Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Vụ Án Viên Nhộng Xanh

Vụ án viên nhộng xanh là một trong các tiểu thuyết trinh thám nổi tiếng nhất của John Dickson Carr. Trong tác phẩm, Marcus Chesney – chủ sở hữu những nhà kính trồng đào tại Sodbury Cross – đã bị đầu độc chết trong một màn trình diễn do chính mình sắp đặt. Khi ấy, Marcus đang dùng một loạt bẫy tâm lí để chứng minh lập luận: nhân chứng không thể kể lại chính xác những điều đã xảy ra ngay trước mắt mình. Và tệ thay, ông đã đúng. Tất cả các nhân chứng đều mục kích vụ sát nhân nhưng dường như họ đều đang đeo một cặp kính đen, mọi thứ đều bị che phủ và lừa mị. Thấy vậy nhưng không hẳn là vậy, nghe thế nhưng chưa chắc là thế. Nhân chứng bị bưng tai bịt mắt bằng các bẫy gài liên hoàn dù cho họ vẫn mở mắt lắng tai. Qua Vụ án viên nhộng xanh, John Dickson Carr không chỉ dẫn dắt người đọc vào ma trận của những lời khai không trùng khớp mà còn nêu bật được một lập luận mới mẻ về giá trị của các nhân chứng trong làng văn trinh thám. *** Câu chuyện bắt đầu, theo trí nhớ của người đàn ông, trong một căn nhà ở thành phố cổ Pompeii. Anh ta không bao giờ quên được buổi chiều yên tĩnh, nóng bức đó, khi những giọng nói tiếng Anh phá vỡ sự tĩnh mịch của “Con Đường Hầm Mộ”. Vạt trúc đào nở hoa đỏ rực trong khu vườn đổ nát, và cô gái mặc váy trắng đứng im lìm giữa nhóm người đeo kính râm, trông như thể bị bao quanh bởi những chiếc mặt nạ. Người đàn ông nhìn thấy quang cảnh trên đã đến Napoli công tác được một tuần. Công việc anh ta cần làm ở Napoli không hề liên quan đến chuyện này. Nhưng công việc đó chiếm hầu hết thời gian của anh, và mãi đến buổi chiều thứ hai, ngày 19 tháng Chín, anh mới thư thả được đôi chút. Tối ấy người đàn ông này dự định sẽ đến Rome, và rồi bay qua Paris và về đến London. Chiều hôm đó anh đang ngắm cảnh trong tâm trạng thảnh thơi, và đối với anh quá khứ luôn có sức hút mãnh liệt không hề thua kém hiện tại. Đó là nguyên nhân tại sao, vào lúc yên tĩnh nhất trong ngày, dưới sự êm ả của ánh mặt trời rực rỡ, anh lại nhận ra mình đang đi trên Con Đường Hầm Mộ. Con Đường Hầm Mộ nằm bên ngoài những bức tường của thành Pompeii. Nó bắt đầu từ cổng Herculaneum và thoải xuống một ngọn đồi thấp, trông giống một cái máng xối lát gạch rộng với vỉa hè ở hai bên. Những cây bách mọc khắp chỗ và khiến con đường chết chóc này dường như có thêm phần sinh khí. Đây là nơi xây cất những hầm mộ của quý tộc La Mã, những bệ thờ thấp hai bên đường chưa đến mức hóa thành phế tích. Nghe tiếng chân mình vang vọng, người đàn ông mơ hồ có cảm giác mình như lạc vào một vùng đất bị quên lãng. Ánh nắng chói chang, nóng nực chiếu xuống những viên đá lát đường đã mòn võng vì bị không biết bao nhiêu bánh xe ngựa nghiến xuống, từ đám cỏ trồi lên từ các kẽ nứt, những con thằn lằn nâu nhỏ xíu phóng qua trước mắt anh ta nhanh như vệt ảnh tối màu. Phía trước anh ta, đằng sau những lăng mộ là ngọn núi Vesuvius mang màu xanh xỉn trong màn sương từ đất bốc lên vì thời tiết oi nồng, nhưng không quá gây ấn tượng với anh ta vì nó còn cách đây chừng năm, sáu dặm. Người đàn ông thấy ấm áp và hơi ngầy ngật buồn ngủ. Những con đường dài với những cửa tiệm chỉ còn trơ lại bốn bức tường này, những khoảnh sân hoa lệ điểm xuyết những hàng cột chống đây đó kia, tất cả đều tác động đáng ngại đến trí tưởng tượng của anh ta. Anh ta đã lang thang hơn một tiếng đồng hồ; và từ khi đặt chân vào thành phố cổ này, anh ta chưa hề thấy bóng dáng của bất cứ sinh vật sống nào, ngoại trừ một nhóm người bí ẩn đi cùng hướng dẫn viên thình lình xuất hiện ở cuối đường Vận Mệnh rồi biến mất một cách đầy ma quái giữa những tiếng rào rạo của đám đá nhỏ. Con Đường Hầm Mộ dần đưa anh đi tới cuối thành phố. Đang cân nhắc xem nên ngừng cuộc thăm thú và trở về, hay quay gót tiếp tục khám phá thêm, đột nhiên anh ta trông thấy một căn nhà nằm giữa những ngôi mộ. Ngôi nhà đó khá lớn, đúng kiểu trang viên ngoại ô biệt lập những quý tộc La Mã hay xây dựng hồi thành phố còn phồn thịnh. Anh ta bước lên bậc thềm và vào nhà. Khoảnh sân nhỏ trong nhà tối tăm và bốc mùi ẩm ướt, lại không được giữ gìn tốt như những ngôi nhà tôn tạo anh đã nhìn thấy. Nhưng phía bên kia khoảnh sân là khu vườn cảnh có những hàng cột đá trang trí bao quanh, tắm trong ánh mặt trời rực rỡ. Khu vườn khá um tùm, mọc đầy trúc đào nở hoa đỏ rực và xung quanh phế tích đài phun nước là những cây tùng châu Á. Đột nhiên anh nghe có tiếng sột soạt trên đám cỏ mọc cao, và những giọng nói tiếng Anh. Cạnh đài phun nước, một cô gái mặc đồ trắng đang đứng quay mặt về phía anh ta. Và anh ta thấy cô ấy không chỉ đẹp mà còn có nét thông minh lanh lợi. Mái tóc nâu sẫm được rẽ đôi và vén ra sau tai, tạo thành những lọn xoăn nhỏ buông lơi qua gáy. Cô có khuôn mặt trái xoan, đôi môi nhỏ, căng mọng, và đôi mắt to thể hiện nét giễu cợt bất chấp gương mặt đang nghiêm nghị. Đôi mắt cô mang sắc xám, với mí mắt hơi dày và mang nét suy tư. Tư thế tạo dáng của cô rất đơn giản, chỉ vu vơ xòe vạt váy. Nhưng rõ ràng cô gái đang rất căng thẳng, chỉ cần nhìn vòng cung lông mày của cô là biết. Đối diện với cô gái là một chàng trai trẻ tóc đen mặc bộ vét vải nỉ xám, đang cầm chiếc máy quay và dán mắt vào ống ngắm. Chiếc máy quay bắt đầu kêu xè xè và phát ra tiếng lách cách nho nhỏ. Với má tì vào một bên máy, chàng trai trẻ nói với cô gái qua khóe miệng. “Này, em làm gì đi chứ!” Anh chàng thúc giục. “Mỉm cười, cúi đầu hay châm thuốc hoặc gì cũng được, nhưng hãy làm gì đó! Nếu em chỉ đứng yên đấy thì có khác gì chụp ảnh đâu.” “Nhưng, George, em biết làm gì bây giờ?” “Anh vừa nói với em còn gì. Mỉm cười hay cúi đầu hoặc… ” Rõ ràng cô gái đang bị ảnh hưởng bởi Hội chứng Tự ý thức, điều mà mọi người thường mắc phải khi họ biết rõ máy quay sẽ ghi lại bất cứ chuyển động nào trên cơ thể mình. Lúc đầu khuôn mặt cô có vẻ cực kì lo lắng, sau đó cô xoay xở để mỉm cười với vẻ hối lỗi. Cô nhấc chiếc túi xách màu trắng của mình lên và ve vẩy nó trong không khí. Sau đó cô ngó quanh tìm cơ hội lảng đi, và cuối cùng quyết định nhìn thẳng về hướng chiếc máy quay rồi cười lớn. “Chúng ta đang sử dụng hết phim rồi,” chàng trai rên lên, cứ như một nhà sản xuất phim. Người quan sát đứng ở cửa ra vào, cách nhóm người trong khu vườn khoảng hơn chục bước chân, bỗng nhiên tin chắc rằng cô gái này đang ở trong tình trạng căng thẳng đầu óc nguy hiểm, rằng cô ấy chỉ giả vờ khỏe mạnh; và rằng chiếc máy quay phim nhỏ đứng yên một chỗ không ngừng kêu lách cách đang bắt đầu ảnh hưởng đến cô, tựa như cơn ác mộng kinh hoàng có một con mắt cứ nhìn mình chằm chằm. “Sao, em có thể làm gì được?” “Đi dạo xung quanh, hoặc làm gì đó chẳng hạn. Di chuyển qua đó, đến bên phải. Anh muốn quay được những cây cột trụ đằng sau em.” Một thành viên khác trong nhóm, người đã đứng chống nạnh quan sát mọi chuyện nãy giờ, bật ra một tiếng khịt mũi. Đó là một người đàn ông nhỏ bé có vẻ lanh lợi và chiếc kính đen đang đeo giúp che đậy sự thật rằng ông già hơn rất nhiều so với bộ quần áo nghỉ mát đang mặc trên người. Bạn có thể thấy được điều đó qua làn da nhăn nheo chảy xệ dọc quai hàm, và qua đuôi tóc lốm đốm bạc dưới vành mũ cói sụp xuống trên đầu ông. “Hời hợt!” ông ta nói với vẻ khinh miệt. “Đó là thứ cậu đang cố làm: một kẻ hời hợt. Cậu muốn quay những cây cột sau lưng con bé, hả? Cậu không muốn có hình ảnh của Marjorie. Cậu thậm chí cũng không muốn có hình ảnh ngôi nhà cổ ở Pompeii. Thứ cậu muốn chỉ là hình ảnh Marjorie trước một căn nhà Pompeii, để chứng tỏ mình từng ở đó. Tôi cho rằng điều đó thật kinh tởm.” “Như vậy thì có gì sai?” Một giọng nói vang như sấm phát ra. Giọng nói đó là của một người đàn ông cao lớn và vạm vỡ có bộ râu hoe đỏ, người đứng đối diện cặp đôi đang bị mắng. “Thì hời hợt chứ sao,” người đàn ông đội mũ cói nói. “Em hoàn toàn không đồng ý với anh,” người đàn ông vạm vỡ đáp lời. “Và em cũng chẳng hiểu nổi thái độ của anh, Marcus. Cứ mỗi lần chúng ta đến được nơi nào đó có vài cảnh đẹp, anh lại muốn tránh xa chúng ra (nếu em hiểu đúng) chỉ bởi vì đó là địa điểm tham