Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Nghệ Thuật Chọn Lựa

Trong cuốn Nghệ thuật chọn lựa, giáo sư đại học Columbia, Sheena Iyengar, một chuyên gia hàng đầu về chọn lựa, đặt mình vào nhiệm vụ nặng nề đó là giúp chúng ta trở thành những người chọn lựa sáng suốt hơn. Cô đã nêu ra nhiều câu hỏi đầy thú vị: Khao khát lựa chọn là bẩm sinh hay được tạo nên bởi văn hóa? Tại sao đôi khi chúng ta chọn lựa những điều ngược lại với sở thích của cá nhân? Chúng ta thực sự có bao nhiêu quyền năng đối với những chọn lựa của mình? Cuối cùng, cô đưa ra những câu trả lời bất ngờ và rất sâu sắc, từ nghiên cứu nghiêm túc, bài bản đã được trao giải thưởng của cô. Trong cuốn sách này, bạn sẽ được học về mối quan hệ phức tạp giữa lựa chọn và tự do, và tại sao hai thứ này lại thường không song hành với nhau. Bạn sẽ thấy rằng quá nhiều lựa chọn có thể áp đảo chúng ta, dẫn tới những kinh nghiệm không lấy gì làm dễ chịu, từ  “tội lỗi Tivo” do quá nhiều chương trình TV trong khi không thể xem hết tới sự bối rối trước hàng loạt kế hoạch bảo hiểm sức khỏe. Có lẽ điều quan trọng nhất, bạn sẽ khám phá ra lựa chọn của bạn - cả điều nhỏ nhặt bình thường cho tới những quyết định quan trọng - được hình thành nên bởi rất nhiều tác động khác nhau ra sao, cả hữu hình lẫn vô hình. Tác phẩm đặc sắc này soi rọi những niềm vui và thách thức của sự chọn lựa, cho chúng ta thấy cách chúng ta xây dựng nên cuộc sống của mình ra sao, qua từng lựa chọn. Sheena Iyengar là giáo sư của Trường Kinh doanh Columbia, thuộc Đại học Columbia, đồng thời được bổ nhiệm vào Khoa Tâm lý học. Cô được xem là một trong những chuyên gia nghiên cứu về lựa chọn hàng đầu thế giới, từng nhận được rất nhiều bằng danh dự, nổi tiếng nhất là Giải thưởng Tổng thống dành cho các Khoa học gia và Kỹ sư khởi đầu sự nghiệp (Presidental Early Career Award) vào năm 2002. Công trình nghiên cứu của cô thường xuyên được khen ngợi trên các tờ báo nổi tiếng như Thời báo New York, Tạp chí Phố Wall, tạp chí Fortune, và tạp chí Times cũng như trong các quyển sách bán chạy như Blink (Trong chớp mắt) của Malcolm Gladwell, The paradox of choice (Nghịch lý của chọn lựa) của Barry Schwart. *** Quá khứ là khúc dạo đầu Mọi sự đều có nguồn cơn - Joseph Campbell   Tôi sinh ra ở Toronto. Mẹ tôi sinh non một tháng giữa lúc cơn bão bao phủ thành phố dưới tuyết lạnh và một bầu không khí câm lặng. Sự đột ngột và điều kiện thời tiết nhập nhoạng vào lúc tôi ra đời là những điềm gở dù rằng khi ấy chẳng ai để ý đến chúng. Mẹ tôi vừa mới di cư từ Ấn Độ sang, bà là người thuộc về cả hai thế giới và bà đã truyền sang tôi tính cách của một người thuộc nhiều nền văn hóa [1] . Bố tôi đang trên đường sang Canada, nhưng ông không đến kịp; việc ông vắng mặt lúc tôi ra đời là dấu hiệu của sự vắng mặt lâu hơn sau này. Ngẫm lại, tôi nhận ra mọi nẻo đời mình đã được định sẵn ngay thời điểm tôi chào đời. Dù là những vì tinh tú trên trời hay chỉ là hòn đá cuội bên đường, dù do bàn tay của Chúa trời hay bởi thế lực vô hình, thì số mệnh đã được định đoạt và mọi chuyện sau này của tôi chỉ để xác nhận điều này mà thôi. Đó là một câu chuyện. Còn đây là câu chuyện khác. Bạn chẳng biết được đâu. Đó là cuộc đời kiểu đồ chơi “chú hề trong hộp” (jack-in-the-box): Bạn thận trọng mở nó, từng hộp một, ấy thế mà mọi thứ vẫn bung xổ ra. Tôi bước vào thế giới này như thế - thật đột ngột - sớm một tháng so với dự tính. Bố tôi thậm chí không kịp có mặt, ông vẫn còn ở Ấn Độ, nơi mẹ tôi vẫn hằng nghĩ rằng bà cũng ở đó. Ấy thế mà không hiểu sao rốt cuộc bà ẵm tôi trên tay ở Toronto, và bên ngoài cửa sổ, bà có thể nhìn thấy tuyết đang bị cuốn đi. Giống những bông tuyết ấy, chúng tôi trôi dạt đến nhiều nơi khác nữa: Flushing, Queens rồi đến Elmwood Park, bang New Jersey. Tôi lớn lên trong cộng đồng dân di cư người Sikh, những người cũng giống như bố mẹ tôi, đã rời hẳn Ấn Độ nhưng vẫn mang nó theo mình. Và thế là tôi được nuôi nấng trên một đất nước trong lòng đất nước khác, bởi vì bố mẹ tôi luôn cố gắng lập lại cuộc sống họ vẫn hằng quen thuộc. Cứ mỗi tuần ba ngày, bố mẹ dẫn tôi đến gurudwara , một đền thờ, tại đó tôi ngồi ở phía bên phải cùng những người đàn bà, trong khi đám đàn ông túm tụm mé bên trái. Theo tín điều của đạo Sikh, tôi để tóc dài và không được cắt tóc, tượng trưng cho sự sáng tạo hoàn hảo của Chúa trời. Ở cổ tay phải tôi đeo kara , một loại vòng tay bằng thép, tượng trưng cho sự vững tin và ngoan đạo và đó cũng chính là lời răn đe rằng bất kể tôi làm gì cũng đều diễn ra dưới ánh mắt trông chừng của Chúa trời. Và trong mọi lúc, kể cả khi tắm, tôi phải mặc kachchha , một loại đồ lót gần giống như quần lót boxers, biểu hiện của sự kiềm chế dục vọng. Đây chỉ là một trong vô số phép tắc mà tôi phải theo, mọi người theo đạo Sikh đều thế, và những gì mà đạo Sikh không ra lệnh thì do bố mẹ tôi quyết định. Điều này có vẻ như tốt cho bản thân tôi, nhưng cuộc sống luôn có cách chọc thủng các kế hoạch của bạn hay các kế hoạch người khác vạch ra cho bạn. Đến khi chập chững, tôi luôn va vào mọi thứ, và thoạt đầu bố mẹ cứ nghĩ tôi chỉ là một con bé hết sức vụng về. Nhưng một chiếc đồng hồ tính tiền đỗ xe hẳn phải đủ lớn để né tránh chứ? Và tại sao tôi lại cần người khác nhắc nhở thường xuyên phải cẩn thận mỗi khi đi đứng? Đến khi rõ ra tôi không phải là một con bé vụng về thông thường nữa, tôi được đưa đến một chuyên gia thị lực tại bệnh viện Các tín đồ Columbia. Ông ta nhanh chóng giải đáp điều bí ẩn: tôi bị mắc dạng hiếm gặp của chứng viêm võng mạc sắc tố (retinitis pigmentosa), một chứng bệnh di truyền về thoái hóa võng mạc, và thị lực của tôi chỉ là 20/400. Trước khi vào trung học, tôi đã mù hẳn, chỉ còn nhận biết là có ánh sáng mà thôi. Tôi cho rằng điều bất ngờ xảy ra hôm nay giúp ta sẵn sàng cho những bất ngờ sắp tới. Đương đầu với mù lòa hẳn đã giúp tôi kiên cường hơn. (Hay tôi có thể đương đầu tốt do bẩm sinh tôi đã kiên cường?) Thế nhưng, dù có chuẩn bị kỹ đến đâu, chúng ta vẫn có thể phải hứng chịu nỗi đau quặn lòng. Bố mất năm tôi 13 tuổi. Sáng đó, ông thả mẹ tôi xuống chỗ làm ở Harlem và hứa sẽ đi gặp bác sĩ để khám cái chân đau và những vấn đề hô hấp mà ông đang mắc phải. Tuy nhiên, tại phòng khám bệnh, do nhầm lịch hẹn nên chẳng ai đến khám cho ông khi đó. Bực bội vì chuyện này - và sẵn đang bị stress từ những chuyện khác - ông hét mắng, lao ra khỏi phòng khám và nện chân thình thịch xuống vỉa hè cho đến khi ông gục xuống trước một quán bar. Nhân viên pha chế của quán đã kéo ông vào bên trong và gọi xe cứu thương. Cuối cùng thì bố tôi cũng được đưa đến bệnh viện, nhưng ông không sống nổi vì lên cơn đau tim nhiều lần trên đường đến đó. Chuyện này không có ý nói rằng cuộc đời chúng ta chỉ được định hướng bởi những sự kiện ngẫu nhiên, hú họa và chẳng mấy dễ chịu, nhưng có vẻ như, bất chấp kết quả ra sao, “chiếc xe cuộc đời” vẫn tiến vào vùng đất phần lớn chưa có trên bản đồ. Bạn có thể điều khiển chiếc xe đó được đến đâu khi mà tầm nhìn chỉ có chừng ấy và thời tiết lại thay đổi còn nhanh hơn việc bạn có thể kịp thốt lên mấy tiếng “Bất ngờ quá!”