Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Những Đỉnh Núi Du Ca (Nguyễn Mạnh Tiến)

Đã từ lâu, người H’Mông là một tộc người rất đặc biệt trong các tộc người phía Bắc Việt Nam. Nghiên cứu về H’Mông là thách thức lớn trong nghiên cứu dân tộc học.

Nhưng với Nguyễn Mạnh Tiến, nhà nghiên cứu dân tộc học độc lập, bằng thái độ thông hiểu và nhiều năm ròng rã thực địa tại cao nguyên đá Đồng Văn, “Những đỉnh núi du ca - một lối tìm về cá tính H’Mông” là công trình nghiên cứu xuất sắc xoay quanh phát hiện, xác lập và làm sáng bộ từ khóa đã kiến tạo “cá tính H’Mông” trong lịch sử: tâm thức lưu vong - tâm thức di dân-tâm thức mồ côi, ám ảnh Hán, nổi loạn, tự do, mộng mơ, tình yêu, tự trị tộc người, quyền lực miền núi...

Trong nghiên cứu của mình, Nguyễn Mạnh Tiến cho rằng, chính cá tính H’Mông là vấn đề then chốt khi tìm hiểu tộc người này. “Cá tính H’Mông là cấu trúc ngầm ẩn, quyết định toàn bộ số phận văn hóa, lịch sử, tín ngưỡng người H’Mông” (tr.45), từ đó khai triển cái nhìn trên một nền tảng rộng lớn hơn nhằm tìm kiếm một thực tại khác về lịch sử Việt Nam, phần nhìn từ núi.***

Quyển sách này là một nỗ lực dân tộc học mà phần trọng tâm trước tiên đặt vào kho tàng văn chương dân gian tộc người, nhất là ở những bài hát, sau đó, mở rộng phạm vi vào tìm hiểu các hệ thống chính trị miền núi. Việc phân tích các dữ kiện dân tộc học về H’mông, từ nhiều phương diện, rốt cục là nhằm hướng đến khái quát nên hệ thống những đặc điểm trong tâm thức tập thể tộc người, gói vào trong bộ từ khóa (key words) xác lập “cá tính H’mông” ở đời - phần làm thành quan niệm nhân sinh: tâm thức lưu vong - tâm thức di dân - tâm thức mồ côi, ám ảnh Hán, tự tử, nổi loạn, tự do, mộng mơ, tình yêu, tự trị tộc người, quyền lực miền núi. Sự tiến triển của nghiên cứu này, vì thế, là một nỗ lực xoay quanh phát hiện, xác lập và làm sáng bộ từ khóa đã kiến tạo “cá tính H’mông” trong lịch sử.

Nhưng như vậy thì phải chăng nghiên cứu này đã hàm ý nhấn quá mạnh vào loạt hệ thống những khác biệt. Cái khiến H’mông chỉ có thể là H’mông! Tìm kiếm một căn cước H’mông không lẫn lộn? Điều này, ở Việt Nam hiện nay, thường trùng với sự “ca ngợi”, “tô đậm” có phần thái quá và đầy siêu hình về cụm từ “bản sắc”, và kéo theo đó là niềm tin duy ý chí “bảo tồn, phát triển bản sắc dân tộc”. Cho dù, “bản sắc” thường hiện lên là một cái gì mang tính tưởng tượng và mù mờ, chung chung không rõ hình dạng. Vậy, phải chăng, ở đây lại sẽ tái lặp một tiếp diễn của tâm thế “thơ ngây” ca tụng chủ nghĩa dị biệt (différentialisme) khi quan sát tộc người. Sự thực thì, không thể tồn tại một văn hóa làm thành từ những dị biệt. H’mông không là ngoại lệ. H’mông là một sự tiến triển, biến đổi và kiến tạo văn hóa trong suốt quá trình lịch sử xuyên biên giới dài lâu. Vì thế, để tránh một sự hiểu lầm đáng tiếc, nghiên cứu này cố gắng tìm kiếm một bộ từ khóa nhằm xác lập, qui định căn cước H’mông ở đời. Đồng thời, nó cũng đã không quên liên tục cố gắng so sánh hệ đặc điểm cá tính H’mông với văn hóa đa dạng của các tộc người ở miền núi Việt Nam. Và vì thế, không có gì là sự dị biệt đến khu biệt. Sự dị biệt cũng bao hàm tính “phổ biến” nhất định của nó. Sự dị biệt, vì thế, được hiểu là thành tố nổi trội ở tộc người này, nhưng là không nổi trội ở tộc người khác, dù chung lại, nhiều tộc người đều sở hữu, cùng chia sẻ những sự kiện xã hội ấy. Tất cả, chung và riêng, xối trộn và đan cài, làm thành hình ảnh quen thuộc của dân tộc học: một bức khảm văn hóa miền núi. Tìm mua: Những Đỉnh Núi Du Ca TiKi Lazada Shopee

