả có những dẫn chứng từ chính những sự kiện có thật trong lịch sử, quả thật thì tôi chưa tìm hiểu hay đọc sâu hơn về những sự kiện đó, nên cũng không biết là có lý giải nào khác hay không, trước mắt cứ tạm tiếp nhận phương án này của tác giả vậy… Vậy vấn đề đặt ra ở đây thì, nếu có thể tự mình tác động và tạo ra Hội chứng E thì sao? Những con người có Hội Chứng E thì hạch hạnh nhân trong não sẽ bị teo nhỏ, vậy, nếu có thể dùng thuốc, hay kích thích liên quan đến thần kinh để khiến hạch này teo nhỏ như ý mình muốn, vậy có phải là lúc đó mình sẽ tạo ra được một đội quân hiếu chiến, không biết sợ hãi, tàn nhẫn máu lạnh không? 500 trang truyện là sự kết hợp của quá trình điều tra, tìm hiểu sự thật và tất cả những vấn đề này, rất đồ sộ, rất to lớn, hoành tráng, nhưng lại rõ ràng và đáng tin vô cùng. Thực sự thì đọc xong tôi cũng không biết cái nào là thực, cái nào là tác giả hư cấu nữa, một lời khen dành cho tác giả, ông đã khéo léo dùng những điều thực tế để làm tiền đề cho câu chuyện của mình, từ nơi chốn, sự kiện, con người, thậm chí là các tổ chức như CIA, lính lê dương Pháp, chương trình MKUltra… tất cả những điều đó càng khiến cho câu chuyện của Hội Chứng E mang một màu sắc chân thực đến mức khiến người đọc nổi da gà! Đọc đến trang cuối thì điều đọng lại ở độc giả không còn là sự tàn nhẫn hay máu me của những vụ án, mà đó là suy ngẫm về những điều hiện diện ngay xung quanh đời sống có thể đang dần dần biến đổi bộ não của mình mà chính bản thân cũng không hề hay biết. Tôi tin rằng, đây là một thành công lớn của tác giả, không dùng máu me để câu khách, mà lại khiến người đọc phải ấn tượng và suy ngẫm rất nhiều về tác phẩm của mình. Một tác phẩm trinh thám đồ sộ, đáng được trải nghiệm, tôi mong rằng những tác phẩm khác của tác giả này sẽ sớm được xuất bản tại Việt Nam. Tôi thích cách mà ông đào sâu nghiên cứu để đưa đến cho người đọc cái nhìn sâu và kĩ nhất, không phải là cưỡi ngựa xem hoa, mà cẩn thận… cho đi bộ đào đất trồng hoa luôn đấy! Những tác giả đặt cả tâm huyết của mình vào tác phẩm, thật sự rất đáng để trân trọng. *** Chào cả nhà iu lại là mị đây, xin phép repost có chỉnh sửa review và ảnh của cuốn này tại đợt trước hổng có ưng lắm hị hị. . Hà Nội nóng nực và chói chang như màu của cái bìa cuốn sách ấy nên cũng được thể giới thiệu cho các bạn, đặc biệt là các bạn fan trinh thám quyển Hội Chứng E – một tác phẩm mà theo tớ đánh giá là rất đồ sộ về cả mặt hình thức và nội dung. Cảm giác khi đọc xong Hội Chứng E như kiểu khai phá ra cả một miền tri thức kỳ vĩ mới luôn á trời. . Franck Thilliez là một nhà văn trinh thám người Pháp, cuốn Hội Chứng E là phần thứ ba trong nguyên series sách được lấy luôn tên nhân vật chính – Franck Sharko – làm tựa đề. Nói là series nhưng may mắn là cuốn này có thể đọc riêng lẻ được nên khỏi lo vì không hiểu gì hết nhen. Quay trở lại nội dung chính của Hội Chứng E, tác phẩm mở đầu với việc hé lộ với khán giả một bộ phim kỳ quái, bí ẩn và độc hại có khả năng làm người xem đột ngột bị mù. Bộ phim này chính là nguyên nhân phá hỏng kỳ nghỉ của trung úy cảnh sát Lucie, buộc cô phải dấn thân vào điều tra gốc rễ của những thước quay gây ám ảnh đó. Cùng lúc ấy, năm xác chết bị cắt xẻ tàn bạo được tìm thấy trong tình trạng mất não, mất mắt và bị phá hủy một cách dã man để giấu đi thân phận của người xấu số, mời gọi thanh tra Franck Sharko quay trở lại đội Hình sự sau mấy năm tưởng như đã quen với công việc bàn giấy. Hai mạch truyện, hai hướng điều tra khác nhau song cuối cùng đều quy về một mối mang tên Hội Chứng E, hé lộ một thực tế và một trang sử tàn bạo, nơi giới hạn của con người dường như là vô tận, rằng bất cứ ai đều có khả năng thực hiện tội ác. Nội dung nom có vẻ hấp dẫn, nhích lun. Đọc Hội Chứng E của Franck Thilliez tớ liên tưởng ngay đến các tiểu thuyết trinh thámcủa tác giả Jeffery Deaver vì ấn tượng với lượng kiến thức khổng lồ của hai tác giả này quá thể, thật sự luôn ấy. Nếu các bạn muốn đọc một cuốn trinh thám siêu bự về kiến thức lịch sử, thần kinh học, tâm lý học và đặc biệt là muốn tu bổ trí não thêm về cách hoạt động của mắt dẫn truyền lên bộ não hay cách để tạo dựng ra một bộ phim-ẩn-trong-một-bộ-phim với những thuật ngữ chuẩn thì Hội Chứng E có đủ hết, không chê vào đâu được. Cảm giác như tác giả đã dành phần nhiều thời gian tìm tòi, chọn lọc và miệt mài đầu tư chất xám vào cuốn tiểu thuyết trinh thám này. Ban đầu tớ nghĩ là tớ sẽ – theo nghĩa đen – đọc một cách lê lết từng trang ấy nhưng mà không, tôi đã nhầm rồi quý dzị ạ, vì Hội Chứng E siêu siêu siêu cuốn, cứ phải lật lật giở giở để xem hướng điều tra của Lucie và Sharko rồi sẽ đi đến đâu, hé lộ ra những gì và tên tội phạm chủ mưu với bộ óc thông minh đi trước thời đại này là ai. Nghe có vẻ hơi sai sai khi dành cho hung thủ một lời khen ngợi như thế, nhưng quả đúng thật, tên này thông minh thấy gớm luôn không ai đọ được đâu.  Một điểm tớ thích nữa đó là sự vận hành của cốt truyện có tính liêt kết chặt chẽ với nhau với từng chi tiết trải dài từ quá khứ cho đến hiện tại, tất cả đều quy về một mối duy nhất mang tên Hội Chứng E, có những điều tưởng như không liên quan mà lại liên quan không tưởng. Kiểu wow, sao điều này có thể được nhỉ? Nhưng mà trong tác phẩm này thì nó có thể đấy các bạn tôi ơi.  Nhìn chung Hội Chứng E là tác phẩm đồ sộ cả về kiến thức lẫn nội dung. Siêu ấn tượng về khối lượng kiến thức của tác giả, thực sự ấy. Có yếu tố yêu đương trong này (thở dài cái thườn thượt) nhưng may là không nhiều đâu, nếu không máu xéo sắc của mị đã bùng cháy lên rồi. Dù sao đây cũng là trinh thám chứ hổng phải tiểu thuyết tình yêu gì cho cam hén. À có thắc mắc nhỏ không rõ do bản gốc hay do dịch (nhưng mị nghĩ là do bản gốc) mà trong đây nhiều lúc cảm thấy hơi bất hợp lý qua cách gọi một nữ trung úy cảnh sát gần 40 tuổi hai mụn con và góa chồng là “cô gái nhỏ”, cứ thấy hơi… Tóm cái quần lại thì quyển này hay, đoạn kết hẫng chút hơi buồn tí nhưng đừng bỏ qua ẻm vì Hội chứng E ổn lắm. Recommend cho các bạn mình nhớ. neverblossom *** gười đến đầu tiên. Ngay khi biết tin qua quảng cáo, từ sáng sớm, Ludovic Sénéchal đã lên đường và ngốn hết hai trăm ki lô mét ngăn cách vùng ngoại ô thành phố Lille với thành phố Liège trong khoảng thời gian ngắn kỷ lục. “Bán bộ sưu tập phim cũ 16mm, 35mm, câm và có âm thanh. Tất cả các thể loại, phim ngắn, phim dài, từ những năm ba mươi trở đi. Hơn 800 cuộn phim, trong đó có 500 phim tình báo. Trả giá tại chỗ…” Loại quảng cáo này khá hiếm gặp trên một trang mạng đa ngành. Thông thường, các chủ sở hữu vẫn bán qua các hội chợ, kiểu như Argenteuil, hoặc gửi bán đấu giá từng cuộn phim của mình trên eBay. Ở đây, lời quảng cáo chẳng khác nào rao bán một cái tủ lạnh cũ cần bỏ đi. Dấu hiệu tốt. Ở giữa trung tâm thành phố của nước Bỉ, Ludovic chật vật tìm chỗ đỗ xe, liếc mắt nhìn về phía số nhà rồi trình diện trước chủ nhân ngôi nhà, Luc Szpilman. Chừng hai mươi lăm tuổi, đi giày thể thao Converse, đeo kính lướt ván, mặc áo thun hiệu Bulls. Còn xỏ cả mấy chiếc khuyên nữa. - À vâng, anh đến vì mấy bộ phim. Đi theo tôi, chúng ở trên gác thượng. - Tôi là người đến đầu tiên chăng? - Những người khác hẳn cũng sắp đến thôi, tôi đã nhận được rất nhiều cuộc điện thoại. Tôi không nghĩ là mọi chuyện lại nhanh đến thế. Ludovic theo gót anh ta. Căn nhà đặc sệt phong cách vùng Flamand, với những màu sắc ấm áp và gạch lát sẫm màu. Các phòng được gắn kết với nhau xung