? ........................................ Hượm đã. Tôi vẫn còn một câu chuyện khác để kể cho bạn. Và mặc dù đây là câu chuyện về tôi, nhưng một lần nữa tôi ngờ rằng lần này bạn cũng sẽ thấy chính mình trong đó. Năm 1971, bố mẹ tôi di cư từ Ấn Độ sang Mỹ theo ngả Canada. Như nhiều người đi trước, khi đặt chân lên vùng đất mới và cuộc đời mới này, họ đi tìm một “giấc mơ Mỹ”. Họ sớm phát hiện ra rằng việc theo đuổi giấc mơ đó dẫn đến nhiều thách thức gian khổ, nhưng họ vẫn bền chí. Tôi được sinh ra trong giấc mơ đó, và tôi cho rằng mình hiểu rõ nó hơn bố mẹ vì tôi thông thạo văn hóa Mỹ hơn. Cụ thể tôi nhận thức được rằng thứ tuyệt đẹp tỏa sáng ở trung tâm của giấc mơ này chính là sự lựa chọn - sáng đến nỗi bạn vẫn có thể thấy được nó ngay cả khi bạn, cũng giống như tôi, có mù lòa đi nữa. Bố mẹ tôi đã chọn đến đất nước này, nhưng họ cũng đã chọn việc giữ lại càng nhiều càng tốt những điều liên quan đến đất nước Ấn Độ. Họ sống cùng những người Sikh khác, tuân theo giáo lý của đạo và dạy cho tôi ý nghĩa của sự phục tùng. Ăn gì, mặc gì, học gì và sau này là làm việc ở đâu, kết hôn với ai - tôi đều phải theo phép tắc của người Sikh và ý nguyện của gia đình. Thế nhưng tôi được học ở trường rằng tự quyết định mọi việc cho chính mình không chỉ là điều hợp lẽ tự nhiên mà còn là điều đáng khao khát nữa. Đây chẳng phải là vấn đề liên quan đến nền tảng văn hóa, cá tính hay khả năng; đơn giản đó là sự thật và lẽ phải. Nói cách khác, với một cô gái mù người Sikh bị lệ thuộc vào quá nhiều điều cấm đoán, đây là một tư tưởng hết sức mạnh mẽ. Tôi có thể nghĩ đến đời mình kiểu như định mệnh đã an bài, như thế có lẽ đúng ý với bố mẹ hơn. Hay tôi có thể nghĩ đến nó như một chuỗi tai họa ngoài tầm kiểm soát, đó cũng là một cách lý giải cho sự mù lòa của tôi và cái chết của bố. Tuy nhiên, có vẻ như tình hình sẽ hứa hẹn hơn nếu tôi nghĩ rằng cuộc đời là một chuỗi những lựa chọn, là những điều vẫn còn có thể xảy ra, và là những việc mà tôi có thể biến thành hiện thực. Nhiều người trong số chúng ta nghĩ đến và kể lại câu chuyện của mình chỉ bằng loại ngôn ngữ mà chúng ta đã lựa chọn. Đó hẳn nhiên là ngôn ngữ chung của nước Mỹ, và việc dùng ngôn ngữ này đã gia tăng nhanh chóng ở phần lớn các nơi khác trên thế giới. Chúng ta có lẽ dễ chấp nhận những câu chuyện của người kia hơn khi chúng được kể bằng loại ngôn ngữ này, và như hy vọng của tôi sẽ được trình bày trong quyển sách, “lựa chọn để nói” (speaking choice) mang lại nhiều lợi ích. Nhưng tôi cũng hy vọng sẽ khám phá ra được nhiều nẻo đường khác mà trong đó chúng ta sống và kể lại câu chuyện của mình, hình thành nên những câu chuyện kể phức tạp và mang nhiều sắc thái hơn những ngả rẽ thô thiển của Số phận và Cơ hội mà tôi trình bày ở trên. ........................................ Bài học cuộc đời về sự lựa chọn mà tôi có được từ thuở bé dần dần trở thành những kiến thức hàn lâm khi tôi vào đại học. Tại Đại học Pennsylvania, tôi đã nghiên cứu nhiều nhóm tôn giáo khác nhau để tìm hiểu tôn giáo ảnh hưởng đến nhân sinh quan của con người như thế nào. Nghiên cứu này cho thấy các quan điểm về lựa chọn rất khác nhau, rằng các trải nghiệm của tôi trong vai trò là một người Sikh và một người Mỹ cũng chỉ cho phép tôi biết đến một nhóm nhỏ trong số đó. Sau này, khi là nghiên cứu sinh tiến sĩ khoa tâm lý xã hội tại Đại học Stanford, tôi đã so sánh sự hình thành và thực tiễn của lựa chọn giữa các nền văn hóa. Tôi nghiên cứu sự khác biệt về văn hóa và cả những yếu tố quen thuộc ảnh hưởng đến lựa chọn hàng ngày của chúng ta. Đây chính là trọng tâm của sự nghiệp nghiên cứu của tôi trong 15 năm qua. Khái niệm “lựa chọn” bao hàm quá nhiều ý nghĩa khác nhau và có quá nhiều hướng khác nhau để nghiên cứu về chúng, cho nên tôi không thể nào nêu lên đầy đủ trong một quyển sách được. Tôi chỉ nhắm đến việc khám phá những khía cạnh tôi nhận thấy đáng suy nghĩ và có liên quan nhiều nhất đến cách sống của chúng ta. Quyển sách này được đặt trên cơ sở tâm lý học, nhưng tôi cũng viện đến nhiều lĩnh vực và chuyên môn khác, bao gồm kinh doanh, kinh tế học, sinh học, triết học, nghiên cứu văn hóa, chính sách công và y tế. Với cách làm như vậy, tôi hy vọng thể hiện được hết mức có thể các quan điểm và đem ra bàn luận những quan niệm mà chúng ta đã biết về vai trò và thực tiễn của lựa chọn trong cuộc sống. Mỗi chương trong bảy chương sau sẽ nhìn nhận lựa chọn ở một lợi điểm khác nhau và giải quyết nhiều câu hỏi khác nhau về cách mà lựa chọn tác động đến cuộc sống của chúng ta. Vì sao lựa chọn lại có sức mạnh như vậy và sức mạnh này đến từ đâu? Có phải tất cả chúng ta đều chọn lựa theo cùng một cách? Mối liên quan giữa cách chúng ta chọn lựa và địa vị của chúng ta là như thế nào? Vì sao chúng ta lại thường xuyên thất vọng bởi những lựa chọn của mình, và chúng ta làm thế nào để tận dụng công cụ lựa chọn một cách hiệu quả nhất? Chúng ta kiểm soát lựa chọn hàng ngày của mình nhiều đến đâu? Chúng ta sẽ chọn lựa ra sao nếu quyền lựa chọn của mình gần như không có giới hạn? Chúng ta có nên để người khác chọn lựa thay mình hay không, và nếu có thì đó là ai và vì sao? Dù bạn có đồng ý với các quan điểm, gợi ý và kết luận của tôi hay không - và tôi dám chắc là không phải lúc nào chúng ta cũng đồng ý với nhau đâu - thì chỉ với quá trình tìm hiểu về những vấn đề này cũng có thể giúp bạn có được những quyết định sâu sắc hơn. Lựa chọn, từ việc nhỏ nhặt cho đến một sự kiện thay đổi cuộc đời, cả lúc hiện hữu lẫn khi vắng mặt, là một phần không thể tách rời của các câu chuyện về cuộc đời của chúng ta. Khi bạn đọc quyển sách này, tôi hy vọng bạn có thể thấu hiểu chính bản thân mình, cuộc đời mình, rằng mọi sự đã bắt đầu như thế nào và nó sẽ hướng về đâu. [1] Nguyên văn “multiple identity”.   *** SỐNG SÓT   Bạn sẽ làm gì nào? Nếu bạn bị bỏ rơi ngoài biển trên một chiếc phao nhỏ hay kẹt lại trên núi với chiếc chân gãy hay nói chung gặp trở ngại theo kiểu “bơi ngược dòng không mái chèo” - như mọi người thường nói - thì bạn nghĩ mình sẽ làm gì? Bạn sẽ bơi được trong bao lâu rồi mới xuôi tay? Bạn có thể nuôi hy vọng trong bao lâu? Chúng tôi đưa ra những câu hỏi này, sau khi dùng bữa, trong những lúc tiệc tùng họp mặt, vào những chiều Chủ nhật nhàn rỗi, chẳng phải để tìm vài mẹo vặt hòng sống sót mà vì chúng tôi bị mê hoặc bởi sức chịu đựng tối đa và khả năng ứng phó của chúng ta khi lâm vào tình cảnh cực kỳ khó khăn mà lại không hề được chuẩn bị hoặc không lường trước được. Chúng tôi muốn biết trong số chúng ta, ai sẽ còn sống sót để kể lại câu chuyện? Ví dụ như trường hợp của Steven Callahan. Vào ngày 5 tháng 2 năm 1982, khoảng 800 dặm phía Tây quần đảo Canaria [3] , thuyền của ông, chiếc Napoleon Solo, bị bão đánh lật úp. Callahan, khi đó 30 tuổi, nhận ra chỉ còn mình ông trơ trọi lênh đênh trên biển với một chiếc phao rò rỉ cùng vài nguồn dự trữ ít ỏi. Ông hứng nước mưa để uống và tự làm lao đâm cá. Ông ăn hàu và thỉnh thoảng bắt được những con chim sà xuống ăn phần thịt hàu thừa. Để giữ mình tỉnh táo, ông ghi lại những gì đã trải qua và tập yoga mỗi khi cơ thể yếu ớt của ông cho phép. Còn lại là, chờ đợi và trôi dạt về phía Tây. Bảy mươi sáu ngày sau, ngày 21 tháng 4, một chiếc tàu đã phát hiện ra Callahan ở ngoài khơi miền duyên hải quần đảo Guadeloupe [4] . Thậm chí cho đến ngày nay, ông là một trong số ít ỏi những người cầm cự được trên biển một mình trong hơn một tháng. Không chút nghi ngờ rằng Callahan - một con sói biển - đã nắm vững những kỹ năng đi biển hết sức quan trọng để sống sót, nhưng liệu chỉ với những kỹ năng này thì có đủ để cứu sống ông hay không? Trong cuốn sách của mình, Lênh đênh: Bảy mươi sáu Ngày Lưu lạc trên Biển (Adrift: Seventy-six Days Lost at Sea) ông miêu tả tâm trạng của mình không lâu sau khi xảy ra thảm họa như sau: Quanh tôi lởn vởn mảnh vụn của chiếc Solo . Các thiết bị của tôi được tuyệt đối an toàn, những hệ thống quan trọng nhất vẫn đang hoạt động, công việc ưu tiên trong ngày đã định ra, thứ tự ưu tiên không có gì phải bàn cãi. Dù thế nào chăng nữa, tôi vẫn phải nén lại những nỗi lo lắng, đau đớn, sợ hãi đang trỗi dậy. Tôi là thuyền trưởng của chiếc tàu bé xíu giữa những cơn sóng đầy phản trắc. Tôi đã thoát được trạng thái bấn loạn sau khi mất chiếc Solo và sau cùng cũng đã có nước uống và thức ăn. Tôi vượt qua được cái chết mười mươi và giờ đây tôi đứng trước một lựa chọn: tự mình hướng đến một cuộc sống mới hoặc là đầu hàng và tự nhìn mình chết dần. Tôi chọn cách chiến đấu đến cùng. Callahan đã hình dung lại tình cảnh của mình, dẫu rằng cực kỳ tồi tệ, qua những lựa chọn. Đại dương mênh mông, bốn bề thăm thẳm. Ông chẳng thấy gì khác ngoài một mặt biển xanh bất tận, ẩn chứa bên dưới nhiều nỗi lo sợ và hiểm họa bất chợt. Tuy nhiên, trong tiếng sóng vỗ bập bềnh và tiếng gió rít ông không nghe thấy lời phán quyết phải chết mà thay vào đó là câu hỏi: “Có muốn sống hay không?” Khả năng nghe được câu hỏi đó và trả lời bằng một câu khẳng định - để đòi lại cho mình sự lựa chọn mà dường như hoàn cảnh đã tước bỏ trước đó - có thể là thứ đã giúp ông sống sót. Lần tới, nếu ai đó hỏi rằng “Bạn sẽ làm gì nào?”, bạn có thể trích một trang từ quyển sách của Callahan và trả lời, “Tôi sẽ chọn lựa.” Một người sống sót nổi tiếng khác, Joe Simpson, suýt chết khi leo xuống từ một ngọn núi trong số những đỉnh núi băng nằm trên lãnh thổ Peru của dãy Andes [5] . Sau khi bị ngã gãy chân, ông không thể bước đi được, vì thế người bạn cùng leo núi, Simon Yates đã cố gắng dùng dây thừng để hạ ông xuống nơi an toàn. Do không thể nhìn và nghe thấy Simpson nên khi Yates vô tình hạ ông xuống một gờ đá, Simpson không thể giữ chắc được và ông cũng không thể leo ngược lên được. Giờ đây, Yates phải gánh chịu toàn bộ trọng lượng của Simpson; sớm muộn gì, ông (Yates) cũng không chịu nổi và cả hai sẽ rơi xuống chết. Sau cùng, nhận thấy không còn cách nào khác, Yate cắt sợi thừng, và đinh ninh rằng ông đã kết án tử hình bạn mình. Những gì xảy ra sau đó thật lạ thường: Simpson đã rơi xuống ngay trên rìa của một khe băng, trong vài ngày kế tiếp ông đã bò năm dặm xuyên qua một con sông băng và đến được nơi cắm trại ngay trước khi Yates chuẩn bị bỏ đi. Trong cuốn “Chạm cõi hư không” (Touching the Void) kể về tai nạn này, Simpson viết: Thôi thúc từ bỏ không leo xuống nữa là một điều nhục nhã, không thể chịu đựng được. Tôi không mường tượng được có gì bên dưới nhưng tôi chắc chắn hai điều: Simon đã bỏ đi và sẽ không quay lại. Nghĩa là cứ nằm trên mỏm băng này thì đời tôi thế là chấm dứt. Phía trên không còn lối thoát, và buông mình sang mé bên kia thì chẳng khác nào là một lời mời mọc chấm dứt nhanh chóng mọi chuyện này. Tôi đã bị cám dỗ bởi điều đó, nhưng thậm chí ngay trong cơn tuyệt vọng, tôi thấy rằng mình không đủ can đảm để tự kết liễu cuộc đời. Còn rất lâu mới đến lúc giá rét và sự kiệt sức đánh quỵ tôi trên mỏm băng này, và nghĩ đến việc phải một mình nằm chờ điều đó đến và sẽ loạn trí bởi thời gian quá lâu như vậy đã buộc tôi có lựa chọn này: tụt xuống cho đến khi có thể tìm lối thoát hoặc là chết giữa đường. Tôi thà đi gặp cái chết còn hơn để nó tìm đến mình. Giờ thì chẳng còn đường lùi, dù trong tôi đang gào lên là hãy từ bỏ đi. Với những người có ý chí sắt đá như Callahan và Simpson, việc họ có sống sót hay không chỉ phụ thuộc vào lựa chọn của họ mà thôi. Và như Simpson đã trình bày cụ thể, lựa chọn là một mệnh lệnh chứ không phải là cơ hội; bạn có thể lãng phí cơ hội, nhưng gần như không thể chống lại mệnh lệnh. Dù phần lớn chúng ta sẽ chẳng bao giờ trải qua những hoàn cảnh cực kỳ khắc nghiệt như trên (hy vọng là vậy), thế nhưng hàng ngày chúng ta vẫn phải đối diện với những mệnh lệnh của bản thân, buộc mình phải chọn lựa. Chúng ta nên hành động hay nên dừng lại và quan sát? Bình tĩnh chấp nhận bất kể việc gì xảy ra với mình, hay gan lì theo đuổi những mục tiêu mà mình tự đặt ra? Chúng ta đo cuộc đời mình bằng nhiều thước đo khác nhau: là tháng năm, là những sự kiện lớn, là những thành tựu. Chúng ta cũng có thể đo cuộc đời bằng những lựa chọn mà chúng ta đã thực hiện. Tổng hợp toàn bộ những lựa chọn này mang lại cho chúng ta nơi sinh sống và địa vị xã hội hiện tại, bất kể ta là ai, ta ở đâu. Khi nhìn cuộc đời qua lăng kính này, rõ ràng sự lựa chọn là một nguồn lực vô cùng mạnh mẽ, một yếu tố đóng vai trò quyết định cách sống của chúng ta. Nhưng sức mạnh của sự lựa chọn bắt nguồn từ đâu, và khả năng chúng ta có thể tận dụng triệt để nó ra sao? Mời các bạn đón đọc Nghệ Thuật Chọn Lựa của tác giả Sheena Iyengar.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Tôi Tự Học