quan. Vậy chúng ta chỉ được tìm hiểu về địa ngục thôi chắc,” ông ta gầm lên giữa khu vườn, “hay là anh thích đến nơi không có mấy địa điểm ngắm cảnh hơn? Anh phản đối việc hàng ngàn người tìm đến chỉ để nhìn thấy những quang cảnh đó. Nhưng có bao giờ anh nghĩ rằng, nếu hàng ngàn người đến đây chỉ để nhìn tận mắt một địa điểm hàng nghìn năm lịch sử, thì có thể là do nó có thứ gì đó đáng xem không?” “Ăn nói cho cẩn thận,” người đàn ông đội mũ cói nói. “Và dừng ngay trò la hét đi. Cậu không hiểu, và sẽ không bao giờ hiểu được. Chẳng hạn như, cậu đã thấy được gì? Hoặc là, cậu có biết bây giờ chúng ta đang ở đâu không?” “Dễ ợt,” người kia nói. “Anh bạn trẻ, chỗ này là chỗ nào?” Người đàn ông vạm vỡ quay sang hỏi chàng thanh niên trẻ đang cầm máy quay phim. Người này đã miễn cưỡng dừng việc chụp hình cô gái lại, bây giờ cô ấy đang cười to một cách thoải mái. Anh ta cất máy quay vào chiếc túi đeo vai, sau đó rút từ trong túi áo ra một cuốn sách hướng dẫn du lịch và cần mẫn lật qua lật lại các trang. Sau đó anh ta hắng giọng. “Số ba mươi bốn, hai sao. Trang viên của Arrius Diomedes,” anh ta đọc với vẻ xúc động sâu sắc. “Ngôi nhà có tên gọi đó bởi vì…” “Vớ vẩn,” người đàn ông vạm vỡ lên tiếng. “Chúng ta vừa tham quan cái nhà đó mười phút trước. Chỗ họ tìm thấy mấy bộ xương ấy.” “Những bộ xương nào?” Cô gái phản đối. “Chúng ta có thấy bộ xương nào đâu, bác sĩ Joe.” Sau cặp kính râm tối màu, khuôn mặt của người đàn ông vạm vỡ dường như đang bốc hỏa. “Tôi không nói chúng ta đã nhìn thấy những bộ xương,” ông ta đáp, điều chỉnh lại chiếc mũ bằng vải tuýt trên đầu. “Tôi chỉ nói đó là nơi người ta tìm thấy mấy bộ xương. Chỗ ngay dưới đường ấy, cô không nhớ à? Tro nóng từ núi lửa nhốt những người nô lệ ở trong, sau đó các nhà khảo cổ tìm thấy họ, la liệt khắp sàn nhà như những bộ ki trên sân bowling. Ngôi nhà có những cây cột sơn màu xanh lá cây đó.” Người đàn ông già nhỏ con, lanh lợi đội mũ cói khoanh tay lại. Trong một thoáng, khuôn mặt ông ta thoáng lên vẻ ác ý rõ ràng. “Có thể thú vị với cậu, Joe, nhưng họ thì không.” “Không cái gì?” bác sĩ Joe gặng hỏi. “Không hứng thú với căn nhà xanh lá bạc màu. Hết lần này đến lần khác tôi đã chứng minh cho luận điểm của mình,” người đàn ông nhỏ con tiếp tục nói, “rằng những con người bình thường, như cậu – hay cậu ta, hoặc con bé – hoàn toàn không thể thuật lại chính xác những điều đã nhìn hay nghe được. Cậu không quan sát. Chính xác hơn là cậu không thể quan sát. Nhỉ, giáo sư?” Ông ta quay đầu lại và liếc nhìn về phía sau. Nhóm này còn hai người đàn ông khác nữa, và họ đang đứng ngay trong bóng râm của những mái hiên, đằng sau hàng cột bao quanh khu vườn. Người quan sát hầu như không ý thức được sự tồn tại của họ; anh không nhìn được họ rõ như những người đang đứng dưới ánh sáng mặt trời kia. Anh chỉ nhận thấy một người trạc trung niên, còn người kia trẻ. Họ đang dùng kính lúp nghiên cứu một khối đá hay mảnh dung nham nào đó, có vẻ như họ đã nhặt được nó từ hàng lan can nối những cây cột. Cả hai đều đang đeo kính râm đen. “Đừng quan tâm đến trang viên của Arrius Diomedes nữa,” một giọng nói vang lên từ bên trong lan can. “Căn nhà này là của ai thế?” “Giờ cháu đang tìm đây,” người thanh niên trẻ với máy quay phim và cuốn sách hướng dẫn du lịch tìm kiếm một cách nhiệt tình. “Hồi nãy cháu lật sai trang. Đây là số ba chín, đúng không? Đúng vậy. Đây rồi. Số ba mươi chín, ba sao. Nhà của kẻ đầu độc Aulus Lepidus.” Xung quanh bỗng nhiên trở nên cực kì yên lặng. Cho đến lúc này, đám người trông có vẻ giống một gia đình – hoặc – một nhóm bạn, với những thành viên lớn tuổi nóng tính có chút bực bội bởi ảnh hưởng của thời tiết hoặc sự mệt mỏi của chuyến đi. Nếu đây là một gia đình, theo thái độ mà họ nói chuyện với nhau, có thể suy ra rằng bác sĩ Joe và người đàn ông nhỏ con đội mũ cói (tên là Marcus) là hai anh em. Cô gái được gọi là Marjorie cũng có thể có quan hệ họ hàng với hai người đó. Không ngạc nhiên lắm. Tuy nhiên, khi những từ ngữ trong cuốn sổ hướng dẫn du lịch được đọc lớn lên, rõ ràng không khí giữa họ bỗng trở nên lạnh lẽo và u ám hơn cái sân này rất nhiều. Chỉ có chàng trai trẻ cầm cuốn sách là không ý thức được điều đó. Mọi người còn lại thì đều quay đầu nhìn quanh; và sau đó hướng về cùng một chỗ. Bốn cặp mắt kính đen nhìn thẳng về hướng cô gái, mặc dù cô đứng ngay chính giữa mọi người. Ánh sáng mặt trời lia trên bề mặt những cặp kính, khiến chúng có vẻ tối tăm và hung hãn như những chiếc mặt nạ. Bác sĩ Joe khó khăn lên tiếng: “Nhà của ai cơ?” “Kẻ đầu độc,” chàng trai trẻ nói. “Bằng hình thanh kiếm và cây liễu lột vỏ (‘lepidus’ nghĩa là ‘tước vỏ’ ‘làm bóng’, nghĩa củ là ‘dí dỏm’ hoặc là ‘dễ chịu’) nằm trên vỉa hè lát đá ghép mảnh, Mommsen đã xác định trang viên này thuộc quyền sở hữu của…” “Biết rồi, nhưng mà ông ta đã làm gì?” “… người, theo Varro, đã giết năm thành viên của gia đình mình bằng cách cố ý bỏ thuốc độc vào món súp nấm,” chàng trai trẻ tiếp tục. Anh ta ngẩng đầu nhìn xung quanh với vẻ hứng thú, như thể mong được thấy các thi thể vẫn đang nằm ở đâu đó. “Ngay tại đây, điều này hay ho đây!” Cậu ta nói thêm. “Cháu nghĩ thời đó việc đầu độc hàng loạt diễn ra khá dễ dàng.” Và sau đó, người thanh niên đột nhiên biết rằng có điều gì đó không đúng đang xảy ra; lông tơ sau gáy anh ta dường như dựng đứng hết cả lên. Anh ta gập cuốn sách lại và nhẹ giọng hỏi. “Có vẻ như,” anh ta buột miệng nói. “Có vẻ như, cháu đã nói điều gì đó không phải sao?” “Dĩ nhiên là không,” Marjorie trả lời với vẻ điềm tĩnh tuyệt vời. “Ngoài ra, sở thích của bác Marcus là nghiên cứu về các tội ác. Đúng không ạ?” “Đúng vậy,” bác Marcus gật đầu. Ông quay sang nói với chàng trai trẻ. “Nói cho tôi biết, cậu… gì nhỉ, tôi cứ quên tên cậu hoài?” “Bác biết rõ tên anh ấy mà,” Marjorie la lên. Nhìn vào sự kính trọng thái quá mà chàng thanh niên dành cho Marcus, người quan sát có thể nhận ra Marcus không chỉ là bác của Marjorie, ông ấy hành động như cha mẹ của cô vậy. “Harding, thưa bác. George Harding,” chàng trai trả lời. “A, đúng rồi. Giờ thì, cậu Harding, nói cho tôi biết, cậu từng nghe đến một nơi gọi là Sodbury Cross, gần Bath bao giờ chưa?” “Không, thưa bác. Sao bác lại hỏi thế?” “Chúng tôi đến từ nơi đó,” Marcus nói. Ông ta thoăn thoắt bước đi và ngồi xuống mép đài phun nước với tư thế như thể đang chuẩn bị đọc một bài diễn văn dài. Ông bỏ cả mũ và kính mát xuống rồi đặt chúng nằm thăng bằng trên đầu gối mình. Việc tháo bỏ phụ kiện che mặt giúp người quan sát nhận ra Marcus có một mái tóc xám thẳng trông như bướu lạc đà, có lẽ sáu mươi năm chải đầu cũng không thể khuất phục được mái tóc đó. Đôi mắt xanh của ông rất sáng sủa, thông minh và ác ý. Thỉnh thoảng, ông ta lại dùng tay chà xát làn da nhăn nheo ở quai hàm mình. “Giờ, cậu Harding,” ông tiếp tục, “chúng ta hãy đối mặt với sự thật này. Tôi giả sử như mối quan hệ giữa cậu và Marjorie không chỉ là loại tán tỉnh bất chợt trên tàu. Tôi giả sử là cả hai đứa đều nghiêm túc, hoặc hai đứa đều nghĩ là mình nghiêm túc.” Có một sự thay đổi khác nữa lại diễn ra trong nhóm người. Sự thay đổi đó cũng ảnh hưởng đến hai người đàn ông đứng cạnh những cây cột bao quanh khu vườn. Một trong số họ (người quan sát nhận thấy) là một người đàn ông trung niên có vẻ ngoài vui vẻ với chiếc đầu hói và có đội mũ phớt. Mắt ông cũng bị kính râm che mất, nhưng khuôn mặt ông thì tròn đầy và hồng hào ưa nhìn. Ông hắng giọng. “Tôi nghĩ,” ông ấy nói, “nếu mọi người thứ lỗi, tôi sẽ đi xuống phía sau và… ” Người đứng cạnh ông ta, một chàng trai trẻ tuổi có khuôn mặt không mấy ưa nhìn, quay đi và bắt đầu tế nhị lờ đi nghiên cứu nội thất ngôi nhà. Marcus nhìn hai người bọn họ. “Vớ vẩn,” ông quả quyết nói. “Có thể các anh không phải là thành viên của gia đình này, cả hai người. Nhưng hai người đều biết những gì chúng tôi biết, vậy nên cứ ở yên đó. Và dừng ngay kiểu tế nhị quái quỷ đó đi.” Cô gái khẽ hỏi. “Bác Marcus, bác có nghĩ đây là chỗ để nói chuyện đó ra?” “Có, cháu yêu.” “Hoàn toàn chính xác,” bác sĩ Joe mạnh mẽ đồng ý. Ông đưa ra