quanh khoang cầu thang, phòng chính lấy sáng từ giếng trời. - Tại sao cậu lại vứt bỏ những cuốn phim cũ đó? Ludovic lựa chọn từ ngữ rất cẩn thận. Vứt bỏ, cũ… Vụ thương lượng đã bắt đầu. - Bố tôi mất hôm qua rồi. Ông ấy chưa bao giờ nói với ai là sẽ phải làm gì với chúng. Ludovic kinh ngạc: người cha già còn chưa được chôn xuống đất mà người ta đã lột sạch tài sản của ông ta. Vả chăng, đứa con trai ngớ ngẩn này cũng chẳng thấy ích lợi gì trong việc giữ lại những cuộn phim dài nặng đến cả hai mươi lăm cân, bởi ngày nay có thể lưu giữ số lượng hình ảnh nhiều gấp ngàn lần mà trọng lượng lại ngàn lần nhẹ hơn. Thật tội nghiệp cho một thế hệ bị hy sinh… Cầu thang dốc ngược, nhìn lên muốn gãy cổ. Khi đã lên đến gác thượng, Szpilman bật một bóng đèn công suất thấp. Ludovic mỉm cười, trái tim của nhà sưu tầm trong anh nảy lên một nhịp. Chúng nằm đó, được bảo vệ hoàn toàn khỏi ánh sáng tự nhiên… Những chiếc hộp đủ màu sắc xếp chồng lên nhau, hai chục hộp một, tạo thành những tòa tháp nhỏ. Mùi phim thật dễ chịu, gió uốn éo luồn lách giữa các giá. Một cái thang có bánh lăn cho phép lên tới những tầng giá trên cùng. Ludovic lại gần. Một bên là những cuộn phim 35mm, rất đồ sộ, và một bên là loại 16mm, loại khiến anh đặc biệt thích thú. Những chiếc hộp tròn được dán nhãn, sắp xếp một cách hoàn hảo. Những bộ phim câm cổ điển, những bộ phim dài từ thời hoàng kim của điện ảnh Pháp, đặc biệt là phim tình báo, chiếm số đông trên quá nửa các giá… Ludovic đưa tay cầm một cuộn phim. Người đàn ông nguy hiểm nhất thế giới, một công trình của John Lee Thompson về CIA và Trung Hoa cộng sản. Một bản sao đầy đủ, nguyên vẹn, được bảo quản khỏi độ ẩm và ánh sáng, chẳng khác nào một loại rượu nghìn năm. Thậm chí còn có cả những dải băng thể hiện độ pH trong các hộp, nhằm kiểm soát độ axít. Ludovic khó khăn lắm mới kìm được nỗi xúc động. Chỉ riêng kho báu này cũng đáng giá đến năm trăm euro trên thị trường. - Bố cậu rất mê phim tình báo đúng không? - Còn nữa cơ, anh chưa nhìn thấy tủ sách của bố tôi đâu. Thuyết âm mưu và bộ sậu của nó. Gần như ám ảnh ấy. - Cậu bán chúng giá bao nhiêu? - Tôi đã tìm hiểu trên Internet. Tính ước chừng thì khoảng một trăm euro một cuộn phim. Nhưng mục đích của tôi là tất cả mớ này biến mất càng nhanh càng tốt, tôi cần chỗ. Thế nên chúng ta có thể thương lượng. - Tôi rất hy vọng thế. Ludovic tiếp tục lùng sục. - Hẳn là bố cậu phải có một phòng chiếu riêng? - Vâng, sắp tới chúng tôi sẽ cải tạo nó. Vứt bỏ đồ cũ, thay đồ mới vào. Màn hình LCD và rạp hát gia đình công nghệ mới nhất. Tôi sẽ bố trí cho ban nhạc của tôi ở đây. Ngán ngẩm trước thái độ thiếu tôn trọng đó, Ludovic đi vòng sang bên phải, lật đi lật lại các chồng phim, đắm mình trong mùi phim. Anh phát hiện ra phim của Harold Lloyd, Buster Keaton, rồi, xa hơn một chút, là những phim kiểu như Hamlet hoặc Đại úy Fracasse. Anh những muốn mua hết, nhưng mức lương của một nhân viên an sinh xã hội và những khoản phí thuê bao khác nhau - Meetic*, Internet, truyền hình cáp, truyền hình vệ tinh - chỉ để lại cho anh một khoản eo hẹp để chi tiêu mỗi tháng. Thế nên anh phải lựa chọn. Anh lại gần chiếc thang. Luc Szpilman cảnh báo: - Anh nên cẩn thận. Bố tôi đã ngã xuống từ chính chiếc thang đó, và bị vỡ đầu. Dù sao thì, trèo lên đó khi đã ở tuổi tám mươi hai… Ludovic lưỡng lự một lát, tuy nhiên vẫn trèo lên. Anh nghĩ đến ông già kia, đam mê đến nỗi bị chính những cuộn phim của mình giết chết. Anh trèo lên cao hết mức có thể, tiếp tục chọn mua. Đằng sau Bức thư từ điện Kremlin, trên một hàng hộp không thể nhìn thấy từ bên dưới, anh phát hiện ra một chiếc hộp đen sì, không dán nhãn. Ludovic giữ tư thế thăng bằng rồi nhấc nó lên. Bên trong, nhìn qua là một bộ phim ngắn, bởi độ dài cuộn phim không đủ lấp đầy khoảng trống trong hộp. Cùng lắm là mười đến hai mươi phút chiếu. Có lẽ là một phim bị thất lạc, độc bản, mà chủ nhân của nó không bao giờ xác định được. Ludovic cầm chiếc hộp, xuống thang rồi xếp chồng lên chín bộ phim về tôn giáo mà anh đã chọn. Những cuộn phim không tên này luôn là yếu tố tạo sự lôi cuốn cho các buổi chiếu phim. Khi quay lại, anh tỏ vẻ bình thản, nhưng các huyết mạch trong người như đang bùng cháy. - Đáng tiếc là đa phần phim của cậu không đáng giá lắm. Toàn những thứ hết sức chuẩn mực. Với lại… Cậu có ngửi thấy cái mùi đó không? - Mùi gì? - Mùi giấm. Các cuộn phim đã bị nhiễm hội chứng giấm, nói cách khác, chẳng mấy nữa chúng sẽ hỏng. Chàng trai trẻ bước lên và hít ngửi. - Anh chắc chứ? - Chắc chắn. Tôi sẵn lòng giải quyết giúp cậu mười cuộn phim này. Ba mươi lăm euro một cuộn, cậu thấy thế nào? - Năm mươi. - Bốn mươi. - Thôi được… Ludovic chi ra một tờ séc bốn trăm euro. Khi anh chuẩn bị dong buồm, một chiếc xe đeo biển đăng ký ở Pháp đang tìm chỗ đỗ. Hẳn là một người mua nữa đã tới. Ludovic ra khỏi phòng chiếu riêng, rồi một mình, tay cầm lon bia, ngồi xuống một trong số mười hai chiếc ghế bằng vải giả da mang phong cách những năm 1950 mà anh đã mua lại hồi người ta đóng cửa rạp Rex, rạp phim nhỏ trong khu phố. Anh đã thửa cho mình một phòng chiếu phim đích thực dưới tầng hầm, và gọi đó là “rạp phim bỏ túi” của mình. Ghế gấp, bục, màn chiếu gắn hạt thủy tinh nhỏ, máy chiếu Tri-Film Heurtier, đủ hết. Ở tuổi bốn mươi hai, anh chỉ còn thiếu một cô bạn gái, để vừa ôm ấp vừa xem bản gốc phim Cuốn theo chiều gió. Nhưng lúc này, những trang web hẹn hò chết tiệt chỉ đưa anh đến với những cuộc tình chớp nhoáng hoặc thất bại. Đã gần ba giờ sáng. Đầu óc còn nhồi đầy những hình ảnh tình báo và chiến tranh, anh kết thúc buổi chiếu phim dài dằng dặc bằng bộ phim ngắn lạ lùng được bảo quản cẩn thận đến khó tin kia. Nhìn bề ngoài, có vẻ đó là một bản sao. Những bộ phim không tên này đôi khi chứa đựng kho báu thực sự, hoặc nếu thần may mắn mỉm cười, anh sẽ gặp được tác phẩm thất lạc của những nhà làm phim nổi tiếng: Méliès, Welles, Chaplin. Nhà sưu tầm trong anh rất thích mơ mộng. Khi Ludovic giở đoạn đầu cuộn phim không tên ra để nối vào máy chiếu, anh đọc thấy trên dải băng, “50 hình/giây”. Loại này khá hiếm so với tiêu chuẩn 24 hình/giây, tốc độ đó thừa đủ để tạo ra cảm giác chuyển động. Tuy nhiên, anh vẫn đổi tốc độ chụp của máy chiếu để khớp với tốc độ yêu cầu. Để khỏi phải xem một bộ phim quay chậm. Rất nhanh chóng, nền trắng của màn hình nhường chỗ cho một hình ảnh tối thẫm, mờ mịt, không nhan đề cũng chẳng phần giới thiệu đoàn phim. Một vòng tròn màu trắng hiện ra ở góc trên cùng bên phải. Lúc đầu, Ludovic tự hỏi liệu có phải do lỗi phim không, như vẫn thường xảy ra với những cuộn phim cũ. Bộ phim bắt đầu. Ludovic ngã vật xuống trong lúc chạy lên tầng trên. Anh không còn nhìn thấy gì nữa, mặc dù đèn vẫn bật. Anh đã bị mù. Mời các bạn đón đọc Hội chứng E của tác giả Franck Thilliez & Nguyễn Thị Tươi (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Bí Ẩn Trong Cô Nhi Viện