Sách “Tôi Tự Học” của tác giả Nguyễn Duy Cần đề cập đến khái niệm, mục đích của học vấn đối với con người đồng thời nêu lên một số phương pháp học tập đúng đắn và hiệu quả. Tác giả cho rằng giá trị của học vấn nằm ở sự lĩnh hội và mở mang tri thức của con người chứ không đơn thuần thể hiện trên bằng cấp. Trong xã hội ngày nay, không ít người quên đi ý nghĩa đích thực của học vấn, biến việc học của mình thành công cụ để kiếm tiền nhưng thực ra nó chỉ là phương tiện để đưa con người đến thành công mà thôi. Bởi vì học không phải để lấy bằng mà học còn để “biết mình” và để “đối nhân xử thế”. Cuốn sách này tuy đã được xuất bản từ rất lâu nhưng giá trị của sách vẫn còn nguyên vẹn. Những tư tưởng, chủ đề của sách vẫn phù hợp và có thể áp dụng trong đời sống hiện nay. Thiết nghĩ, cuốn sách này rất cần cho mọi đối tượng bạn đọc vì không có giới hạn nào cho việc truy tầm kiến thức, việc học là sự nghiệp lâu dài của mỗi con người. Đặc biệt, cuốn sách là một tài liệu quý để các bạn học sinh - sinh viên tham khảo, tổ chức lại việc học của mình một cách hợp lý và khoa học. Các bậc phụ huynh cũng cần tham khảo sách này để định hướng và tư vấn cho con em mình trong quá trình học tập. *** Tôi còn nh ớ một câu chuyện ngụ ngôn Ả Rập rất ngộ nghĩnh sau đây do văn sĩ Anatole France thuật lại: Có một Nhà Vua gọi các bậc trí giả trong nước, bảo tìm tòi và mang lại cho ông sự khôn ngoan. Các bậc bác học ấy sưu tầm tất cả sách vở hay nhất trong nước để chở đến cho Nhà Vua. Nhà Vua đang bận vui chơi trong một yến tiệc nên không có ngày giờ đọc: “Nhiều quá! Làm sao đọc hết được? Suốt đời ta cũng không đọc hết. Các người hãy tuyển lại trong đống sách ấy những quyển nào hay nhất và cần thiết nhất thôi!” Các nhà bác h ọc mới ngày đêm tuyển chọn, còn được một mớ sách hay nhất, bèn đem chở đến Nhà Vua. Bấy giờ Nhà Vua đang mơ màng buồn ngủ, bèn bảo: “Vẫn còn nhiều quá! Các khanh cố gắng thêm lên, đọc lại thật kỹ các sách này và tóm tắt lại tinh hoa của nó, viết thành một quyển sách thôi, rồi ta sẽ đọc quyển ấy để thu thập sự hiểu biết của những bậc thông minh nhất thế giới từ cổ chí kim, có phải tiện hơn không?” Các nhà bác h ọc uyên thâm nhất, cặm cụi cả năm trường mới rút đặng tinh hoa vào một bộ sách duy nhất. Lòng mừng khấp khởi, vị cao niên nhất trong các nhà thông thái ôm bộ sách quýấy vào đền. Nhà Vua cũng vẫn chê là còn dài dòng lắm: “Khanh hãy c ố gắng rút tất cả tinh hoa bộ sách này làm thành một câu thôi, như thế ta chỉ học lấy câu ấy để biết được tất cả cái biết của con người từ xưa đến nay, trong khắp thiên hạ”. Nhà thông thái tr ở về, và sau một tháng trở vào đền, cầm theo câu tư tưởng tinh hoa của tất cả sự hiểu biết của con người, viết trên một tấm lụa ngà: “Con người sinh ra, yếu đuối, trần truồng. Càng ngày càng lớn hơn, về sức mạnh cũng như về dục vọng, nhưng lòng tham muốn lại không bao giờ thoả mãn. Rồi tàn tạ, rồi tiêu vong”. Nhà Vua đang bận sửa soạn ra quân tỏ vẻ giận dữ nói: “Điều ấy có gì mà phải nói. Ta đã biết dư rồi! Chúng anh toàn là bọn láo cá!”. ... Mời các bạn đón đọc Tôi Tự Học của tác giả Nguyễn Duy Cần.
Người Thông Minh Học Tập Như Thế Nào - Ronald Gross
Cuốn sách này được viết nhằm mục đích rất đơn giản: thay đổi những quan niệm về phương pháp học tập nhằm tạo ra một phong cách học tập nhanh, hiệu quả, toàn diện, có năng suất cao, và thú vị hơn nhiều những gì bạn đã biết. Hệ thống các phương pahps học tập đỉnh cao được miêu tả ở đây là tập hợp cách thức bạn có thể sử dụng để đạt được những kỹ năng học tập rộng, sâu và phù hợp với cá nhân hơn bất cứ phương pháp nào bạn từng thử nghiệm trong quá trình học tập trước đây. Phương pháp học tập đỉnh cao là cách thức học tập mới mẻ ngày càng được các nhà giáo dục công nhận là cần thiết cho mọi cá nhân. Đây là một chương trình tự định hướng sự phát triển của mỗi cá nhân. Điều đó nghĩa là nắm bắt những kỹ năng mới để hiểu bản thân mình và thế giới - thứ tài sản đích thực mà có thể bạn chưa bao giờ đánh mất. Những kỹ năng học tập đầy hiệu quả dựa trên khám phá mới về cách thức hoạt động của não bộ và các phương pháp bạn áp dụng khám phá đó cho phong cách học tập của riêng mình. *** Cuốn sách này được viết nhằm mục đích rất đơn giản: Tôi mong muốn thay đổi những quan niệm của các bạn về phương pháp học tập. Tôi muốn chỉ cho bạn cách tạo cho mình một phong cách học tập nhanh, hiệu quả, toàn diện, có năng suất cao, và thú vị hơn nhiều những gì bạn đã biết. Tôi muốn chỉ cho các bạn thấy cách học tập suốt đời.  Hệ thống các phương pháp học tập đỉnh cao được miêu tả ở đây là tập hợp cách thức bạn có thể sử dụng để đạt được những kỹ năng học tập rộng, sâu và phù hợp với cá nhân hơn bất cứ phương pháp nào bạn từng thử nghiệm trong quá trình học tập trước đây. Mỗi ngày qua đi đều có thể trở thành một cuộc hành trình đầy ắp khám phá, với những cơ hội thu nạp thêm kinh nghiệm và kiến thức, tạo dựng thêm nhiều mối quan hệ mới và thấy được những khuôn mặt mới của bản thân cũng như thế giới quanh bạn. Thay vì phải nỗ lực để theo đuổi những cách học thông thường, bạn có thể biến mỗi tháng qua đi trở thành một cột mốc đánh dấu quá trình thám hiểm, tìm tòi và phát triển liên tục không ngừng của bạn.  Phương pháp học tập đỉnh cao là cách thức học tập mới mẻ ngày càng được các nhà giáo dục công nhận là cần thiết cho mọi cá nhân. Đây là một chương trình tự định hướng sự phát triển của mỗi cá nhân. Điều đó nghĩa là nắm bắt những kỹ năng mới để hiểu bản thân mình và thế giới – thứ tài sản đích thực mà có thể bạn chưa bao giờ đánh mất. Đó là sự đầu tư vào chính bản thân mình để tận dụng tốt hơn cơ hội phát huy hết năng lực của mình.  Ban đầu, rất nhiều người gặp rắc rối với ý tưởng tự định hướng việc học tập, bởi vì họ được đào tạo trong một xã hội mà kiến thức thu được chỉ ngang bằng với những điều được dạy trong trường học. Họ tin rằng cách học đúng nhất là ngồi trong lớp học nghe thầy cô giảng bài, xem sách giáo khoa, nghe lời những chuyên gia uy tín, đọc phần tài liệu được giao, ghi nhớ những thông tin nhàm chán, cũ rích cần cho những bài kiểm tra và thi lên lớp. Nhưng trong phương pháp học tập đỉnh cao không tồn tại cách học có chủ ý bắt buộc hay phải ghi nhớ những điều người khác nói với bạn, hay theo đuổi một hệ thống môn học cố định mà một số trường cho là quan trọng. Thay vào đó là một phương pháp học tập độc lập, không ràng buộc, không bị thể chế hoá và đó chính là cách giáo dục đúng đắn nhất hiện có. Từ những quan điểm và kỹ thuật được miêu tả trong những chương sau đây, các bạn có thể tự mình đạt được những điều sau: Sự tự tin mới mẻ về bản thân bạn như là một người có khả năng tự học. Bạn sẽ từ bỏ được những quan điểm sai lệch và cách học tự hạn chế bản thân đã đeo bám bạn từ ngày còn ngồi trên ghế nhà trường. Bạn được thử nghiệm phương pháp học tập mới – một con đường rộng mở hướng bạn trở thành mẫu người bạn mong muốn.  Những kỹ năng học tập đầy hiệu quả dựa trên khám phá mới về cách thức hoạt động của não bộ và các phương pháp bạn áp dụng khám phá đó cho phong cách học tập của riêng mình. Để phát triển phong cách học tập của riêng bạn, bạn cần phải tìm hiểu xem làm thế nào để mình có thể học tốt nhất và làm sao có thể sắp xếp việc học tập của mình đạt hiệu quả cao, dễ dàng và hứng thú nhất. Những cách thức để tìm nguồn tài liệu học tập từ khắp nơi trên hành tinh luôn sẵn sàng khi bạn cần đến chúng. Bạn sẽ khám phá ra cách sử dụng kiến thức trong “trường đại học vô hình”, nơi tập hợp vô số nguồn thông tin, những lời khuyên và sự trợ giúp cho bạn trong học tập.  