Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Bàn Tay Kẻ Lạ Mặt

ROBERT DALEY BÀN TAY KẺ LẠ MẶT Người dịch: Nguyễn Đắc Lộ NHÀ XUẤT BẢN TỔNG HỢP KHÁNH HÒA - 1990 Dịch từ nguyên bản tiếng Anh Hands of a Stranger (Robert Daley) NXB New American Library (Signet Book) 1986, Nguồn sách: @quang3456 Chụp ảnh, pdf, OCR: 4DHN Cuộc đấu tranh để ngăn chặn, chống những tệ nạn xã hội là một trong những trận tuyến thầm lặng nhung không kém phân gay go, quyết liệt và nhiều khi trở thành nóng bỏng đối với nhiều nước trên thế giới hiện nay, đặc biệt là ở những nước tư bản phát triển, khi lối sống thực dụng lan trần, con nguôi chỉ biết chạy theo đồng tiền và những dục vọng thấp hèn, bất chấp mọi luật pháp và những nên tảng dạo đức xã hội. Thống qua tắn bi kịch của một gia dinh, tiểu thuyết “Bàn tay kè lạ mặt” của Robert Daley tuy chỉ đề cập dến một trong những loại hình tội phạm dang làm nhức nhối trong lòng xã hội Mỹ đương đại: tội hiếp dâm, nhung với lối viết chân thực, rất tỉ mi, cụ thể mà có tầm khái quát cao của mình, ngòi bút của ông đã vẽ nên một bối cảnh xã hội rộng lớn của xã hội Mỹ hiện nay: con người được sống với những diều kiện vật chất cao hơn, nhung khi nền tảng đạo đức xã hội bị phá vỡ, con người càng có nguy cơ trở nên tàn ác, tha hóa, thú vật với nhau hơn và tội ác càng cố sức công phá lớn, khó ngăn chặn hơn khi nó tận dụng được những phương tiện khoa học hiện đại phục vụ cho nó. Với một đề tài hấp dẫn nhung thật khó viết vì rất dễ có nguy cơ roi vào dung tục, khiêu dâm, chạy theo những thị hiếu tầm thường, Robert Daley dã thành công và tỏ ra là một cây bút có bản lĩnh. Cuốn sách của ông được đánh giá cao, trờ thành một hiện tượng văn học trong thập niên 80 ở Mỹ. Nhiều nhà phè bình nôi tiếng khẳng định giá trị nghệ thuật, tính chân thực và bức thống điệp nóng bỏng mà ông gửi dến cho mọi người về những mối de dọa của tội ác với cuộc sống và hạnh phúc của con người Trân trọng giới thiệu “Bàn tay kẻ lạ mặt”với bạn đọc. *** Nạn nhân bị xâm phạm đầu tiên sáng hôm ấy là một cô gái da đen mười chín tuổi. Người thứ nhì là một bà nội trợ da trắng ba mươi tám tuổi. Phụ tá chưởng lý quận Judith Adler không làm được gì đáng kể cho bất kỳ vụ nào. Cô gái da đen được một nữ thám tử đưa vào và được chỉ vào một chiếc ghế đối diện với bàn giấy. Viên thám tử trao tập hồ sơ vụ án của cô gái rồi ngồi dựa vào tường, một tập giấy vàng trên váy cô, chiếc ví tay nặng của cô đặt trên sàn nhà ngay bên cạnh. Judith Adler, sau khi nhìn lướt qua tập hồ sơ, thấy rằng nạn nhân tên là Bianca, người đã bị sáu người đàn ông “bề hội đồng” hôm qua, cô ta không hề biết mặt những tên hãm hiếp trước đó. Chẳng tên nào được gọi đích danh và cô ta chỉ có thể mô tả chúng là sáu “anh chàng da đen” thôi. Sự mô tả không làm Judith mỉm cười được. “Bianca, sáng nay cô thế nào?” Nàng ngẩng đầu lên hỏi: “Cô không sao chứ?” Nàng cố hết sức thật ôn tồn và thông cảm vì, xét theo tập hồ sơ, sự thông cảm hoàn toàn là sự công bình mà nạn nhân này hình như muốn có được. Bianca cám ơn, nói rằng cô ta khỏe và hình như sự thật là như thế. Ở vào trường hợp của cô thì một nữ sinh viên khác ở Park Avenue - Judith đã đối phó với nhiều người như thế - chắc sẽ cứng đờ người ra. Bianca mặc quần Jeans và giầy cổ cao, mấy chiếc móng chân màu đỏ tươi ló ra ngoài. Khuôn mặt rất trẻ, nước da rất đen. Cô tô son đỏ tươi và mặc một chiếc áo cánh cũng đỏ tươi. Với tiêu chuẩn trong thế giới riêng của cô, có lẽ ăn mặc như thế là thanh lịch. Judith định nói ai nhỉ? Bản thân nàng mặc một bộ đồ xanh lục bên ngoài một chiếc áo cánh lụa. Nạn nhân bị hãm hiếp kiên nhẫn chờ đợi. Theo tập hồ sơ sự vụ, hiện trường là một khách sạn phúc lợi tại Harlem. Địa điểm này quen thuộc đối với Judith. Công việc của nàng là phải biết những điều như thế. “Đấy chẳng phải là một khách sạn tốt” - nàng chê trách như thể chính khách sạn phải chịu trách nhiệm vì nếu không thì tội ác đối với Bianca không thể nào hiểu được. - “Rất nhiều gái điếm ở đây”. Bianca không có công việc làm, không có địa chỉ nhất định nào cả. Tuần qua cô ta đã di chuyển từ một căn nhà công cộng đến khách sạn phúc lợi và nàng biết rõ phải ngủ với quần áo đầy đủ kể cả đôi giầy vì sợ rằng sáng ra mọi thứ nàng có đều bị ăn cắp. Một người đàn bà tên Maria - không có họ - cũng sống ở đấy và trở thành bạn gái của cô ta. Nhưng Maria có chồng, dù theo luật lệ chung hoặc là chồng thật sự -cũng không thành vấn đề và một buổi sáng anh chồng này khoác lác rằng đã làm tình với Bianca ở phòng bên trong đêm. “Hắn bảo Maria rằng cô đã mút “của” hắn. Và cô có làm thế không Bianca?” Vai trò của nàng cho phép nàng có quyền nêu lên những câu hỏi như thế. Tuy nhiên một số những câu hỏi mà nàng sẽ hỏi sau đây sẽ còn có tính cách riêng tư hơn nữa. “Tôi chẳng thèm làm tình với bất kỳ ai mà tôi vừa gặp mặt cả”. Bianca phản đối. “Tôi nghĩ rằng tôi không chịu nói về việc ấy”. Câu này được nói lên thật trịnh trọng đến nỗi Judith, dù nàng chỉ gật đầu thôi, muốn hoan hô cô. Đối với Judith, sự tự trọng và lòng can đảm đều như nhau. Cả hai đều hiếm, đáng ca ngợi, và trong trường hợp một người mà viễn ảnh của cuộc sống thật tàn nhẫn như cuộc sống của Bianca, nó hoàn toàn bất ngờ. Maria đã ra đường phố thu thập một số đàn ông. Ả đã tìm thấy họ nằm uể oải nơi hiên trước và thơ thẩn ở các góc đường dưới ánh đèn. Ả đã thu thập được sáu kẻ thơ thẩn và đưa họ lên lầu. Tuổi họ từ vị thành niên cho đến năm mươi! “Tao sẽ làm mày tổn thương vì điều mày đã làm với chồng tao”. Ả đã bảo Bianca như thế và cho họ tấn công cô ta. Như mọi tội ác khác, hiếp dâm được phân hạng. Trường hợp hiếp dâm này, Judith Adler thấy, là một sự hiếp dâm để trả thù. Hiếp dâm để gỡ hòa. Hiếp dâm để trừng phạt. Tất cả sáu người đàn ông đều đã hãm hiếp Bianca. Chúng đã thực hiện nhiều lần và kéo dài theo khả năng của chúng. Chúng đã hãm hiếp cô ta cả phía trước lẫn phía sau và khi khả năng hoặc sự hăng hái của chúng hoặc bất kỳ thứ gì đã duy trì được hành động của chúng cuối cùng cạn đi, chúng bắt đầu hãm hiếp cô ta bằng các đồ vật. Thực là may, Judith suy nghĩ, vì chúng không chủ tâm giết cô ta. Nhiều cô gái trong các trường hợp tương tự đã xuất huyết đến chết. Công tác đầu tiên của nàng là đưa ra một sự mô tả chính xác của chính các hành động - cái gì và do ai. Những câu hỏi của nàng minh bạch và nàng đòi hỏi các câu trả lời cũng minh bạch. Nhưng giọng nói của nàng vẫn đều đều vì công tác của nàng không cho phép nàng bày tỏ cảm xúc và đôi khi nàng còn tự hỏi xem nàng có còn cảm thấy sự xúc động nào không nữa. Nàng đã không muốn trở thành chai đá. Mình là một người đàn bà, thỉnh thoảng nàng đã tự nhắc nhở lại như thế. Mình không phải là đàn ông. Nếu so sánh những sự xúc phạm mà người nghèo khổ gây ra cho nhau, đôi khi sẽ làm cho người giàu có có vẻ thánh thiện. Cộng thêm vào việc Maria đã hành động với tư cách giám sát và bản thân những kẻ hãm hiếp, rõ ràng là căn phòng đã đầy dẫy các quan sát viên, và Judith bắt đầu cố gắng thu thập những cái tên mà Bianca biết, không may những cái tên này đều không có họ. Dĩ nhiên, có Maria và chồng ả, Willis. “Willis có hãm hiếp cô không?” “Willis à, hắn là trọng tài đấy”. Silvia, không có họ, được mô tả là “có giọng thanh hơn tôi” đôi ba lần, khóc lóc thảm hại như Bianca và van xin các tên cưỡng hiếp buông Bianca ra. Tiny, được Bianca mô tả là “một người đàn ông mập với một mùi mồ hôi rất nồng”, đã quan sát với ngón tay cái đưa