Câu chuyện dựa trên những tình tiết có thật về Georgia Tann (1891-1950), người điều hành Hội Cô nhi viện Tennessee. Bà ta đã bán và thu lợi bất chính từ những đứa trẻ "mồ côi" khoản tiền lên đến 1 triệu đô la thời bấy giờ. Khoảng 5.000 đứa trẻ đã bị bắt cóc, 22 đứa trẻ được giám hộ vẫn còn "chịu" sự chăm sóc của Tann khi cô ta chết, chỉ có hai trẻ được trả về cho cha mẹ ruột, vì các gia đình nhận nuôi từ chối chúng. Hàng ngàn gia đình ruột thịt đã không bao giờ biết có chuyện gì xảy ra với con cái họ. Bằng ngòi bút độc đáo và lối kể chuyện đan xen giữa quá khứ và thực tại, Lisa Wingate đã thổi hồn vào Bí ẩn trong cô nhi viện, khiến tác phẩm trở thành một cuốn tiểu thuyết vô cùng xúc động và chân thực đến từng chi tiết. ------------- Lisa Wingate là một cựu nhà báo, diễn giả truyền cảm hứng và là tác giả của hơn 30 tác phẩm bán chạy nhất của New York Times. Các tác phẩm của cô đã giành được nhiều đề cử cho các giải thưởng danh giá như Pat Conroy Southern Book Prize, Oklahoma Book Award, Carol Award và Christy Award. Bí ẩn trong Cô nhi viện là tác phẩm thành công nhất của Lisa Wingate với hơn 1,5 triệu bản in được bán và là tác phẩm nằm trong danh sách sách bán chạy nhất của New York Times suốt hơn một thời gian dài. Tác phẩm đã được xuất bản tại hơn 35 quốc gia trên toàn thế giới. *** Câu chuyện dựa trên những tình tiết có thật về Georgia Tann (1891-1950), người điều hành Hội Cô nhi viện Tennessee. Bà ta đã bán và thu lợi bất chính từ những đứa trẻ "mồ côi" khoản tiền lên đến 1 triệu đô la thời bấy giờ. Khoảng 5.000 đứa trẻ đã bị bắt cóc, 22 đứa trẻ được giám hộ vẫn còn "chịu" sự chăm sóc của Tann khi cô ta chết, chỉ có hai trẻ được trả về cho cha mẹ ruột, vì các gia đình nhận nuôi từ chối chúng. Hàng ngàn gia đình ruột thịt đã không bao giờ biết có chuyện gì xảy ra với con cái họ. Bằng ngòi bút độc đáo và lối kể chuyện đan xen giữa quá khứ và thực tại, Lisa Wingate đã thổi hồn vào Bí ẩn trong cô nhi viện, khiến tác phẩm trở thành một cuốn tiểu thuyết vô cùng xúc động và chân thực đến từng chi tiết. Bí Ẩn Trong Cô Nhi Viện là truyện hư cấu liên quan đến đường dây buôn bán trẻ và nhân vật tai tiếng là Georgia Tann, tuy nhiên, ban đầu mình cảm tưởng sẽ có kịch tính và phơi bày mặt tối của cô nhi viện Tennessee hay ít nhất là đời sống bí mật của Georgia Tann theo góc nhìn của Rill, nhưng thay vào đó chỉ là hình ảnh hồi tưởng nỗi buồn da diết về Arcadia, đảo bùn, Camellia, và phân chương chẵn là của bà May và lẻ là của Avery. Ở góc độ nào đó Bí Ẩn Trong Cô Nhi Viện của Lisa Wingate nhẹ nhàng, giảm tải góc tối của cô nhi viện Tennessee, đơn giản mọi thứ tình tiết – thẳng chừng mà nói tình tiết có phần nhanh – việc tàn bạo và đối xử tệ bạc là điều luôn hiện thực không thể phủ nhận được, nhưng trong Rill và đàn em bị bắt cóc là một tấn bi kịch xảy ra rồi. Nó là nỗi ám ảnh kinh hoàng, và là nỗi đau da diết khi rời xa gia đình trong thời thơ ấu, rồi chứng kiến mọi thứ diễn ra trong cô nhi viện có thể gây ra điều gì đó tệ hơn bao giờ hết.Bi kịch xảy ra Hình ảnh Rill cuối cùng trước khi rời nhà thuyền Arcadia là ông bố dẫn mẹ Queener rời đi cùng với Zede già, Rill và đàn nhóc ở lại cùng với Silas, ở một đêm tối nhà thuyền là đêm cuối cùng trước khi bị dời đi đến cô nhi viện là hình ảnh hoài niệm của Rill sau này, hình như đó cũng là dòng tâm tư của tác giả muốn độc giả nhớ lại trước khi bỏ sách xuống.Đó chỉ là giai đoạn khởi đầu của tâm bi kịch xảy ra, dù cho Rill và Fern đã quay trở lại nhà sàn Arcadia thì cũng không thể khiến cho Briny quay trở lại nhịp điệu trước đây nữa, mà khiến cho Rill càng quyết tâm rũ bỏ mọi thứ mà trở lại với cuộc sống làm con nuôi khác, thế nhưng Rill đã không còn hạnh phúc trong cuộc sống sau này bởi bà đã rũ bỏ Silas thì còn hạnh phúc gì đủ để bà hạnh phúc hơn khi ở bên mối tình đầu nhỏ nhoi ấy?Tuy nhiên Rill – thực ra mình thích tên Rill này hơn tên May, chỉ là bà đã quyết định bỏ lại tất cả mọi thứ có liên quan đến vương quốc Arcadia mà lấy tên May, đại diện cho bà hướng về tương lai, nhưng đến cuối đời bà lại hướng ngược lại dòng quá khứ, tức là bà không thể nào quên được vương quốc Arcadia có mặt đầy đủ mọi người ở đó  là Queenie, Briny, Camellia, Lark, Fern, Gabion, Silas và Zede già cùng phiêu lưu trên con sông – đã cưới ba đời chồng, thì cả ba người làm nghề khác nhau, một người làm giáo viên tượng trung cho suy nghĩ, một người làm nhà truyền giáo tượng trưng cho hiểu biết và người cuối cùng là dạy cho bà về tưởng tượng. Nhưng không một ai bằng Silas, một kiểu mối tình sâu đậm và có thể hạnh phúc trên dòng sông mãi mãi, nhưng bà lại không muốn vì sợ rằng sẽ lập lại như Briny, điên dại khi mất vợ, mất con, sống trong cái cảnh nghèo khó ấy luôn là tương lai tối mù. Giả sử bà vẫn chọn cách ở với Silas thì sao? Mọi tối tăm cùng quá khứ sẽ diễn ra, và bà mãi mãi không thể tìm được các em, mà thậm chí sống trong quá khứ mãi mãi.Tấm bi kịch xảy ra trong gia đình Rill là như vậy, có lẽ, tội nghiệp nhất là đứa bé Camellia, bướng bỉnh, ngoan cố y như ông bố Briny, và đứa em không thể tìm lại là Gabion, cùng với việc rời xa Silas, mà sau này chẳng thể nghe được tin tức gì về anh ta nữa, thật tình mà nói mình thấy xót thương cho Silas nhất, tính ra anh ta không có tương lai, lang bạc để kiếm sống và đối mặt với đám cớm. Thành thử, sau này Rill kể đã không biết tin tức gì về Silas càng làm lòng người ta vừa tò mò, vừa cảm thấy xót thương nhiều hơn.Văn phong trong truyện Văn phong Lisa Wingate mượn (nếu như mình đoán không nhầm vì đôi khi dịch giả chuyển ngữ đã mất đi phần văn phong của tác giả) theo kiểu nhẹ nhàng tối đa, và giảm tải bạo lực, mặt tối của cô nhi việc Tennessee không gây ấn tượng, ở phần nào đó chỉ nâng cao trải nghiệm cuộc sống của chị em Rill rồi được nhận nuôi cho đến khi nhận ra vương quốc Arcadia đã không còn nữa mà thôi. Do đó mình chỉ ấn tượng đến thế, về mặt nào đó ở góc tối, Bí Ẩn Trong Cô Nhi Viện chưa thật đủ gây ra ấn tượng nhiều hơn, chỉ ở khúc nào đó bị giam nhốt trong hầm tối là cùng lắm, hay việc Camellia biến mất chưa thật sự sáng tỏ và gây ra sự buồn bã nào đó với cái chết.Mình chỉ đánh giá cao về cuộc sống từ gia đình cho tới bị tách ra rồi đưa vào cô nhi viện, sau đó nhận nuôi, trốn thoát quay trở lại dòng sông để rồi phải quay trở về nhà ông bà nhận nuôi. Trong giai đoạn này hầu hết là giai đoạn tâm tư, nhớ nhung và thương xót, không gây ra kịch tính nào, hoặc chỉ đơn giản là phơi bày mặt tối thì không đạt, thậm chí tác giả Lisa Wingate chỉ ậm ừ viết cho nhanh cho qua giai đoạn mặt tối, nhất là giai đoạn về Rill khi trở về dòng sông, biết được Briny trở nên điên loạn vì mất Queenie, để rồi khi trời mưa, Briny cắt dây cho con thuyền đến giữa sống mặc kệ cho trời mưa xối xả dẫn đến có thể giết chết Rill và Fern. Mình thấy việc tác giả Lisa Wingate không miêu tả giỏi nội tâm nhân vật là Rill, từ đầu cho tới cuối, các bạn cũng sẽ đọc tới giai đoạn Rill nhớ nhung về bố mẹ ra sao, đau khổ khi thấy Briny ra sao, nhưng lại không hề sâu sắc và diễn tả buồn vui thế nào, Camellia đã mất, nhưng tác giả không hề nhắc tới, chỉ nhắc một lần duy nhất là Camellia thiệt mạng, về sau, không một từ ngữ tiếc thương nào về người em gái như thể nó đáng chết, và phải chết. Điều này mình cảm thấy nó có chút không được tự nhiên và tác giả miêu tả quá sơ sài – dĩ nhiên mình không chê văn phong của tác giả và trình độ, cái đáng tiếc là tác giả đã mong muốn kết thúc, càng về sau tác giả càng hụt hơi và nhanh chóng kết thúc truyện nhiều hơn là giải bày bí ẩn – hẳn nhiên sẽ có người cho rằng việc kết thúc nhanh chóng như vậy chỉ vì vương quốc Arcadia của Rill đã mất, sự thật đã phơi bày rằng Rill và Fern có quay trở lại thì không thể cứu vãn gia đình vốn dĩ đã sụp đổ trước khi cả năm đứa trẻ bị bắt cóc. Nhưng đối với mình thì việc phơi bày sự thật trần truồng như vậy còn nhẹ nhõng mà không hề gây ám ảnh sau này cho Rill về khoảnh khắc ông bố đứng trên mái nhà và chửi rủa, còn bình tĩnh như thể chuyện