Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Thinh Lặng Cũng Là Hùng Biện

“Hùng biện kéo dài gây chán ngấy.” – Pascal Phải! Hùng biện mà tâm phục là chuyện thường. Nhưng thinh lặng mà hùng biện là “vấn đề”. Trong cuộc giành độc lập cho Ấn Độ, theo đường lối bất bạo động, Thánh Gandhi mỗi lần phát biểu với chính quyền Anh, ông không cần biện một cách hùng, mà lúc nào cũng ăn nói nhỏ nhẹ, mềm mỏng, lắm lúc ông có thái độ trầm tư và im lặng. Thế mà chính quyền Anh lại rất nể phục ông. Phong thái tọa thiền, tướng diện im như bàn thạch; tâm vô quái ngại1 của Đức Thích Ca là một hùng biện nói lên cho chúng sinh cái ngộ tuệ bất khả dĩ ngôn truyền. Chữ vô vi của Lão Tử là một hùng biện chiếu tỏa cái đạo cũng bất khả dĩ ngôn truyền. Khi bị môn đồ niên trưởng của mình là Phêrô chối mình đến ba lần trước mặt kẻ bách hại mình, Chúa Giêsu không ồn ào trách móc, mà thinh lặng nhìn ông. Cái nhìn ấy thuộc dạng hùng biện nhất của nhân loại. Phải! Không hạt giống nào trở thành cây cổ thụ sau này mà không im lặng nảy mầm từ lòng đất chui lên. Có thiên tài nào của nhân loại trong các địa hạt khoa học, nghệ thuật, văn học mà sáng tác những kiệt phẩm thiên thu bất hủ giữa đường phố ồn ào, giữa chợ trời náo nhiệt đâu. Người ta chẳng đã nói “Thinh lặng là quê hương của thiên tài và là lò đúc những công trình bất tử” sao? Phải! Mặt biển ồn ào nổi sóng to gió lớn làm cho người ta ít ghê sợ nó hơn một mặt biển gió yên sóng lặng. Nghĩa trang gây lạnh lùng kinh rợn là do nó cô liêu quạnh quẽ. Người trầm lặng dễ gây uy tín và ảnh hưởng hơn người nói nhiều. Cười mỉm và tế nhị thì đi vào lòng người hơn cười bắp rang pháo nổ. Ít ai để ý cái ma lực ám tàng của thinh lặng. Càng ít ai lắng nghe được tiếng nói vô ngôn, thậm chí vô thanh nữa của thinh lặng. Trên tử sàng, bất cứ người sắp chết nào, lúc họ thinh lặng chuẩn bị bắt tay tử thần, họ cũng làm cho kẻ đứng xung quanh phát sợ hơn là lúc họ phều phào trối trăng điều này điều nọ. Con người có khuynh hướng tự thông đạt bản ngã và nội tâm qua nhiều hình thức mà điển hình là cử chỉ, lời nói. Nhưng có một hình thức cũng có mãnh lực không kém cử chỉ, lời nói, đó là thinh lặng. Ta ra điệu bộ cũng như ta nói khiến người khác hiểu ta mà phần gợi hứng, phần bắt buộc người khác phải tưởng tượng, phải động não qua cử chỉ, lời nói của ta, không bằng sự kiện ta im hơi lặng tiếng. Thinh lặng trong trường hợp bị cáo gian, vu khống hoặc khi những tác phẩm có giá trị bị phê hình bất công, là thứ thinh lặng mà nhân cách đòi buộc phải có và nó trả lời hùng biện hơn là đính chính, phân bua. Trong mấy chục năm qua, khi gửi đến bạn đọc các cuốn Thuật hùng biện, Muốn thuyết phục, Thuật nói chuyện, Hoạt bát và tâm phục, Người bản lĩnh, Đức điềm tĩnh, tôi cũng đã bàn với bạn vai trò của thinh lặng. Nhưng mà ở đây, tôi muốn nhấn mạnh với tuổi trẻ (nhất là một số tuổi trẻ giữa thời đại có quá nhiều nhạc và nhảy ồn ào này) rằng thinh lặng nếu bạn biết sử dụng, nó sẽ giúp bạn nghe nhiều và cũng nói nhiều điều bạn tâm đắc mà sự náo động không khả năng cung cấp được. Thinh lặng còn một quyền năng phi thường nữa là nó di dưỡng tình bạn. Nó tạo cho phía bên trong ngoại hình, ngoại diện của bạn một quyền lực ngấm ngầm hậu thuẫn tủa ra chung quanh bạn một hào quang nhân cách gia tăng uy tín cá nhân bạn. Cái mà người tiếp xúc với bạn tự nói trong lòng họ rằng: “Bạn là người có tư cách”, cái đó chính là