Những hướng dẫn chi tiết sẽ cho phép bạn ứng dụng những kỹ năng học tập đó trong chính cuộc sống của mình. Khi đọc cuốn sách này, bạn sẽ tìm thấy những bài tập giúp bạn biến kỹ năng học tập trở thành một phần trong hoạt động hàng ngày của bạn. Tự mình ứng dụng chúng sẽ giúp bạn thấu hiểu và cảm thấy thích thú hơn tất cả những chỉ dẫn trừu tượng mang nặng tính lý luận.  Tôi có cảm hứng viết cuốn sách này từ một loạt trải nghiệm phương pháp học tập đỉnh cao trong cuộc đời mình. Đó là những lúc tôi thu được kiến thức, hiểu biết hay tri thức có tác dụng làm thay đổi sâu sắc con người tôi.  Những trải nghiệm đầu tiên là với cha tôi, ông Michael Gross, một người tự học theo phong cách riêng, tự đào tạo mình có được trình độ kiến thức cao nhất ở bậc đại học (sau khi bỏ học ở trường từ năm lớp 6). Cha đã cho tôi thấy chúng ta có thể học được bao nhiêu điều trên xe điện ngầm từ nhà tới công sở và từ công sở về nhà, hay trong phòng đọc sách của thư viện công cộng lớn nằm trên phố 42 ở đại lộ 5. Trải nghiệm thứ hai về phương pháp học tập đỉnh cao đến với tôi khi tôi đang làm việc tại Ban giáo dục của quỹ Ford và viết một số sách về cải cách trường học vào các buổi tối. Chính vào thời điểm đó tôi đi đến kết luận rằng nâng cấp trường học và cao đẳng, thậm chí với nguồn trợ cấp đáng kể, cũng không phải là lời giải cho các vấn đề giáo dục. Thay vào đó, giáo dục cần phải trở thành hoạt động kéo dài suốt đời trong toàn thể xã hội. Con người ở mọi lứa tuổi và trong mọi hoàn cảnh sống đều cần được trợ giúp để có khả năng học tập, thay đổi và phát triển. Tôi đã thành lập một khoá học thử nghiệm tại Đại học New York – khoá học đại học đầu tiên không có giáo trình cụ thể, không có sách giáo khoa, không có những bài giảng được soạn sẵn cũng như không có các kỳ kiểm tra và không phân chia thứ hạng. Thay vì cho sinh viên học những gì giáo viên muốn dạy, chúng tôi giúp họ học những gì họ muốn. Thử nghiệm học tập, theo nghĩa nào đó, là khoá học cho những người tốt nghiệp chỉ bằng việc tham gia vào khoá học mà không cần qua các kỳ thi.   Năm đầu tiên tôi làm việc với 20 người, từ những tiến sĩ khoa học đến những học sinh trung học bỏ học nửa chừng, trong số đó có vài người là bạn thân nhất của tôi. Kinh nghiệm này dạy cho tôi rằng bất cứ lĩnh vực nào mà chúng ta quan tâm, với cùng những khái niệm cơ bản và cách thức áp dụng cho tất cả mọi người – chúng ta đều cần phải có mục đích, kế hoạch học tập cho phù hợp với phong cách học tập của từng người, thiết lập và truy cập nguồn dữ liệu và kiểm tra cách thức chúng ta đang tiến hành những điều đó. Tôi cũng nhận thức được rằng việc học tập suốt đời là điều hoàn toàn có thể và cực kỳ thoải mái, nhưng nó đòi hỏi đi kèm những kỹ năng mới cùng những sáng kiến mới. Những học viên xuất sắc cần có kỹ năng đặc biệt để kiểm soát sự tiến bộ của bản thân suốt đời  Cuối cùng, tôi cũng trở thành Tổng biên tập của tờ Adult and Continuing Education Today (Học tập suốt đời dành cho người đã trưởng thành). Tôi đã có cơ hội được gặp, được giúp đỡ và học hỏi từ nhiều học viên xuất sắc nhất trên khắp nước Mỹ và ở nước ngoài. Bất cứ khi nào và ở đâu, tôi đều thấy những người đàn ông và phụ nữ sử dụng kiến thức để trở nên giàu có hơn, khoẻ mạnh hơn, thành công hơn, và sống có ích hơn. Một số những hiểu biết sâu sắc của tôi được lấy từ trong cuốn sách tôi viết năm 1977 với nhan đề The Lifelong Learner (Học tập suốt đời), được giới thiệu lần này để giúp truyền bá những ứng dụng của nó. Được khuyến khích bởi những khám phá này, tôi bắt đầu mở các cuộc hội thảo, lớp học và các khoá đào tạo giáo viên. Năm 1980, tôi được Liên bang tài trợ khoản đầu tiên để điều tra về những học viên vượt trội và nhận dạng những kỹ năng và năng khiếu giúp họ học tập tốt đến như vậy. Hơn hai trăm cuộc phỏng vấn đã cho tôi câu trả lời. Trong suốt mười năm gần đây, tôi đã áp dụng rất thành công những phương pháp này cho các học viên ở đủ mọi thành phần khác nhau, từ người đứng đầu các tổ chức, hiệp hội, người điều hành các khu vực công cộng, cho đến những người thiểu năng trầm trọng về trí tuệ và thể chất. Trong suốt một tuần tổ chức hội thảo chuyên đề thường niên, tôi thường làm việc với các nhà lãnh đạo cấp cao của McDonnell-Douglas Cooperation hay United Way of Greater New York vào thứ hai và thứ ba, và vào thứ năm hay thứ sáu thì làm việc với những cụ già hưu trí 80 đến 90 tuổi, một vài người trong số đó có dấu hiệu của căn bệnh Parkinson. Họ đều rất hứng thú học tập và sử dụng những kỹ năng cơ bản để tự chịu trách nhiệm phát triển và rèn luyện bản thân. Khi cuốn sách này được xuất bản, băng ghi âm hướng dẫn một vài kỹ năng chính trong sách đã trở thành sản phẩm bán chạy nhất trong nước như là minh chứng cho tính hữu dụng của những phương pháp trên. Mỗi ngày có hàng nghìn người đang tìm hiểu về những phương pháp này và sử dụng chúng để có được những gì họ muốn biết và cần phải biết. Thêm vào đó, tôi có một vài phương pháp học tập đỉnh cao phát triển khoảng chục năm gần đây trong một số lĩnh vực như phát triển con người, đào tạo trong các tổ chức kinh doanh, chính phủ, quân đội, và các liên hiệp. Tới thời điểm này, có thể bạn sẽ thắc mắc có gì mới mẻ và khác lạ đến vậy trong cách tiếp cận phương pháp học tập đỉnh cao tôi trình bày ở đây so với hệ thống những phương pháp học tập đỉnh cao và các học thuyết khác. Từ kinh nghiệm phát triển và ứng dụng, tôi xin đưa ra bốn lý do tại sao phương pháp học tập đỉnh cao đã chứng minh được sức mạnh và làm cho những học viên của tôi cảm thấy hứng thú nhất. Đầu tiên, hệ thống này được thiết kế dành cho nhu cầu học tập của người trưởng thành. Bạn sẽ được lựa chọn những phương pháp và tư liệu phù hợp với dạng môn học mà bạn muốn theo đuổi. Phần lớn các hệ thống học tập khác đưa ra một biện pháp như chiếc chìa khoá dẫn đến thành công. Ví dụ như nhà giáo dục nổi tiếng Mortimer Adler sẽ nói cho bạn rằng có một môn học đáng để học hơn cả (những tác phẩm nghệ thuật kinh điển theo trường phái tự do) và cách để học môn này (thông qua đọc sách và thảo luận). Tôi tin rằng, chính bạn là người đưa ra quyết định cái gì đáng để học nhất. Theo đó, những phương pháp của tôi khuyến khích các bạn quyết định và lên kế hoạch dự định học tập của mình, cả những phương pháp và tư liệu cần thiết kèm theo. Phương pháp học tập đỉnh cao đưa ra cho bạn hệ thống công cụ để bạn quyết định cái gì giúp ích