đó là hẳn nhiên, là cần thiết xảy ra không nên đau buồn. Đó là nỗi ám ảnh của đám trẻ bị tan vỡ gia đình cơ mà? Dù cho không bị ám ảnh thì đau buồn nó vẫn hiện diện như chuyện này đã xảy ngày hôm qua nhưng mình không hề thấy Lisa Wingate có miêu tả một sự đau đớn nào cho từng nhân vật mà chỉ đơn giản là khoảnh khắc hiện diện trước mặt là chuyện buồn rồi sẽ nhanh chóng qua trên khuôn mặt của May.Tuy nhiên mình không chê truyện Bí Ẩn Trong Cô Nhi Viện là dở, cái dở ở trong  truyện chỉ vài điều và nó không nói lên rằng truyện không hay, có những khoảnh khắc mà Rill cùng Fern trốn khỏi gia đình nhận nuôi trở về Arcadia là khoảnh khắc chúng ta nhận ra rằng vương quốc Arcadia ấy đã không còn, đã biến mất hoàn toàn kể từ khi các chị em bị bắt đi và mẹ Queenie mất đi là lúc tâm trí của bố Briny đã biến mất, chẳng thiết tha sự sống của mình và của hai đứa con.Tóm lạiBí Ẩn Trong Cô Nhi Viện là câu chuyện trong thời kỳ nạn buôn bán trẻ em, tuy nhiên chưa thật sự lột tả được sự tối tăm của con người Georgia Tann và cô nhi viện của bà ta như thế nào, chủ yếu tác giả tập trung vào Avery con của chính trị gia, khám phá ra lịch sử của gia đình mình để rồi biết được lịch sử bà nội mình, đằng sau câu chuyện nhận nuôi. Nhưng không thể lột tả trần trụi sự thật tối tăm vốn dĩ bản chất của việc này chẳng mấy sáng sủa hay ho gì, tuy nhiên, mình cảm thấy Bí Ẩn Trong Cô Nhi Viện là chưa đủ nói lên sự bí ẩn lớn lao nào như tựa đề mang lại nên chưa thật sự hài lòng về việc tác giả đã đặt tên như vậy.Tuy nhiên, ngoài các chi tiết ấy thì mọi thứ điều ổn thỏa, nhẹ nhàng và đem lại ấn tượng về một gia đình tan nát, Rill bị bắt cóc cho đến quay trở về vương quốc Arcadia thì nhận ra sự thật rằng gia đình của Rill đã mất hoàn toàn, và rồi phải tự quyết định rũ bỏ vương quốc; nơi mà mình đã từng là công chúa, ra đi cùng với gia đình mới. Một ý nghĩa truyền tải đơn giản là gia đình của Arney, nếu như một đứa trẻ sống trong một gia đình đối xử bạo hành, có nghĩa bạn nên rời khỏi nơi đó, hoặc cứ như Rill đón nhận gia đình nuôi sau khi gia đình cũ bị tan nát, chấp nhận sự thật này rồi tương lai sẽ đón nhận điều mới của chúng ta. *** Dành tặng hàng trăm người đã biến mất và hàng ngàn người vẫn còn tồn tại. Cầu mong câu chuyện của các bạn sẽ không bao giờ bị lãng quên. Đồng thời dành tặng cho những ai từng giúp đỡ trẻ mồ côi ngày nay tìm được mái ấm vĩnh viễn. Chúc các bạn luôn hiểu rõ giá trị công việc và tình yêu của mình. "Bạn có biết rằng, ở tại vùng đất của sự tự do và ngôi nhà của lòng quả cảm này, có một thị trường buôn bán trẻ em cực lớn? Và cổ phần sang tay... không chỉ đơn thuần là những tờ giấy hứa hẹn số cổ tức tài chính nào đó, mà là những đứa bé bằng xương bằng thịt vẫn đang quẫy đạp đầy sinh khí." Trích bài Thị trường buôn trẻ em Thời báo Tối Thứ Bảy, số ngày 1 tháng 2 năm 1930 "Georgia Tann nhiều lần nói rằng trẻ em như tấm bảng trắng. Chúng được sinh ra không chút tì vết, và nếu bạn nhận nuôi chúng từ lúc nhỏ, cho chúng tiếp cận điều hay và nền giáo dục tốt, chúng sẽ trở thành con người như bạn mong muốn." Barbara Bisanta Raymond Tên trộm trẻ thơ *** Baltimore, Maryland Ngày 3 tháng 8 năm 1939 Câu chuyện của tôi bắt đầu vào một đêm tháng Tám oi ả, tại nơi tôi sẽ chẳng đời nào để mắt tới. Căn phòng tước đoạt sinh mạng ấy chỉ nằm trong trí tưởng tượng của tôi. Mất nhiều ngày tôi mới gợi nhớ được hình ảnh về nó. Bốn bức tường trắng tinh sạch sẽ, tấm vải lanh trải giường cứng đờ như chiếc lá rơi xuống vệ đường. Dãy phòng riêng được trang bị mọi thứ tốt nhất. Bên ngoài, làn gió thổi nhẹ uể oải và ve sầu kêu rộn rã trên cây cao, nơi ẩn nấp xanh tươi của chúng nằm ngay dưới khung cửa sổ. Chiếc quạt trần kêu lạch cạch trên đỉnh đầu thổi tấm màn lưới tạt vào trong, lôi kéo luồng không khí ẩm ướt chẳng buồn cựa quậy. Mùi gỗ thông thoảng nhẹ vào phòng, và tiếng gào thét thật to của một người phụ nữ vang lên khi y tá giữ chặt cô ta trên giường. Mồ hôi đầm đìa, tuôn xối xả xuống mặt và tay chân cô ta. Nếu tỉnh giấc trong tình cảnh này, cô ta sẽ sợ chết khiếp cho xem. Cô ta rất xinh. Một linh hồn dịu dàng mỏng manh. Không phải kiểu người sẽ cố tình gây ra tình huống thảm khốc này. Trong cuộc sống ngần ấy năm muôn màu muôn vẻ, tôi đã nhận ra rằng hầu hết mọi người đều cố hết sức để tự mình xoay xở. Họ không hề có ý định tổn hại bất cứ ai. Chẳng qua đó chỉ là hậu quả phụ khủng khiếp của nỗ lực để tồn tại mà thôi. Đó không phải là lỗi của cô ta, tất cả chỉ là một giọt nước tràn ly, một cú đẩy cuối cùng tàn nhẫn, không chút thương xót. Cô ta tạo ra điều cuối cùng mà bản thân mong muốn. Một sinh linh thinh lặng chào đời - bé gái nhỏ xíu có mái tóc vàng nhạt, đẹp như búp bê, nhưng lại xanh xao và im lìm. Người phụ nữ ấy sẽ không thể nào biết được số phận của con mình, hoặc giả nếu như cô ta có biết thì thuốc men cũng sẽ làm cho ký ức ấy nhạt nhòa cho tới hôm sau. Cô ta ngừng quẫy đập và đầu hàng tình trạng nửa tình nửa mê, được ru ngủ nhờ những liều moócphin và thuốc gây mê giúp cô ta đánh bại cơn đau. Cũng như giải thoát cô ta khỏi mọi thứ. Một cuộc trò chuyện đầy cảm thông diễn ra trong lúc các bác sĩ khâu vết thương và y tá dọn dẹp những thứ còn sót lại. "Thật đáng buồn khi chuyện lại xảy ra như thế. Một mạng sống thậm chí còn chưa được một lần hít thở trên cõi đời này." "Đôi khi chúng ta phải tự hỏi... tại sao... khi người ta khao khát một đứa trẻ thì..." Tấm khăn liệm được hạ xuống, che đi đôi mắt nhỏ xíu. Đôi mắt ấy sẽ không bao giờ nhìn thấy gì. Người phụ nữ kia vẫn nghe được nhưng chẳng thể nắm bắt ý. Mọi âm thanh cứ lọt vào tầm nghe rồi tan biến. Như thể cô ta đang cố bắt lấy đợt thủy triều, nhưng nước lại chảy hết qua kẽ bàn tay nắm chặt, và cuối cùng cô ta đành thả mình trôi theo dòng nước. Một người đàn ông đang đợi gần đó, có lẽ là ở trong hành lang ngay bên ngoài cửa. Trông ông ta oai vệ, cao quý và không quen rơi vào tình huống bất lực như thế. Đáng lý hôm nay sẽ là ngày ông ta trở thành ông ngoại. Cảm giác mong chờ tuyệt diệu đã tiêu tan thành nỗi đau quặn thắt ruột gan. "Thưa ngài, tôi thực sự xin lỗi." Bác sĩ nói ngay khi vừa rời khỏi phòng. "Chúng tôi cam đoan rằng chúng tôi đã cố gắng hết sức làm dịu cơn đau lâm bồn của con gái ngài và cứu lấy đứa trẻ. Tôi hiểu chuyện này rất khó khăn. Xin gửi lời chia buồn sâu sắc đến cha đứa trẻ khi nào ngài liên lạc được với anh ấy ở nước ngoài. Sau khi chịu nhiều nỗi thất vọng, gia đình ngài chắc đã nuôi niềm hy vọng lớn lao như vậy." "Con bé còn khả năng sinh nở nữa chứ?" "Đó là điều không nên đâu." "Đây sẽ là dấu chấm hết cho con bé. Và cả mẹ nó nữa, một khi bà ấy biết được việc này. Ông biết đấy, Christine là đứa con duy nhất của chúng tôi. Một đứa trẻ sắp sửa chào đời... sự khởi đầu của một thế hệ mới..." "Tôi hiểu, thưa ngài." "Con bé sẽ gặp rủi ro gì nếu như..." "Mạo hiểm tới mạng sống. Và rất khó có khả năng là con gái ngài sẽ mang thai lần nữa. Nếu cô ấy cố thử thêm, kết quả có thể..." "Tôi hiểu rồi." Vị bác sĩ đưa một tay lên an ủi người đàn ông đang đau khổ ấy, hay có lẽ điều đó chỉ xảy ra trong trí tưởng tượng của tôi mà thôi. Và mắt họ cứ thế giao nhau. Rồi vị bác sĩ ngoái ra sau để đảm bảo là các y tá không thể nghe thấy. "Thưa ngài, tôi có thể đề nghị một chuyện này được chứ?" Ông ta khẽ nói với vẻ nghiêm trang. "Tôi biết một người phụ nữ sống ở Memphis..." Mời các bạn đón đọc Bí Ẩn Trong Cô Nhi Viện của tác giả Lisa Wingate & Mokona (dịch).