món quà vô giá mà đức thinh lặng tặng cho bạn. Bạn để ý tôi gọi thinh lặng là một đức, cũng như 40 năm về trước tôi gọi tự chủ là một đức vậy. Thinh lặng khi nó là một đức, hiểu là nó dùng cái phanh hãm của tự chủ kiềm chế dục vọng ham nói nhiều và dục vọng buông thả cử động do thúc đẩy của các bắp gân và thú tính. Bạn biết con chó vì nô lệ bản năng thú tính, nên khi hăng sủa, không khả năng tự chủ để ngừng sủa hay “kế hoạch hóa” sự sủa cho thành lúc sủa lúc không. Một mụ đàn bà trong cơn ghen bốc lửa cũng như một người say rượu không có khả năng tự chủ để thinh lặng được. Bởi vì hai người ấy đang ở trong gọng kiềm không phải của lý tính. Khi thinh lặng được đức tự chủ lèo lái, người ta “ăn có nhai nói có nghĩ”, chọn lọc điều gì nên nói, điều gì không. Thậm chí người ta còn tự hỏi làm thinh có lợi hơn nói không. Rồi khi phải “Nói điều cần nói, cho người cần nghe, vào lúc cần nói”, người thinh lặng có sắc nét bình thản trên gương mặt vì ăn nói ôn tồn, cẩn trọng như cân từng lời nói. Đức thinh lặng là bàn tay hộ pháp yểm trợ cho lời nói của họ gây thế giá cho người nghe. Thinh lặng chẳng những là cái gì thiêng linh xung khắc với cái gì náo nhiệt, ồn ào, hấp tấp, dục tốc, đa ngôn, ba hoa, vụt chạc, liến thoắng, rối ren. Nó còn là một cái gì không làm cho người ta lẫn lộn nó với thứ im lặng vì ngu dốt, không có gì để nói, vì quê mùa, kém phong cách văn minh, lịch sự nên ngồi im như cây cột, hoặc vì non sức bật phản ứng mà ù lì biểu lộ một tướng mạo trì độn lúc xã giao. Điều này cũng nhắc ta nhớ có nhiều người trong giao tiếp, mới gặp ta thấy họ ít nói, ngồi nghe hơn nói, khiến ta phân vân về giá trị tinh thần và phẩm cách của họ. Nhưng bởi vì không phải họ im lặng bởi có đức thinh lặng, mà sở dĩ họ im hơi lặng tiếng là tại vì không có gì để nói, nếu không nói là họ trì độn. Đừng bao giờ lẫn lộn sự trì độn và đức thinh lặng. Đức thinh lặng được phân tích như trên ta có thể có do bẩm phú. Nhưng thường có do công phu luyện tập và có từ trường học của kinh nghiệm lọc lõi nơi trường đời. Thậm chí có người vì quảng kiến đa văn2 quá, vì am hiểu chuyện đời quá, mà trong nhiều tình huống họ thinh lặng nên “lười biếng nói”. Hoặc vì mê mệt tình đời quá mà họ thích làm thinh. Có lẽ mấy lần La Sơn Phu Tử từ chối lời mời hợp tác của Nguyễn Huệ và cuối cùng không chịu hợp tác với Nguyễn Ánh là cũng do ông quá ngao ngán thế thái nhân tình mà muốn “nói” với Sơn Thủy hơn là nói với nhân thế lắm tai nhiều miệng... Thinh lặng không phải giản đơn là một cái vỏ im lặng lấp đặt lên ngoại hình một con người. Sở dĩ nó có một giá trị tuyệt chiêu là do ở phía trong và phía sau, nó có một nhân cách được dệt bằng đức hạnh, thông minh và lịch thiệp. Tôi biên soạn cuốn sách này là cố ý giúp một số bạn trẻ tự trang bị một số yếu tố điều kiện đó của đức thinh lặng. Trong nhiều trường hợp cần biểu lộ tình cảm, tư tưởng, ý muốn của mình, bạn có thể nhờ đức thinh lặng “nói” thế giùm cho ba tấc lưỡi. Và bạn sẽ cảm nghiệm hiệu lực này: “Thinh lặng cũng là hùng biện”. Thân ái chào tạm biệt bạn. HOÀNG XUÂN VIỆT Vu Lan, 1995 *** Hoàng Xuân Việt – Người thầy đáng kính Trong đời luôn có những mối nhân duyên không thể nào quên. Với tôi, được biết thầy Hoàng Xuân Việt chính là một duyên lành mà tôi vô cùng trân quý. Thầy là một trong những người có ảnh hưởng rất lớn để có tôi của ngày hôm nay. Từ nhỏ tôi đã mơ ước trở thành một người dẫn