lên miệng. Judith ý thức rằng sự mô tả này có vẻ buồn cười trong lúc kể lại. Có lẽ điều ấy còn có vẻ buồn cười ngay cả trong một phòng xử án nữa. Nhưng đối với nàng nó chẳng có vẻ gì là buồn cười cả. “Cô phải tránh xa khách sạn ấy ra”, Judith ngẩng lên từ những điều ghi chú của nàng và khuyên cô gái. “Vì nếu họ hiểu được cô đã đến với tôi, họ có thể tìm cách hãm hại cô đấy”. Hãm hại cô ta à? Có lẽ họ sẽ giết cô ta đấy. Judith ghi số điện thoại và đẩy nó qua bàn giấy. “Đây là nhà và số văn phòng của tôi” - nàng giải thích. “Nếu cô đánh mất, tôi vẫn còn trong sổ sách. Nếu cô trông thấy bất kỳ ai trong số những người này, nếu có ai quấy rầy cô, tôi muốn cô gọi tôi ngay. Cô hiểu không? Hãy gọi tôi bất kỳ giờ nào bất luận ngày hoặc đêm”. Khi nữ thám tử đưa Bianca ra khỏi văn phòng, phụ tá chưởng lý quận Adler gấp tập hồ sơ, nhưng không bỏ vụ án lại. Dù rằng chẳng có gì nhiều để tiếp tục, nàng quyết định dù sao cũng phải theo đuổi nó. Nàng định đưa hai thám tử da đen đến khách sạn. Nếu Maria, Tiny hoặc Silvia vẫn còn đấy có thể bị nhận diện, và nếu Bianca tìm được địa chỉ và nhớ gọi đến, lúc ấy, có lẽ có thể sắp xếp được một hồ sơ, các sự bắt giữ sẽ được thực hiện. Maria và Willis, khi bị bắt có thể khai ra tên tuổi các tên hãm hiếp. Có lẽ thế mới có thể mong xét xử được. Có quá nhiều chữ “nếu”. Và nàng sẽ lấy đâu ra các thám tử nhỉ? Các chỉ huy trưởng cảnh sát không muốn đưa người ra cho những vụ án ưu tiên thấp như vụ này. Nàng sẽ tán tỉnh nhiều đấy. Vụ án tiếp theo hơi khá hơn. Bà nội trợ người da trắng ba mươi tám tuổi cũng ngồi vào cùng chiếc ghế như Bianca. Có một vết xây xát phía trên gò má bà ta và những vết khâu đen nơi khóe miệng. Bà cố gắng nở một nụ cười thê lương, dường như lúng túng vì đã gây ra nhiều sự phiền nhiễu, và nụ cười này có vẻ rộng một phân về một bên khuôn mặt bà ta hơn phía bên kia. Bà ta trông không xấu quá, Judith nghĩ như thế. Không như một số người mình đã gặp. Những người mà chỉ có những kẻ điên rồ thực sự mới tấn công. Bà nội trợ đã bị ve vãn trong lúc đang thả bộ tại Công viên Trung ương. Bà ta đã bị lôi vào bụi và bị hãm hiếp. Bà ta đã la hét nhưng chẳng ai đến cả. Bà ta đã được xem các quyển album của những kẻ thường hay tấn công về tình dục, nhưng chẳng thể nào chỉ ra được kẻ nào đã tấn công mình. “Bọn hiếp dâm là những tên tái phạm”. Judith Adler bảo bà ta. Lần sau hắn có thể bị bắt và chúng tôi sẽ mời bà xuống và bà cố gắng chỉ ra hắn. Hình như chẳng có gì nhiều cho người đàn bà để đổi lại những gì bà ta phải chịu. Khi viên nữ thám tử đã dẫn bà ta ra, ông Katz bước vào với một tờ giấy ghi lại các cú điện thoại. Ông Katz là thư ký của nàng, một người đàn ông trạc lục tuần đội một chòm tóc giả không thích hợp. Ông ta đã đến làm việc đầu tiên tại văn phòng luật sư quận từ hơn ba mươi năm trước. Trong những ngày ấy, mọi người kể cả các thư ký, đều phải là đàn ông. Vào lúc Judith Adler tốt nghiệp trường luật - chỉ độ một chục năm trước thôi - vẫn chỉ có sáu người phụ nữ trong một ban nhân viên gồm trên hai trăm công tố viên, nhưng họ không được giao vụ nào để khởi tố cả. Dĩ nhiên bây giờ không phải kiểu như thế. Khi xin việc tại đây, Judith còn trẻ, mặt non choẹt và nhiệt tình, và viên chưởng lý quận lúc ấy, một ông già tao nhã, không muốn thu nhận nàng. Nàng vẫn còn nhớ rõ chiếc áo nàng đã mặc ngày ấy, nàng đã cố gắng thật đẹp để làm cho nàng trông được mắt ông già. “Công việc của chúng tôi quá hào nhoáng đối với một phụ nữ trẻ”, ông đã bảo nàng như thế. Nàng đã tranh luận, thuyết phục và nài nỉ. Cuối cùng, hình như trái với lương tri của ông, ông đã nhận nàng. Ông già có lý, bây giờ Judith nghĩ lại. Nó hào nhoáng - còn hào nhoáng hơn cả bất kỳ ai bên ngoài có thể đoán được. Một trong những câu nhắn trên điện thoại, ông Katz bảo, có vẻ đặc biệt, và ông trao nó cho nàng: một đại úy thuộc cảnh sát tiểu bang New Jersey đã gọi: “Ông ta chỉ muốn đích thân nói chuyện với bà thôi. Ông ta bảo rằng có việc khẩn cấp”. Phụ tá chưởng lý quận Adler, với một đầu óc nặng trĩu vì những người đàn bà bị bạo hành, muốn có một sự thay đổi, bất kỳ sự thay đổi nào, dù chỉ là thoảng qua, nên nàng lật qua bức điện khẩn và tò mò. “New Jersey à?” “Hãy gọi điện thoại cho ông ấy”, nàng bảo Katz. Ông ta gật đầu và đi ra. Khi nút trên điện thoại của nàng bật sáng, nàng đập vào nó. “A lô”, nàng gọi. Nghe giọng phụ nữ ở đầu dây, người đàn ông ở đầu kia không chấp nhận. Ông ta chỉ nói chuyện với chính phụ tá chưởng lý quận hiện tại, ông ta nhấn mạnh. “Đây là người ấy đấy”, Judith bực mình nghĩ. Rõ ràng là viên cảnh sát đã mong được nói chuyện với một người đàn ông. Ít năm trước, có lẽ ông ta cũng nói như thế; giờ đây, Judith ghi nhận một lần nữa, những người như thế, chỉ đối xử với nàng bằng một sự im lặng hơi kéo dài thôi. “Tôi là đại úy Sample”, giọng đàn ông cuối cùng lên tiếng. “Bà có thể ra khỏi chỗ đấy không? Chúng tôi có điều quan trọng để thảo luận với bà”. Và ông ta đợi. “Tốt hơn ông nên tường trình cho tôi đi”, Judith nói. Sau khi đã mất hứng thú nơi đại úy Sample, nàng bắt đầu lật qua các bức điện khác. Các luật sư cho các bị cáo, ủy viên công tố trừng phạt rắc rối với một tù nhân, có lẽ thế. Văn phòng thị trưởng. Chánh án hành pháp. “Tôi không muốn nêu vấn đề ấy ra trên điện thoại”, đại úy Sample nói. Câu này cũng làm Judith bực mình. Các cảnh sát viên về một vụ án thích cho là mọi đường dây điện thoại của họ đều bị nghe lén cả. “Tôi hơi bận,” nàng đáp cộc lốc. “Nếu ông muốn đến đây, tôi có thể cho ông một cuộc hẹn vào ngày mai hoặc ngày kia”. Sample cố gắng buông một tiếng cười trấn an. “Tôi không nghĩ rằng tôi có thể tìm ra văn phòng của bà. Bà sẽ phải đưa một chiếc xe cảnh sát đến đầu đường hầm để đưa tôi vào đấy.” Judith quả quyết “Nếu không…” Có một sự im lặng khác trong lúc lời đe dọa của nàng về đến đích. Cuối cùng Sample thở dài. “Hai người đàn ông định buộc cô gái trẻ này vào một chiếc xe” ông ta nói. Ông ta có một giọng nói khàn khàn và một âm điệu cứng. “Và một người của tôi ngẫu nhiên lái xe ngang qua, thế đấy. Chúng tôi bắt hai thủ phạm, và trong cốp xe của họ, bà biết chúng tôi đã tìm ra thứ gì không?” Judith đã quyết định sẽ gọi chánh án hành pháp ngay sau đó. Một vấn đề thuộc thời khóa biểu, nàng đoán như thế. Điều ấy có thể thương lượng trên điện thoại. “Tôi không biết”, nàng nói với đại úy Sample, “ông đã tìm ra điều gì thế?” “10 kilo hasit”, ông ta nói với vẻ đắc thắng. “Hay đấy”, Judith nói. Kế đấy nàng phải dự hai buổi thuyết trình pháp đình, buổi đầu tiên còn năm phút nữa - và trên tầng mười lăm. Sample, như hầu hết các cảnh sát viên của các thành phố nhỏ, bị hăm dọa một cách dễ dàng. “Tôi biết điều ấy không có vẻ gì là nhiều tại New York đâu”. “Ma túy không phải phần hành của tôi”, Judith nói. Nàng không muốn làm tổn thương cảm tình của Sample nhưng tốt nhất nàng nên cắt gọn vấn đề này. “Và New Jersey ngoài quyền xử lý của tôi.” “Chúng tôi có một tờ lệnh xét nhà họ”, Sample vội nói, “và bà nghĩ chúng tôi đã tìm được thứ gì nhỉ?” Lần này ông ta không chờ câu trả lời. “Độ hơn hai mươi cuộn video cassette về các cuộc hiếp dâm hiện nay. Các cô gái trẻ. Các cô người mẫu. Các cô thỏ Playboy. Các cô gái trẻ đẹp”. Giọng ông ta nghe như một cô quảng cáo trình diễn thoát y. “Nhưng các cuộc hiếp dâm đều xảy ra tại New York. Tôi muốn bà ra khỏi đây và nhìn qua các cuộn băng. Bà có định đến không?” Judith thôi lật các tờ giấy ghi lại những cú điện thoại