2666 (Tiểu Thuyết)
2666 là tiểu thuyết cuối cùng của Roberto Bolaño. Cuốn sách được xuất bản năm 2004, một năm sau khi Bolaño qua đời. Chủ đề của nó vô cùng phong phú, xoay quanh một nhà văn người Đức bí ẩn và những vụ giết người vẫn không ngừng diễn ra ở Santa Teresa, một thành phố bạo lực mà nguyên mẫu đời thực là Ciudad Juárez và những vụ giết hại phụ nữ xảy ra ở đó.  Bên cạnh Santa Teresa, bối cảnh và chủ đề của tiểu thuyết còn có cả Mặt trận phía Đông trong Thế Chiến thứ Hai, thế giới học thuật, bệnh lý tâm thần, báo chí, tình bạn tan vỡ, sự nghiệp tiêu tán. 2666 khám phá sự suy thoái của thế kỷ 20 qua một loạt các nhân vật, địa điểm, giai đoạn và những câu chuyện nằm trong câu chuyện. Giới phê bình nhìn chung đánh giá cuốn sách hết sức tích cực. Ở Chile, nó thắng giải Altazor Award vào năm 2005. The New York Times Book Review đưa cuốn sách vào danh sách Mười cuốn sách hay nhất năm 2008; Tạp chí Time xem 2666 là Sách Hư Cấu Hay nhất Năm 2008; tiểu thuyết cũng thắng giải National Book Critics Circle Award for Fiction năm 2008. Các nhà phê bình so sánh 2666 với các tác phẩm của W. G. Sebald và ca ngợi tầm vóc và những tuyến truyện đan cài trong cuốn sách. Hiếm có cuốn tiểu thuyết nào mà từ khi đang còn trên bàn biên tập đã được một bộ phận độc giả văn chương “sành sỏi” háo hức mong đợi như vậy. Nếu Roberto Bolaño không mất sớm vào năm 2003 khi mới năm mươi tuổi, chắc hẳn ông sẽ là một trong những ứng viên nặng ký cho giải Nobel Văn chương.  TÓM TẮT:  Bốn người châu Âu nghiên cứu văn chương. Một giáo sư đại học ở Mexico. Một nhà báo Mỹ đưa tin về một trận quyền Anh. Một nhà văn Đức kiệt xuất, ẩn dật, từng là lính quốc xã. Cảnh sát, nhiều cảnh sát. Gái điếm. Và nhiều, rất nhiều câu chuyện riêng tư thoạt nhìn chẳng liên quan đến nhau. Nhưng rồi, đọc kỹ, ta sẽ thấy rằng tất cả các chuyện đó, giống như những thế giới rất khác nhau, chồng lớp lên nhau, thảy đều xoay quanh một lỗ đen khổng lồ, hắc ám: Santa Teresa. Thành phố bên rìa sa mạc phía bắc Mexico, giáp giới nước Mỹ. Một thành phố lớn, đầy sức sống. Một thành phố lớn, nơi hiểm họa xảy ra bất cứ lúc nào. Nhất là nếu bạn là phụ nữ. Phức tạp như bản thân thế giới, cuốn sách là cả một vũ trụ đủ màu hỉ nộ ái ố, đủ mùi triết lý, nực cười, lãng mạn, tục tằn, ngây thơ đến độ đui mù, ngoan ngoãn xoay quanh địa ngục lỗ đen và răm rắp tuân theo lệnh của lỗ đen.  *** TÁC GIẢ: Roberto Bolaño (1953-2003) nhà văn kiệt xuất người Chile, tác giả nhiều tiểu thuyết, truyện ngắn và tiểu luận văn chương. Năm 1999 ông đoạt giải thưởng Rómulo Gallegos cho tiểu thuyết Los detectives salvajes (tạm dịch: Trinh thám hoang dại), và năm 2008 ông được truy tặng Giải thưởng Hội Phê bình sách Toàn quốc (National Book Critics Circle Award) của Hoa Kỳ cho tiểu thuyết 2666. Marcela Valdes, một thành viên của ban chấm giải, mô tả 2666 là “một cuốn sách phong phú và chói sáng đến độ chắc chắn sẽ thu hút người đọc và giới học giả suốt nhiều đời sau.” Thời báo New York gọi Bolaño là “tiếng nói văn chương Mỹ la-tinh quan trọng nhất trong thế hệ của ông”. *** '2666' và câu chuyện xảy ra ở thành phố có 108 xác chết Cuốn sách "2666" của Roberto Bolaño là một vũ trụ đủ triết lý, nực cười, lãng mạn, tục tằn, ngây thơ và cả tội ác. 2666 là cuốn tiểu thuyết cuối cùng của nhà văn người Mỹ Latin Roberto Bolaño, được xuất bản một năm sau khi ông qua đời vì căn bệnh suy gan khi 50 tuổi.  2666 không chỉ là kiệt tác cuối đời của một tiểu thuyết gia, mà còn là kiệt tác đến từ "tiếng nói văn chương Mỹ Latin quan trọng nhất trong thế hệ của ông". Một kiệt tác đồ sộ  Cuốn sách xoay quanh rất nhiều nhân vật, nhưng tất cả chỉ đều dẫn đến Santa Teresa, thành phố bên rìa sa mạc ở bắc Mexico, giáp biên giới Mỹ.  Ở đó có người châu Âu nghiên cứu văn chương, một giáo sư đại học, một nhà báo Mỹ, một nhà văn Đức kiệt xuất nhưng sống ẩn dật. Rất nhiều cảnh sát, gái điếm và những nhân vật tưởng chừng chẳng có can hệ gì đến nhau.  Những vụ giết người cứ xảy ra hàng ngày trong cái thành phố đầy sức sống và cũng nhiều hiểm họa ấy. Trong cuốn sách, từ năm 1990 đến 1997, 108 xác chết đều là phụ nữ và các bé gái.  Xuyên suốt từ đầu đến cuối tác phẩm là một vũ trụ đủ màu hỉ, nộ, ái, ố, đủ mùi triết lý, nực cười, lãng mạn, tục tằn, ngây thơ đến độ đui mù, ngoan ngoãn xoay quanh địa ngục lỗ đen và răm rắp tuân theo lệnh của lỗ đen. Ngay từ khi ra mắt, cuốn sách đã được giới phê bình đón nhận tích cực và dành tặng nhiều lời khen ngợi. Tác phẩm chiến thắng giải "Altazor Award" năm 2005 tại Chile và khi được dịch sang tiếng Anh năm 2008 cũng chiến thắng luôn giải "National Book Critics Circle Award for Fiction" của Mỹ.  Tờ New York Times xếp cuốn sách là một trong 10 tác phẩm hay nhất năm 2008, trong khi tạp chí TIME cũng vinh danh 2666 là tiểu thuyết hư cấu hay nhất cũng trong năm đó.  Tựa đề cuốn sách là một điều bí ẩn, đến nay chưa ai giải đáp được. Con số 2666 không xuất hiện dù chỉ một lần trong suốt tác phẩm và Bolaño cũng chưa từng lên tiếng giải thích ý nghĩa của nó.  Tuy vậy, 2666 đã xuất hiện trong một vài các tác phẩm khác của Bolaño, có thể kể đến Amulet ('một nghĩa trang vào năm 2666) và The Savage Detectives ('khoảng năm 2600 gì đó').  Trong bản gốc tiếng Tây Ban Nha, tác phẩm 2666 dày hơn 1.100 trang. Sau khi chuyển ngữ, bản sách tiếng Việt có độ dày gần 900 trang, kết cấu 5 phần rõ ràng.  Để giúp độc giả hiểu rõ hơn về 2666, câu chuyện đằng sau cuốn sách, cũng như khi so sánh với các tác phẩm khác, công ty sách Nhã Nam tổ chức buổi tọa đàm trực tuyến "Nhìn thế giới từ phương Tây: Tiểu thuyết của Murakami và Bolano ở Việt Nam" vào tháng 5 vừa qua.  "Đừng bó buộc nhà văn trong định danh quốc tịch của họ" Ngay từ phần mở đầu của buổi tọa đàm, dịch giả Trần Tiễn Cao Đăng khẳng định ông không phải là nhà nghiên cứu Roberto Bolaño. Ông chỉ đơn giản là người đọc Bolaño sớm hơn so với độc giả Việt Nam.  Ông cũng là người gợi ý hai cuốn sách hay nhất của Bolaño để phía đơn vị xuất bản đem tác phẩm về với độc giả Việt, một trong hai tác phẩm đó là 2666.  Thực chất, cách đây 12 năm, Bolaño đã xuất hiện tại văn đàn Việt Nam với cuốn tiểu thuyết Đêm Chile nhưng chưa được chú ý nhiều. Đến năm 2020, khi tác phẩm 2666 được xuất bản, công chúng mới nghiêm túc nhìn nhận văn chương và tài năng của ông.  Trần Tiễn Cao Đăng biết đến Bolaño lần đầu năm 2007 với cuốn The Savage Detectives (tạm dịch: Trinh thám hoang dại) qua người bạn. Điều đáng nói là khi ấy cuốn sách 2666 vẫn chưa được dịch ra tiếng Anh. Phải khi sách được xuất bản tại Mỹ năm 2008, tên tuổi của Bolaño mới gây được tiếng vang lớn trên thế giới.  Tương truyền khi 2666 ra mắt tại thành phố New York, Mỹ, có hiệu sách còn bố trí riêng một người để lấy sách cho độc giả, bởi số người muốn mua cuốn sách của Bolaño rất lớn. Sức hút cũng không kém gì Haruki Murakami khi mới xuất hiện tại cộng đồng Anh ngữ. Một điều thú vị khi nhắc đến Bolaño, Murakami hay bất kỳ nhà văn nào khác, Trần Tiễn Cao Đăng khuyên độc giả đừng bó buộc họ trong định danh quốc tịch của chính họ như Chile hay Nhật Bản…, mà đơn giản hãy gọi họ là nhà văn.  