Và bạn có thể tự tìm thấy trong nghiên cứu này, như là mong muốn của tôi, sẽ không có sự phấn khích thái quá với những “khác biệt” mà “chỉ H’mông mới có”. “Lí người H’mông”, “lí người Thái” hay “lí người Cống”... những cái lí tộc người ấy, do vậy, vừa có những khác biệt đồng thời lại chia sẻ những tương đồng đáng kể. Trong quan sát của tôi, cái lí (logos) của tộc người, gồm cả phần giống và khác, tổng thể ấy tạo thành căn cước, bản sắc của tộc người. Cái lí tộc người ấy, do vậy, là một kiến tạo chứ không cố định, bất biến, có từ “xa xưa” trong “văn hóa truyền thống” đầy mơ hồ mang tính chất tưởng tượng tập thể. Cái lí ấy là sự tái cấu trúc liên tục chất liệu khi tộc người phải xê dịch vì tị nạn chính trị, tìm kiếm sinh kế, liên kết hay va chạm trong cộng cư với các tộc người lân cận. Tuy nhiên, dẫu sao thì vẫn phải nhận thấy, đứng trước cùng một sự kiện gay cấn, mang tính xung đột hay bước ngoặt của số phận cộng đồng, mỗi nhóm đã có một cách hành xử không giống nhau. Bộ từ khóa được tìm kiếm trong nghiên cứu này, do vậy, hi vọng làm tỏ hơn phần bóng âm trong động cơ những lựa chọn của hành động tộc người H’mông từ có mặt trên đất Việt Nam.

Nghiên cứu H’mông này, thêm nữa, còn hướng đến sự kết nối hàng loạt những đặc điểm của cá tính H’mông tưởng như rời rạc vào một hệ thống. Tâm thức lưu vong - tâm thức di dân - tâm thức mồ côi, ám ảnh Hán, tự tử, nổi loạn, tự do, mộng mơ, tình yêu, tự trị tộc người, quyền lực miền núi không phải nắm cá tính rời rã, mà nó móc nối, chằng chéo với nhau trong tính liên kết chặt. Cái này dẫn đến cái kia, và, cái kia quay lại qui định cái này. Tổng thể ấy đan cài vào nhau, gài răng lược, làm thành một chủ đề nổi bật mà quan sát dân tộc học thuờng nhận thấy và nhấn mạnh: cá tính H’mông.

Và dù sống ở các đỉnh núi, luôn nỗ lực, đến mức nhiều khi là cực đoan về các hoàn cảnh sống nhằm duy trì sự tự trị về hiện hữu ở đời, người H’mông vẫn không là một ngoại lệ của sự tiếp xúc (giao lưu hòa bình hay va chạm chính trị, quân sự) rất thường xuyên ở miền núi Việt Nam và Đông Nam Á, xưa cũng như nay. Văn hóa H’mông trải qua một thế kỷ đầy biến động “bị lôi kéo vào chiến tranh”, liên tục biến đổi và biến chuyển dữ dội bởi sự lớn mạnh từ sức chi phối ngày càng hiệu quả của các nhà nước ở đồng bằng, đồng thời, cũng phải chịu sự tác động chung lớn lao từ kỷ nguyên toàn cầu hóa có nguy cơ san phẳng, thương mại hóa các giá trị khác biệt. Chừng ấy những “va đập” của lịch sử đã khiến xã hội H’mông hiện tại và xã hội H’mông “truyền thống” có quá nhiều biến đổi. Các kiến giải của nghiên cứu này, vì thế, sẽ gần với các sự thực hơn nếu người đọc có sẵn một tiền nghiệm là công trình này nhắm đến lí giải, quan sát về các xã hội miền núi trước 1945, xa hơn nữa, trước thế kỷ XX, khi xã hội H’mông cũng như nhiều xã hội tộc người khác còn mang nặng “tính truyền thống”. Thêm nữa, tôi cũng muốn các bạn lưu ý thêm, giữa hai cộng đồng H’mông - H’mông Tin Lành và H’mông truyền thống, những phân tích của nghiên cứu này được xây dựng chủ yếu từ những dữ kiện của các nhóm H’mông truyền thống, nhóm vẫn chiếm đa số, hơn 80% tổng dân số H’mông cho đến gần đây (Nguyễn Văn Thắng 2009: 19). Nhưng dù thế, thì bộ từ khóa cá tính H’mông được tìm kiếm, tác giả của nó vẫn mong muốn có thể ít nhiều soi sáng cho cái hiện tại ở mọi xã hội H’mông, cả phần theo đạo và giữ tín ngưỡng truyền thống.

Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Những Đỉnh Núi Du Ca PDF của tác giả Nguyễn Mạnh Tiến nếu chưa có điều kiện.

Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.

Nguồn: thuviensach.vn

Đọc Sách

Truyện Kiều
Truyện Kiều Truyện Kiều – Nguyễn Du Truyện Kiều được viết bằng chữ Nôm dựa theo tác phẩm Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân, Trung Quốc. Hiện nay, ở Việt Nam lưu truyền một số dị bản của tác phẩm này. Truyện Kiều là tiểu thuyết viết bằng thơ lục bát. Truyện phản ánh xã hội đương thời thông qua cuộc đời của nhân vật chính Vương Thuý Kiều. Xuyên suốt tác phẩm là chữ “tâm” theo như Nguyễn Du đã tâm niệm “Linh Sơn chỉ tại nhữ tâm đầu” (nghĩa là “Linh Sơn chỉ ở lòng người thôi”). Truyện Kiều đã từng được in ngược bởi Nhà xuất bản Thanh Niên để có thể đọc mạch truyện ngược chiều thời gian từ “tái hồi Kim Trọng” trở về đoạn mở đầu truyện lúc hai người còn chưa biết nhau. Số Đỏ Nam Cao Tuyển Tập Đất rừng phương Nam Truyện Kiều cũng là tác phẩm được viết và đóng thành quyển sách nặng nhất ở Việt Nam do nhà thư pháp Nguyệt Đình thực hiện. Truyện nặng 50 kg, làm trên trên khổ giấy 1 m × 1,6 m và hiện được trưng bày tại Khu di tích Nguyễn Du huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Theo Giáo sư Nguyễn Lộc: “Đoạn trường tân thanh là một truyện thơ Nôm viết bằng thể lục bát, dựa theo tác phẩm Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân, Trung Quốc. Có thuyết nói Nguyễn Du viết Truyện Kiều sau khi đi sứ Trung Quốc (1814-1820). Có thuyết nói Nguyễn Du viết trước khi đi sứ, có thể vào thời gian làm Cai bạ ở Quảng Bình (1804-1809). Thuyết sau này được nhiều người chấp nhận”. Mời các bạn đón đọc Truyện Kiểu của Nguyễn Du. Đừng quên chia sẻ sách và đăng ký email nhận sách hay hàng tuần.
Tắt Đèn
Tắt Đèn Tắt Đèn – Ngô Tất Tố Tắt Đèn mở đầu bằng không khí căng thẳng, ngột ngạt của một làng quê trong những ngày sưu thuế. Cổng làng đóng lại, công việc cày bừa đình đốn, bọn lý trưởng, trương tuần chửi bới, quát tháo om sòm; Mấy tên cai lệ, lính cơ tay thước, roi song, dây thừng đi tróc người thiếu thuế. Tiếng trống, mõ, tù và inh ỏi, tiếng thét lác, đánh đập, tiếng kêu khóc thảm thiết vang lên như trong một cuộc săn người. Gia đình chị Dậu thuộc loại “nhất nhì trong hạng cùng đinh” nên mấy hôm nay, chị phải chạy vạy ngược xuôi để có tiền nộp suất sưu cho anh Dậu. Bọn nhà giàu chẳng những không cho chồng chị vay mượn mà còn nhiếc móc, đe dọa. Anh Dậu đang ốm cũng bị bọn tay sai xông đến đánh trói, lôi ra đình cùm kẹp. Nam Cao Tuyển Tập Đất rừng phương Nam Dế Mèn Phiêu Lưu Ký Chị đành phải rứt ruột đem cái Tý, đứa con gái đầu lòng lên bảy bán cho lão Nghị Quế bên thôn Đoài. Vợ chồng lão giàu có mà keo kiệt, tàn ác, đã lợi dụng tình cảnh khốn cùng của chị, mua cái Tý và cả một ổ chó mà chỉ trả hai đồng bạc! Cộng với mấy hào bán gánh khoai, chị tưởng vừa đủ nộp suất sưu và chồng được tha về; Ngờ đâu, bọn lý dịch lại bắt chị phải nộp cả suất sưu của người em chồng đã chết từ năm ngoái! Thật là cùng đường. Giữa đình làng, tiếng kêu uất ức của chị vang lên thảm thiết.