một cái nhìn lạnh lùng, nghiêm túc và tỏ vẻ quan trọng. “Lần đầu tiên trong đời, Marcus – đã hoàn toàn đúng.” George Harding tỏ vẻ dũng cảm một cách lạnh lùng, nghiêm túc. “Thưa bác, cháu chỉ có thể đảm bảo rằng…” chàng trai nói với vẻ mạnh mẽ. “Ừ, biết rồi, tôi biết hết mà.” Marcus nói. “Và làm ơn đừng có làm khuôn mặt đáng xấu hổ như vậy. Chẳng có gì bất thường hết. Mọi người đều cưới nhau đấy thôi, và họ đều biết phải làm gì khi kết hôn, và tôi tin tưởng cả hai đứa. Giờ thì, cuộc hôn nhân này có diễn ra hay không hoàn toàn phụ thuộc vào quyết định của tôi.” “Và của tôi nữa,” bác sĩ Joe cứng rắn nói. “Đương nhiên rồi,” Marcus lên tiếng với vẻ hơi bực mình. “Và em trai tôi, dĩ nhiên. Chúng tôi mới biết cậu được một tháng hoặc cỡ đó, chỉ trong chuyến du lịch này. Ngay khi cậu bắt đầu hẹn hò với cháu gái tôi, tôi đã lập tức gửi điện tín cho luật sư để hỏi về tất cả các thông tin của cậu. Chà, cậu có vẻ cũng được. Thành tích học tập tốt, và tôi cũng không phàn nàn gì về việc cậu là trẻ mồ côi và không có gia sản…” George Harding bắt đầu giải thích gì đó, nhưng Marcus ngắt lời anh chàng. “Rồi, rồi. Tôi biết toàn bộ cái quy trình sản xuất hóa chất của cậu, thứ có thể tạo ra cả một gia tài hay đại loại thế. Nếu cả hai đứa quyết định sống dựa vào nó thì hai đứa nên biết rằng tôi sẽ không đời nào đầu tư vào đó lấy một cắc đâu. Tôi cũng không mấy quan tâm đến cái gọi là ‘quy trình mới’, tôi ghét cay ghét đắng các quy trình mới, đặc biệt là trong ngành hóa học. Chúng tôn vinh bộ não của những kẻ ngốc và khiến tôi phát ngấy vì sự non nớt. Nhưng có lẽ cậu sẽ vẫn thu được gì đó. Nếu làm việc nghiêm túc và chăm chỉ, cậu sẽ kiếm đủ sống, và có lẽ sẽ kiếm được thêm một chút từ Marjorie. Cậu đã hiểu chưa?” George lại bắt đầu giải thích gì đó nữa. Lần này thì chính Marjorie là người ngắt lời anh ta. Khuôn mặt cô hơi hồng lên, nhưng đôi mắt của Marjorie rất thẳng thắn và cho thấy sự điềm tĩnh tuyệt vời. “Anh chỉ nên trả lời ‘vâng’ thôi,” cô khuyên. “Đó là tất cả những gì anh được phép nói.” Người đàn ông hói đầu đội mũ phớt đang đứng dựa khuỷu tay vào lan can và hơi cau mày khi lắng nghe cuộc trò chuyện, giờ đây bỗng vẫy tay như thể cố thu hút sự chú ý của giáo viên trong lớp học. “Chỉ một chút thôi, Marcus,” ông ta ngắt lời. “Anh đã yêu cầu Wilbur và tôi có mặt trong cuộc trò chuyện này, mặc dù chúng tôi không phải thành viên gia đình. Vậy nên hãy để tôi nói điều này. Có cần thiết phải thẩm vấn chàng trai kia như thể cậu ta là…” Marcus nhìn ông ấy. “Tôi ước,” Marcus nói, “một số người sẽ loại bỏ được quan niệm ngớ ngẩn rằng bất cứ dạng câu hỏi nào cũng đều là ‘thẩm vấn’ cả. Hình như mọi tiểu thuyết gia đều có quan điểm như vậy. Kể cả anh nữa, giáo sư, dường như chính anh cũng thế. Điều đó khiến tôi bực mình đấy. Tôi chỉ đang kiểm tra cậu Harding mà thôi. Chuyện đó không rõ ràng à?” “Đúng ạ,” George nói. “Ồ, thế thì tốt,” vị giáo sư hòa nhã. Marcus dịch người ngồi cách xa chiếc đài phun nước nhất có thể để không bị ngã nhào vào đó. Biểu cảm trên khuôn mặt ông trông hòa dịu hơn nhiều. “Bởi vì cậu đã hiểu hết điều đó,” ông tiếp tục nói với giọng hơi khác hồi nãy, “bước tiếp theo là cậu cần biết về gia đình chúng tôi. Marjorie đã kể gì cho cậu nghe chưa? Tôi nghĩ là chưa. Nếu cậu nghĩ chúng tôi là những thành viên giàu có nhàn rỗi thích dạo bộ, những người quen với việc nghỉ mát suốt ba tháng tại thời điểm này trong năm, thì ném chúng ra khỏi đầu ngay cho tôi. Đúng là tôi giàu có thật, nhưng tôi không rảnh rỗi và cũng hiếm khi nào đi tản bộ. Những người khác cũng vậy, tôi biết rõ điều đó. Tôi làm việc, và mặc dù tôi xem bản thân mình là một học giả chứ không phải doanh nhân, tôi cũng không phải một người kinh doanh tồi. Em trai tôi là một bác sĩ đa khoa làm việc ở Sodbury Cross. Nó cũng làm việc, bất chấp tính cách lười biếng của mình. Tôi cũng biết rõ điều đó. Nó không phải một bác sĩ giỏi, nhưng mọi người đều thích nó.” Khuôn mặt dưới cặp kính đen của bác sĩ Joe dường như đang bốc hỏa.   Mời các bạn đón đọc Vụ Án Viên Nhộng Xanh của tác giả John Dickson Carr.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Một Lời Nói Dối
Họ tiến lại gần căn nhà cho đến khi đến đường giao giữa rừng cây và bãi cỏ. Âm thanh ban đêm bao bọc lấy họ: tiếng ếch ộp oạp, tiếng cá quẫy mình trong nước, tiếng muỗi vo ve bên tai và tiếng diều hâu từ xa kèm theo tiếng rít sợ hãi của một chú chuột. Kẻ đi săn hay kẻ bị săn. Đêm nay, họ là ai? Một loạt vụ án mạng, bắt cóc liên tiếp xảy ra ở thị trấn sau khi Jane Hardy được kế nhiệm vị trí cảnh sát trưởng của cha mình ở Cảng Pelican, Alabama. Sau khi cha bị buộc tội trộm cắp và có dính líu đến một vụ án mạng, Jane phải đối mặt với sự giám sát của công chúng trong khi cố gắng làm rõ sự trong sạch cho cha mình và chứng minh rằng phụ nữ có thể làm tốt trong những công việc thường mặc định dành cho nam giới". Liệu có phải kẻ đến từ quá khứ khủng khiếp đang cố gắng phá hủy gia đình duy nhất mà cô có - sau khi cha đưa cô trốn thoát khỏi hội cuồng giáo mười lăm năm trước? Dối trá, bí mật, giết người, cảnh giác, báo thù và xen lẫn lãng mạn, tất cả tạo nên tác phẩm MỘT LỜI NÓI DỐI hồi hộp nguyên bản và hấp dẫn. *Những đánh giá về truyện: _ “Colleen Coble lại một lần nữa khẳng định mình đang đạt đến phong độ đỉnh cao với dòng văn học kịch tính lãng mạn Ki-tô giáo. Tác phẩm gồm những nhân vật sẽ khiến bạn yêu thích, nghi ngờ rồi lại tin tưởng và những khung cảnh sẽ khiến bạn phải nín thở. Câu chuyện của Jane Hardy là hành trình khám phá mạng nhện phức tạp và rối rắm được dệt nên bằng một lời nói dối nhỏ bé.” Lisa Wingate, tác giả bán chạy nhất New Yorks Times với cuốn Before We Were Yours, nhận xét về Một lời nói dối _ “Colleen Coble luôn đưa dòng văn học hồi hộp lãng mạn lên một tầm cao mới. Tôi rất thích Một lời nói dối! Cuốn sách đã đưa tôi vào một chuyến hành trình hoang dại và tuyệt vời.”_ DiAnn Mills, tác giả bán chạy nhất _ “Một lời nói dối, cuốn sách mới nhất của Coble, là một tác phẩm giàu sức nặ Đây chắc chắn là một trong số những cuốn sách hay nhất của cô ấy. Tôi đã thức tới khuya để đọc xong cuốn sách này, vì không tài nào ngủ nổi nếu không được biết chuyện gì sẽ xảy ra tiếp theo. Một cuốn sách mà bạn nhất định phải đọc! Rất đáng khen!”_ Robin Caroll, tác giả bán chạy nhất với tiểu thuyết Xaga Darkwater Inn _ “Tôi đã luôn mong ngóng tác phẩm mới của Colleen Coble. Một lời nói dối là một hiện tượng mới. Tôi không biết cô ấy đã làm thế nào nhưng tài năng của cô ấy đang tỏa sáng. Chắc chắn bạn sẽ dành nhiều thời gian để đọc vì bạn sẽ không nỡ đặt sách xuống. Tôi đã ngấu nghiến cuốn sách này! Cảm ơn Colleen vì những giờ giải trí đỉnh cao. Tôi sẽ đón đọc tác phẩm tiếp theo!”_ Lynette Eason, tác giả đạt giải thưởng và bán chạy nhất với bộ sách Blue Justice _ “Ngay từ khi Colleen nhắc đến ý tưởng về Một lời nói dối, tôi đã rất muốn đọc. Cô ấy là một tác giả tuyệt vời và rất giỏi chơi đùa với câu chuyện hồi hộp trên từng trang sách. Tôi cho rằng đây là tác phẩm hay nhất của cô ấy, một lời khen rất đáng kể đấy!” _ Carrie Stuart Parks, tác giả Fragments of Fear _ “Trong Một lời nói dối, hậu quả của một lời nói dối len lỏi khắp thị trấn Cảng Pelican, tạo nên một mớ hỗn loạn và căng thẳng. Ai sẽ là người thoát ra được khỏi những nghi vấn? Một lời nói dối là tác phẩm mới nhất của Colleen Coble. Câu chuyện diễn ra ở vùng vịnh biển Alabama, với Jane Hardy là cảnh sát trưởng mới nhận chức, đang nỗ lực vì cha mình. Reid Dixon bám theo Jane để quay phim tài liệu, nhưng anh ta cũng có bí mật của riêng mình. Họ cùng nhau đối mặt với những bí mật của bản thân và liệu rằng bí mật có trở thành lời nói dối? Có lẽ nào đã quá muộn để được tha thứ?” _Cara Putman, tác giả bán chạy nhất và đạt giải thưởng *Về tác giả: Colleen Coble là tác giả bán chạy nhất USA TODAY và lọt vào vòng chung kết của RITA được biết đến nhiều nhất với các tiểu thuyết hồi hộp lãng mạn ven biển, bao gồm The Inn at Ocean’s Edge, Twilight at Blueberry Barrens, và loạt Lavender Tides, Sunset Cove, Hope Beach, và Rock Harbour.    *** Tác giả: Colleen Coble Dịch giả: Nguyễn Hải An Thể loại: Trinh thám, lãng mạn. Đánh giá cá nhân: 6.5/10 “Một nửa sự thật, không phải là sự thật” Một lời nói dối – Gánh nặng trên đôi vai của Jane – Nữ cảnh sát trưởng 30 tuổi, vừa mới nhận chức. Một gánh nặng được đặt lên cô dù cho cô gần chẳng có bất cứ một trách nhiệm gì, thậm chí là người “bị hại” – ngoài việc đón nhận những lời nói dối từ tất cả mọi người xung quanh – những người cô yêu quý hay quan trọng với cô trong cuộc đời. Lời nói dối, là then chốt, là móc xích, là toàn bộ những gì được diễn ra – dù theo hướng tích cực, hay tiêu cực đi chăng nữa. “Chúng ta nhận ra rằng. mình thường xuyên hay dối trá bằng một nửa sự thật. Vì ta không muốn làm tổn thương người khác, nhưng lại ghét sự dối trá”. Một lời nói dối – Là một tác phẩm có hơi hướng trinh thám lãng mạn. Tuy nhiên, mọi thứ không đủ sâu. Truyện có một phần dựng nên bối cảnh và nền truyện khá lâu để có thể đạt đến cao trào, cũng như nhiều chi tiết (gợi ý) được nêu ra một cách hơi phô trương, nhưng lại không có ấn tượng quá nhiều khi móc xích được gỡ bỏ. Một số nhân vật và bối cảnh, vẫn biết là đưa vào để đẩy cảm xúc của nhân vật lên, nhưng hình như chưa tới. Khi đọc tác phẩm, lúc mình cảm thấy hưng phấn và cuốn hút nhất, lại không nằm ở phút giây giải quyết mọi thứ (khi người tốt và người xấu đối mặt, giải quyết xung đột, hay cái kết cuối cùng sau khi mọi thứ kết thúc đều không mấy ấn tượng) mà là trước đó 1 đoạn. Cảm giác, mọi thứ chỉ hay khi ở 2/3 của con dốc, thì mọi thứ bị hụt hơi và không còn hay nữa. Cái kết cuối cùng, cũng không làm hài lòng, dù khi đó, sự thật được phơi bày, dù khi đó, ý nghĩa của những lời nói dối đã được gỡ bỏ. Hơi tiếc cho tác phẩm, hoặc là hơi tiếc cho cảm nhận của mình khi đọc hết tác phẩm. Nhưng, nếu 2 tập tiếp theo của Seri được xuất bản, có lẽ vẫn sẽ mua, vì văn phong của tác giả, mình khá thích. Sách được mua Online thông qua Tiki. Review ngày: 02/03/2021 Nguyễn Huy Hoàng *** Ôi trời chắc đây là lần đầu đọc sách trinh thám mà mình đoán đúng hết vụ án luôn. Vừa shock vừa ngạc nhiên vừa buồn cười vì tác giả thật sự không nỗ lực một chút nào trong việc che giấu hung thủ hết, bà ấy chỉ nỗ lực để che giấu cuộc sống riêng tư của nữ chính thôi. Thật sự cuốn sách này nếu xếp vào trinh thám thì 2 sao, vì quá dễ đoán, không có bug gì, mấy đoạn suy luận và hành động cũng bình thường lắm, nên đọc thấy chán. Nhưng xét về phương diện kiểu tôn giáo và lãng mạn thì cuốn này làm rất ổn đó chứ. Mình thích cả 3 nhân vật Jane, Reid, và Will, quá dễ thương và lành mạnh đi. Hứa hẹn phần sau của series này sẽ rất push and pull trong truyện tình yêu tình báo đây. Mình sẽ đọc tiếp cuốn 2 của series, mình thích cô Jane này. *** Tháng Năm... Nút Áo quan sát lối ra của trại và buộc mình lê bước theo sau cha mẹ, mặc cho cơn đau đang ngày càng nhói lên trong bụng. Cô nén tiếng rên rỉ và nối gót vào hội trường của hội thánh Núi Sinai*. Khu đất của hội nằm lọt giữa những cánh rừng bang, gió thổi qua cánh cửa mang theo hương thơm của gỗ thông. Khối kiến trúc bằng gỗ trắng này từng là một nhà thờ của giáo hội Giám Lý và giờ vẫn che khuất những ô cửa kính màu ghép hướng về phía đường. Bên trong nhà thờ có khoảng bốn mươi người. Nút Áo lỉnh đến một băng ghế gần cửa sổ, còn cha mẹ cô thì tiến đến vị trí của họ ở hàng phía trên. Từ bé đến giờ cô chỉ biết đến cộng đồng nhỏ này, nhưng khi cơn đau ở lưng lớn dần và quấn quanh cái bụng khổng lồ, tất cả những gì cô mong ước bây giờ là có thể thuyết phục cha cho mình đến bệnh viện. Đôi mắt cha cô lộ rõ vẻ do dự, nhưng sau khi thấy mẹ cô lập tức từ chối lời van xin thì ánh mắt ông đanh lại và ông lắc đầu. Trưởng nhóm chưa bao giờ cho phép bất cứ ai rời đi, ít nhất không phải vì một việc tầm thường như sinh đẻ. Nhưng cô sợ. Cơn đau khiến cô run rẩy với những bất trắc mà mình có lẽ sẽ phải đối mặt. Người bạn thân nhất của cô đã qua đời trong khi sinh nở vào cuối mùa thu năm ngoái. Điều gì sẽ xảy ra nếu Nút Áo cũng qua đời và ai sẽ là người nuôi con thay cô đây? Cô muốn tự mình ôm lấy con. Cô đã dành vô số đêm băn khoăn về những gì có thể làm để trốn thoát cùng với đứa con của mình. Nhưng kể cả khi tìm được cách trốn ra khỏi cánh cổng trại, cô sẽ đi đâu đây? Làm thế nào cô có thể tự chăm sóc cho bản thân và đứa bé? Đó dường như là điều không thể. Moses* Bechtol xoa hai tay vào nhau khi đến gần bục giảng. Mọi người im lặng khi trưởng nhóm bắt đầu bài giảng của mình, một cơn sấm chớp rền vang rung chuyển những ô cửa sổ. Nút Áo co rúm người lại và nhắm mắt. Người đàn ông đó không có dáng vẻ thần thánh như anh ta nghĩ, còn Nút Áo thì ngày càng chán nghe những gì anh ta nói. Chẳng lẽ cô là người duy nhất nhìn thấu vẻ ngoài giả dối của anh ta? Đã đôi lần cô cố nói chuyện với mẹ. Nhưng bà yêu quý gã đàn ông đó. Có lẽ còn hơn cả tình cảm mà bà dành cho người chồng của mình. Nút Áo tỉnh ra từ sáu tháng trước, sau khi chiêu mộ được hai cô gái ở thị trấn gần đó. Hai người này đã mang theo vài cuốn sách, và cô đã hoàn toàn bị hấp dẫn bởi cuốn Nhật Ký Công Chúa. Cuốn sách mở ra một thế giới hoàn toàn khác với thế giới mà cô đang sống. Sự lơ đãng của Nút Áo bị cắt ngang bởi cơn đau đang lớn dần trong bụng. Cô nén tiếng rên rỉ và lau mồ hôi túa ra trên trán. Những bức tường dường như đang đổ sụp về phía cô, bụng cô sôi réo. Cô phải ra khỏi đây. Cô muốn mẹ ở bên, nhưng lại không dám thu hút sự chú ý của mẹ. Cô lẻn ra cánh cửa sau cũ kỹ và hòa mình vào bầu không khí mát lạnh của Michigan. Những chiếc lá khô còn sót lại của mùa thu năm ngoái lướt nhanh qua tàn tích của trận bão tuyết mùa xuân. Hơi lạnh trên gò má giải thoát cô khỏi sức nóng đang sôi sục trên da thịt. Nút Áo cúi mình xuống, lảo đảo đi về phía căn nhà gỗ được chỉ định. Có khoảng hai mươi căn nhà gỗ và lều nằm lộn xộn xung quanh nhà thờ, căn của cô nằm ở phía tây. Cơn đau bóp nghẹt lưng cô giảm đi đôi chút, Nút Áo càng trở nên vội vã hơn. Cô dò dẫm tìm tay nắm cửa, và gần như ngã vào trong khi một cơn đau khác ập đến. Chất lỏng đọng lại dưới chân cô. Cô đang chết ư? Cô thở hổn hển khi cơn đau lan dần từ lưng xuống bụng. Hôm nay đứa bé sẽ chào đời. Cô mò đường đến chiếc cũi cứng trong phòng ngủ và ngã vào đó. Cô mất nhận thức về thời gian khi đau đớn dồn từng cơn. Có lẽ là hàng tiếng sau đó, cô mới cảm nhận được một bàn tay rắn chắc đặt lên trán và nhìn thấy gương mặt của mẹ mình. “Đứa bé,” Nút Áo thì thào qua đôi môi khô khốc. “Đúng thế, gần chào đời rồi.” Mẹ cô nhúng khăn vào thau nước và lau trán cho cô. “Con đang làm tốt lắm, con yêu. Mẹ đã báo cho Moses rồi.” Cô không muốn cha đứa trẻ đến đây chút nào. Cô thậm chí còn chưa từng nhìn rõ mặt anh ta. Cha mẹ đã hứa hôn cô cho người đó khi cô mới mười hai tuổi. Một năm trước, khi cô mười bốn, Moses đã buộc tay họ vào nhau. Anh ta đến với cô hai lần trước khi cô cảm thấy bản thân mình ngày càng nặng nề, và thời điểm này anh ta sẽ không còn cảm thấy thoải mái chút nào. Cô bám lấy tay mẹ. “Mẹ ơi, con đau quá! Con sợ. Con muốn đến bệnh viện.” “Mẹ biết là đau, con yêu.” Mẹ dỗ dành cô bằng bàn tay điềm tĩnh đặt lên trán. “Hít thở đều là cơn đau sẽ qua. Mẹ sẽ đỡ đẻ ngay cho con.” Thế giới xung quanh cô thu hẹp lại chỉ còn gian phòng nhỏ này, còn cơn đau thì xóa nhòa mọi thứ. Sau khoảng thời gian tưởng chừng như vô tận, tiếng khóc mỏng manh báo hiệu sự ra đời của một sinh linh cất lên. Nút Áo chẳng còn đủ sức để hỏi giới tính của đứa bé được nữa. “Một bé trai!” Mẹ Nút Áo đặt đứa bé lên ngực cô. “Khá bụ bẫm. Nghe tiếng khóc mà xem. Thằng bé đòi ăn đấy.” Nút Áo đã chứng kiến thủ tục này rất nhiều lần trong suốt những năm ở cùng cộng đồng, nhưng mẹ phải giúp thì cô mới giữ chắc con được. Cô đưa tay vuốt mái tóc đen của con. “Thằng bé kháu khỉnh quá!” Đứa trẻ có nước da đỏ hồng. Cô đưa tay lướt dọc theo cánh tay thằng bé. Mềm mại quá! Tình yêu ngập tràn và mãnh liệt dành cho con trai khiến chính cô cũng phải kinh ngạc. Cô nhắm mắt lại, hít vào mùi hương của con trong khi mẹ cô chụp vài tấm bằng máy ảnh lấy ngay. Sẽ phải có cách nào đó để thằng bé được hưởng nhiều hơn những gì cô có trong cộng đồng này. Nút Áo không để ý rằng mẹ mình đã để đứa bé vào một chiếc hộp nhỏ được chuẩn bị sẵn và cô cứ thế chìm vào giấc ngủ. Bị tiếng ồn bên ngoài đánh thức, cô bật dậy. “Mẹ ơi?” Không ai trả lời. Cô ngửi thấy mùi khói và nghe thấy những tiếng hét bên ngoài căn nhà gỗ. Có nhiều tiếng ồn hơn trước. Tiếng súng ư? Chẳng lẽ họ bị tấn công? Moses từng cảnh báo chuyện này có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Cô lăn khỏi giường và lao tới để bế đứa bé ra khỏi hộp, nhưng thằng bé không có ở đó. Có lẽ mẹ đã đưa con cô đi tắm, hoặc tới chỗ cha và Moses. Cô mệt lả vì thử thách ban nãy, giờ lảo đảo bước ra khỏi phòng ngủ để đi đến phòng khách. Làn khói len lỏi qua khe gỗ và ngọn lửa liếm lấy khung cửa. “Mẹ ơi?” Con của cô đâu rồi? Cô điên cuồng nhìn khắp căn nhà nhỏ, nhưng chẳng hề thấy bóng dáng con trai hay mẹ mình. Khói đã đốt cháy cổ họng và đang len dần xuống phổi. Cô ho sù sụ, tránh xa khỏi ngọn lửa bùng lên nơi vách tưởng trước của căn nhà và lê bước ra cửa sổ. Cô phải ra khỏi đây. Tấm kính cửa sổ vỡ tan sau lưng cô, ngọn lửa bùng lên nhờ luồng không khí mát lành tràn đến. “Nút Áo!” Cô quay về hướng phát ra giọng nói của cha. Ông đã đập vỡ cửa sổ và đang đưa tay ra. “Nhanh lên, không có nhiều thời gian đâu.” Cô lao đến, cha đỡ cô trèo ra ngoài hít thở không khí trong lành. “Con của con. Mẹ và con của con đâu?” “Đi theo cha.” Cha dùng tay nhấc cô lên và bế cô đi qua làn khói dày. Lửa bùng lên từ những căn nhà xung quanh, mùi khói cay sè khiến cô bật ho. Những tiếng la hét và tiếng súng vang lên khắp nơi. Một viên đạn rít qua đầu cô, khiến cô sợ hãi vùi mặt vào ngực cha. Chuyện gì đang xảy ra vậy? Cha cô đi tới bên chiếc xe Jeep cũ màu xanh lá đã móp méo với gần ba mươi năm tuổi đời. Ông đặt cô xuống cạnh cửa bên và mở nó ra. “Vào trong đi.” Cô lắc đầu quầy quậy. “Không! Con phải tìm con con. Và cả mẹ nữa!” “Mẹ con không chịu đi. Bà ấy ở lại với Moses.” Đôi mắt của Nút Áo mở to đây kinh hoàng. “Mẹ đưa con của con đi ư? Mẹ không thể giữ nó ở đây được. Nó là con của con!” Cha nhìn xuống đất. “Con yêu, đứa bé chết rồi. Chúng ta phải rời khỏi đây, nếu không tất cả sẽ phải ngồi tù. Con phải vào xe ngay.” Giọng cha mềm mỏng. Chết? Đứa con nhỏ bé hoàn hảo của cô đã chết rồi ư? “Con không tin,” cô thì thào. Cha nhìn thẳng vào mắt cô. “Chính mắt cha đã thấy đứa bé. Thằng bé tím tái và lạnh ngắt. Mẹ con đưa cha bức ảnh này để con có thể nhớ về thằng bé.” Cha dúi một tấm ảnh chụp lấy ngay vào tay cô. Mắt cô ướt nhòe. Cô gần như bất tỉnh khi ngã vào trong chiếc Jeep, được cha mình lái xe đưa qua hỏa ngục để tìm về chốn an toàn. Mời các bạn mượn đọc sách Một Lời Nói Dối của tác giả Colleen Coble & Nguyễn Hải An (dịch).
Mối Bất Hòa Truyền Kiếp
Sau Vệ sĩ vô hình, tập tiếp theo trong bộ ba tiểu thuyết hình sự về thung lũng Baztan của tác giả Dolores Redondo tiếp tục dẫn người đọc đến với những con đường huyền ảo của xứ Basque u tối, mưa mù nhưng lại rất quyến rũ bởi núi non trùng điệp, rừng sâu hun hút  và sự hiện diện của những thế lực siêu nhiên.  Một năm sau vụ bắt giữ thủ phạm giết hại các thiếu nữ ở thung lũng Baztan, nữ thanh tra Amaia Salazar chờ đợi tham dự phiên tòa xét xử kẻ sát nhân. Nhưng hắn đã bất ngờ tự sát trong nhà vệ sinh của phòng xử án và để lại thông điệp “Tarttalo” được viết bằng máu. Đây không phải là trường hợp duy nhất, bởi trước đó một người đàn ông sau khi cưỡng hiếp và giết chết bạn gái của mình đã tự sát và để lại thông điệp khó hiểu này. Dường như ai đó đang thao túng hắn phạm tội. Và không dừng lại ở đó, thi thể nạn nhân sau khi bị sát hại đã bị cắt rời: một phần cánh tay được lưu giữ và bảo quản như một món quà lưu niệm, trong khi thủ phạm lại không hề nhớ gì về việc này. Một lần nữa, thanh tra Amaia Salazar quay về thị trấn quê hương Elizondo để điều tra về hàng loạt các vụ tử tự kỳ quái cũng như các vụ mạo phạm nhà thờ địa phương. Lần theo dấu vết, cô dần vén màn những bí mật kinh hoàng trong chính gia đình mình, cùng với quá khứ đeo bám và nỗi lo sợ cho cậu con trai mới chào đời khiến Amaia như muốn nổ tung. *** Tác giả Dolores Redondo sinh năm 1969, tại Saint-Sébastien, một tỉnh thuộc xứ Basque, Tây Ban Nha. Bà từng học chuyên ngành Luật, làm việc nhiều năm trong lĩnh vực thương mại trước khi trở thành tiểu thuyết gia. Với thành công của bộ ba tiểu thuyết hình sự đặc sắc về thung lũng Baztan, Redondo trở thành tác giả trinh thám được đọc nhiều nhất tại Tây Ban Nha năm 2017 Bà là một trong số ít tác giả Tây Ban Nha được đề cử giải thưởng CWA International Dagger 2015. *** Review Mối Bất Hòa truyền kiếp - Doroles Redondo người viết Nguyễn Quang Huy #Review_sách #Mối_Bất_Hòa_Truyền_Kiếp #Dolores_Redondo Cuốn thứ hai trong series Trinh thám TBN về Thung lũng Báztan xứ Basque gồm 3 tập. Trong phần này Amaia đã hạ sinh một bé trai. Trước khi nghỉ sinh Amaia tham dự phiên toà xét xử Jason Medina, kẻ giết hại sau đó cưỡng hiếp tàn nhẫn cô con gái vợ, Johanna Marquez ở phần một. Không ngờ Jason Medina tự sát trong nhà vệ sinh ngay tại tòa. Trước khi chết hắn để lại dòng chữ ký khó hiểu: TARTATLO. Sau khi nghỉ sinh, Amaia được giao điều tra một vụ mạo phạm các nhà thờ trong vùng. Đồ cúng lễ bị đập phá, nhà thờ bị húc đổ cửa. Đặc biệt là sự xuất hiện của các mẩu xương trẻ em trên gian cúng lễ. Giữa lúc cuộc điều tra mạo phạm đang gặp bế tắc, thì bỗng Amaia liên tiếp nhận được tin những kẻ phạm tội bạo hành, sát hại dã man các phụ nữ trẻ xinh đẹp đều tự sát sau đó. Tất cả đều để lại một dòng chữ ký khó hiểu kia. Trước khi tự sát chúng đều đòi được đích thân Amaia thẩm vấn, và nói rằng chúng chờ đợi điều gì đó. Linh cảm có điều bất thường, Amaia nhận ra có mối liên quan giữa đống xương ở nhà thờ với đống xương trong hang đá ở cuối phần một. Cả hai đống xương này, những vụ tự sát với chữ ký ghê rợn kia tất cả đều cho thấy một âm mưu kinh hoàng, ghê rợn. Một âm mưu mà không ngờ lại có dây mơ rễ má đến những gì yêu thương nhất của Amaia, mà ban đầu chị cứ ngỡ chỉ là cơn ác mộng. Một lời khuyên cho ai đọc Mối Bất Hòa Truyền Kiếp là phải đọc phần một, Vệ Sĩ Vô Hình trước. Vì cuốn này có nhiều nội dung mà nếu không đọc phần một sẽ không thể hiểu được. Chẳng hạn như xác của Johanna Marquez có vết cắn chỗ cánh tay bị cắt cụt mà phải đến phần này nó mới được làm rõ. Dolores Redondo đã xây dựng nên không khí thung lũng Báztan còn đáng sợ hơn cả phần một. Nó vừa mang tính huyền bí, ma mị vừa mang tính kinh dị, đẫm máu rùng rợn. Bí mật trùng trùng bí mật, những cảnh hiện trường đẫm máu, bối cảnh ma mị, huyền bí hư hư thực thực và nỗi lo toan khi lần đầu tiên làm mẹ của Amaia tất cả đan xen vào nhau nhưng không hề rối, khiến mình bị cuốn hút đến không thể dứt ra. Sách dày hơn 500 trang tuy nhiên không hề khiến mình bị mệt mỏi và chán nản. Tình huống hồi hộp, rợn tóc gáy diễn ra liên tiếp. Nếu đã thấy quá khiếp sợ những cảnh hiện trường rùng rợn thì có thể được giải trí với chuyện tình giữa Thẩm phán Markina và Amaia. Vì công việc nên Amaia thường xuyên phải gặp gỡ chàng thẩm phán đẹp trai, quyến rũ, lịch thiệp nho nhã và anh ta cũng có ý định thả dê Amaia, dù biết thừa nàng đã có chồng. Những đoạn Amaia cũng thấy lòng xao xuyến trước Markina nhưng cố gắng kiềm chế đọc rất vui. Điều đó khiến câu chuyện toát lên vẻ chân thực. Ở phần này Amaia cũng gặp lại nàng tiên cô từng chỉ cho Amaia cái hang đá ở phần một. Nhiều bạn thích trinh thám thuần có lẽ rất ghét chi tiết nàng tiên cô này. Nhưng mình nghĩ với một vùng đất đậm nét huyền bí, thần thoại như thung lũng Báztan thì chuyện này là bình thường, miễn là nó không ảnh hưởng nhiều đến cốt truyện. Và chính nó tạo ra nét đặc biệt và cuốn hút của series này. Và cả phần 2 này mình cũng không đoán ra được hung thủ. Rất thú vị khi mình cảm tưởng như gặp lại Kẻ Nhắc Tuồng phần cuốn Mối Bất Hòa Truyền Kiếp này. Cùng một dạng hung thủ, cùng một phương thức tác động mọi người đọc xem sao nhé. Mối Bất Hòa Truyền Kiếp được dịch và biên tập