của nàng. “Vụ án ma túy cũng có thể đưa về lại đây nữa”, Sample nói, ông ta cố gắng làm cho ngọt miếng mồi. Ông ta là một viên cảnh sát của một thành phố nhỏ đang có trong tay một vụ án hiếp dâm lớn, Judith nghĩ, ông ta không biết phải đối phó như thế nào với nó, ông ta đang cầu xin sự giúp đỡ. Rồi nàng nghĩ: ông ta chỉ hứng thú vì các nạn nhân đều hấp dẫn. Điều này làm phật ý nàng. Trong lúc các nguyên nhân lướt qua, điều ấy gây khó chịu. Giả sử các nạn nhân đều là các bà già thì sao? Các bà già cũng bị hãm hiếp nữa, nàng muốn bảo Sample như thế. Các bà nội thường đến đấy, nàng nghĩ thế. Họ không còn tự xem mình là đối tượng tình dục, đã nhiều năm rồi và sự xúc động chính của họ trong lúc họ kể lại câu chuyện của họ, trong lúc mô tả điều bọn đàn ông đã làm với họ là sự sợ hãi rằng mình sẽ cười. “Vậy bà định đến không?” Sample bảo. Giọng ông ta có vẻ nài nỉ. Điều ấy rất yếu vì những người mạnh bạo, những viên cảnh sát mạnh bạo, bất kỳ giá nào đều không nài nỉ - hoặc Judith cho rằng như thế. Nhưng điều ấy vẫn có và nàng hiểu được. Mình nên suy nghĩ điều này ít phút trước khi chối từ. Nàng tự nhủ. Mình nợ ông ta nhiều như thế đấy. “Để tôi xem người ta có gì cho tôi ở đây đã”, nàng nói. “Tôi sẽ trở lại với ông sau”. Trong lúc nàng đi vội lên tầng 15, chuyện ấy vẫn bám theo nàng. Buổi đầu tiên trong hai buổi nghe thuyết trình của nàng liên quan đến một tay thanh niên làm việc lặt vặt rất mập, đầu óc chậm chạp ngụ trong một tòa nhà ở phía tây. Ba tuần trước, vì một lý do chẳng ai xác định được là gì, hắn đã hiếp dâm một bà chủ nhà với một con dao để uy hiếp. Khi hắn không duy trì được tình trạng cương cứng, hắn bắt đầu đâm bà ta. Sau đấy tên thanh niên đi đến chỗ mẹ hắn và đưa cho bà mớ quần áo vấy máu của hắn để giặt. Bà đã gọi cảnh sát. Bây giờ luật sư của hắn cố gắng giữ hắn trong phòng bệnh tâm thần, cách ly các tù nhân thông thường với lý do rằng hắn tròn trĩnh và mềm như bất kỳ phụ nữ nào và đúng là không tự bảo vệ được về phương diện thể chất. Mỉa mai trên cả các sự mỉa mai: trong tù hắn sẽ bị hiếp dâm. Judith khăng khăng đòi các điều luật thích hợp. Nếu không nàng không phản đối gì cả. Buổi thuyết trình thứ nhì trong một phòng xử án bên cạnh, liên quan đến một người đàn ông da đen trung niên, lực lưỡng, vừa mới ra tù chỉ có ba tuần lễ. Không có tiền bạc và nghề nghiệp gì cả, duy nhất chỉ có bộ quần áo mà hắn vẫn còn mặc ở tòa án ngày hôm nay, cộng với nhiều cái đói khác nhau của hắn, hắn được thả lỏng trên xã hội. Trong hai tuần lễ tự do, hắn đã hãm hiếp hai người lạ trong hành lang của các tòa nhà. Cả hai đều giống những cuộc hiếp dâm trong tù - những cuộc đương đầu nhanh, tàn bạo rõ ràng là loại tình dục duy nhất mà người này biết hoặc có thể cảm thấy thoải mái. Bây giờ bị cáo lơ đễnh nhìn lên mặt bàn trong lúc luật sư của hắn nói với thẩm phán rằng quyền công dân của thân chủ ông ta đã bị xâm phạm, bắt giữ hắn là trái luật. Viên sĩ quan bắt giữ đã thiếu lý do có thể có được và hồ sơ mà cả hai nạn nhân đã tố giác thân chủ của ông đã được sắp xếp một cách không thích đáng. Đây là một trong nhiều vụ hãm hiếp chưa giải quyết mà chi tiết Judith còn đang mang trong đầu. Trước tòa nàng tranh luận rằng, trái lại, vụ án này tiêu biểu cho công việc có tính nguyên tắc cao nhất của cảnh sát và nàng giải thích rõ tại sao. Rồi nàng đưa chàng sĩ quan hình sự trẻ lên bục. Đầu tiên nàng chất vấn anh ta, rồi viên luật sư thẩm vấn chàng thật gắt gao. Hầu như đây là một cuộc xét xử đại qui mô, chỉ thiếu có bồi thẩm và tuyên án thôi. “Thưa quí tòa”, viên luật sư kết luận, “thân chủ của tôi bị bắt chỉ vì ông ấy là một người da đen trong một vùng phụ cận da trắng. Việc ông ấy bị bắt nặng mùi ngất trời. Tôi muốn nôn ra đây”. Chánh án giữ lại quyết định, điều đó ngầm bảo rằng ông ta có thể có quyết định cuối cùng là ra lệnh phóng thích bị cáo. Điều này xảy ra quá thường. Judith có lẽ cũng phải sốt ruột vì vụ án này và nàng đã thường sốt ruột chờ đợi rất nhiều rồi. Trong lúc ấy, bị cáo lại bị còng tay chỉ đứng cách nàng không đầy mười foot. Nếu một người là một tên hiếp dâm, nàng nghĩ trong lúc quan sát hắn, điều ấy phải được rõ ràng. Người ta có thể đoán ra được bằng cách nhìn hắn. Nhưng chẳng có gì lộ ra cả. Các tên hiếp dâm trông cũng chẳng khác gì người khác. Các tên sát nhân cũng thế. Điều ác không thể nhận ra bằng một cái liếc mắt được. Đây là lý do khiến chúng ta có hai phòng xử. Đấy là một cách tốt nhất mà chúng ra có thể làm được. Chàng cảnh sát trẻ đứng bên cạnh nàng. “Viên luật sư ấy”, viên cảnh sát cố ý nói, “ông ta cừ đấy, đúng không?” Chính những luật sư như thế đã đầu độc hầu hết các cảnh sát viên chống lại nghề nghiệp của nàng, và Judith biết điều này. Nhưng nàng không có ý định nào để phỉ báng các luật sư - bất kỳ luật sư nào - trước mặt các cảnh sát viên, nên nàng mỉm cười với viên cảnh sát, bắt tay anh ta và anh ta bỏ đi. Nàng còn một công việc nữa để làm trên tầng này nên nàng bước qua hai cánh cửa, đi dọc theo hành lang và bước vào một phòng xử ở đó một cuộc xử án đang tiến hành. Mặc dầu chỗ ngồi đều chật ních - bồi thẩm, chánh án, ban bào chữa, công tố, tốc ký, một số lính canh phòng xử có vũ trang - khu vực dành riêng cho người dự thính hầu như trống rỗng. Bao nhiêu là ghế mà chỉ có nàng và ba người khác. Có lẽ là một cuộc xử giả hiệu. Trong những căn phòng như thế này trên khắp đất nước, nền dân chủ được bênh vực từ ngày này sang ngày khác. Báo chí và các công dân, trừ trong một số ít vụ án nổi bật, chẳng chú ý gì cả. Chẳng lạ gì, nàng nghĩ, vì sao hệ thống làm việc không khá hơn mấy. Nàng chiếm một chiếc ghế gần cánh cửa nàng vừa bước vào và đặt hai tập hồ sơ nặng trên chiếc ghế bên cạnh. Công tố viên là chàng thanh niên Benjamin Goldberg. Chàng đang thẩm vấn một nữ nhân chứng trên bục, nhưng khi chàng nhìn lên và trông thấy Judith, chàng tặng nàng một nụ cười ngắn. Chàng trông có vẻ hài lòng vì nàng đã lên. Benjy vừa tốt nghiệp trường luật và mới hai mươi bốn tuổi. Chàng là công tố viên trẻ nhất ở ban của nàng. Nhưng họ đều còn trẻ cả - người lớn tuổi nhất trẻ hơn Judith nhiều. Họ hưởng lương kém, nhiệt tình, siêng năng và so với các luật sư bào chữa mà họ đương đầu, họ thiếu kinh nghiệm một cách thảm hại. Trong những phòng xử trống rỗng như thế này, sự có mặt của Judith chứng tỏ cho Benjy và những người khác thấy rằng lãnh đạo quan tâm đến - rằng có ai đấy quan tâm đến là điều quan trọng. Vụ án ở đây liên quan đến chuyện hiếp dâm bằng hậu môn của một cậu bé năm tuổi do một tên đốn mạt năm mươi hai tuổi ở vùng phụ cận, một người đàn ông có một tiền án hai mươi hai năm về tội tình dục. Người đàn bà trên bục chắc là người mẹ. Benjy xử sự với nàng gần như mỗi ngày một khá hơn. Không như nhiều công tố viên trẻ, chàng là một người có năng khiếu tự nhiên. Chàng sẽ trở thành một luật sư tòa án thành công. Chẳng còn gì nhiều để nàng có thể góp ý cho chàng, vấn đề duy nhất của chàng sẽ là chính bản thân đứa bé. Đứa bé năm tuổi có còn nhớ điều đã xảy ra với nó không? Judith đã đưa ra xử càng sớm càng tốt. Tuy nhiên, vấn đề ấy phải mất sáu tháng, đứa bé có chỉ được kẻ tấn công nó không, hay tên đốn mạt sẽ lại tự do. Và sẽ tấn công một cậu bé nào đấy vào ngày mai hoặc tuần sau? Trong lúc đứng trong thang máy xuống văn phòng của nàng, Judith cảm thấy bực dọc. Nàng thấy luật chỉ là điều không hoàn hảo, vô hiệu và hầu như lúc nào cũng hoàn toàn không có hiệu quả dù rằng đấy là