chương trình nổi tiếng. Nhưng để đi đến thành công là một con đường dài, là cả quá trình không ngừng nỗ lực, kiên trì học tập, trau dồi cả về kiến thức lẫn kỹ năng. Sau những năm tháng học tập tại Nga, năm 1985 tôi trở về Việt Nam với bầu nhiệt huyết căng tràn, háo hức bắt tay gây dựng sự nghiệp, thực hiện ước mơ thuở nhỏ. Và thật may mắn cho tôi khi vào thời điểm quan trọng nhất đó tôi đã gặp được thầy Hoàng Xuân Việt và tiếp thu những tri thức về kỹ năng giao tiếp, hùng biện, những bài học giá trị để “nên thân với đời”. Tôi vẫn còn nhớ như in, đó là năm 2002, tại một triển lãm ở Công viên Tao Đàn, lần đầu tiên tôi gặp thầy Việt, một người đàn ông tầm thước với vầng trán cao rộng, toát lên khí chất của một vị học giả uyên bác nhưng giản dị và gần gũi vô cùng. Kể từ đó, với tư cách là khách mời, tôi thường xuyên cùng thầy tham gia các chương trình, những buổi giảng dạy, giao lưu mà thầy tổ chức ở trường của thầy - Trường Hán Nôm Học làm người Nguyễn Trãi và nhiều nơi khác. Tuy đến với tư cách là khách mời, nhưng tôi vẫn thích được nhắc đến là một học trò của thầy hơn, bởi quả thực tôi cũng là một trong những học viên tiếp nhận say sưa các kiến thức mà thầy truyền dạy. Khi đã trở thành một nghệ sĩ, một MC được người hâm mộ Việt Nam công nhận, yêu mến, tôi vẫn luôn giữ liên lạc thường xuyên với thầy. Mỗi lúc rảnh rỗi, hay khi trong cuộc sống có điều gì khó gỡ tôi lại tìm đến gặp và trò chuyện cùng thầy. Thầy luôn đón tiếp vui vẻ, đầy trìu mến và đưa ra nhiều lời khuyên hữu ích, không ngừng truyền động lực sống tốt đẹp cho tôi. Giờ thầy đã đi xa, tôi không còn được lui đến gặp thầy nữa, nhưng tôi luôn giữ trong tim mình hình ảnh người thầy đáng kính. Mỗi năm đến dịp giỗ thầy, tôi và một số người bạn đều là học trò cũ của thầy lại đến tư gia cùng ôn lại những kỷ niệm về quãng thời gian được học tập với thầy. Tôi kính trọng thầy Việt không chỉ vì thầy là một học giả uyên bác mà còn vì tấm lòng và tâm huyết mong muốn truyền dạy lại những lề luật, cột trụ để thành người. Ngoài viết sách, thầy dành cả đời mình để mở các khóa dạy, truyền đạt kinh nghiệm sống, các quy chuẩn đạo đức, những cách thức ứng xử sao cho văn minh, lịch thiệp... Ðáng quý lắm khi thầy xây dựng nên mô hình “trường học làm người” mở tại tư gia, dạy học viên không phân biệt đối tượng, độ tuổi. Thầy từng nói về việc “học nghề làm người” rằng: “Tất cả cho ta thấy rằng khai trí là một chuyện, đi tu là một chuyện, còn học nghề làm người quả thực là một chuyện khác. Theo các nhà tâm lý học “học nghề làm người” là khoa tâm lý áp dụng vào đời sống được điều khiển. Nó cũng gọi là khoa học của tinh thần vì tinh thần tượng trưng cho con người, là cái làm cho con người hãnh diện nhất trong các vật thụ tạo”. Và học làm người chưa bao giờ là dễ dàng: “Chắc chắn kết quả không như trở bàn tay vì là tâm lý học ứng dụng chứ không phải “ma thuật” hay một thứ phép mầu nào. Tuy nhiên nỗ lực của bạn sẽ an ủi bạn sau một thời gian vì bạn thấy con người bạn thay đổi, tự tri hơn, thành công hơn, thấy yêu đời và tận tụy giúp đời hơn”. Thời của chúng tôi, được học những kiến thức đó là điều quý giá lắm. Những bài học mà chúng tôi chưa được học trên ghế nhà trường chính thống, những bài học để chúng tôi hoàn thiện bản thân. Các bài giảng cùng hàng trăm đầu sách dạy làm người của thầy, đều được truyền đạt súc tích, dễ hiểu, không hề khuôn sáo, sách vở hay nặng về