Ví dụ, các tác phẩm của Murakami, khi loại bỏ hết tên riêng tiếng Nhật và thay bằng những cái tên trong bất cứ ngôn ngữ nào khác, câu chuyện vẫn không thay đổi. Điểm khác biệt lớn nhất giữa hai nhà văn vốn chẳng phải đến từ phương Tây, từ khu vực Âu - Mỹ, nhưng vẫn được yêu thích trên toàn thế giới, là tính hiện thực.  Ở Bolaño, tính hiện thực xuyên suốt trong từng trang sách. Ngay chính ở 2666, độc giả cũng có thể thấy rõ điều đó, như ở phần 4 của cuốn sách là chương mà các tội ác dày đặc, ta bị đông cứng người lại vì có quá nhiều việc ác hiển hiện đến như vậy.  Còn Murakami lại là những thế giới siêu thực, song song với nhiều yếu tố kỳ ảo. Hầu như các tác phẩm của Murakami đều có yếu tố phi thực như vậy, như trong Biên niên ký chim vặn dây cót, Kafka bên bờ biển, Cuộc săn cừu hoang… Các nhân vật của Bolaño và Murakami cũng trái ngược nhau. Bolaño luôn coi mình trước hết với vai trò nhà thơ, mặc dù thành công vang dội trong mảng văn chương. Vì thế, trong hầu hết sách của ông, nhân vật nhà thơ luôn xuất hiện, hiện thân cho cái tôi của chính ông.  Trong Trinh thám hoang dại, toàn bộ câu chuyện xoay quanh các nhà thơ và số phận của họ. Họ hướng tới cái đẹp mà chỉ có mình họ quan tâm đến.  Họ đi bán thuốc phiện để được làm thơ. Nhưng xã hội hiện đại không quan tâm đến họ, biến họ thành kẻ lạc loài. Trong 2666, tuýp nhân vật này lại xuất hiện, đó là anh nhà thơ trong nhà thương điên.  Còn với Murakami, các nhân vật chính lại chưa bao giờ là nhà thơ hay nghệ sĩ. Họ chỉ là những người bình thường, sống độc thân hoặc cô đơn, thường thích nấu ăn và thích nghe nhạc jazz.  Có thể nói hai nhà văn lớn được nhắc đến thuộc hai thế giới hoàn toàn khác nhau, nhưng cùng được xem là hai trong những tiểu thuyết gia quan trọng nhất của thời hiện đại. Với gần 900 trang, cuốn sách 2666 có sự tham gia của hai dịch giả giàu kinh nghiệm là Quân Khuê và Trần Tiễn Cao Đăng. Theo chia sẻ từ đại diện đơn vị xuất bản, cuốn sách cũng được gia hạn bản quyền đến hai lần, không chỉ bởi độ dày, mà còn bởi sự chỉn chu, cầu toàn của người dịch, biên tập viên với một kiệt tác văn chương.  Kết thúc buổi tọa đàm, dịch giả Trần Tiễn Cao Đăng khuyên độc giả đừng nản lòng trước sự đồ sộ của 2666. Văn chương của Bolaño được đánh giá tương đối dễ đọc, dễ hiểu. Ông cũng không phải là người thích chơi chữ nhưng lại có biệt tài kể chuyện cuốn hút. Độc giả hãy cứ kiên nhẫn, hãy cứ thoải mái tận hưởng cuốn sách từng chút một, và sẽ tìm thấy sự hài lòng khi gấp trang cuối cùng lại. *** "2666" tiểu thuyết hay nhất do tạp chí Time bình chọn có mặt tại Việt Nam Do nhà văn Roberto Bolano (Chile) chấp bút, cuốn tiểu thuyết "2666" đã lọt vào danh sách 10 cuốn sách hay nhất 2018 do The New York Times Book Review bình chọn, Tiểu thuyết hay nhất 2018 do tạp chí Time bình chọn. Và với những nỗ lực của công ty Nhã Nam, cuốn sách đã có mặt tại thị trường sách Việt Nam. Cuốn tiểu thuyết có bố cục gồm 5 phần và trọn vẹn như năm tiểu thuyết riêng biệt. Nhiều câu chuyện riêng tư thoạt nhìn chẳng liên quan đến nhau. Nhưng rồi đọc kỹ, độc giả sẽ thấy, tất cả các câu chuyện đó, giống như những thế giới rất khác nhau, chồng lớp lên nhau, và xoay quanh Santa Teresa, thành phố bên rìa sa mạc phía Bắc Mexico, giáp giới nước Mỹ. Một thành phố lớn, đầy sức sống. Một thành phố lớn, nơi hiểm họa xảy ra bất cứ lúc nào. 2666 là một màn trình diễn hoàn hảo mà bất cứ cuốn tiểu thuyết 900 trang nào cũng mong muốn có được. Viết nương theo những hoài nghi về khả năng của văn chương, về những gì văn chương có thể khám phá hay dám gọi tên những tai ách của thế gian, nhà văn Bolano đã chiến thắng cuộc đua tới vạch đích, cuộc đua viết ra điều ông, một bậc thầy ngôn từ mong muốn nói lên một cách giản dị. Roberto Bolano (1953 – 2003) là nhà văn người Chile, tác giả nhiều tiểu thuyết, truyện ngắn và tiểu luận văn chương. Năm 1999 ông đoạt giải thưởng Rómulo Gallegos cho tiểu thuyết Los detectives salvajes (tạm dịch: Trinh thám hoang dại), và năm 2008 ông được truy tặng Giải thưởng Hội Phê bình sách Toàn quốc (National Book Critics Circle Award) của Hoa Kỳ cho tiểu thuyết 2666. Marcela Valdes, một thành viên của ban chấm giải, mô tả 2666 là “một cuốn sách phong phú và chói sáng đến độ chắc chắn sẽ thu hút người đọc và giới học giả suốt nhiều đời sau.” Thời báo New York gọi Bolano là “tiếng nói văn chương Mỹ Latin quan trọng nhất trong thế hệ của ông”.   Mời các bạn đón đọc 2666 (Tiểu Thuyết) của tác giả  Roberto Bolaño & Trần Tiễn Cao Đăng (dịch) & Quân Khuê (dịch).
Tick Tock (Tiếng Việt)
Thám tử số 1 của Sở Cảnh sát New York - Michael Bennet đang gặp phải một vụ án nghiêm trọng: Con trai Sam, Ma cà rồng Brooklyn và Kẻ Đánh Bom Tâm thần đã đồng loạt trở lại. New York chưa bao giờ hỗn loạn hơn! Tick – Tiếng đồng hồ đếm ngược của kẻ thủ ác vang lên Những vụ án mạng thảm khốc reo giắc nỗi kinh hoàng khắp thành phố, và người đạo diễn nên chúng không phải kẻ nghiệp dư, mà là một tay sát nhân máu lạnh và cực kì thủ đoạn. Mục đích của hắn là gì? Vì muốn thỏa thú vui bệnh hoạn, vì tiền… hay vì điều gì khác? Tick – Michael Bennet nhập cuộc Thành phố trông cậy vào Michael Bennet. Đang trong kì nghỉ mát cùng bầy con đông đúc, ông nội, và cô trông trẻ Mary Catherine xinh đẹp, viên thám tử bị lôi đi truy tìm tay tội phạm nguy hiểm dưới cái thời tiết oi nồng của New York. Kì nghỉ đầu tiên của gia đình kể từ ngày vợ Bennet qua đời có thể hỏng bét! Tock – Hết giờ! Bennett cần đến sự hỗ trợ của cựu đồng nghiệp – nữ đặc vụ FBI Emily Parker. Cùng nhau, họ đã phát hiện ra một tình tiết mới, giúp phơi bày cả một âm mưu khủng khiếp. Hung thủ đứng sau những vụ án đẫm máu kia là ai, hắn hành động độc lập hay có đồng phạm? Câu trả lời đang đợi bạn trong những trang sách hồi hộp nhất về thám tử Michael Bennett. *** Nhà văn James Patterson sinh ngày 22 tháng 3 năm 1947 tại thành phố Newburgh, bang New York. Ông từng tốt nghiệp cử nhân về tiếng Anh ở trường cao đẳng Manhattan và tiếp theo, đã bảo vệ thành công luận văn thạc sĩ cũng về tiếng Anh ở Trường Đại học Tổng hợp Vanderbilt. Năm 1971, Patterson được nhận vào làm tại Công ty Quảng cáo James Walter Thompson. Chính ở đây nhà văn tương lai đã được thăng tiến rất mau lẹ trong công việc, từ một nhân viên bình thường lên tới giám đốc. Ngay khi đang làm quảng cáo, Patterson đã thử viết văn. Tiểu thuyết đầu tay của ông là Con số Thomas Berryman thoạt tiên đã bị nhiều nhà xuất bản từ chối. Mãi tới năm 1976, Con số Thomas Berryman mới được nhà xuất bản Little Brown nhận in và sau đó, chính nó đã trở thành sách best-seller và được trao giải thưởng mang tên nhà văn Edgar (mang tên nhà văn Mỹ nổi tiếng Edgar Poe) dành cho tác phẩm đầu tay xuất sắc. Trong gần hai mươi năm sau đó, Patterson đã kết hợp hoạt động của một giám đốc hãng quảng cáo với công việc của một ngôi sao mới nổi trong làng nghệ thuật giải trí. Và rất thành công. Các tác phẩm của James Patterson đã được xuất bản tại Việt Nam: - Hồng Rực Đỏ - Tuần Trăng Mật - Chuyến Đi Khủng Khiếp - Luật Sư và Bị Cáo - Ly Rượu Pha Vội - Cạm Bẫy Mong Manh - Nụ Hôn của Casanova - Kẻ Đầu Tiên Phải Chết - Cơ Hội Thứ 2 - Cấp Độ 3 - Ngày 4 tháng 7 - Kỵ sĩ thứ 5 - Mục Tiêu thứ 6 - Thiên Đường Thứ 7 - Cross - Nỗi Kinh Hoàng Trườn Tới - Tick Tock Mời các bạn đón đọc Tick Tock (Tiếng Việt) của tác giả  James Patterson & Michael Ledwidge.