tất cả những gì nền văn minh có được. Yêu luật, và nàng quả tình yêu nó, như yêu một người không yêu mình. Cuộc đời nàng chỉ qua được một nửa thôi. Cuộc đời của nàng có lẽ mới một nửa - nàng ba mươi bảy tuổi - và nàng đã hoàn thành được gì? Điều nàng cần thật sự, nàng tự nhủ, là một lúc nào đó được rời bỏ văn phòng và ngay cả rời bỏ thành phố, không bận bịu những việc ở đây. Một buổi chiều một mình ở vùng quê bắt đầu làm cho nàng cảm thấy là một thú vui hiếm hoi nhất của cuộc đời. Khi nàng bước vào phòng trước của nàng, ông Katz đưa thêm cho nàng một số lời nhắn trên điện thoại. Chẳng có cái nào khẩn cấp cả, ông bảo. Judith, với hai hồ sơ vụ án kẹp dưới cánh tay, lật qua các bức điện, nhưng trí óc nàng để ở nơi khác. Nàng đang nghĩ đến cú điện thoại của cảnh sát tiểu bang New Jersey. Tại sao nàng không đến đấy trong một giờ và giúp đại úy Sample về những vụ án hiếp dâm mà ông ta nắm được nhỉ? Đấy là một chuyến đi có lý. Có một loạt cửa hàng mua sắm trên đường số 17. Ngoài ấy sẽ có ao hồ, rừng và không khí trong lành để thở. Nàng bỗng bảo ông Katz điện thoại cho Sample xin hướng dẫn. Hôm nay là thứ ba. Ông ta hẹn nàng vào chiều thứ năm. Nàng có nên đi một mình không, nàng tự hỏi, hoặc nên nhờ một cảnh sát trưởng cùng đi với nàng? Nếu thế thì ai đây? Về chiều, các cuộc xét xử đình lại. Tòa án đã kết thúc ngày làm việc. Các bồi thẩm đi phố. Các luật sư biện hộ đang bám vào những chiếc Cadillac của họ. Các thẩm phán đang treo áo trong phòng mình. Chỉ có những luật sư phụ thẩm quận trẻ, lương ít vẫn còn làm việc. Họ đã xuống lại văn phòng nơi họ sẽ làm việc thêm về các vụ án, một số người trong bọn họ còn làm việc đến khuya nữa. Các cuộc thẩm vấn phải được chuẩn bị, các bản tóm tắt phải được tu sửa lại. Họ như những diễn viên thiếu kinh nghiệm tập dợt lại giữa các màn trình diễn. Các nhân chứng cho ngày mai phải được tiếp xúc và phỏng vấn lại. Trong một số vụ, phải đưa thám tử ra truy lùng một nhân chứng thiếu hoặc một bằng chứng cuối cùng. Trời về chiều đã lâu, bỗng một số công tố viên trẻ được bổ nhiệm đến cho Judith cùng bước vào văn phòng nàng. Mỗi đêm trước khi về nhà, nàng muốn biết mỗi vụ án của họ đang diễn tiến thế nào, và lúc này họ có năm vụ, cộng với một vụ thứ sáu mà bồi thẩm vẫn còn vắng mặt. Tất cả những vụ này đều thuộc trách nhiệm của nàng. Nếu có vấn đề nào xuất hiện trong ngày, nàng muốn biết đây là những vấn đề gì. Do kinh nghiệm vượt trội của nàng, có lẽ nàng có thể ngăn chặn được một vụ án khỏi bị thua. Ít nhất nàng có thể đưa ra lời khuyến khích cho các chàng trai hoặc các cô gái đang khởi tố nó. Judith ngồi ở bàn giấy và họ vây lấy nàng và nàng hài lòng vì có họ ở đấy. Nàng mong muốn có những cuộc họp này hằng đêm. Đây là con cái của mình, nàng tự nhủ. Ông Katz đã mang vào một khay cà phê bằng các tông với những chiếc tách styrofoam. Các tách cà phê được chia ra và khuấy lên, đồng thời cuộc thảo luận bắt đầu. Đèn được bật lên. Bầu không khí trong phòng thân thiện, nhưng cũng căng thẳng. Các cuộc xử đều xúc động. Cuộc sống và nghề nghiệp của dân chúng đang bị đe dọa. Những biến cố kinh khủng đang được xét xử. Đa số các cuộc xét xử có vẻ đang diễn tiến tốt đẹp. Chỉ có Brian Crawford đã gặp phải một vấn đề nghiêm trọng; Chàng đứng tựa lưng vào tường, trông buồn bực. “Nhân chứng chính của tôi, nạn nhân, con bé tóc hoe bẽn lẽn ấy,” chàng thốt lên, “cô ta vừa gây trở ngại cho vụ án của tôi đấy.” Đối với các công tố viên này các cuộc xét xử giống như cuộc đời, hoàn toàn không tiên đoán được. Thủ tục tòa án theo đúng cách, nhưng tư cách các nhân chứng thì không. Phản ứng của các bồi thẩm cũng không. Các điều gây ngạc nhiên đều phổ biến. Các nhân chứng quên các câu của họ và ứng khẩu ra những câu mới. Một số đâm sợ hãi và thay đổi câu chuyện của họ. Một số cứng miệng. Các bồi thẩm tin một số và không tin số khác thì vì những lý do thách đố lương tri. Kết quả các vụ không bao giờ có thể tính trước được. Cuộc phiêu lưu hằng ngày của công việc xét xử đối với các luật sư trẻ này là một sự mê hoặc vô tận, và các đồng nghiệp của Crawford đang chờ để nghe bất kỳ điều kinh khủng nào ở pháp đình mà chàng sắp mô tả ra. “Tôi đã bảo cô ta”, Crawford nói, “chỉ ra người đàn ông đã hãm hiếp cô ta”. Có một sự im lặng bi thảm. “Cô bé tóc hoe e lệ này”, Crawford bảo, “chỉ hắn và la hét om sòm, “thằng chó ấy đấy”. Có một sự im lặng trong văn phòng Judith. Rồi mọi người bắt đầu cười. “Tôi không thể nào tin được tai mình,” Crawford bảo. Tiếng cười chấm dứt. Sự thông cảm của bồi thẩm đoàn là một chuyện mỏng manh. Nhưng không có nó các luật sư bảo là bạn thua vụ án. “Và hãy đợi”, Crawford bảo, “cho đến lúc bạn nghe điều cô ta nói tắt ngang.” Tất cả bọn họ đều biết các vụ án của nhau và bây giờ trong tâm trí họ, họ dừng lại để xem lại vụ án của Crawford. Bị cáo gõ cửa với lý do hắn là người trừ chuột. Cô bé e lệ cho hắn vào. Hắn chộp lấy một con dao ở tủ búp phê và hãm hiếp cô ta. Đấy là câu chuyện của cô ta suốt trong các cuộc phỏng vấn trước khi xét xử. “Không may,” Crawford bảo, “điều mà người trừ chuột làm là hắn đặt con dao xuống và bảo với cô ta là, tôi có thể đặt tay lên ngực cô không? Cô ta nói, cái gì đây, hiếp dâm à? Vì nếu như thế, chúng ta khắc phục nó.” Thế rồi cô ta bắt đầu cởi quần áo mình ra.” Một trận cười, sau đó im lặng. “Ngày mai anh thử thẩm vấn lại cô ta một lần nữa xem sao”. Judith xoa dịu anh ta. “Vâng, nhưng tôi phải nói gì?” Các công tố viên khác bắt đầu khuyên bảo. Câu chuyện được luật sư đoàn gợi ra ngày hôm sau hoàn toàn không tương xứng với điều kinh hoàng. Crawford có thể đưa lên bục một bác sĩ tâm thần để xác nhận điều ấy. Nhiều cái tên được đề nghị với chàng. “Nhưng cô ta đã gọi bị cáo là một tên “đít lừa”, Crawford bảo. “Bồi thẩm đoàn không còn xem cô ta là một cô bé tóc hoe e lệ nữa.” “Người đàn ông đã hãm hiếp cô ta đang đứng cách cô ta chỉ có ba thước,” Judith Adler vỗ về. “Cô ta vẫn còn bị hắn làm hoảng sợ. Trong sự kinh hoàng, cô ta gọi hắn bằng một từ thô lỗ.” Mọi người bắt đầu cười lại. “Đấy không phải là một cô bé tóc hoe đoan trang dùng một từ thô lỗ.” Judith bảo, “đấy là một nạn nhân hãm hiếp bị hoảng sợ.” Nàng nhìn quanh đến những người kia. “Marcy?” nàng bảo. Marcy Miller, người phụ nữ thứ hai duy nhất ngoài nàng hiện diện, đang xét xử một nha sĩ đã gạ gẫm nữ bệnh nhân bằng thuốc mê. Vụ án này diễn tiến tốt đẹp, nàng nói. Và trong vụ xử chuyện hiếp dâm bằng hậu môn của một tội nhân tình dục do thói quen, Benjy Goldberg đã đưa cậu bé năm tuổi lên bục chiều hôm nay và đã bắt đầu thẩm vấn trực tiếp. Đứa bé có được một lúc chú ý độ 60 giây. Nó đã ngồi vào ghế nhân chứng, hớp coca-cola và cười với mẹ nó cuối phòng xử. Các câu hỏi phải được lặp lại đôi ba lần nó mới có thể hiểu được và trả lời. Ngày mai Goldberg định bảo nó nhận diện bị cáo ở phòng xử công khai và chàng lo lắng. “Hãy cho nó đứng xa chiếc ghế nhân chứng,” Judith đề nghị. “Hãy bảo nó diễn lại vụ án - bị cáo đã đưa nó vào hẻm bằng cách nào, và hắn đã làm gì. Hãy bảo nó diễn lại. Tôi đã thử điều ấy trước kia với các em nhỏ. Điều ấy có vẻ hợp với chúng đấy.” Cánh cửa mở ra và ông Katz thò đầu vào phòng. “Vụ Ligouri đã có quyết định rồi,” ông thông báo. Tất cả bọn họ đều biết vụ án này nữa. Bồi thẩm đoàn của vụ Ligouri, đã thảo luận kỹ trong hai ngày. Katz bỗng nở một nụ cười thoải mái. Và hắn đã có bản án của hắn. “Trong vòng ít phút nữa,” Crawford bảo, “hắn sẽ vào đây và khoác lác