lý thuyết. Nhắc đến Tủ sách học làm người của thầy Việt, tôi nhớ đến những cái tên quen thuộc như Thất nhân tâm; Thuật hùng biện; Nên thân với đời; Rèn nhân cách; Đức tự chủ; Thinh lặng cũng là hùng biện; Tâm lý bạn trai; Tâm lý bạn gái... Sách vở ngày nay vô cùng nhưng tôi dám cả quyết rằng những tác phẩm của thầy Việt vẫn nguyên giá trị giáo dục, giá trị thời sự và chắc chắn sẽ giúp khai trí cho người trẻ, để họ hoàn thiện bản thân, có tương lai vững chắc, xán lạn. Khi biết Công ty Cổ phần Văn hóa Truyền thông Sống xuất bản lại một số đầu sách của thầy và liên hệ với tôi nhờ viết mấy dòng giới thiệu này, tôi rất vui mừng và cũng lấy làm hân hạnh. Mong các bạn đọc thời nay đón nhận và tự học được nhiều bài học quý giá từ bộ sách! — MC THANH BẠCH Mời các bạn đón đọc Thinh Lặng Cũng Là Hùng Biện của tác giả Hoàng Xuân Việt.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Tuổi Trẻ Đáng Giá Bao Nhiêu - Rosie Nguyễn
“Bạn hối tiếc vì không nắm bắt lấy một cơ hội nào đó, chẳng có ai phải mất ngủ. Bạn trải qua những ngày tháng nhạt nhẽo với công việc bạn căm ghét, người ta chẳng hề bận lòng. Bạn có chết mòn nơi xó tường với những ước mơ dang dở, đó không phải là việc của họ. Suy cho cùng, quyết định là ở bạn. Muốn có điều gì hay không là tùy bạn. Nên hãy làm những điều bạn thích. Hãy đi theo tiếng nói trái tim. Hãy sống theo cách bạn cho là mình nên sống. Vì sau tất cả, chẳng ai quan tâm.” “Tôi đã đọc quyển sách này một cách thích thú. Có nhiều kiến thức và kinh nghiệm hữu ích, những điều mới mẻ ngay cả với người gần trung niên như tôi. Tuổi trẻ đáng giá bao nhiêu? được tác giả chia làm 3 phần: HỌC, LÀM, ĐI. Nhưng tôi thấy cuốn sách còn thể hiện một phần thứ tư nữa, đó là ĐỌC. Hãy đọc sách, nếu bạn đọc sách một cách bền bỉ, sẽ đến lúc bạn bị thôi thúc không ngừng bởi ý muốn viết nên cuốn sách của riêng mình. Nếu tôi còn ở tuổi đôi mươi, hẳn là tôi sẽ đọc Tuổi trẻ đáng giá bao nhiêu? nhiều hơn một lần.” - Đặng Nguyễn Đông Vy, tác giả, nhà báo *** Những ngày tuổi trẻ tưởng dài rộng mênh mông nhưng kỳ thực lại rất hữu hạn, ngắn ngủi. Hãy học cách để biến tuổi trẻ của bạn thành vô giá. Rất nhiều người trẻ hiện nay không biết mình muốn gì, thích gì, đam mê của mình là gì, thường xuyên cảm thấy chán nản lạc lối. Đây cũng là lứa tuổi dễ rơi vào cái gọi là khủng hoảng tuổi đôi mươi. Cuốn sách Tuổi trẻ đáng giá bao nhiêu? sẽ gợi ý với bạn cách sử dụng một cách hữu ích quãng thời gian tuổi trẻ của mình để chuẩn bị hiệu quả cho cuộc sống tương lai và có một thời thanh xuân rực rỡ. Sách được viết ra từ chính thực tế của một người trẻ tuổi trong hành trình rèn luyện bản thân và gặp phải không ít khủng hoảng. Tuy nhiên, sau tất cả cô đã bứt phá, tìm được đam mê và toả sáng trên con đường lựa chọn của mình. “Bạn hối tiếc vì không nắm bắt lấy một cơ hội nào đó, chẳng có ai phải mất ngủ. Bạn trải qua những ngày tháng nhạt nhẽo với công việc bạn căm ghét, người ta chẳng hề bận lòng. Bạn có chết mòn nơi xó tường với những ước mơ dang dở, đó không phải là việc của họ. Suy cho cùng, quyết định là ở bạn. Muốn có điều gì hay không là tùy bạn. Nên hãy làm những điều bạn thích. Hãy đi theo tiếng nói trái tim. Hãy sống theo cách bạn cho là mình nên sống. Vì sau tất cả, chẳng ai quan tâm.” - Rosie Nguyễn viết trong Tuổi trẻ đáng giá bao nhiêu?. .... Mời các bạn đón đọc Tuổi Trẻ Đáng Giá Bao Nhiêu của tác giả Rosie Nguyễn.