nhiều nhất cho phong cách học tập của bạn và môn học bạn muốn nghiên cứu. Thứ hai, không giống như các hệ thống khác, phương pháp học tập đỉnh cao đề cập đến cả kỹ năng tâm lý nhằm cải thiện việc học tập và lên danh sách những nguồn tư liệu sẵn có ngày nay để khơi nguồn cảm hứng và làm giàu thêm tri thức của bạn. Việc học tập có thành công hay không phụ thuộc nhiều vào khả năng tìm kiếm thông minh tư liệu học tập tốt nhất cũng như phụ thuộc vào những kỹ năng tâm lý. Hệ thống của tôi chỉ ra cách sử dụng thế giới như một kho tư liệu học tập. Thứ ba, phương pháp học tập đỉnh cao giúp bạn khám phá phong cách học tập cá nhân của mình. Một vài hệ thống nói đến ở trên có cân nhắc đến vấn đề này. Đối với tôi, hiểu chính bản thân mình là một lời dạy bảo cơ bản. Bởi mỗi chúng ta đều khác nhau, nên không có một phương pháp toàn năng nào khả thi nhất cho việc học tập. Phương pháp học tập hiệu quả, năng suất và thoải mái đến trực tiếp từ việc lựa chọn những phương pháp phù hợp với bạn cũng như cho môn học mà bạn muốn học. Cuối cùng, một vài phương pháp học tập phụ thuộc chủ yếu vào chuyên gia như giáo viên hay vào trang thiết bị đắt tiền, hoặc đôi khi cả hai. Thường thì các nhà cải cách kèm theo trong hệ thống của họ một vài yếu tố phát triển từ kinh nghiệm và phong cách riêng của bản thân mình thay vì từ những bằng chứng thực nghiệm hay học thuyết đúng đắn. Những nhân tố này có thể vô dụng, hoặc chỉ có tác dụng khi các giáo viên diễn đạt chúng. Bằng cách tổng hợp từ nhiều nguồn tốt nhất khác nhau, cuốn Người thông minh học tập như thế nào? tách biệt các phương pháp khỏi những người tạo nên chúng. Trong khi tôi miêu tả nhiều loại tư liệu nguồn, bạn có thể lựa chọn để sử dụng, những điều cần thiết nhất trong phương pháp học tập đỉnh cao không yêu cầu đến các trang thiết bị đặc biệt. Bất cứ công cụ nào bạn cần đều dễ dàng tìm được ở khắp mọi nơi.  Mời các bạn đón đọc Người Thông Minh Học Tập Như Thế Nào của tác giả Ronald Gross.
7 Loại Hình Thông Minh - Thomas Armstrong
Nếu câu hỏi "Bạn thông minh như thế nào?" được đặt ra thì nhiều khả năng, câu trả lời của bạn trong tình huống này chỉ tập trung dựa vào kết quả các bài kiểm tra và các kỹ năng trong lớp học, từ khi bạn còn cắp sách tới trường. Có thể bạn vừa giải được một câu đố vui trên một tờ báo phổ thông nào đó, liên quan đến việc giải quyết vấn đề theo kiểu như "x có thể là y vì b có thể là...", hoặc đó là một câu đố yêu cầu bạn đưa ra định nghĩa về những từ chẳng hạn như "người bủn xỉn" và kẻ lá mặt lá trái. Trước đây, có thể bạn đã từng làm một bài kiểm tra trí thông minh khi còn đi học hoặc khi bạn đi xin việc. Những khái niệm về chỉ số IQ và trí thông minh có ảnh hưởng cực kỳ to lớn đến sức sáng tạo của hàng triệu người dân nước Mỹ. Việc có một chỉ số IQ thấp hay thiếu sự khôn ngoan trong xã hội chúng ta có nguy cơ bị gán cho nhãn hiệu là "trí tuệ chậm phát triển" hoặc còn tồi tệ hơn nữa. Trên thực tế, nhiều từ ngữ có tính chất bôi nhọ nhất trong văn hoá của chúng ta, gồm có các từ như: người đần độn, kẻ ngu si và thằng ngốc, trước kia đã từng được coi là những cách gọi chính xác, thậm chí là khoa học để mô tả cá nhân nào chỉ đạt điểm thấp, nằm ở phần dưới cùng đường cong đồ thị kết quả kiểm tra trí tuệ. Mặt khác, khi được coi là một tài năng hay thiên tài thì sẽ nhận được những ưu đãi và sự tưởng thưởng của xã hội. Chính xã hội là nơi cung cấp lương bổng hậu hĩnh và nhiều ưu đãi khác cho những cá nhân nào được coi là thể hiện được sự chói sáng và ưu tú nhất. Nội dung cuốn sách "7 loại hình thông minh" gồm có: - Những hiểu biết căn bản làm nền tảng về quá trình diễn ra hoạt động nhận thức của bạn. - Danh sách kiểm tra để xách định khả năng nhận thức nào của bạn là mạnh nhất và khả năng nào là yếu nhất. - Các bài tập thực hành nhằm khảo sát và làm quen với những phương pháp giúp trở nên thông minh, khôn ngoan hơn. - Các mẹo thực hành và những ý kiến đề nghị nhằm mục đích phát triển từng loại tài năng, trí thông minh khác nhau. - Các ý tưởng và nguồn động lực để áp dụng trực tiếp được học thuyết về nhiều loại trí thông minh này vào cuộc sống của bạn. *** Cuốn sách bạn đang cầm trên tay sẽ đưa bạn vào một hành trình khám phá đầy bất ngờ về trí thông minh của con người. Cuốn sách này tiếp cận trí thông minh với những góc nhìn mới mẻ và đa chiều. Vượt ra khỏi những quan niệm hạn hẹp về chỉ số IQ - thường chú trọng vào khả năng suy luận và ngôn ngữ là chính − cuốn sách mang đến cho bạn đọc những trải nghiệm về nhiều loại hình thông minh khác như: trí thông minh vận động cơ thể, trí thông minh không gian, âm nhạc, tương tác cá nhân, nội tâm… Theo tác giả, mỗi người đều có những trí thông minh đó, nhưng ở dạng tiềm ẩn hoặc không được khai thác, hoặc bị mất đi vì một lý do nào đó. Bởi vậy, ai cũng có năng lực ngôn ngữ, ai cũng có một “thiên tài toán học” trong mình, ai cũng có thể luyện tập để có một cơ thể khỏe mạnh cường tráng và hầu hết mọi người đều có khả năng lắng nghe bản thân mình, khả năng tự biết mình và giao tiếp tài tình với người khác… Chỉ có điều, những năng lực này không được phát triển đúng cách. Nếu biết cách khai thác, phát huy những khả năng còn tiềm ẩn trong chính con người mình thì chắc chắn chúng ta sẽ gặt hái được nhiều thành tựu trong học tập và sự nghiệp. Với lối hành văn mạch lạc, sáng rõ, thu hút, Thomas Armstrong mang đến cho bạn đọc một cuốn sách đầy ắp những ý tưởng, giúp bạn khám phá nhiều cách để thông minh hơn, sáng tạo hơn, mạnh khỏe hơn, nhạy cảm hơn, giao tiếp khéo léo hơn, cảm thụ âm nhạc tốt hơn, quan sát tinh tường hơn, yêu thiên nhiên hơn, sống có mục đích và hạnh phúc hơn… Cuốn sách cũng là tiếng nói góp phần xóa bỏ quan niệm có phần thiên lệch tồn tại từ lâu trong chúng ta: quá coi trọng khả năng toán học và ngôn ngữ mà quên mất rằng con người cần phải phát triển hài hòa nhiều khả năng khác nữa. Việc xuất bản cuốn sách này là một cơ hội quý báu, giúp chúng tôi khám phá những kiến thức mới, cách tư duy mới và toàn diện hơn về trí tuệ con người. Nhưng chúng tôi cũng gặp không ít khó khăn. Bởi đây là một cuốn sách có nhiều khái niệm mới nên quả thực rất khó tìm được những thuật ngữ tương đương chính xác trong tiếng Việt để dịch. Vì thế nhiều khái niệm, chúng tôi chỉ có thể chuyển ngữ tương đối nhằm cố gắng chuyển tải ý tưởng cơ bản của tác giả. Có nhiều khái niệm, dù đã cố gắng nhưng Ban biên tập cuốn sách vẫn cảm thấy chưa hoàn toàn ưng ý. Tuy vậy, chúng tôi vẫn mạnh dạn sử dụng những thuật ngữ này và rất mong nhận được ý kiến đóng góp của bạn đọc xa gần, của những dịch giả uyên thâm, có kinh nghiệm và các nhà nghiên cứu lâu năm về lĩnh vực này. Mời các bạn đón đọc 7 Loại Hình Thông Minh của tác giả Thomas Armstrong.