rằng bản tóm tắt của hắn lớn lao như thế nào đấy.” Mọi người đều mỉm cười. “Tôi không hiểu tại sao bồi thẩm đoàn để lâu thế,” Judith trầm ngâm nói. Ngay lúc ấy cánh cửa bị giật ra sau và Anthony Ligouri, hai mươi bảy tuổi, đứng với vẻ đắc thắng trên ngưỡng cửa, đấm ngực, như Tarzan trong một bộ đồ ba mảnh. Những người kia cổ vũ chàng. “Tôi nghe bồi thẩm đoàn đã muốn kết tội anh thế nào đấy,” Benjy Golberg bảo. “Đấy là kết luận của anh”, Crawford nói. “Theo như tôi nhớ,” Benjy Goldberg bảo, “bị cáo hãm hiếp cô ta đứng dựa vào thành sau của một chiếc thang máy, lúc cửa mở và có hai cảnh sát viên đang đợi vào thang máy. Hiếp dâm có nhân chứng. Vậy tại sao bồi thẩm đoàn phải mất hai ngày nhỉ?” Ligouri, ngồi trên bệ cửa sổ của Judith, lau mồ hôi tưởng tượng trên trán. “Tôi đã nói chuyện với một người trong bồi thẩm đoàn sau đấy. Tôi đã suýt thua vụ án. Nạn nhân xác minh, chuyên viên phòng thí nghiệm và bác sĩ thực tập nội trú xác minh. Âm hộ của cô ta hoàn toàn bị trầy trụa. Còn cả tinh dịch nữa. Chúa ơi. Nhưng bồi thẩm số chín không tin rằng sự hãm hiếp xảy ra ở tư thế đứng như mô tả. Ông ta chống lại trong hai ngày. Không thể được, ông ta bảo. Ông ta là một công nhân bưu điện về hưu. Theo ông ta, sự giao hợp ở tư thế đứng không thể thực hiện được.” “Và anh hỏi tại sao thư từ chuyển quá chậm,” Crawford lên tiếng. Mọi người cười vang. “Các bồi thẩm kia tranh luận với ông ta hai ngày,” Ligouri bảo. Có bốn phụ nữ trong bồi thẩm đoàn ấy, tất cả đều có tuổi cả. Cuối cùng một trong số người ấy đứng dậy và bảo ông nhân viên bưu điện rằng ông ta sai, giao hợp ở tư thế đứng vẫn có thể thực hiện được. “Bà biết cách nào không?”, ông ta tra gạn. Và bà già tóc xám này bảo rằng: “Vì tôi đã đích thân làm như thế ở tư thế đứng.” “Điều ấy chắc gây thương tổn cho bà ta,” Judith lẩm bầm. “Ông nhân viên bưu điện vẫn không chịu,” Ligouri nói, “Nên các bà kia lần lượt đứng dậy và nhận rằng họ cũng đã làm điều ấy ở tư thế đứng. Cuối cùng, ông nhân viên bưu điện chịu thua và tôi có lời buộc tội.” Tất cả bọn họ đều cười vang, nhưng Judith thấy rằng họ cũng không được thoải mái. Dù rằng họ còn trẻ, tất cả đều đã lập gia đình. Ngay cả Marcy cũng có gia đình, còn Judith thì không, nên chuyện đùa cợt về tình dục trước sự hiện diện của nàng làm cho họ không được thoải mái như thể nàng là mẹ của họ. Đấy là con cái của nàng và nàng hãnh diện về tất cả bọn họ. Tuy vậy, đôi khi họ làm nàng có cảm giác nàng là gái già. Khi về nhà, nàng đi tắm ngay. Nàng sống trong một căn hộ phía tây công viên trung ương và đêm nay, như mọi đêm, đi tắm là một hành động hết phiên trực đầu tiên của nàng. Nàng kỳ cọ người kỹ lưỡng. Nàng tẩy rửa bụi bặm trong ngày và mồ hôi ở thân thể hay cố gắng rửa sạch bụi bặm trong tâm hồn nàng đây? Điện thoại reo. Sau khi bước ra nhà tắm, nàng lấy chiếc khăn lớn quạt nhanh lên người ít cái rồi bước vào phòng ngủ và trả lời. Da thịt của nàng vẫn còn bốc hơi yếu ớt, và nàng nắm chặt chiếc khăn ở một tay. “Alô?” Vẫn là một người khác trong số các công tố viên trẻ của nàng. David Reidy. Văn phòng nàng có người, 24/24. David trực đêm nay và một vụ án vừa đến - một nữ luật sư làm việc khuya bị hãm hiếp ngay trên bàn giấy của cô, do người thợ chữa điện của tòa nhà. David muốn được nàng khuyên bảo và nàng cho ý kiến. Rồi nàng đi tắm lại. Nàng đứng dưới vòi nước. Judith mặc pyjama và một chiếc áo khoác ngoài và tự đi sửa soạn bữa tối. Sau đấy nàng xem TV một lúc, rồi lên giường nằm, với tờ New York Times gấp lại ở phần đố ô chữ và đầu một cây bút chì cắn ở răng. Khoảng nửa đêm, nàng tắt đèn.   Mời các bạn đón đọc Bàn Tay Kẻ Lạ Mặt Tập 1 của tác giả Robert Daley.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Bảy Cây Thánh Giá Bằng Chì
Bảy Cây Thánh Giá Bằng Chì Tác giả: Henri Vernes Dịch giả: Nguyễn văn Bái Nhà xuất bản: NXB Công An Nhân Dân Đánh máy: Ticonuong, Ct.Ly, cunbongcoi Nguồn: Casau - VNthuquan.net - Thư viện Online Làm ebook: thanhbt Thể loại: Phiêu lưu -Trinh thám *** Charles-Henri-Jean Dewisme, được biết đến với bút danh là Henri Vernes, là một tác giả của tiểu thuyết hành động và khoa học viễn tưởng, trong đó ông đã xuất bản hơn 200 đầu sách. Tác phẩm: Bảy Cây Thánh Giá Bằng Chì Pho Tượng Thần Kâli ... *** Thuyền Lý Ngư đã nhổ neo từ nhiều giờ, những cánh buồm được giương lên hết để chạy nhanh trong đêm tối bỏ xa tàu Đài Bắc ở đằng sau. Trong tận cùng một vũng biển đã dành hai ngôi mộ thủy thủ để chôn cất Zoltan và Hi. Bob Morane, Bill, Jack Scare và Công chúa ngồi trong tư thất. Trước mặt họ là một đống ngọc quý vì nó mà Zoltan đã thiệt mạng. Ba người, trừ Công chúa băn khoăn, suy nghĩ không biết nên xử trí việc này thế nào. Bob Morane và Bill dửng dưng trước đống ngọc và đoán Công chúa không nỡ hại đến tính mệnh mình. Jack Scare say mê ngắm nhìn những viên ngọc tỏa sáng lấp lánh các màu đầy thích thú được chia phần vì đó là tất cả niềm hy vọng và tương lai của anh ta. Có ngọc Scare mới trở về được với vợ và con gái và đảm bảo cuộc sống chắc chắn an toàn sau này. Sau một lúc Morane mới lên tiếng, hất cằm chỉ vào đống ngọc hỏi Lã Bảo Châu: - Cô toan tính làm gì với đống ngọc quý kia, cô nương Lã ? Cô gái Trung Hoa mỉm cười, nét mặt, khoé mắt không còn nét cứng rắn. Có thể nói nữ hải tặc đáng sợ ấy hình như tâm hồn đã chết. Lã Bảo Châu đáp: - Tôi tính làm gì ư? Thật đúng. Nếu không có các ông thì tôi đã chết không còn sống đến giờ phút này nữa, hoặc chết bởi thổ dân Papoue tra tấn hãm hiếp hoặc chết bởi Zoltan và những đồng lõa của hắn ta. Các ông tưởng là tôi định chiếm làm của riêng tôi cả đống ngọc mà các ông đã tốn bao công lao khó nhọc hơn tôi rất nhiều mới có được. Tôi đề nghị : Chúng ta chia đống ngọc thành bốn phần đều nhau, mỗi người lấy một phần. Chỉ cần một phần cũng sẽ trở nên giàu có. Bàn tay của Bob Morane từ từ để vào bàn tay Công chúa, nói: - Tôi hy vọng mãi vào Công chúa nói câu như thế nhưng tôi còn một điều mong mỏi muốn bày tỏ. Lã Bào Châu không nói gì, vui vẻ, nét mặt như một nữ thần Á Đông quay về phía Bob. Anh tiếp tục nói: - Tôi mong muốn Công chúa từ bỏ cuộc sống phiêu lưu mạo hiểm này đi, đến một chỗ nào đó làm cho mọi người quên và Công chúa quên dĩ vãng đi. Tôi không muốn nghe thấy một ngày nào đó tin Công chúa bị bắt, bị giam cầm và có thể bị giết chết. Công chúa đã khá giàu sang, đủ sống một cuộc đời bình thản, khỏi nguy với tất cả kẻ thù. Như có một lớp sương mù che cái nhìn tươi sáng của Công chúa. Lã Bảo Châu nói, tiếng không rõ: - Thật thế, tôi giàu, rất giàu và những viên ngọc kia chỉ là phần nhỏ thêm vào kho tàng của tôi. Nhưng biệt danh "Tai nạn trong các biển Trung Hoa" không biết có thể dễ quên không? Cô hạ giọng xuống nói rì rầm: "Làm cho mọi người quên đi. Được không?" Bob nói: "Có thể được lắm!" Anh cười rồi nghĩ thầm không bao giờ thất vọng vào một việc gì. Quỷ dữ có thể một ngày trở thành thầy tu khổ hạnh. Anh đưa mắt nhìn sang Jack Scare thấy anh này đang khóc. Bob Morane và Bill trao đổi với nhau bằng một cái nhìn đầy ý nghĩa và cùng chung ý nghĩ. Hai anh đã không mất nhiều thì giờ trong những ngày cuối cùng này, không phải vì những viên ngọc quý là phần thưởng tốt đẹp nhất dành cho các anh mà điều chắc chắn rõ ràng đó là các anh đã đem lại hy vọng cho một người cùng khổ và sự thay đổi tình cảm hướng thiện cho một nữ chúa hải tặc "Tai hoạ các vùng biển Trung Hoa". Mời các bạn đón đọc Bảy Cây Thánh Giá Bằng Chì của tác giả Henri Vernes.