Bắt Trẻ Đồng Xanh
Bắt Trẻ Đồng Xanh Bắt Trẻ Đồng Xanh Bắt Trẻ Đồng Xanh là một cuốn sách nhỏ, mỏng và chẳng giống ai. Điều đó cũng là tính cách của nhân vật chính, Holden – nổi loạn, thiếu giáo dục, và lạ lùng. Bắt Trẻ Đồng Xanh từng gây ra tranh cãi lớn vì đã sử dụng nhiều ngôn từ tục tĩu, mô tả tâm lý chán chường và vấn đề tình dục của vị thành niên. Nhân vật chính của Bắt trẻ đồng xanh, Holden Caulfield, đã trở thành hình tượng cho sự nổi loạn và thách thức của thanh thiếu niên Mỹ. Holden không thích cái gì cả, cậu chỉ muốn đứng trên mép vực của một cánh đồng bao la, để trông chừng lũ trẻ con đang chơi đùa. Holden chán ghét mọi thứ, cậu lan man, lảm nhảm hàng giờ về những thói hư, tật xấu, những trò giả dối tầm thường mà người đời đang diễn cho nhau xem. Holden thô thiển, tục tĩu và chẳng tuân theo khuôn mẫu nào của cuộc sống, cậu cứ là chính cậu thôi. Giết Con Chim Nhại Hai Số Phận Những người khốn khổ Bắt Trẻ Đồng Xanh đã mượn suy nghĩ của một chàng trai trẻ để nhìn về cuộc sống một cách hài hước và thông minh. Ngôn từ đơn giản, đôi khi rất thô tục thể hiện con người nhân vật, cuốn sách đi vào lòng người bởi những triết lý giản đơn vẫn đang hiện hữu từng ngày trong cuộc sống. Và rồi sẽ đọng lại trong lòng người đọc một ý nghĩ tưởng như đã quên mất từ lâu: Mình là chính mình. Thư viện Sách Mới trân trọng gửi đến bạn đọc cuốn tiểu thuyết này. Hãy lan tỏa kiến thức bằng cách chia sẻ cuốn sách này đến thật nhiều người và đừng quên đăng ký email nhận sách hay mỗi tuần. Review tiểu thuyết Bắt Trẻ Đồng Xanh Hút thuốc, chửi tục, phóng khoáng chuyện tình dục và lắm lúc tùy tiện, bất cần là những gì bạn thấy ở Holden Caulfied. Những gì tưởng chừng như lối sống sa đoạ về đạo đức ở 1 người học sinh nhưng ẩn sâu trong đó là tâm hồn nhạy cảm và sâu sắc. Cái nhạy cảm ấy giết con người cậu vì khi nhìn vào bất cứ đâu, Holden thấy con người luôn giả tạo. Họ sống chạy theo hào nhoáng của bản thân, theo thực tại tầm thường, theo những gì mà thiên hạ muốn mình theo mà quên mất bản thân mình. Với Holden, những người khác chỉ đang giả vờ làm người, chứ ko thật sống như một con người. Tôi nghĩ bắt trẻ đồng xanh là hình ảnh ẩn dụ về ước mơ đc sống thật của Holden. Cậu nói cho em Phoebe nghe về mong muốn của mình, rằng cậu đứng trên một tảng đá đặt trong một cánh đồng xanh. Trong ấy, không có người lớn nào