tốt hơn nhiều so với phần một. Các đoạn khó hiểu ít hơn hẳn, mong cuốn ba sẽ được giảm thiểu. Điểm: 8/10 *** Mối bất hòa truyền kiếp là cuốn thứ 2 trong sery bộ 3 của Dolores Redondo. Tập 1 Vệ sĩ vô hình ta đã biết về thân thế, quê hương của nữ thanh tra Amaia Salazar cùng vụ án giết hại những thiếu nữ xảy ra tại thung lũng Baztán quê hương cô. Trong tập này những vụ án giết người tàn bạo lại xảy ra tại nơi đó, khởi đầu với những vụ mạo phạm nhà thờ, rồi những người phụ nữ bị giết hại dã man, 1 bên cánh tay bị cắt bởi một lưỡi dao sắc ngọt và biến mất khỏi hiện trường. Và những kẻ sát nhân đều đã tự tử, để lại 1 dòng chữ: Tarttalo. Tất cả các đầu mối đều chỉ ra 1 điều có 1 kẻ nào đó giật dây điều khiển chúng và nhắm tới nữ thanh tra Amaia. Sau một cuộc điều tra khá dài, diễn ra trong 550 trang giấy khổ lớn, ở tập này nghiệp vụ của Amaia và các đồng sự đã sắc bén hơn, khúc cua cuối truyện đã không đến nỗi ngoặt gấp như tập 1. Lại một lần nữa vụ án liên quan đến quá khứ. Phải chăng có một Mối bất hòa truyền kiếp. Tuy đã giảm bớt những yếu tố siêu nhiên song những giấc mơ báo mộng vẫn khá nhiều trong chuyện. Đọc cuốn sách này không hiểu sao tôi không tập trung được với các tình tiết của các vụ án mà cứ mải mê với đời tư của Amaia, ngay từ đầu có các vụ án ghê rợn xảy ra song tôi không nhập tâm mà cứ chú ý vào sự kiện thiên thần nhỏ của cô ấy sắp ra đời. Rồi sự bất hòa với chị gái, rồi sự tán tỉnh của thẩm phán Markina không hiểu tác giả cho vào có ý đồ gì. Đọc cuốn sách này tôi ghê sợ người mẹ của Amaia, bà ta như một loại ác quỷ hiện về chứ không phải là bệnh nhân tâm thần. Đây là một mẫu nhân vật người mẹ khá lạ lẫm… Vẫn như tập 1 tôi đánh giá cao các yếu tố trong truyện , trừ trinh thám của tập 2 bộ sách của tác giả Doroles Redondo… Huỳnh Thu Giang *** Itxusuria Lần theo vệt nước mưa rỏ giọt từ mái hiên, thật dễ tìm ra ngôi mộ. Một hình người quỳ gối, lần tìm trong quần áo một cái bay và cái cuốc chim nhỏ để phá bỏ bề mặt rắn chắc của lớp đất đen. Đất bở tơi thành những cục mềm, ẩm ướt, tỏa mùi của gỗ và rêu. Một nhát nạo cẩn thận vài xen ti mét, để lộ những mảnh vải mục nát lẫn với đất. Người đó giật mảnh vải vốn là tấm phủ giường cũi, để lộ ra một cái xác quấn trong lớp vải dầu. Chỉ còn lại những mẩu dây thừng buộc chặt cái gói, in vết hằn sâu trên vải ở những chỗ siết chặt. Gạt những mẩu dây sang một bên, người đó lần mò tìm mép mảnh vải và cảm thấy nó được quấn vài lần. Xé một đầu cái gói, mảnh vải liệm mở toang như được cắt bằng dao. Đứa trẻ được chôn sấp, vùi vào lòng đất, những chiếc xương hình như được bảo quản tốt như chính lớp vải dầu, mặc dù lấm đất đen vùng Baztán. Duỗi thẳng bàn tay gần như che kín hình hài bé xíu, người đó ấn ngực đứa trẻ vào sâu hơn trong đất và giật cánh tay phải của nó ra khỏi hốc xương. Lúc cánh tay lỏng ra, xương đòn gẫy thành tiếng tách khẽ, giống như tiếng thở dài của ngôi mộ, một lời than van vì hành động báng bổ thánh thần. Như bỗng thấy bứt rứt, hình người mờ ảo đó chùn bước đứng dậy, nhét bộ xương vào lớp vải, rồi liếc nhìn cái xác lần cuối trước khi cào đất lấp lại ngôi mộ. Mời các bạn mượn đọc sách Mối Bất Hòa Truyền Kiếp của tác giả Dolores Redondo & Đinh Thanh Vân (dịch).
Lời Nguyền Của Người Cá
Thành phố London những ngày cuối hạ đầu thu năm 1811 rúng động bởi hai vụ án mạng man rợ diễn ra. Nạn nhân là những chàng trai trẻ có địa vị cao quý hoặc gia thế giàu sang. Thi thể họ bị hành hạ theo cách thức vô cùng dã man và xác bị vứt tại những địa điểm công cộng, nhiều người qua lại. Đứng trước bài toán hóc búa, sự thúc ép ghê gớm từ cấp trên và nỗi hoang mang ngày càng tăng trong dân chúng, Chánh thẩm Henry Lovejoy buộc phải nhờ tới sự trợ giúp của Sebastian St. Cyr., Tử tước Devlin. Cuộc điều tra đã dẫn anh tới một vụ án xảy ra trước đó không lâu - con trai của một vị mục sư ở hạt Kent - chàng sinh viên khoa thần học tại Đại học Cambridge - cũng bị sát hại theo cách tương tự. Chưa dừng lại ở đó, thêm một nạn nhân nữa, viên đại úy Hải quân Hoàng gia cũng thiệt mạng ngay trên bến cảng thành phố London. Chỉ có điều, khác với ba nạn nhân trước, thi thể viên đại úy vẫn còn nguyên vẹn và không có dấu hiệu bị tùng xẻo. Dân chúng xôn xao lo sợ, truyền tai nhau về nhưng vụ án mạng rùng rợn gây ra bởi kẻ được mệnh danh là “Tên đồ tể khu West End”. Càng đi sâu tìm hiểu, Sebastian càng phát hiện ra nhiều chi tiết lạ lùng về mối liên hệ giữa chuỗi án mạng những người còn sống sót trên con tàu Harmony gặp nạn ngoài khơi năm năm trước. Cha mẹ của nạn nhân từng là hành khách trên con tàu đó. Khi tàu gặp bão, bị mất hướng và hết lương thực, họ đồng ý ‘chia nhau’ một đứa bé sắp chết. Cha đứa bé biết được câu chuyện và trả thù bằng con cái họ. *** Cuốn sách kể về những vụ giết người hàng loạt, nạn nhân đều là những chàng trai trẻ tuổi quý tộc, gia thế giàu sang đến từ vùng West End, “Lời nguyền của cá” thu hút ngay từ những chương đầu tiên. Vào một buổi sáng phải sớm rời khỏi giường người tình, Sebastian bị “ném” vào vụ án rùng rợn mà nạn nhân là một chàng quý tộc mới chỉ 18 tuổi, bị cắt lìa nửa dưới và hung thủ thì cố ý bỡn cợt dư luận khi cố tình để nạn nhân ở khu công cộng với một móng guốc của một con dê trong miệng. Và đó không phải là vụ án đầu tiên trong ba tháng trở gần đây. Sebastian chẳng thích thú gì những vụ án mạng, nhưng để đền đáp hàm ơn của ngài Chánh thẩm Lovejoy đã khiến chàng không thể từ chối tham gia phá án. Anh đâu ngờ rằng vụ điều tra này lại đặt chàng và Kat, cô gái chàng yêu vào tình thế nguy hiểm khi liên tiếp có kẻ luôn muốn truy sát họ. Án mạng xảy ra càng nhiều, càng dẫn Sebtian quan tâm đến chuyến tàu Harmony từng gặp nạn nhiều năm trước, nhất là khi các nạn nhân đều liên quan đến một bài thơ. Khi bí mật năm ấy được lật tung cũng là khi người đứng sau những vụ án mạng lộ diện. Và những âm mưu, những toan tính đứng sau vụ giết người hàng loạt ấy là gì ? Hãy tìm đọc “Lời nguyền của người cá” để khám phá những bất ngờ nối tiếp bất ngờ nhé ❤️ Đỗ Như Quỳnh Tác Giả: C.S Harris. Dịch giả Thu Huyền. Điểm: 10 Mức: Rất hay (vkl). Truyện hay lắm khỏi đọc review nha mọi người mua liền đi, nhớ mua luôn tập trước để nắm được “Timeline” của truyện. Nối tiếp phần trước của vụ án mạng kinh khủng khiếp của việc sát hại dã man cô gái ở điện thờ đức mẹ trong “Khi thiên thần sợ hãi”, nối tiếp cuộc đời về tử tước Devlin sự kiện diễn ra vào dòng thời gian 8 tháng sau tử tước Devlin cool ngầu lại tiếp tục một cuộc hành trình mới với vụ án liên quan đến biển cả “Lời nguyền của người cá”. Đi hứng sao rơi Ân ái với rễ sâm độc Kể cho ta nơi thời gian thất lạc Hay kẻ nào đã xẻ chân ác quỷ Dạy ta nghe tiếng hát người cá Hay giữ cho mình khỏi châm ngòi đố kỵ…. Go and catch a falling star, Get with child a mandrake root, Tell me where all past years are, Or who cleft the devil’s foot, Teach me to hear mermaids singing, Or to keep off envy’s stinging, JOHN DONNE Trích đoạn bài thơ trên sẽ đưa ta phiêu lưu vào những miền quên lãng của quá khứ dẫn đến những vụ sát hại đẫm máu của các cậu thanh niên trai trẻ 18+. Cuộc phiêu lưu tìm ra sự thật bắt đầu nhé. Sơ lược nội dung: Thành phố London những ngày cuối hạ đầu thu năm 1811 rúng động vì những vụ án mạng man rợ. Nạn nhân là những chàng trai trẻ có địa vị cao quý hoặc gia thế giàu sang. Thi thể họ bị hành hạ vô cùng dã man như róc xương tay chân, bị rút cạn máu và bị vứt xác tại những địa điểm công cộng, nhiều người qua lại. Dân chúng xôn xao lo sợ, truyền tai nhau về những vụ án mạng rùng rợn của kẻ được mệnh danh là “Tên đồ tể khu West End”. Đứng trước bài toán hóc búa, sự thúc ép ghê gớm từ cấp trên và nỗi hoang mang ngày càng tăng trong dân chúng, Chánh thẩm Henry Lovejoy buộc phải nhờ tới sự trợ giúp của Sebastian St. Cyr, Tử tước Devlin. Càng đi sâu tìm hiểu, Sebastian càng phát hiện ra nhiều chi tiết lạ lùng về mối liên hệ giữa chuỗi án mạng và những người còn sống sót trên con tàu Harmony gặp nạn ngoài khơi 5 năm trước. Họ có liên quan gì tới những vụ án gây chấn động London thời gian