Điệp Viên Giữa Sa Mạc Lửa
Cuộc sống vốn tự nó li kỳ. Cuộc chiến đấu ròng rã hơn nửa thế kỷ của dân tộc ta chống những kẻ thù giàu mạnh gấp nhiều lần và vô cùng tàn bạo, trong đó các chiến sĩ tình báo ta luồn lách và hoạt động giữa hàng ngũ địch, không thể không li kỳ. Đọc Điệp viên giữa Sa mạc lửa của Nhị Hồ, điều tôi cảm thấy trước tiên là sự kính phục các chiến sĩ tình báo ta, ở đây là Nguyên Vũ, từ một chiến sĩ cầm súng đánh Pháp được đưa vào Hà Nội học đại học, để lấy mảnh bằng làm vũ khí. Năm 1954, sau khi hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết, anh theo làn sóng di cư vào Nam, gặp lại các bạn cũ ở Hà Nội, nay thành những nhân vật có vai vế trong giáo phái Cao Đài Tây Ninh. Anh tiếp xúc được đám tân khách quanh Bảy Viễn và với cả Bảy Viễn đang nắm công an, cảnh sát Sài Gòn. Cuối cùng anh đứng chân hẳn trong lực lượng võ trang của giáo phái Hòa Hảo, thành người tin cậy và mưu sĩ của Trần Văn Soái, tổng tư lệnh lực lượng này. Trong thế đó, anh đã tìm hiểu có kết quả các âm mưu của Mỹ, Pháp trong tình hình đang rối ren hồi đó ở miền Nam, để báo cáo về Trung Ương; đồng thời anh đã hoạt động ngăn cản được các sự thỏa hiệp, đầu hàng của các lực lượng tay sai của Pháp trước tập đoàn Ngô Đình Diệm tay sai của Mỹ; kéo dài tình hình lộn xộn ở Sài Gòn và miền Nam, làm chậm lại kế hoạch của Mỹ - Diệm chĩa mũi nhọn đánh phá các lực lượng kháng chiến, lực lượng yêu nước và đồng bào ta. Những việc làm trên được kể lại trong Điệp viên giữa sa mạc lửa như những việc bình thường, không có màu sắc li kỳ, nhưng nếu hình dung ra hoàn cảnh cụ thể lúc bấy giờ, chiến sĩ tình báo của ta hoạt động không chỉ giữa một kẻ thù mà giữa ba, bốn kẻ dịch châu lại; bọn phản động trong giáo phái chống Diệm - mật vụ của Diệm - Nhu quyết tiêu diệt các giáo phái - bọn Phòng nhì Pháp và CIA Mỹ cài vào ở cả hai bên... Giữa bầy sói đang nhe răng, giũa vuốt hầm hè nhau như vậy, đồng chí ta hoàn thành được nhiệm vụ, giữ được an toàn để tiếp tục hoạt động trong các giai đoạn sau, đến tận thắng lợi hoàn thành năm 1975, thì có sự li kỳ nào sánh nổi, và đó chẳng phải là dũng cảm vô song và trí tuệ tuyệt vời hay sao? (Nhà văn Nguyễn Văn Bổng) *** Sài Gòn 1954. Giữa tháng Sáu, trời vần vũ, mây thấp sạm đen. Mùa mưa đến muộn, bù lại, những trận mưa lớn trút nước xuống thành phố - Bên cạnh những cảnh sôi động như các sòng bạc vẫn mở trong "Đại thế giới", những thú vui "nhất dạ đế vương" vẫn diễn ra ràng các khách sạn lớn, các khu "Bình khang".. - Sài Gòn - Chợ Lớn có những đường phố ngập nước, xe hơi qua lại như xuồng máy chạy trên sông. Các miệng cống hai bên bờ những con đường lớn, nước xoáy tuôn vào như nghẹt thở... Khu trung tâm thành phố, quanh dinh Norodom nhà thờ Đức Bà, khô ráo, yên ắng hơn. Nhất là về đêm, màn mưa thu hẹp ánh sáng những ngọn đèn đường, các con đường càng có vẻ trống vắng, những ngôi biệt thự bên đường như sớm đi vào giấc nghỉ ban đêm. Đường Garcier sau lưng nhà thờ đức Bà là một con đường như vậy. Bên đường, nhà số 8 là một ngôi biệt thự trệt như đang nấp vào bóng tối của màn mưa và các thứ bóng cây quanh nhà, mặc dầu trước cổng, trong sân, trong hành lang phía trước và ở góc nhà điện vẫn sáng. Ánh đèn phía trước cho thấy một hàng rào sắt và hai cánh cửa sơn xanh khép kín. Trong sân rải sỏi. Hành lang mặt trước biệt thự tưởng chừng trống vắng, nhưng nếu vào gần, ngoặt sang tay mặt, sẽ thấy khuất vào bóng tối có một người ngồi, vừa chăm chú nhìn xéo ra sân và mặt đường phía trước, vừa có thể trông chừng vào căn phòng bên trong đang có một người ngồi bên chiếc bàn lớn. Đó là một người Mỹ cao lớn, bộ mặt khá hấp dẫn; đôi mắt xanh nâu sắc sảo, nụ cười nửa miệng châm biếm, hàng ria mép tỉa công phu: đại tá Edward G. Lansdale. Người trước hành lang là một tên người Việt thân hình rắn chắc, tóc cắt cao, mắt sắc, hàm râu quai nón cạo sạch vẫn để lại dấu vết màu xanh trên da mặt, làm rộng thêm khuôn cằm khỏe mạnh. Hai cánh tay hắn trần trụi cuồn cuộn bắp thịt, cổ lớn như cột trụ. Tuy tuổi đã bốn mươi, hắn vẫn giữ được phong thái một võ sĩ từng lên đài. Mười năm trước, Tý là một võ sĩ chuyên nghiệp, từng hạ nhiều đối thủ trên các vũ đài ba nước Đông Dương. Trong chiến tranh thế giới lần thứ hai, thiếu tá Lucien Conein được Mỹ cử qua giúp Bộ tư lệnh viễn chinh Pháp ở Việt Nam đã phát hiện ra tên võ sĩ này và tổ chức hắn làm điệp viên. Suốt bốn năm cộng tác, Tý đã tỏ ra rất mực trung thành và được việc. Vì vậy, Edward G. Lansdale sang, ở riêng trong ngôi biệt thự kín đáo này, Conein đã bố trí Tý sát bên viên sĩ quan cao cấp đó của CIA, vừa làm quản gia, hầu cận, vừa cận vệ. Edward G. Lansdale đang dùng bữa ăn đêm thường lệ với một đĩa thức ăn nguội và một cốc vang do Tý mang vào, vừa đọc báo trong ánh đèn bàn dịu mát dưới bóng chao xanh. Tý lui trở ra, ngồi lẫn trong bóng tối trước hành lang. Ngôi nhà tưởng chừng như ngủ yên, bỗng có tiếng còi xe hơi nhấn nhẹ, nhưng nghe rất rõ trước cổng. Tý vội vàng đứng lên đi ra. Lát sau, một tên Mỹ khoảng ba mươi tuổi, mở cửa bước vào, Lansdale ngẩng mặt nhìn lên: - Philipps hả. Có việc gì đấy? Viên trung úy cận vệ trưa mới vào tiến lại bê n bàn: - Thưa đại tá, có điện của Trung tâm. Mở chiếc cặp bìa đen, Lansdale nhẩm đọc: "Ad gửi Brod Đã nhận được báo cáo. Đồng ý những đề nghị của anh. STOP. Cần nhanh chóng chặn đứng mọi ý đồ của Pháp tại Việt Nam. STOP. Diệm sẽ về Sài Gòn ngày 25/6/54. STOP FINAL". Lansdale chậm rãi gập cặp bìa để sang bên cạnh, ra hiệu cho Philipps ngồi xuống chiếc ghế đối diện. Tý mang lên hai ly cà-phê còn bốc khói. Lansdale vừa nhấp từng ngụm cà-phê vừa hỏi: - Bên đó công việc tiến đến đâu rồi? Philipps vẫn cầm chiếc ly trên tay: - Thưa, trung tá Chuck Hash ở Hà Nội chưa có tin gì thêm ngoài báo cáo hôm qua đã trình đại tá. Trung tá Sam Karich còn làm việc với linh mục Nguyễn Văn Thuận tại Huế. Trung tá Ed Quereau đi Vĩnh Long gặp giám mục Ngô Đình Thục đã về hồi tám giờ tối, sẽ sang báo cáo đại tá vào sáng sớm mai. - Nhà cửa xong chưa? - Thưa đại tá xong cả rồi. Ba căn nhà hướng ra hai mặt đường khác nhau, phía sau thông thương qua lại kín đáo. Phòng điện đài đặt dưới hầm rượu, ngay bên trên là phòng làm việc của đại tá. Phòng họp chung ở căn nhà trong cùng. Trên lầu, cả hai căn ngoài kê hàng tủ đứng trong chửa bao cát, bố trí không thua gì một lô-cốt chiến đấu. Vũ khí đã nhận bên phái bộ MAAG chuyển về rồi.   Mời các bạn đón đọc Điệp Viên Giữa Sa Mạc Lửa của tác giả Nhị Hồ.