Alex (Cơn Giận Dữ Của Địa Ngục)
"Tôi chỉ tìm cách viết những cuốn sách mà Hitchcock sẽ muốn dựng thành phim." - PIERR LEMAITRE -   Một cô gái hấp dẫn bị bắt cóc, lột trần rồi nhốt trong một cái lồng chật hẹp, xung quanh là bầy chuột đói. Cảnh sát tìm ra hung thủ ngay trước khi hắn định tự sát nhưng lại không thấy nạn nhân. Một sát thủ máu lạnh với hành trình như không hề định trước, giết những người như chỉ tình cờ gặp với cùng một cách thức: đập vào đầu rồi đổ nửa lít axit sunfuric đậm đặc vào cổ họng. Ai là nạn nhân, ai là đao phủ, hay đao phủ lại chính là nạn nhân? Có cần tìm ra sự thật, hay công lý mới là điều cốt yếu? Được viết bởi cây bút từng đoạt giải Goncourt năm 2013, ALEX sẽ khiến độc giả không thẻ buông lời một giây với đầy cảm xúc chất chứa, đi từ thái cực này đến thái cực khác... BẠN HÃY ĐỌC ĐI NHƯNG ĐỪNG ĐỂ BỊ ĐÁNH LỪA *** Alex khoái chí lắm. Đã gần một tiếng đồng hồ cô hết thử rồi lại ngần ngừ, hết đi ra rồi trở vào, thử đi thử lại. Những bộ tóc giả. Cô sẵn sàng nán lại đây hàng chiều, hàng chiều liền. Cách đây chừng ba bốn năm, cô tình cờ phát hiện cửa hàng này trên đại lộ Strasbourg. Cô không nhìn ngó kỹ mà chỉ bước vào vì tò mò. Cô choáng váng vô cùng khi đội bộ tóc hung lên đầu, mọi thứ ở cô đều thay đổi đến mức cô đã ngay lập tức mua bộ tóc giả ấy. Alex có thể mang trên người gần như bất cứ thứ gì vì cô thực sự rất xinh đẹp. Trước đây thì chưa phải như vậy điều đó chỉ bắt đầu từ khi cô bước vào tuổi thiếu niên. Hồi trước, cô là một con bé xấu tệ và gầy đét. Nhưng lúc đã được khởi động thì, cứ như một cơn sóng ngầm, cơ thể bỗng nhiên lột xác, giống như phim tua nhanh, chỉ trong vòng mấy tháng Alex trở nên đẹp rực rỡ. Bởi chẳng một ai, tính luôn cả cô, còn trông đợi điều đó nữa, nên cô chưa bao giờ thực sự tin nổi ân sủng bất ngờ này. Giờ vẫn chưa tin nổi. Chẳng hạn, cô chưa từng tưởng tượng một bộ tóc giả màu hung lại có thể hợp với mình đến thế. Đúng là cả một khám phá. Cô đã không ngờ đến tầm vóc và sức mạnh của sự thay đổi. Một bộ tóc giả thì thật giả tạo, nhưng khó mà giải thích nổi, cô thấy như thể đúng là có điều gì đó mới mẻ vừa xảy ra trong đời mình. Thật ra thì cô chưa bao giờ đội bộ tóc giả ấy. Về đến nhà, cô nhận ngay ra rằng chất lượng của nó hết sức tồi tệ. Trông nó rất giả, xấu xí, thảm hại. Cô đã vứt nó đi. Không phải vứt vào thùng rác mà vào một ngăn kéo tủ. Thỉnh thoảng cô mới lôi ra rồi ngắm mình đội nó. Bộ tóc giả này trông có khủng khiếp đến đâu, như thể muốn hét lên: “Tôi được làm từ ni lông tổng hợp rẻ tiền”, thì cũng không ngần Alex nhìn thấy trong gương một tiềm năng mà cô sẵn lòng tin tưởng. Cô đã quay lại đại lộ Strasbourg, bỏ thời gian nhìn ngắm những bộ tóc giả chất lượng tốt, đôi thứ hơi quá đắt với đồng lương y tá thời vụ của cô, nhưng là những bộ ta có thể thực sự đội trên đầu. Và thế là cô đã quyết. Lúc đầu, thật không dễ dàng, phải cả gan dấn bước. Khi mà bản tính con người ta, tức là Alex, chất chứa nhiều mặc cảm, thì phải mất đến nửa ngày trời mới gom đủ dũng khí làm việc đó. Trang điểm sao cho thật ngon lành, chọn quần áo, giày và túi xách cho thật hợp (tức là chọn ra những gì có thể sử dụng từ đống đồ có sẵn, chứ đâu thể mỗi lần đổi kiểu tóc là lại đi mua hết thảy đồ mới…) Nhưng sau đó ta đi ra phố và ngay lập tức trở thành một người khác. Không hoàn toàn là một người khác, chỉ gần như vậy thôi. Và, cho dù điều đó không làm thay đổi cuộc đời thì nó cũng giúp ta giết thời gian, nhất là khi ta chẳng còn trông chờ gì nhiều nữa. Alex thích những bộ tóc giả theo khuôn mẫu, những bộ tóc gửi đi các thông điệp rõ ràng như: “Tôi biết anh đang nghĩ gì” hay “Tôi cũng rất giỏi môn toán.” Bộ tóc cô đang đội hôm nay nói lên một điều gì đó như: “Anh sẽ không tìm thấy tôi trên Facebook đâu.” Cô cầm lên một mẫu mang tên “Urban choc”, đúng lúc đó thì nhìn thấy hắn qua cửa kính. Hắn đứng trên vỉa hè đối diện, đang làm ra vẻ đợi ai đó hoặc một điều gì đó. Đây là lần thứ ba trong vòng hai tiếng. Hắn đi theo cô. Giờ thì cô đã chắc chắn rồi. Tại sao lại là mình? Đó là câu hỏi đầu tiên cô tự đặt ra. Cứ như thể bất kỳ đứa con gái nào cũng có thể bị đàn ông theo đuôi, trừ cô. Cứ như thể chẳng phải cô vẫn thường xuyên cảm nhận được ánh mắt của bọn họ, ở khắp nơi, trên tàu xe, ngoài phố. Trong các cửa hiệu. Alex vừa mắt đàn ông mọi lứa tuổi, đó chính là lợi thế khi ta ở tuổi ba mươi. Dẫu vậy, cô vẫn luôn luôn thấy ngạc nhiên. “Có biết bao nhiêu cô gái khác khá hơn mình nhiều.” Luôn thiếu tự tin, Alex ấy, luôn ngập trong ngờ vực. Từ hồi còn bé. Cô mắc tật nói lắp mãi cho đến tuổi thiếu niên. Thậm chí giờ vẫn vậy, vào những lúc cô bối rối. Cô không biết tay kia, bởi nếu có biết thì một vẻ ngoài như thế hẳn đã để lại một dấu ấn sâu sắc, không, cô chưa bao giờ nhìn thấy hắn. Và rồi, một người đàn ông năm mươi tuổi đi theo một cô gái ba mươi… Chẳng phải cô khư khư với những nguyên tắc, mà chỉ là chuyện này làm cô thấy ngạc nhiên. Alex cúi xuống xem các mẫu khác, làm ra vẻ do dự rồi đi sang phía bên kia cửa hàng, đến một góc có thể quan sát vỉa hè. Hắn có dáng xì po, trông có vẻ khó cựa quậy bên trong bộ quần áo quá chật, dạng đàn ông nặng cân. Vừa vuốt vuốt một bộ tóc giả màu vàng hoe, gần như ngả sang bạch kim, cô vừa nhớ lại xem lần đầu tiên mình nhận ra sự hiện diện của hắn là khi nào. Trên tàu điện ngầm. Cô đã thấy hắn ngồi ở cuối toa. Ánh mắt họ giao nhau và cô đã kịp nhìn thấy nụ cười mà hắn gửi đến cho cô, nụ cười cố làm ra vẻ mơn trớn, làm thân. Điều cô thấy không thích trên khuôn mặt hắn là như thể trong cái nhìn của hắn có một định kiến nào đó. Nhưng nhất là, cặp môi hắn quá mỏng. Theo bản năng, cô lấy đó làm nghi ngại, cứ như thể tất cả những ai môi quá mỏng đều mang bên trong mình điều gì đó, những bí mật không thể giãi bày, những điều độc ác. Và cái trán dô của hắn nữa. Cô không kịp nhìn cặp mắt hắn, thật đáng tiếc. Theo cô, mắt thì không thể đánh lừa, cô vẫn luôn luôn đánh giá người khác như vậy, căn cứ vào ánh mắt. Lẽ dĩ nhiên là trên tàu điện ngầm, cô chẳng muốn mất thời gian với thể loại người như thế. Không tỏ ra quá phũ phàng, cô quay mặt sang hướng khác, quay lưng về phía hắn, lục tìm chiếc máy MP3 để trong túi xách. Cô bật bài Nobody’s Child, và đột nhiên nghĩ hình như đã nhìn thấy hắn hôm trước hoặc hôm trước nữa, ở dưới nhà. Hình ảnh quá mờ mịt, cô không chắc lắm. Chắc phải ngoái nhìn thêm một lần nữa thì mới hòng điều động lại được ký ức mờ ảo kia, nhưng cô không muốn tỏ vẻ khuyến khích hắn. Điều chắc chắn là sau khi chạm trán trên tàu điện ngầm, nửa tiếng sau đó cô lại thấy hắn trên đại lộ Strasbourg, đúng lúc cô quay lại chỗ này. Cô vừa đổi ý, cô muốn xem lại bộ tóc giả màu nâu dài vừa phải có nhiều lọn, đột nhiên cô quay phắt lại và nhìn thấy hắn, cách một quãng, trên vỉa hè, hắn dừng sững lại, làm ra vẻ đang nhìn một cửa kính. Sau cửa kính đó bày quần áo phụ nữ. Cho dù hắn có cố tỏ ra chăm chú đến đâu cũng vô ích… Alex đặt bộ tóc giả xuống. Chẳng có lý do gì, thế nhưng hai tay cô vẫn run lên. Ngốc thật. Hắn thích cô, hắn ta đi theo cô, thử vận may, dù thế nào thì hắn cũng sẽ không tấn công cô trên phố. Alex lắc đầu như thể muốn sắp xếp suy nghĩ cho ngay hàng thẳng lối và, khi cô lại nhìn ra vỉa hè, người đàn ông đã biến mất. Cô nghiêng đầu nhìn sang phải rồi sang trái, nhưng không, chẳng có ai, hắn không còn ở đó nữa. Cô cảm thấy nhẹ nhõm hẳn nhưng cảm giác ấy có phần hơi quá. Tuy cô cứ không ngừng tự nhủ “Ngốc thật” nhưng dù gì hơi thở của cô cũng trở lại bình thường hơn. Ra đến cửa, cô không thể ngăn mình dừng lại, kiểm tra thêm một lần nữa. Giờ thì như thể chính sự biến mất của hắn mới làm cô thấy lo lắng. Alex xem đồng hồ đeo tay, rồi ngước nhìn trời. Thời tiết dễ chịu, sẽ còn sáng ít nhất thêm một tiếng nữa. Không muốn về nhà. Chắc cô sẽ phải ghé