qua? Và bí mật động trời mà họ cố giữ kín bằng mọi giá thực sự là gì? Cũng giống như tập trước, lần này tử tước Devlin lại tiến hành độc mã điều tra vụ án mạng liên hoàng được gây ra bởi một người ra tay hết sức tàn nhẫn và ác độc ấy, sau 8 tháng kể từ sự kiện ở điện thờ Đức mẹ chỉ có hai xác chết là nữ thôi thì qua đến phần này, tác giả đã mạnh tay hơn khi tạo ra một chuỗi án mạng liên hoàn khi mà các chàng trai độ tuổi từ 18-29 lần lượt bị sát hại và để biết được sự thật đó chỉ có 1 mà thôi khi mà tử tước Devlin một lần nữa ra tay đi tìm cho ra sự thật. Xuyên suốt câu truyện là hành trình tìm kiếm những mối dây mơ rễ má liên hệ giữa các nạn nhân với nhau nhưng họ thì không có mối liên kết nào cả vì độ tuổi, tầng lớp, địa vị và gia cảnh đều rất khác nhau, thế nên một độ nghi ngờ về việc đây là việc làm có khả năng gây ra bởi một tên sát nhân “đồ tể” có mối thù với thân phụ của các nạn nhân trong quá khứ. Cuộc hành trình lần này đã có sự giúp đỡ của cô Kat và cậu bé Tom móc túi ở phần trước, giờ đã về làm tiểu đồng cho tử tước và Devlin xưng ta em với cậu bé 12 tuổi thay vì xưng ngươi ta như ở phần 1, cho thấy tử tước ngoài thông minh mẫn cán ra luôn tôn trọng mọi người, không phân biệt giai cấp. Trong quá trình điều tra thì có rất nhiều sự uẩn khuất nằm phía sau sự liên quan tới những người cha của nạn nhân khi mà họ quá khứ đã từng đi trên một chiếc tàu và sự kiện kinh khủng khiếp đã diễn ra trên con tàu ấy. khi mà trong số những hành khách trên tàu đang rơi vào khủng hoảng kẹt lương thực và đói khát nên bọn họ đã cùng nhau làm việc thật sự kinh khiếp nhất trong lịch sử hàng hải(sự việc ấy là gì mình sẽ không spoi, ai muốn biết pm mình. Phải thật sự một điều là khi đọc đến đây mình thấy rất tội cho ‘nạn nhân’ đã bị những người khách đó làm một việc để sinh tồn nhưng lại rất là thất đức
Gọi Tên Kẻ Chết
Một vụ án mạng xảy ra – nhưng vì nạn nhân là kẻ vừa mãn hạn tù, không một ai thực sự quan tâm, cho dù Thanh tra John Rebus và Hạ sĩ Siobhan Clarke đangcảm thấy còn điều gì gờn gợn…   Bấy giờ các nhà lãnh đạo thế giới đang đổ về Scotland tham dự hội nghị quốc tế G8. Giới cảnh sát đang bận rộn cho sự kiện, ngoại trừ John Rebus. Ông là người duy nhất đang trực trụ sở cảnh sát hoang vắng khi một cuộc gọi khẩn đổ chuông. Một nghị sĩ trẻ nào đó đã ngã tử vong từ trên tường cao lâu đài Edinburgh. Tai nạn, tự sát, hay là điều gì khác đáng quan tâm?Liệu có liên quan gì đến bằng chứng đáng sợ tìm thấy ở hiện trường nhiều vụ án gần đây? Trong khi phía cơ quan chính phủ và lực lượng đặc vụ chỉ nỗ lực ém nhẹm mọi chuyệnhòng đảm bảo hội nghị tầm cỡ quốc tế diễn ra êm đẹp, Rebus biết ông có không quá bẩy mươi hai giờ để tìm ra câu trả lời sinh tử…   “Một Rankin kinh điển, và nếu đã từng yêu mến một Rebus kiên định, bạn sẽ say đắm cuốn tiểu thuyết này. Một tội ác đầy tinh vi, khiến người đọc không ngừng lật trang.” - Independent   “Kết hợp một tác phẩm trinh thám hiện đại đầy lôi cuốn khiến phải lật trang liên tục vớimột tiểu thuyết chính trịđầy phức tạp luân lý.” - Irish Times *** IAN RANKIN sinh tại Fife năm 1960, Ian Rankin tốt nghiệp Đại học Edinburgh năm 1982, sau đó dành ba năm viết tiểu thuyết thay vì tập trung hoàn thành luận án Tiến sĩ Văn chương Scotland. Trước khi thành công trong nghiệp viết, ông đã từng trải nghiệm nhiều công việc như thu hoạch nho, chăn lợn, thu thuế, nhà nghiên cứu về thức uống chứa cồn, ký giả chuyên viết về hệ thống âm thanh chất lượng cao và cả công việc của một nhạc sĩ chơi nhạc punk. Series tiểu thuyết Thanh tra Rebus nổi tiếng của ông cho đến nay đã được dịch ra trên hai mươi hai thứ tiếng, nhiều tiểu thuyết trong series là sách bán chạy xuyên lục địa. Ian Rankin là thành viên ủy ban giải thưởng Hawthorden, tác gia đoạt giải thưởng Chandler Fullbirght Award cao quý, cùng với bốn giải Dao găm do Hội Nhà văn Trinh thám (CWA) trao tặng. Cho những cống hiến đối với nền văn học, ông còn được trao Huân chương Anh quốc. *** Gọi tên kẻ chết “Chúng ta phải quan tâm đến chính trị, vì chính thứ đó đẩy quay bánh xe cuộc sống của chúng ta.” Chính câu nói này đã khiến tôi có thêm động lực để nhảy vào cái hố khá sâu của tác phẩm này. Câu chuyện kéo dài gần 600 trang, theo như mọi cuốn sách ngôn tình khác, nó có thể kể hết câu chuyện tình yêu đau thương mấy đời mấy kiếp của các nhân vật, nhưng trong “ Gọi tên kẻ chết”, đó là câu chuyện vỏn vẹn trong vòng chín ngày : 1/7/205 – 9/7/205. Đây là thời gian diễn ra hội nghị thượng đỉnh của khối G8 tại Scotland, một giai đoạn lịch sử đã từng tốn không biết bao nhiêu bút mực của giới báo chí, và sự quan tâm của thế giới.   Một vụ án mạng 6 tuần ngay trước hội nghị thượng đỉnh nhưng không nhận được sự quan tâm tối thiểu nhất của giới pháp luật và cảnh sát. Cái chết của Cyril Colliar, một kẻ vừa mãn hạn tù với một lố những tiền án tiền sự và nóng hổi nhất là vụ cưỡng hiếp hắn vừa thụ án xong. Tất cả điều tra viên đều lãnh đạm không thèm dùng đến từ “ nạn nhân” như thường lệ, mà thay bằng từ “kẻ chết”, đủ hiểu bọn họ đối với hắn chán ghét cỡ nào. Cyril Colliar bị chết do nứt sọ và kẻ sát nhân đã bồi thêm cho hắn một cylinder đầy heroin nguyên chất. Một mảnh của áo khoác da hắn mặc bị cắt ra và sau đó được tìm thấy treo lủng lẳng trên cây ở một nơi gọi là Clootie Well chung với rất nhiều mảnh vải và thứ đồ dị hợm khác như một phong tục âm linh quái dị. Sau khi pháp chứng làm việc, qua một số manh mối, họ lại tìm ra được 2 nạn nhân khác và xác định đây là một vụ giết người hàng loạt, và nạn nhân là những kẻ có tiền án tiền sự và đặc biệt là đã từng dính dáng đến tội dâm ô- cưỡng hiếp hoặc quấy rối tình dục. Dự định đi theo phương hướng này để điều tra, nhưng thanh tra- sắp-về-hưu John Rebus và hạ sĩ trẻ Siobhan Clarke không được sự ủng hộ của cấp trên lẫn sự trợ giúp của các đồng nghiệp. Tất cả bọn họ đều thờ ơ với cái chết của những kẻ đã từng phạm tội và cho rằng đó chính là quả báo của cuộc sống ngoài vòng luật pháp. Trong lúc vụ án này có tiến triển thì lại một vụ án khác xảy ra, một nghị sĩ rơi từ tường cao của lâu đài Edinburgh khi buổi tiệc chào đón trước thềm G8, không nhân chứng, không một dấu vết chứng tỏ anh ấy bị giết hay tai nạn. Nhưng mối quan hệ của nạn nhân và những manh mối trong cuộc sống và công việc của anh ta để lại khiến Rebus và Siobhan không thể đánh đồng vụ này với một tai nạn. Một vụ án mạng liên hoàn còn chưa được kết thúc lại xuất hiện thêm một vụ án khác, nhưng tất cả đều bị giấu nhẹm đi và ém tin tức một cách triệt để vì hội nghị thượng đinh chính là rào cản lớn nhất với vô số bạo loạn, diễu hành, an ninh và thể diện quốc gia cần được đặt lên hàng đầu. Mọi thứ như những bánh xe trong một guồng máy phức tạp, một khi một chiếc bánh đã quay sẽ kéo theo hàng loạt thứ trượt xa hơn so với những gì ban đầu dự tính.Mở đầu tác phẩm là một không khí ảm đạm, tang thương và có phần bức bối của gia đình Rebus và các vụ án mạng, tiếp theo đó là sự náo loạn vồn vập của hội nghị thượng đỉnh và giới chính trị. Tác phẩm hội tụ đầy đủ một xã hội với giới pháp luật, chính trị, thương nhân, ký giả , tội phạm và người dân. Họ xâu xé lẫn nhau, tính kế lẫn nhau, đối địch lẫn nhau nhưng rồi lại có lúc như những sinh vật lại chạy về cộng sinh với nhau để cầu sống, cầu tài, cầu danh vọng và cầu bình an. Tác phẩm này có lẽ sẽ không để dành cho những bạn trẻ không đủ kiên nhẫn vì nó rất chậm, và rất thật. Trong một mớ bòng bong hỗn loạn và không có một đội điều tra của riêng mình, thanh tra Rebus và hạ sĩ Siobhan phải tranh thủ từng li từng tí các mối quan hệ hoặc cơ hội để gom về chút ít thông tin và manh mối từ miệng của cấp trên, những kẻ trong cuộc và ngoài cuộc, thậm chí là những con chốt được cài vào các ván cờ chính trị của những kẻ đứng sau đó. Họ chật vật với từng giây từng phút, ngột ngạt trong một mạng nhện khổng lồ càng ngày càng thít chặt họ. Họ đặt cược cả sinh mạng và tiền đồ chỉ để mong không một kẻ phạm tội nào có thể thoát được lưới pháp luật. Câu chuyện rất dài nhưng tác giả không để độc giả nghỉ ngơi