Tổ Chức Gia Đình - Nguyễn Hiến Lê
Các cụ mất hồi đầu thế kỷ, bây giờ có sống lại mà đứng ở đường Lê Lợi tại Sài Gòn trong các giờ tan sở, chắc phải hoảng lên và la: - Có giặc cướp hay đám cháy nào thế này? Sao mà thiên hạ chạy tíu tít, vẻ mặt đăm đăm như vậy? Chỉ đứng độ năm phút, nhìn lớp sóng người qua lại, nghe tiếng chuông, tiếng còi, các cụ cũng đủ choáng váng và hồi hộp. Nếu các cụ lại sống chung với chúng ta một buổi sáng thôi, thấy chúng ta mới sáu giờ đã dậy tập thể dục, rửa mặt, tắm gội, hấp tấp bận quần áo, húp vội một ly sữa rồi bổ nhào ra ngoài phố, tới đầu đường, liệng một đồng bạc, giựt một số báo, leo lên ô-tô-buýt, tới 12 giờ rưỡi mới về, mặt bơ phờ, nuốt mấy miếng cơm rồi lăn ra ngủ, nếu các cụ thấy như vậy, thì các cụ tất mau mau từ biệt chúng ta để vào rừng ở, dầu chúng ta có đem hết thảy những tiện nghi, xảo diệu của khoa học để dụ dỗ, giữ các cụ ở lại, cũng luống công vô ích. Từ sau đại chiến thứ hai, đời sống chúng ta ồ ạt quá, gần như đời sống tại các kinh đô ở Âu Mỹ. Tám giờ sáng một ngày làm việc mà bạn thấy ai vơ vẩn ở bờ sông Sài Gòn, ngắm mây ngắm nước, tất bạn sẽ ngờ người đó muốn tìm chỗ trầm mình; gặp ai ung dung tản bộ, ngâm thơ trong một công viên, chắc bạn sẽ bĩu môi chê là “thi sĩ mơ mộng” nếu không nghĩ người đó mắc bệnh thần kinh, phải đưa vào nhà thương Biên Hoà. Chúng ta không còn quan niệm được thú nhàn của cổ nhân nữa. Mỗi ngày vẫn chỉ có 24 giờ mà công việc thì tăng lên biết bao nhiêu! Công việc tăng vì nhu cầu tăng. Ta không thể sống như Nhan Hồi với một giỏ cơm, một bầu nước; ta cũng không thể sống như một cụ đồ nho với vài manh áo kép và đơn. Nội khoản chi phí về sách báo của chúng ta đủ nuôi một gia đình hồi trước. Khi ta có thêm một nhu cầu, ta chẳng những mất thì giờ để thoả mãn nó, mà còn mất thì giờ kiếm tiền để có phương tiện thoả mãn nó nữa. Như nhu cầu hớt tóc chẳng hạn. Mỗi tuần hoặc nửa tháng ta phải bỏ ra nửa giờ để hớt tóc, lại phải làm việc thêm một chút để kiếm được 5-10 đồng trả công người thợ. Có khi một nhu cầu tạo ra ba bốn nhu cầu khác. Nhu cầu sẽ còn mỗi ngày một tăng thêm, không biết thế nào là cùng. Bạn thử tưởng tượng, như vậy đời chúng ta sẽ còn bận rộn biết bao nhiêu! Hiện nay, trong phần đông các gia đình, một người không còn kiếm tiền đủ để nuôi 5-6 người, có khi cả chục người như hồi xưa. Tại các châu thành lớn, nhiều gia đình chưa có con mà cả chồng lẫn vợ đã phải làm việc cực nhọc mới đủ ăn. Công việc nhà phải bỏ bê. Người nào có phước thì được mẹ già trông nom giùm. Mà kiếm được người ở bây giờ, không phải là việc dễ. Ông Tham ông Phán thời này đừng hy vọng gì nuôi một anh xe, một anh bếp, một vú già và một chị sen hoặc một anh bồi cho mỗi cô mỗi cậu nữa. Không ai ham cảnh “cơm thầy cơm cô” và trong xã hội, không thiếu gì công việc cho anh em lao động. Người ở đã khó kiếm lại khó giữ. Họ đã biết nhân phẩm, quyền lợi của họ: họ hiểu rằng về mặt pháp luật, họ bình đẳng với chủ nhân nên không chịu để chủ bóc lột, bắt làm việc quần quật từ sáng đến tối, tháng này qua tháng khác. Họ muốn nghỉ ngơi mỗi ngày vài giờ, mỗi tuần nửa ngày, mỗi năm dăm bảy ngày. Họ có lý và chỉ những kẻ lạc hậu mới không chịu cho họ những điều họ đòi hỏi ấy. Tóm lại, tình cảnh của phần đông các gia đình ở châu thành bây giờ như vầy: -     Công việc trong nhà rất nhiều. -     Thời giờ của người chủ thì ít. -     Mà người ở khó kiếm, không chịu làm nhiều giờ như hồi xưa. Có lẽ chẳng bao lâu nữa, người ở sẽ hiếm như ở Âu, Mỹ và những gia đình trung lưu chỉ còn cách mướn người chuyên môn mỗi ngày lại nhà làm một vài công việc nào đó trong một thời gian nhất định thôi 1. Trở lại thời trước đã không được mà than tiếc nó chỉ vô ích, nên ta phải kiếm cách thích nghi với thời đại. Thời đã mới, cách sống đã mới thì cách làm việc cũng phải mới. Ta phải biết tổ chức công việc trong nhà cũng như tổ chức công việc trong sở, trong hãng. Tình thế bắt buộc ta như vậy mà sự thế tất nhiên phải tới như vậy. Ở Mỹ, sau khi khoa học tổ chức đã được áp dụng trong kỹ nghệ, tức là có những người đem thực hành nó trong gia đình, mà người đầu tiên là ông F. Gilbreth. Sau ông, có bà Christiane Frederick, tác giả cuốn “Le Taylorisme chez soi”. Ở Pháp, ông H.L.Rumpf viết cuốn “L’organisation familiale” (Editions Drouin) cách đây 20 năm. Ngoài ra lại có những tạp chí như “Mamans, avec moins de fatigue” ... Tại nước nhà từ trước đã xuất bản nhiều cuốn về gia chánh, chỉ cách nấu ăn may vá... nhưng chưa có cuốn nào dạy cách tổ chức gia đình. Gần đây, trên tuần báo “Mới” trong mục “Kim chỉ nam của bà nội trợ”, bà Hoàng Thị Hạnh viết một loại bài về cách xếp đặt việc nhà, nhưng lời khuyên rời rạc, không thành một hệ thống và đọc xong, các bà nội trợ không học được tinh thần tổ chức. Mà chính tinh thần ấy mới là quan trọng hơn cả. Có nó, ta mới biết tổ chức trong mọi trường hợp và biến hoá cách làm việc cho hợp với hoàn cảnh. Thiếu nó, ta sẽ luýnh quýnh mỗi khi gặp một trường hợp không chỉ sẵn trong sách. Vì lẽ ấy, chúng tôi viết cuốn này để giảng rõ tinh thần đó, vạch những quy tắc quan trọng rồi dẫn nhiều ví dụ giúp độc giả biết cách thực hành. Tất nhiên là chúng tôi không dám múa rìu qua mắt thợ mà bàn cách luộc rau, kho cá, cắt áo thêu khăn... Chúng tôi không biết gì về những công việc đó. Chúng tôi chỉ chú trọng đến những phương pháp tiết kiệm thì giờ, tiền bạc và sức lực, mục đích là giúp cho bà nội trợ tổ chức gia đình sao cho mọi việc xong xuôi mà có thì giờ để nghỉ ngơi, tiêu khiển, chơi với trẻ hoặc học hỏi thêm, và may ra bớt được nhiều lo lắng về vấn đề tài chính chăng. Chúng tôi sẽ phải dùng ít nhiều danh từ còn lạ tai đối với phần đông độc giả mà chúng tôi sẽ ráng giảng