Tiếng Thét
Trong căn phòng là cả một biển chết lênh láng. Chính giữa biển là thi thể của một người phụ nữ, xung quanh là núi xương của những con mèo mà cô ta nuôi. Theo chân nữ thanh tra Okunuki Ayano, cuộc đời đầy sóng gió của một người phụ nữ tên Suzuki Yoko dần dần được hé mở… Suzuki Yoko, một cô gái “tầm thường”, nhút nhát, chưa bao giờ nhận được tình yêu thương và sự khích lệ từ người mẹ Suzuki Yoko, người phụ nữ có may mắn kết hôn với mối tình đầu của mình nhưng đã ly hôn chỉ sau ba năm, vì không thể sinh con Suzuki Yoko, người phụ nữ chấp nhận làm gái gọi để có thể tồn tại, hết lần này đến lần khác bị đàn ông lợi dụng, biến thành công cụ kiếm tiền và thỏa mãn dục vọng cho họ Dẫu vậy, trong suốt bốn mươi năm của cuộc đời, người phụ nữ tên Suzuki Yoko đó luôn khát khao được là chính mình và tìm thấy “một nơi chốn mà mình thuộc về”. Rồi khi bị chà đạp dưới đáy xã hội, cô đã quyết định phản kháng. Nếu không thể tìm thấy một nơi chốn mà mình thuộc về, cô sẽ tự tay “tạo ra” nơi chốn ấy… *** Review Thu Hoài: Tác phẩm mới nhất của Hamanaka Aki tiếp tục là một dấu ấn thành công với phong cách trinh thám tâm lý của anh. Suzuki Yoko đã chết. Nhưng người ta chưa biết điều ấy. Xác của cô chỉ được tìm thấy sau đó nửa năm trong một căn hộ chung cư với tình trạng chỉ còn là xương trắng nằm rải rác cùng với xác lũ mèo cô nuôi. Theo chân nữ cảnh sát tài giỏi Ayano, cuộc đời đầy sóng gió của Yoko được hé mở từ đây, khởi đầu cho một chuỗi những bất hạnh lớn hơn bất cứ người phụ nữ nào có thể chịu đựng được. Yoko, cô gái sinh ra trong một gia đình hạng trung với cái tên vô cùng phổ biến, mang nhan sắc và bằng cấp trung bình, không bao giờ vượt qua cái bóng của người em trai tài giỏi đã chết để nhận được tình yêu thương từ cha mẹ. Yoko, người phụ nữ hết lần này đến lần khác bị phản bội, bị lừa gạt, bị lợi dụng, bị chà đạp trong một xã hội Nhật Bản đầy nhức nhối và không có lối thoát. Yoko, một con người ám ảnh với quá khứ, ghét bỏ hiện tại và hão huyền về tương lai. Cả cuộc đời cô chỉ có một ao ước, đó là tìm được nơi chốn mà cô thuộc về, nơi cô thực sự có thể sống là chính mình. Cuốn tiểu thuyết dày gần 600 trang sách mang tựa đề Tiếng thét đã tóm gọn lại một xã hội Nhật Bản qua cuộc đời dài 40 năm của một người phụ nữ. Từ nền kinh tế bong bóng những năm 1990, kỷ băng hà việc làm đầu thiên kiên kỷ, sự bùng nổ của ngành công nghiệp tình dục cho đến trận động đất kinh hoàng ngày 11/3/2011, kèm theo đó là vụ rò rỉ nhà máy hạt nhân, tất cả đều góp phần tạo nên những biến cố trong cuộc đời Suzuki Yoko. Diễn biến tâm lý của Yoko là điểm đặc sắc nhất trong tác phẩm của Hamanaka Aki. Bước vào đời là một cô gái ngây thơ, làm công việc trực điện thoại ở quê, Suzuki Yoko dần dần tiến sâu vào mặt trái xã hội khi bị lôi kéo vào công việc bán bảo hiểm. Cô đã dần đánh mất lòng tự trọng, phải dùng đến cách bán thân để có thể bán được từng hợp đồng bảo hiểm. Cô chịu đau khổ vì cả nỗi đau thể xác lẫn tâm hồn khi chấp nhận làm tiền để chu cấp cho người mẹ vẫn luôn căm ghét mình. Chính việc bị dồn ép đến đáy xã hội đã nảy sinh trong tâm trí Yoko một kế hoạch táo bạo gây rúng động cộng đồng. Mang đậm phong cách trinh thám thiên về lối miêu tả của Nhật Bản, nhưng Tiếng thét lại vô cùng khéo léo khi liên kết tất cả các chi tiết tưởng như thừa thành một câu chuyện hợp lý. Từ ông chủ bán cá có 6 ngón tay cho đến vụ án bé Cosmos hay quán cafe thảo mộc, cuốn sách gây đã bất ngờ cho độc giả cho đến bốn dòng cuối cùng, hé lộ sự thật tàn khốc về người phụ nữ bất hạnh mang tên Suzuki Yoko. Tiếng thét là cuốn tiểu thuyết trinh thám mới nhất của nhà văn trẻ Hamanaka Aki sau khi anh nhận được giải thưởng cho gương mặt mới có tác phẩm xuất sắc nhất lần thứ 16 của Nhật Bản. Tác phẩm đã vinh dự đứng thứ 6 trong số 10 tiểu thuyết trinh thám hay nhất năm 2014, theo bảng xếp hạng của tạp chí Shukan Bunshun. *** Review Nguyệt Nguyệt:   Nếu bạn trông chờ vào tính giải trí kịch tính, kinh dị máu me ở tác phẩm này thì không có đâu. Nhưng sẽ thấy thật kinh khủng và đáng sợ khi cuộc đời người phụ nữ Yoko được phơi bày từng bước từng bước. Từ nỗi buồn thầm lặng đến sự tuyệt vọng cùng cực chỉ như một cái chớp mắt. Giống như tựa một cuốn sách, miệt mài đi qua năm tháng ngoảnh lại mọi thứ đã hóa tro tàn. Cuộc đời Yoko từ lúc sinh ra đến khi trưởng thành đã không hề may mắn. Mẹ ghét bỏ, em trai tự sát, bố vỡ nợ bỏ trốn, chồng phản bội theo người đàn bà khác, rồi bán thân để kiếm hợp đồng bảo hiểm, bị bạo hành... Cứ thế đời ngang trái đẩy đưa khiến cô sa chân vào vũng lầy lúc nào chẳng hay. Một vũng bùn bẩn thiu, hôi tanh, nhớp nhúa khủng khiếp nhất. Quá nhiều bi kịch, quá nhiều nỗi đau. Vừa buồn thay lại vừa đáng trách người phụ nữ ấy. Không chỉ thế, cuốn sách còn phản ánh thực trạng xã hội Nhật Bản, một cách thật dữ dội, những góc khuất tăm tối, những vấn nạn nhức nhối bốc mùi. Đào sâu vào tận gốc rễ vấn đề, giống như xới tung đống rác để thấy nó xộc lên mùi thối rữa. Thật nặng nề mà cũng chân thực xiết bao. Tuy vậy, điểm trừ của truyện là có phần đều đều, đôi khi dài dòng, thảng hoặc câu văn bị lặp lại khá khó chịu. Nếu tác giả viết khéo hơn, biên dịch tốt thì tác phẩm sẽ rất tuyệt vời. Có lẽ không chỉ đứng vị trí 6/10 tiểu thuyết trinh thám hay 2014 đâu mà có khi lên top 1 không chừng. Còn về đoạn kết, có đúng như Đinh Tị quảng cáo "gay cấn cho đến 4 dòng cuối cùng" không? Quả có phải. Vẫn bất ngờ dù thủ đoạn không mới. Cái vụ án cuối cùng ấy, cái chết cuối cùng ấy đã đạt đến giới hạn của xấu xa và tội ác, của tha hóa đạo đức. Đánh giá: 7.5/10đ (trừ điểm dịch thuật)   Mời các bạn đón đọc Tiếng Thét của tác giả Hamanaka Aki.