trong một giây một phút nào. Không một trang giấy nào để các nhân vật chúng ta nói chuyện phiếm hay thư giãn phí hoài thời gian. Mọi mối quan hệ đều qui về công việc, mỗi trang giấy đều chạy từ đầu này của vụ án đến đầu kia của cuộc bạo loạn. Từng chi tiết, từng ngõ ngách của cuộc diễu hành, từng nét mặt của những người bạo loạn đều được mô tả kỹ càng. Kỹ năng mô tả và liên hệ của tác giả rất tốt, liên kết rành mạch từ chuyện này sang chuyện kia rồi quay lại nhưng không bị quá lố hoặc quá lan man. Tuy nhiên, vì cố gắng giăng một cái bẫy quá lớn, quá nhiều người bị kéo vào vòng xoáy vụ án này mà câu chuyện rề rà đến mức khá mệt mỏi. Chạy một vòng lớn, rất lớn, và đôi lúc bị trì trệ một cách thảm hại, các nhân vật của chúng ta lại quay trở về điểm xuất phát và phát hiện ra sự thật đơn giản sau vấn đề phức tạp. Một cái kết vô lý nhưng vô cùng hợp lý trở thành điểm trừ cho tác phẩm vì nó thực sự gây ức chế với độc giả sau chặng đường dài gian nan đã đi qua. Điểm trừ lớn nhất cho tác phẩm này chính là dich thuật và biên tập của Nhã Nam. Lỗi chính tả, lỗi dùng từ, lỗi dịch thuật đầy rẫy trong cuốn sách như một chén cơm nóng đầy sạn và đá. Từ ngữ Anh-Việt được dùng lẫn lộn, danh từ chỉ tên riêng của địa danh và nhân vật lại bị dịch ra một cách không mượt mà, viết hoa tá lả linh tinh và chưa kể một số từ tiếng anh được phiên âm để đọc theo tiếng việt thực sự gây ức chế tột cùng khi đọc. Meeting- mít tinh London- Luân Đôn ( nhưng Scotland, Edinburgh và Clootie Well giữ nguyên) Blouse- Áo bờ-lu Pudding- bánh pút đinh Gothic- kiến trúc gô- tích Techno- tếch-nô Minh Hằng *** Tiếng nhạc nổi lên tiếp nối những thanh âm vang vọng của bản thánh ca. Ca khúc “Tình yêu bao trùm lên tôi” của ban nhạc Kẻ Nào. Rebus nhận ra bài hát ngay từ đoạn dạo đầu với tiếng sấm và tiếng mưa rơi đặc trưng giờ đã tràn ngập không gian nhà thờ. Chrissie cứ nhất định muốn Rebus ngồi ở hàng ghế trên. Ông thực lòng chỉ muốn lui xuống phía sau: nơi ông thường ngồi mỗi khi dự tang lễ. Con trai và con gái của Chrissie ngồi ngay bên cạnh bà. Lesley đang vỗ về mẹ, vòng tay ôm lấy người bà khẽ siết chặt mỗi khi bà nức nở. Kenny chỉ đăm đăm nhìn vào khoảng không trước mặt, cố gắng kìm chặt mọi cảm xúc. Buổi sáng, khi còn ở nhà, Rebus đã hỏi tuổi cháu trai. Vào tháng tới Kenny sẽ tròn ba mươi, còn Lesley kém anh trai hai tuổi. Trông hai anh em đều rất giống mẹ, khiến cho Rebus nhớ lại những lời nhận xét kiểu như Giỏ nhà ai, quai nhà ấy mà mọi người vẫn nói về Michael và ông. Michael… mà mọi người vẫn quen gọi là Mickey. Em trai của Rebus, giờ đang lặng thinh nằm đó trong chiếc quan tài có tay cầm sáng bóng, ra đi ở tuổi năm mươi tư, cái tuổi mà theo tiêu chuẩn của xứ Scotland này thì chỉ ngang với tuổi thọ người dân ở một nước nghèo thuộc thế giới thứ ba. Có rất nhiều giả định - nào là lối sống, chế độ ăn, rồi cả yếu tố di truyền. Biên bản khám nghiệm tử thi đầy đủ vẫn chưa được thực hiện. Qua điện thoại, Rebus được Chrissie cho hay đó là một cơn đột quỵ nghiêm trọng, trấn an ông rằng mọi chuyện xảy ra “hoàn toàn đột ngột” - cứ như thể như thế thì có gì khác biệt. Đột ngột - tức là Rebus chẳng thể nói lời từ biệt với em trai. Cũng có nghĩa những lời cuối cùng giữa hai anh em chỉ là một mẩu chuyện phiếm trên điện thoại hồi ba tháng trước về câu lạc bộ Raith Rovers mà Michael yêu mến. Một chiếc khăn quàng của đội Raith, màu xanh lục pha trắng, được vắt ngang qua quan tài, kế bên vòng hoa tang. Kenny đeo chiếc cà vạt mà bố Michael từng dùng, trên có tấm khiên biểu tượng của đội Raith - con mãnh thú gì đó đang giơ cao một cái đai lưng. Rebus đã hỏi về ý nghĩa của biểu tượng đó nhưng Kenny chỉ khẽ nhún vai. Dõi mắt dọc theo hàng ghế, Rebus thấy người chỉ dẫn làm dấu. Tất cả những người dự tang lễ đều đứng lên. Chrissie chậm rãi bước dọc lối đi, hai người con theo sát ở hai bên. Người chỉ dẫn đưa mắt nhìn Rebus, nhưng ông vẫn đứng yên tại chỗ. Xong ngồi xuống để ra hiệu cho em dâu và các cháu không phải chờ mình. Bài hát mới được nửa chừng. Đó là ca khúc cuối cùng trong đĩa nhạc Quadrophenia. Michael vẫn luôn là fan hâm mộ cuồng nhiệt của nhóm Kẻ Nào, còn cá nhân Rebus thì lại yêu thích ban nhạc Rolling Stones hơn. Dù vậy vẫn phải công nhận rằng các album như Tommy và Quadrophenia đã làm được những điều mà The Rolling Stones không tài nào có thể. Giọng ca Daltrey của ban nhạc đang phấn khích gào về việc muốn uống rượu. Rebus cũng đồng tình, nhưng còn phải tỉnh táo cả chặng lái xe trở về Edinburgh. Phòng họp của một khách sạn địa phương đã được đặt trước. Đứng trên bục giảng kinh, vị mục sư chủ tọa nhắc nhở rằng tất cả bạn bè thân hữu đã tới chia buồn đều được mời. Những ly whisky và những tách trà được bưng ra, rồi bánh kẹp cũng sẽ được mang lên. Mọi người sẽ cùng nhau ôn lại những câu chuyện và kỷ niệm thân thương về người quá cố, mỉm cười an ủi, trầm ngâm đồng cảm với nhau và cùng chia sẻ nỗi buồn qua ánh mắt. Các nhân viên khách sạn sẽ rút lui trong lặng lẽ, để tôn trọng bầu không khí. Rebus cố gắng sắp xếp câu chữ trong đầu mình, những từ ngữ sẽ thay ông xin lỗi. Chrissie à, tôi cần phải trở về ngay. Có quá nhiều việc. Ông có thể nói dối và đổ lỗi cho hội nghị thượng đỉnh G8. Buổi sáng nay, trước khi ra khỏi nhà, Lesley đã nói rằng Rebus chắc hẳn đang rất bận rộn với công tác chuẩn bị cho hội nghị này. Ông đã có thể nói thế này với cô cháu gái, Ta là viên cảnh sát duy nhất mà dường như họ không cần tới. Cảnh sát được triệu tập từ khắp mọi nơi. Chỉ tính riêng ở Luân Đôn đã có tới mười lăm nghìn sĩ quan. Thế nhưng thanh tra John Rebus dường như lại trở thành người thừa trong cuộc điều động nhân lực khổng lồ này. Phải có người ở lại chèo lái con thuyền chứ - những lời từ chính miệng tổng thanh tra James Macrae, đi kèm kiểu cười thầy dòng tự mãn đáng ghét quăng lại. Thanh tra Derek Starr đoan chắc mình sẽ trở thành người kế vị ngai vàng của triều đại Macrae. Rồi sẽ có ngày hắn nắm trong tay quyền điều hành Sở Cảnh sát quảng trường Gayfield này. John Rebus chẳng thể nào là một mối họa cho viễn cảnh đó, còn chưa đầy một năm nữa là đến ngày ông phải về hưu. Chính Starr cũng đã nói những lời đại loại như: John à, sẽ không ai chê trách anh về việc tụt dốc trong nghề đâu. Ai ở độ tuổi của anh cũng vậy cả. Có thể là đúng vậy thật, nhưng các thành viên nhóm The Rolling Stones đều già hơn Rebus; cả Daltrey và Townshend cũng nhiều tuổi hơn ông. Ấy vậy mà họ vẫn chơi nhạc, vẫn cứ đi lưu diễn đấy thôi. Bài hát đang dần đi vào đoạn kết, Rebus lại nhỏm người đứng dậy. Lúc này chỉ còn mình ông trong nhà thờ. Đưa mắt nhìn về phía tấm màn nhung màu tía lần cuối. Chiếc quan tài có thể vẫn nằm sau tấm màn; nhưng cũng có thể nó đã được chuyển tới khu khác của lò hỏa táng. Rebus ngẫm nghĩ nhớ lại thời niên thiếu, hai anh em ông hào hứng thưởng thức những ca khúc của thập niên 45 trong căn phòng chung trên con phố High của thị trấn Kirkcaldy, bài ”Thế hệ của Tôi” và ”Sự thay thế”, Michael thắc mắc về cách mà Daltrey nhấn nhá ca từ trong bài hát đầu tiên, còn Rebus thì nói ông đã từng đọc được ở đâu đó rằng việc hát như thế là có dính líu đến chất kích thích. Hồi ấy, chất kích thích duy nhất mà hai anh em cùng ham mê là chất cồn, những ngụm đầy tràn từ các chai trên chạn bếp, một can bia đen mùi tanh tanh được khui ra, vậy là say sưa trong bóng đêm sau giờ tắt đèn. Mickey đứng trên khu phố tản bộ của Kirkcaldy, hướng ánh nhìn chăm chú ra ngoài biển, miệng lẩm nhẩm lời hát “Tôi có thể trông qua hàng dặm trường”. Nhưng liệu khung cảnh này có thực sự là những gì đã xảy ra không nhỉ? Đĩa nhạc này ra lò vào những năm 66-67, khoảng thời gian ấy Rebus vẫn đang phục vụ trong quân ngũ. Ắt hẳn là một kỳ nghỉ phép của Rebus. Phải rồi, Mickey khi ấy để tóc dài ngang vai, cố gắng bắt chước phong cách của thần tượng Daltrey, còn Rebus để kiểu đầu quân nhân đặc trưng, bịa những mẩu chuyện nhằm tô hồng cho cuộc sống quân ngũ, Bắc Ai-len vẫn đang ở phía trước…   Mời các bạn mượn đọc sách Gọi Tên Kẻ Chết của tác giả Ian Rankin & Trịnh Xuân Thắng (dịch).