Sức Mạnh Của Sự Mơ Hồ Và Bí Ẩn
Như Jamie Holmes chỉ ra trong cuốn sách này, sự mơ hồ và bí ẩn, sự nhập nhằng,… khiến chúng ta không thoải mái, do đó chúng ta có xu hướng trốn tránh nó và thường bám riết lấy phương án giải quyết an toàn (nhưng không phải lúc nào cũng là tốt nhất), đặc biệt là trong những tình huống nguy hiểm. Nhưng cũng chính vì thế, chúng ta tước đi của chính mình cơ hội quan trọng để tìm hiểu cách giải quyết vấn đề theo hướng mới hoặc quan sát thế giới từ một góc độ khác. Bằng những hiểu biết về tâm lý học xã hội và khoa học nhận thức của tác giả và thông qua những câu chuyện thú vị - từ trò chơi gián điệp và các giáo phái ngày tận thế cho chiến dịch quảng cáo của Absolut Vodka hay sự sáng tạo của Mad Libs – cuốn sách của Jamie Holmes hứa hẹn sẽ làm thay đổi cách chúng ta tiến hành kinh doanh, giáo dục và đưa ra quyết định. Mọi khía cạnh tích cực của “sự mơ hồ và bí ẩn” và cách tận dụng nó đều nằm trong cuốn sách này! ***   N ăm 1996, Đại học City & Islington ở London tổ chức một khóa học tiếng Pháp cấp tốc cho những người mới học và sinh viên dưới trung bình. Paula, một cô bé thiếu niên nghiêm chỉnh đeo một cặp kính gọng mảnh, chưa bao giờ nói được một từ tiếng Pháp nào. Darminder, người có một bộ râu dê và đeo khuyên tai, không chỉ mới học tiếng Pháp mà còn thất bại trong kỳ thi chứng chỉ tiếng Tây Ban Nha tổng quát của bậc giáo dục trung học (GCSE). Abdul đã rớt kỳ thi GCSE tiếng Đức. Satvinder và Maria đều rớt kỳ thi GCSE tiếng Pháp và giáo viên tiếng Pháp của Emily khuyên cô nên bỏ ý định học thứ tiếng này. Tuy nhiên, thay vì từ bỏ tất cả hy vọng, những học viên này đã đăng ký tham gia một khóa học độc nhất vô nhị. Trong năm ngày học toàn thời gian, họ sẽ áp dụng phương pháp kỳ lạ của một nhà ngôn ngữ học tên là Michel Thomas. Trong chiếc áo khoác màu xanh và với mái tóc muối tiêu, trông Thomas toát lên vẻ nhã nhặn. Ông nói với những học viên mới rằng: “Tôi rất mong chờ buổi dạy ngày hôm nay nhưng dưới những điều kiện tốt hơn, vì tôi không nghĩ rằng các em đang ngồi thoải mái. Tôi muốn các em cảm thấy thoải mái, do đó chúng ta sẽ sắp xếp lại mọi thứ.” Trong một chiếc xe tải ở bên ngoài, Thomas đã chuẩn bị sẵn một số vật dụng thay thế không ai ngờ tới cho một lớp học tiêu chuẩn: ghế bành, gối, bàn cà phê, cây cối, thảm, một cái quạt và thậm chí là những tấm đệm gấp làm bằng liễu gai. Chỉ với chút ít thời gian và công sức, các học viên đã hoàn tất việc thay đổi căn phòng. Những chiếc ghế bành lưng cao bọc vải nhung xếp thành một nửa hình ô van, những chiếc rèm xanh được kéo lại, chỉ để lọt ánh sáng mờ trong căn phòng, và những tấm đệm liễu gai bao quanh những chiếc ghế bành mang lại một cảm giác ấm áp và thân mật hơn. Không có những bàn học, bảng đen, giấy, bút hay chì. Thomas không muốn các học viên viết hay đọc bất kỳ thứ gì. Ông không muốn họ nhớ bất cứ điều gì được học, kể cả việc xem lại chúng vào cuối ngày. Nếu trong thời gian học, các sinh viên không nhớ được điều gì đó, ông nói rằng đó không phải vấn đề của họ. Đó là vấn đề của ông. Emily tỏ vẻ hoài nghi. Darminder và Abdul thậm chí còn không giấu được nụ cười tinh quái. Nhưng không ai trong số những sinh viên này có thể ngăn nổi sự tò mò thực sự về người đàn ông đứng tuổi đang đứng trước mặt mình. Ông ta có nghiêm túc không? Không cố gắng nhớ những gì được dạy trên lớp ư? “Tôi muốn các em thoải mái.” Cảnh tượng này, phương pháp của Thomas và các kết quả sau năm ngày học xuất hiện trong một bộ phim phóng sự của đài BBC mang tên Chuyên gia Ngôn ngữ. Margaret Thompson, Trưởng khoa tiếng Pháp của trường được giao nhiệm vụ đánh giá kết quả của Thomas. Vào cuối tuần, bà theo dõi các sinh viên – trong đó rất nhiều người chưa từng nói được một từ tiếng Pháp nào trước đây – đã dịch được những câu hoàn chỉnh sử dụng các dạng ngữ pháp nâng cao. Emily đã có thể dịch được một cụm từ vốn thường mất nhiều tháng để giải quyết: “Tôi muốn biết liệu anh có muốn đến gặp tôi tối nay hay không?” Paula ca ngợi cách Thomas nhấn mạnh sự bình tĩnh và kiên nhẫn. Các sinh viên nói rằng họ cảm thấy như thể đã học được năm năm tiếng Pháp chỉ trong năm ngày. Khá kinh ngạc với kết quả, Thompson rụt rè chấp nhận đánh giá của những học viên này. Michel Thomas biết rằng việc khám phá một ngôn ngữ mới quả thực rất đáng sợ. Các học viên phải đối mặt với cách phát âm mới cho những từ ngữ quen thuộc, các từ vựng mang ý nghĩa kỳ lạ, những phần thiếu của lời nói hay những cấu trúc ngữ pháp lạ lẫm. Đó là lý do vì sao những sinh viên của Đại học City & Islington dù được học trong một môi trường thoải mái vẫn thể hiện sự bối rối: cười lớn căng thẳng, cười nhẹ ngượng ngùng, xin lỗi thầm, nói lắp, lưỡng lự và những cái liếc mắt lúng túng. Học một ngôn ngữ mới đòi hỏi bạn phải đi vào một vùng đất xa lạ. Thomas mô tả ngôn ngữ mới “là thứ xa lạ nhất” mà một người có thể học. Để bảo vệ bản thân trước sự xâm lấn “xa lạ” này, tâm trí sẽ dựng lên những rào cản theo bản năng, vì vậy thách thức đầu tiên và cũng là khó khăn nhất với giáo viên là giúp các học viên kéo đổ những rào cản này. Thomas đã thay đổi môi trường giảng dạy ở Đại học City & Islington từ đáng sợ, đầy căng thẳng thành tò mò, đầy bình tĩnh. Bằng cách nào đó, ông đã khiến tâm trí của các học viên cởi mở hơn. Các học viên vốn có thói quen gạt bỏ những gì chưa hiểu đột nhiên sẵn sàng dấn thân vào những lãnh thổ xa lạ hơn. Vào thời điểm BBC quay phóng sự này (sau đó được phát sóng năm 1997), Thomas đã là một huyền thoại. Ông thành thạo 11 ngôn ngữ, mở ra những trung tâm gia sư ở Los Angeles, New York và xây dựng một thứ gì đó như một “tôn giáo” nhờ vào một danh sách khách hàng bao gồm Grace Kelly, Bob Dylan, Alfred Hitchcock, Coca-Cola, Procter & Gamble và American Express. Nigel Levy, người đã tham gia lớp học của Thomas trước khi sản xuất ra bộ phim phóng sự của BBC, mô tả những bài học của ông là rất “đáng kinh ngạc”. Emma Thompson mô tả thời gian làm việc với ông là “một trải nghiệm học tập đặc biệt nhất trong đời”. Cựu đại sứ Israel ở Liên Hợp Quốc gọi ông là “người lao động thần kỳ”. Và Herbert Morris, cựu Trưởng khoa Nhân văn của UCLA, tiết lộ rằng ông đã học được cả năm tiếng Tây Ban Nha chỉ trong vài ngày học cùng Thomas và vẫn còn nhớ những kiến thức đó mãi tới chín tháng sau. Thomas cho rằng “điều quan trọng nhất là loại bỏ mọi