ngoài cậu và cậu sẽ bắt những đứa trẻ lại gần tảng đá. Bắt những đứa trẻ hay bắt lấy trái tim sống thuần khiết, đơn sơ, giản dị, hồn nhiên? Quả thật thế giới người lớn đã khiến hình ảnh tự thân của chúng ta vô cùng méo mó, lệch lạc và chạy theo xu hướng. Chúng ta sống giả tạo hơn và lấy làm hãnh diện với cái giả tạo xuẩn ngốc ấy. Nên Holden cứ mơ mình là một đứa trẻ. Để khỏi phải lớn. Khỏi phải bước vào cái thế giới phức tạp và tự lừa dối mình. Nhưng con người dù có chán nản đến thế nào thì cũng phải học – đó là lời tâm huyết của thầy Antolini dành cho cậu. Khi hiểu biết đủ nhiều ta mới thấy rõ mọi điều. Điều gì hợp và điều gì ko hợp. Điều gì nên theo và điều gì nên buông. Quan trọng hơn là thấy chính mình. Như lời người thầy đã nói “thứ hiểu biết làm trái tim chú rất, rất âu yếm.” Tôi nghĩ giá trị nhân văn và giáo dục của tác phẩm quá sức lớn lao, nên nó đã vượt mọi lời chửi tục rất nhiều trong đó, để được đưa vào làm chương trình dạy học trong sách giáo khoa ở các trường công Mỹ. (Đức Khải)
Chuyện Của Lính Tây Nam
Chuyện Của Lính Tây Nam Chuyện Của Lính Tây Nam Nhân vật chính trong Chuyện Của Lính Tây Nam, người lính gốc Hà Nội có biệt danh Tuấn “Tròn”, nhập ngũ năm 1976, đóng quân tại Thanh Hóa. Dưới cái nhìn của anh, nhập ngũ khi ấy sẽ chỉ là người lính của thời bình. Thế nhưng, khi quân Khmer Đỏ xâm phạm biên giới Tây Nam của Tổ quốc, những người lính trẻ bắt đầu xung trận, một cuộc chiến khốc liệt bảo vệ Tổ quốc lại diễn ra. Điều bất ngờ hiếm người biết được là ngay trong đêm hòa bình đầu tiên 30-4-1975, một trận đánh ác liệt đã xảy ra trên biên giới Tây Nam ở tỉnh An Giang. Đặc biệt những người lính biên phòng Việt Nam Cộng Hòa đang chờ bộ đội giải phóng đến tiếp quản đã tham gia trận đánh này. Thiên Nga Đen Mãi Mãi Tuổi Hai Mươi 30 Tháng 4 – Chuyện Những Người Tháo Chạy Tiếp đó dù chưa có tuyên bố chiến tranh nhưng lực lượng du kích, biên phòng An Giang đã thường xuyên chống trả những đợt tấn công thảm sát của quân Ponpot. An Giang là địa bàn ác liệt chịu nhiều đau thương mất mát trong Chiến tranh Biên giới Tây Nam. Một sinh viên tình cờ trở thành du kích xã đã cùng đồng đội trở thành là một trong những người nổ súng phát đầu tiên tiêu diệt, ngăn chặn quân Ponpot tràn sang biên giới VN. Anh đã ghi lại hồi ức về những trận đánh này. Do là hồi ức cá nhân theo trí nhớ nên có thể có chi tiết không chính xác hoặc về tầm nhìn theo những sự việc cụ thể chưa phản ánh đúng bản chất, sự bao quát của sự kiện. Tuy nhiên, ở góc độ ghi chép người thật việc thật đã phản ánh rất sinh động, chi tiết, thông tin cụ thể là tài liệu tham khảo thú vị. Loạt bài này do TH-09 sưu tầm, biên khảo, hiệu đính theo quan điểm tôn trọng văn phong và ngôn ngữ của nhân vật.