một tiệm tạp hóa. Cô cố nhớ xem trong tủ lạnh còn những gì. Cô thực sự quá ít để tâm đến chuyện chợ búa. Mối bận tâm của cô dồn cả vào công việc, vào tiện nghi riêng (Alex hơi có chút ám ảnh vì những thứ ấy) và, mặc dù cô không muốn tự thú nhận điều này cho lắm, vào quần áo và giày dép. Và túi xách. Và những bộ tóc giả. Cô những muốn mối bận tâm của mình hướng vào tình yêu thì hơn, nhưng tình yêu là một chủ đề riêng biệt, cái khoảng buồn thảm trong đời cô. Cô từng hy vọng, từng mong muốn, thế rồi cô từ bỏ. Giờ cô không còn muốn nấn ná ở chủ đề này nữa, cô cố sao càng ít nghĩ đến nó càng tốt. Cô chỉ gắng sức để không biến nỗi tiếc nuối ấy thành chứng nghiện xem ti vi, khiến cô tăng cân, hay làm cô trở nên quá xấu xí. Dẫu vậy, tuy sống độc thân nhưng hiếm khi nào cô cảm thấy cô độc. Cô có những dự đồ mà cô hết sức thiết tha, chúng giúp cô tổ chức quỹ thời gian. Còn về phần tình yêu, thì xôi hỏng bỏng không rồi, nhưng cũng chỉ vậy mà thôi. Và cũng bớt khó khăn nhiều kể từ khi cô chuẩn bị sẵn tinh thần rằng mình sẽ ở vậy suốt đời. Dẫu có một thân một mình, Alex vẫn cố sống sao cho bình thường, tự tìm lạc thú. Ý nghĩ đó thường xuyên giúp cô, cái ý tưởng tự tìm cho mình những lạc thú nho nhỏ, ý tưởng cho rằng cả cô cũng có quyền được hưởng chúng, như những người khác. Chẳng hạn, cô đã quyết định tối nay sẽ quay lại quán Mont-Tonnerre trên phố Vaugirard để ăn tối. Cô đến hơi quá sớm. Đây là lần thứ hai cô tới đây. Lần đầu tiên là vào tuần trước, và đương nhiên người ta vẫn còn nhớ một cô gái tóc hung xinh đẹp ăn tối một mình. Tối nay, cô được chào hỏi như một khách quen, mấy anh phục vụ huých khuỷu tay vào nhau, vụng về tán tỉnh cô khách xinh đẹp đôi chút, cô mỉm cười, và các anh chàng thấy cô thật kiều diễm. Cô muốn ngồi đúng cái bàn hôm trước, lưng quay ra đường, nhìn vào phía trong phòng, cô cũng gọi nửa chai vang Alsace lạnh như lần trước. Alex thở dài, cô thích ăn, thậm chí cô còn phải dè chừng chuyện ăn uống, phải tự nhắc nhở mình điều đó suốt. Trọng lượng cơ thể cô cứ lên xuống chẳng khác gì con lắc yoyo. Tuy nhiên, cô vẫn kiểm soát khá tốt vấn đề này. Có lên đến mươi, mười lăm cân, biến dạng cả đi, thì cũng chỉ cần hai tháng là cô đã lại quay về với trọng lượng ban đầu. Vài năm tới, cô sẽ không còn chơi trò này được nữa. Cô rút quyển sách của mình ra và gọi thêm một cái dĩa để giữ trang trong lúc ăn. Cũng như tuần trước, ngồi đối diện cô, hơi lệch về phía tay phải, vẫn là anh chàng tóc hạt dẻ rất sáng màu. Anh ta ăn tối với các bạn. Họ mới có hai người, nghe họ nói chuyện với nhau thì những người khác sắp đến. Anh ta nhìn thấy cô ngay lập tức, lúc cô vừa bước vào, cô làm ra vẻ không quá để ý thấy anh ta đang nhìn mình rất khiếp. Sẽ như thế này suốt bữa. Ngay cả khi những bạn bè khác đã tới, ngay cả khi họ đã lao vào những cuộc trò chuyện bất tận về công việc, về các cô gái, về phụ nữ, lần lượt kể cho nhau nghe những câu chuyện trong đó họ là nhân vật chính, thì anh ta vẫn không ngừng nhìn cô. Alex rất thích tình huống này nhưng không muốn công khai khích lệ anh ta. Anh ta không tệ, chừng bốn mươi, bốn lăm tuổi, chắc từng đẹp trai, uống hơi quá nhiều rượu nên mặt mũi trông buồn thảm. Với Alex, khuôn mặt này tạo ra nhiều cảm xúc. Cô uống cà phê. Hành động nhượng bộ duy nhất, được tính toán rất kỹ lưỡng: một ánh mắt hướng về người đàn ông kia khi cô rời khỏi quán. Chỉ một cái nhìn. Alex rất giỏi làm chuyện này. Chỉ thoáng qua thôi nhưng cô thực sự cảm nhận được cảm giác đau đớn khi anh ta đặt lên cô ánh mắt thèm muốn ấy, nó làm bụng cô rộn lên, như một dấu hiệu của buồn bă. Alex không bao giờ tự nhủ thành lời, những lời lẽ có thực, khi đụng đến cuộc đời cô, như buổi tối hôm nay. Cô thấy rõ rằng trí óc mình đang đăm đắm vào những hình ảnh bất động, như thể cuốn phim đời cô bị đứt, cô không thể trở ngược, không thể tự kể lại chuyện, không thể tìm ra từ ngữ được nữa. Lần sau, nếu cô ở lại muộn hơn, có thể anh ta sẽ đứng đợi cô sẵn ở bên ngoài. Cứ đợi xem. Mà có chứ. Alex biết rất rõ chuyện sẽ xảy ra như thế nào. Vẫn cứ là gần như theo cùng một cung cách. Những lần cô tái ngộ với đàn ông chẳng bao giờ tạo nên câu chuyện thật đẹp, nhưng ít nhất thì đó cũng là một phần trong bộ phim cô từng xem và vẫn còn nhớ. Thế đấy, chuyện là vậy. Trời đã tối hẳn và thời tiết rất dịu mát. Một chiếc xe buýt vừa dừng ở bến. Cô rảo bước, tài xế nhìn thấy cô trong gương chiếu hậu nên đợi cô, cô khẩn trương hơn, nhưng đúng lúc bước lên thì, không, cô đổi ý, cô sẽ đi bộ một lúc, cô sẽ bắt một chiếc xe buýt khác trên đường, cô ra hiệu cho tài xế, anh ta đáp lại bằng một động tác tỏ vẻ nuối tiếc, như thể muốn nói rằng trên đời quả thật có số mệnh. Dù sao anh ta cũng mở cửa: — Sau xe tôi không còn xe nào khác nữa đâu, đây là chuyến cuối của tối nay rồi… Alex mỉm cười, phác một cử chỉ biết ơn. Kệ thôi, cô sẽ đi bộ vậy. Cô sẽ đi theo ngả phố Falguière, rồi sau đó là phố Labrouste. Cô đã ở khu phố này được ba tháng, bên phía cửa ô Vanves. Cô liên tục chuyển nhà. Trước đây, cô ở cửa ô Clignancourt, còn trước đó nữa là phố Commerce. Có những người ghét chuyển nhà, còn cô lại thấy đó là một việc cần thiết. Cô khoái lắm. Cũng có thể, cũng như với đám tóc giả, đó là cảm giác được thay đổi cuộc đời. Cứ lặp đi lặp lại như thế. Rồi đến một ngày, cô sẽ đổi cách sống. Trước mặt cô, cách vài mét, có một chiếc xe tải nhẹ màu trắng đang đỗ, hai bánh ghếch trên vỉa hè. Để đi qua, Alex nép sát vào tòa nhà, cô cảm thấy có ai đó, một người đàn ông, chưa kịp ngoảnh đầu lại cô đã lĩnh một cú đấm trời giáng vào khoảng giữa hai vai. Cô mất đà, ngã bổ nhào về phía trước, trán đập mạnh vào thân xe làm phát ra một âm thanh đùng đục, cô quăng mọi thứ đi để tìm chỗ bám nhưng không quờ được gì, hắn tóm lấy tóc cô nhưng vớ phải bộ tóc giả. Hắn bật chửi thề, câu chửi mà cô không hiểu, và điên cuồng dùng một tay túm cả một mớ tóc của cô, lần này là tóc thật, còn tay kia hắn nhằm thẳng vào bụng cô, cú đấm đủ sức giết chết một con bò. Alex còn không kịp hét lên vì đau, cô gập người lại, nôn thốc. Gã đàn ông khỏe thật, vì hắn xoay người cô về phía hắn dễ như xoay một tờ giấy. Hắn vòng tay quanh người cô, giữ chặt lấy và nhét một nắm vải vào sâu trong miệng cô, đến tận cổ họng. Là hắn, gã đàn ông ở tàu điện ngầm, trên phố, chỗ cửa hàng, là hắn. Trong một tích tắc, mắt họ giao nhau. Cô gắng sức lấy chân đá hắn nhưng giờ hắn đã siết chặt lấy hai cánh tay cô, như một cái ê tô, cô không tài nào làm được gì hòng chống lại sức mạnh này, hắn giật cô chúi xuống, hai đầu gối cô không trụ nổi, cô ngã xuống sàn thùng sau xe. Hắn co chân đạp mạnh vào đoạn thắt lưng cô, Alex bắn vào trong thùng xe, má chà xuống sàn. Hắn leo lên sau cô, sỗ sàng xoay người cô lại, tì đầu gối lên bụng cô và tung một cú đấm vào mặt. Hắn ra đòn cực mạnh… Hắn thực sự muốn làm cô đau, hắn thực sự muốn giết cô, đó là ý nghĩ chạy qua óc Alex vào lúc cô phải nhận cú đấm ấy, đầu cô dộng xuống sàn, nẩy lên, một cú va chạm khủng khiếp, đúng chỗ đó, đằng sau đầu, chẩm, đúng rồi, Alex tự nhủ, chỗ đó gọi là chẩm. Ngoài từ ấy ra, cô chỉ có thể nghĩ được rằng mình không muốn chết, không phải như thế này, không phải bây giờ. Cô nằm co quắp ở tư thế bào thai, trong miệng đầy thứ mửa ra, đầu chực nổ tung, cô cảm thấy hai bàn tay mình bị giật thật mạnh ra sau lưng, bị trói lại, cả hai cổ chân nữa. Mình không muốn chết bây giờ, Alex tự nhủ. Cửa thùng xe đóng sập lại, máy nổ, vù một cái chiếc xe rời khỏi vỉa hè, mình không muốn chết bây giờ. Alex bất tỉnh nhưng vẫn ý thức được chuyện đang xảy đến với mình. Cô khóc, nghẹn cả thở vì khóc. Tại sao lại là mình? Tại sao lại là mình? Mình không muốn chết. Không phải là bây giờ. Mời các bạn đón đọc Alex (Cơn Giận Dữ Của Địa Ngục) của tác giả Pierre Lemaitre & Cao Việt Dũng (dịch).