Sắc Đẹp Chết Người
Chính xác hơn là từ một cú tông xe từ chiếc Buick dù người lái xe còn là một ẩn số thì ý định giết người đã quá rõ ràng. Sau tất cả mọi chuyện, người chồng cũ của Blair và cộng sự là cô vợ giết người của anh ta hiện đang còn trong nhà tù. Và thậm chí cả Wyatt Bloodsworth, thám tử cảnh sát người-sắp-thành-chú-rể, cũng không tin cô đang là mục tiêu tấn công một lần nữa. Mọi điều khiến Blair tự hỏi có phải vụ suýt chết của cô chỉ đơn giản là một tai nạn rủi ro hay không. Nhưng sự ngạc nhiên đó không còn tồn tại khi cô thoát khỏi tay thần chết lần nữa trong một tai nạn tưởng chừng như vô tình. Blair trải qua hai vụ việc đó mới làm cô tin rằng cô đang bị kẻ khác đe dọa. Và đáng ngại hơn là Wyatt vẫn còn nghi ngờ cô. Có nghĩa là tại thời điểm này, không một đối tượng nào được xem là tình nghi theo dõi Blair. Cô lên kế hoạch tóm lấy kẻ đang muốn ám sát cô – trước khi bất kỳ một ai khác làm cô gục xuống. *** Linda Howard tên thật là Linda S. Howington. Cô sinh ngày 3/8/1950 tại tiểu bang Alabama thuộc miền Nam Hoa Kỳ. Cô là một trong những tiểu thuyết gia thuộc trường phái lãng mạn nổi tiếng thế giới. Các tác phẩm của cô thường xuyên lọt vào danh sách những cuốn sách bán chạy nhất do tạp chí New York Times bình chọn. Năm 2005, cô đạt giải Career Achievement Award - giải thưởng dành cho các tác giả viết tiểu thuyết lãng mạn xuất sắc nhất. Linda Howard nói rằng từ lâu sách đã đóng một vai trò to lớn trong cuộc đời bà, dù là để đọc hay viết. Tác giả tiểu thuyết lãng mạn đầu tiên bà đọc là Margaret Mitchen và kể từ đó trở đi bà đọc rất nhiều với tất cả đam mê. Trong những năm gần đây, mối quan tâm của bà tập trung chủ yếu vào dòng tiểu thuyết lãng mạn, bởi bà “dễ dàng thấy chán chuyện giết người, bạo lực và chính trị”. Sau hai mươi mốt năm viết truyện chỉ để mua vui cho mình, rốt cuộc Howard đã gom đủ dũng cảm để gửi một tiểu thuyết tới nhà xuất bản - và lập tức thành công. Nhà văn gốc Alabama giờ đã trở thành người nhiều lần xuất hiện trong danh sách tác giả sách bán chạy nhất của tờ New york Times. Tác phẩm của Linda Howard gồm có: Against The Rules (Tiếng Việt) Almost Forever (Tiếng Việt) An Independent Wife (Tiếng Việt) Angel Creek (Tiếng Việt) Băng Đá Bluebird Winter (Tiếng Việt) Cầu Vồng Lúc Nửa Đêm Con Gái Của Sarah Con Trai Của Bình Minh Đêm Định Mệnh Đừng Nói Mãi Mãi Duncan's Bride (Tiếng Việt) Đường Về Nhà Giã Từ Nước Mắt Hẹn Hò Theo Kiểu Của Em Kill And Tell (Tiếng Việt) Lời Dối Gian Chân Thật Người Vợ Độc Lập Những Điều Hào Nhoáng Núi Tình Quý Bà Miền Tây Quý Ông Hoàn Hảo Sắc Đẹp Chết Người Sắc Màu Hoàng Hôn The Cutting Edge (Tiếng Việt) Thiên Sứ Tử Thần Thiêu Hủy Tội Ác Trong Mơ Trăng Xanh Tưởng Chừng Mãi Mãi Vịnh Kim Cương ... *** Tên tôi là Blair Mallory, và tôi chuẩn bị kết hôn, nhưng Ba vị thần mệnh chẳng thèm hợp tác… Tôi ghét cay ghét đắng họ, hử? Chẳng qua cũng chỉ là những mụ già phản trắc vô tri vô giác câm lặng mà thôi. Tôi ngồi tại bàn ăn, mắt nhìn chằm chằm vào cuốn lịch, kiểm tra tất cả các ngày rảnh rỗi còn lại không vướng vào các ngày có hẹn nào trong xấp giấy xếp lịch làm việc giăng đầy trên bàn: của tôi, của Wyatt, của bố mẹ, của các cô em, của mẹ Wyatt, của chị gái Wyatt, của các con và chồng chị ấy… nhiều đến nỗi chẳng thấy hồi kết thúc. Không hề có ngày nào rảnh cho tất cả trừ ngàysau lễ Giáng Sinh mà rõ ràng không thể nào là ngày cưới của tôi được. Nếu chúng tôi cưới vào ngày sau Giáng sinh thì các ngày lễ kỷ niệm sau này của tôi sẽ tẻ ngắt đến chết mất,, vì hẳn Wyatt sẽ tặng cho tôi bất cứ thứ gì mà anh có thể nghĩ ra. Không đời nào. Tôi không phá hỏng bản thân mình đâu. ‘Em đang phùng mang trợn mắt đấy.” Wyatt quan sát mà không thèm rời mắt khỏi bản báo cáo anh đang đọc. Tôi cho đó là một loại báo cáo nào đó của cảnh sát, vì anh là trung úy của lực lượng cảnh sát địa phương, nhưng tôi không thèm mở miệng hỏi lấymột câu. Tôi sẽ đợi cho đến lúc anh rời khỏi phòng để đọc tập giấy ấy, điều đó cho thấy nó có liên quan đến một người tôi quenbiết. Bạn sẽ lấy làm ngạc nhiên về những việc một số người sẽ làm, những người mà bạn sẽ không thể nghĩ được trong cả triệu năm nữa sẽ tạo ra nhiều phiền toái; tôi dứt khoát là đã được mở mắt từ khi tôi hẹn hò với Wyatt – ờ, đúng ra là từ khi tôi đọc được các bản báo cáo của anh, thử nghĩ đi, dầu sao đi chăng nữa cũng là trước cuộc hẹn hò của chúng tôi. Cặp kè với một cảnh sát thật có nhiều ích lợi, đặc biệt là với một người có chức vụ khá cao. “Anh cũng sẽ phùng mang trợn mắt nếu phải cố mà xử lý cho xong cái đống lịch công việc chồng chéo này thay vì chỉ việc ngồi đó mà đọc thôi.” “Anh đang làm việc,” anh vặn lại, thú nhận rằng anh thực đang đọc một loại báo cáo nào đó ; Tôi chỉ hy vọng là nó hay ho, vàrằng nó sẽ bị để quên đấy khi anh đi vào phòng tắm hay vào đâu đó. “Em sẽ không gặp bất kỳ rắc rối nào với những tờ giấy ấy nếu như em làm theo gợi ý của anh.” Gợi ý của anh là tổ chức ở Gatlinburg, một tiệc cưới giản dị và chả cần đồ đạc váy xống gì nhiều. Giải quyết vụ tiệc cưới thì dễthôi, nhưng đã từng trải qua công cuộc khăn gói cho một sự kiện quan trọng, tôi đã học được một bài học đắt giá: bạn luôn có cái để mà quên. Tôi không muốn trong ngày cưới của mình phải chạy loanh quanh cố tìm thứ thay thế cho vật mà tôi lỡ quên béng đi mất. “Hay chúng ta tổ chức cưới ngay tại trụ sở tòa án ở đây?” Anh đề nghị. Đàn ông thật chẳng có nổi một cái xương sườn lãng mạn trong người, mà thật ra thì tốt thôi, vì tôi cũng không lãng mạn cho lắm, ướt át quá chỉ tổ làm tăng thêm trạng thái kích động mà thôi. HƠn nữa, tôi thừa biết tiến trình Giải Quyết Mọi Chuyện Thế Nào,và tôi muốn có những bức ảnh để còn khoe mẽ với đám con cháu sau này. Và tôi cần phải nhấn mạnh thêm, sinh nhật lần thứ ba mươi mốt của tôi đã đến và đã qua, đưa tôi đến rất gần với phương pháp chọc ối (khi sinh con). Bất kỳ em bé nào mà tôi sinh ra, tôi muốn sinh chúng trước khi bước vào thời kỳ mà bác sỹ sản khoa nào cũng tự động chỉ định phương pháp chọc ối để bảo toàn mạng sống và tránh nỗi sợ bị kiện tụng sau này.Tôi không muốn bị một cái kim dài ngoẵng chọc vào trong bụng. Chuyện gì sẽ xảy ra nếu nó đụng vào mắt hay bất kỳ phần thân thể nào của con tôi?Chuyện gì sẽ xảy ra nếu cái pitton (gây mê) đâm vào cột sống của tôi? Trong truyện Peter Pan, con cá sấu nuốt nguyên một cái đồng hồ và bạn có thể kể rằng con cá sấu đó càng tiến lại gần thì tiếng tích tắc trong bụng nó càng rõ? Cái đồng hồ sinh học trong tôi đang kêu tích tắc giống y như con cá sấu chết tiệt đó đấy. Hoặc nó là một con cá sấu Mỹ. Chả vấn đề gì. Thay vì kêu “tick-tock” thì nó chuyển thành “Amnio” (từ này hoàn toàn chẳng hợp với nhịp “tick-tock” chút nào.) và tôi đang gặp ác mộng vì chuyện này. * Amnio: Viết tắt của Amniocentesis (phương pháp chọc ối). Ở đây ngụ ý thay vì cái đồng hồ kêu tích tắc thì đồng hồ sinh học của Blair kêu “Chọc ối, chọc ối”, nghe ác mộng thật rồi. Tôi phải cưới thật nhanh, để quẳng cho hết cái đống thuốc tránh thai của mình đi. Còn Wyatt chỉ việc ngồi kia mà đọc bản báo cáo chết tiệt của anh trong khi tôi gần như khủng hoảng đến mức thét lác loạn cả lên. Anh thậm chí còn không cố làm tôi vui bằng cách nói cho tôi biết có gì trong đó vì thế tôi nảy ra một ý tưởng hay ho là liệusau đó tôi có cần phải nghiên cứu để biết thêm chi tiết hay không– anh chưa từng để tôi làm thế. Anh là một gã tham lam tuyệt đốikhi dính dáng đến công việc có liên quan đến nghề nghiệp cảnh sát của mình, giữ tất cả làm của riêng. ‘Em bắt đầu cho là điều này sẽ chẳng bao giờ xảy ra, chúng ta sẽ không lấy được nhau.” Tôi rầu rĩ nói, quăng cái bút xuống mặt bàn. Mời các bạn đón đọc Sắc Đẹp Chết Người của tác giả Linda Howard.