giải một cách thông thường để những bà nội trợ nào ít học nhưng chịu suy nghĩ cũng có thế hiểu được. Sách chủ ý viết cho các bà nội trợ, nhưng chúng tôi tưởng các bạn trai đã lập gia đình cũng nên đọc nó. Phụ nữ có nhiều đức quý như lòng vị tha, đa cảm, đức kiên nhẫn, tự tin... nhưng thường theo trực giác mà không chịu luận lý, lại cố chấp, thiếu phương pháp. Vì vậy, nếu các ông chồng hiểu rõ những quy tắc trong cuốn này rồi giúp các bà vợ cùng nhau tổ chức việc nhà thì kết quả sẽ mau hơn và không khí trong gia đình cũng sẽ đầm ấm hơn. Chúng tôi vẫn biết đàn ông mà bàn về công việc nội trợ thì không khỏi mang cái tiếng việt vị. Nhưng chúng tôi nghĩ đã không dám lấn vào phạm vi gia chánh, tức may vá, nấu nướng, mà chỉ xét những quy tắc để tổ chức việc nhà, thì các bà các cô cũng không nỡ trách; nên chúng tôi không do dự chi nữa mà cho xuất bản cuốn này với mục đích duy nhất là giúp phụ nữ Việt Nam tập sống đời sống mới tức đời sống có tổ chức, tổ chức bản thân và tổ chức gia đình rồi sau cùng tổ chức xã hội. Long Xuyên ngày 15-2-1953 Mời các bạn đón đọc Tổ Chức Gia Đình của tác giả Nguyễn Hiến Lê.
Khả Năng Cải Thiện Nghịch Cảnh - Nassim Nicholas Taleb
Trong Khả năng cải thiện nghịch cảnh, Taleb khẳng định vai trò quan trọng của tính bất định, làm cho nó trở nên đáng mong đợi, thậm chí cần thiết, và đề xuất rằng sự việc nên được xây dựng sao cho có khả năng cải thiện nghịch cảnh. Khả năng cải thiện nghịch cảnh không chỉ là sự mạnh mẽ hay khả năng phục hồi. Khả năng phục hồi chỉ có thể chịu đựng những cú sốc và trở về nguyên trạng; trong khi khả năng cải thiện nghịch cảnh nghĩa là trở nên ngày càng tốt hơn. Quyển sách này bao trùm vấn đề phát minh đổi mới thông qua thử nghiệm và sửa sai, các quyết định trong đời sống, chính trị, quy hoạch đô thị, chiến tranh, tài chính cá nhân, các hệ thống kinh tế, và y khoa. *** Nassim Nicholas Taleb sinh năm 1960 tại Liban, là một nhà viết tiểu luận, học giả, nhà thống kê. The Black Swan (Thiên Nga Đen)là cuốn sách nổi tiếng của ông ra đời năm 2007.   Mời các bạn đón đọc Khả Năng Cải Thiện Nghịch Cảnh của tác giả Nassim Nicholas Taleb.
Thông Điệp Yêu Thương - Luôn Mỉm Cười Với Cuộc Sống - Nhã Nam tuyển chọn
Bộ sách Thông điệp yêu thương lan truyền những cảm hứng về cuộc sống, về tình yêu, tình bạn, tình cảm gia đình, tình thầy trò… thông qua những mẩu chuyện, những câu nói giúp bạn sống lạc quan, yêu đời, hạnh phúc và thành công hơn. Hi vọng mỗi cuốn sách sẽ là quà tặng ý nghĩa, là người bạn đồng hành cùng bạn đọc trong cuộc sống. Cuốn sách Luôn mỉm cười với cuộc sống gồm những câu văn, câu chuyện ngắn đầy yêu thương giúp bạn thật sự lạc quan trong cuộc sống dù cuộc sống của bạn không ngừng với những bộn bề lo toan… Mời các bạn đón đọc Thông Điệp Yêu Thương - Luôn Mỉm Cười Với Cuộc Sống của tác giả Nhã Nam tuyển chọn.