căng thẳng và áp lực”. Ông đặc biệt quan tâm đến trạng thái tâm lý, thậm chí quan tâm đến cực độ. Ví dụ, ông thường bắt đầu dạy tiếng Pháp bằng cách nói với các học viên rằng tiếng Pháp và tiếng Anh có chung hàng nghìn từ vựng, chỉ là chúng nghe có hơi khác nhau một chút. Ông từng nói đùa: “Tiếng Anh chính là tiếng Pháp được phát âm sai.” Ông giải thích rằng những từ ngữ kết thúc với -ible như possible và -able như table đều có nguồn gốc từ tiếng Pháp. Nhờ việc biến những điều xa lạ thành thân quen, ngay từ đầu Thomas đã trao cho các sinh viên những nền tảng vững chắc. Các sinh viên ghép kiến thức mới vào kiến thức hiện hữu từng chút một, thể hiện tư duy riêng và không bao giờ lặp lại những cụm từ theo lối học vẹt. Thomas dạy họ cách tự học và hiếm khi phải uốn nắn các học viên một cách trực tiếp. Đến năm 2004, những đĩa CD, băng dạy tiếng Pháp, Đức, Ý và Tây Ban Nha của Thomas – ghi lại quá trình Thomas dạy từng loại ngôn ngữ cho các nhóm hai học viên – là những khóa học bán chạy nhất ở Anh. Nhưng Michel Thomas không đơn thuần là một nhà ngôn ngữ học. Ông cũng là một anh hùng thời chiến. Cùng năm đó, ông được vinh danh ở Lễ Tưởng niệm Thế chiến II tại Washington D.C, nơi ông nhận được Huy chương Sao Bạc. Ông mất năm 2005 ở New York, là một công dân Hoa Kỳ nhưng sinh ra ở thành phố công nghiệp Lodz, Ba Lan với tên gọi Moniek Kroskof. Ông sống sót qua những trại tập trung, trở thành chỉ huy quân đội, điệp viên và chuyên gia thẩm vấn của phe Đồng Minh. Sau cuộc chiến, ông đã bắt hơn 2.000 tội phạm chiến tranh Đảng Quốc Xã. “Michel Thomas” là nhân dạng giả thứ năm và cũng là bí danh của ông. Kinh nghiệm tuyên truyền chuyên chế và sự nghiệp nằm vùng sau chiến tranh không phải là những điểm đáng chú ý trong lý lịch của Thomas. Những khám phá của ông về cách tâm trí đóng sập cánh cửa hay mở khóa trước sự mơ hồ – trọng tâm chính của cuốn sách này – xuất phát từ những trải nghiệm của ông ở Đức. Ông đã chứng kiến việc Đảng Quốc Xã đã nuôi dưỡng một cách tiếp cận thô bạo, thậm chí khinh bỉ trước sự bất định và phức tạp về đạo đức trong những đảng viên nồng nhiệt nhất như thế nào. Và sau đó ông dành ra nhiều thập kỷ phát triển các phương pháp để nuôi dưỡng một thái độ đối lập tuyệt đối ở những người học ngôn ngữ. Trên thực tế, 50 năm trước khi bộ phim phóng sự của BBC được ghi hình, Thomas đã kiểm tra các ý tưởng đầu tiên của mình trong một phiên bản hoàn toàn đối lập với buổi trình diễn sư phạm của mình ở Đại học City & Islington. *** Năm 1946, Rudolf Schelkmann, cựu thiếu tá đơn vị tình báo SS của Hitler đang lẩn trốn tại Ulm, Đức, đã phối hợp với một mạng lưới những kẻ trung thành với âm mưu tái thiết sự thống trị của Đảng Quốc Xã. Tháng 11 năm đó, Schelkmann cùng ba cựu sĩ quan SS đã bị dẫn dụ vào cuộc gặp với một chỉ huy của lực lượng phản kháng Đảng Tân Quốc Xã hoạt động ngầm và quyền lực hơn. Thực tế, họ sẽ gặp Moniek Kroskof, chính là Michel Thomas, một đặc vụ chìm của Cơ quan Phản gián (CIC) của quân đội Hoa Kỳ. Với nhiệm vụ đem những tên tội phạm chiến tranh này ra trước công lý, Thomas đảm nhận sứ mệnh phát hiện, lần theo dấu vết và phá hủy mạng lưới của Schelkmann. Một nhân viên CIC khác sử dụng cái tên Hans Meyer cũng đã cẩn thận xây dựng quan hệ với những thành viên của mạng lưới, nhưng Schelkmann vẫn rất kiệm lời. Cựu nhân viên SS đã đồng ý chia sẻ các thông tin liên lạc và chi tiết hoạt động, nhưng chỉ sau khi được gặp mặt trực tiếp chỉ huy của Meyer. Thomas phải tránh để Schelkmann và nhóm người của hắn đánh hơi thấy điều gì đó khác thường. Để đạt mục đích này, ông đã tỉ mỉ sắp xếp để đám sĩ quan SS trải nghiệm một chuyến đi quanh co nhiều giờ liền trước khi đến buổi gặp quan trọng. Buổi tối hôm đó, những sĩ quan SS theo lệnh Meyer đã chờ sẵn trong một “ngôi nhà an toàn” ở phía tây nam Ulm. Không được thông báo trước, những chiếc xe mô tô đến đón họ đi. Thomas đã cẩn thận chờ trời đổ mưa; khi đám sĩ quan SS ngồi ở yên sau của những chiếc xe và gió mạnh thổi vào những bộ quần áo thấm đầy nước mưa của họ. Được thả xuống một con đường trống, nhóm sĩ quan bị bịt mắt và bị đẩy vào hai chiếc ô tô. Trong bóng đêm, họ nghe thấy tiếng người trao đổi mật khẩu khi đi qua nhiều trạm kiểm tra an ninh. Họ được kéo ra khỏi xe, dẫn đi qua một con đường đầy bùn lầy và những vũng nước sâu giá lạnh trong trạng thái bị bịt mắt. Chúng phải chờ dưới một hành lang lạnh lẽo và không được nói chuyện. Vẫn bị bịt mắt, chúng lắng nghe những mệnh lệnh ngắn gọn, những bước chân, những tiếng cửa đóng mở vội vã. Khi Schelkmann và nhóm của hắn được dẫn tới một căn phòng lớn bằng gỗ và được cởi bịt mắt, lúc đó đã qua nửa đêm. Thomas – hay Frundsberg với những sĩ quan SS – ngồi sau một chiếc bàn lớn, đối mặt với những kẻ âm mưu. Mặc quần áo thường dân, ngoại trừ chiếc áo sơ mi nâu theo phong cách quân đội, Frundsberg được giới thiệu với nhóm người trung thành với Đảng Quốc Xã là cựu sĩ quan cao cấp của RSHA, một nhóm điệp viên từng nằm dưới quyền giám sát của Himmler. Căn lều đi săn của Frundsberg là trụ sở của tổ chức phản kháng ngầm, được trang trí rất nghệ thuật với tranh chân dung của Hitler và những nhân vật quan trọng của Đảng Quốc Xã, kèm với những quả lựu đạn, súng máy, súng ngắn, súng phun lửa và cả bộc phá. Những xấp tiền mặt nằm trong một chiếc két sắt mở toang. Thomas gật đầu, ngồi xuống và những người đàn ông khác cũng ngồi xuống. Ông im lặng nghiên cứu một tập hồ sơ không rõ nội dung, sau đó nói rõ quan điểm của mình với Schelkmann: ông sẽ không chấp nhận bất kỳ nhóm phản kháng nhỏ lẻ nào. Những hành động quân sự thực hiện ngoài mệnh lệnh của ông sẽ được coi là hành động phản bội, đơn giản và rõ ràng. Với những cử chỉ dường như rất thoải mái, Thomas xem thường Schelkmann và nhóm nhỏ của hắn, và thường nhận những cú điện thoại để nhấn mạnh sự lãnh đạm với nhóm người này. Các cấp dưới của ông đến và đi với những thông cáo rõ ràng rất khẩn cấp. Trong cơn bối rối, vị thiếu tá Đảng Quốc Xã nói ra các chi tiết mà Thomas đang mong chờ: lý lịch của hắn và lý lịch của những sĩ quan SS khác trong phòng, tên của mạng lưới, điều lệ, phương thức, cấu trúc cũng như cách các thành viên được tuyển mộ. Những hoạt động của CIC đêm đó không phải hoàn hảo. Buổi diễn tưởng tượng và tỉ mỉ của Thomas cần khoảng 30 người tham gia đóng kịch, mỗi người đều có một kịch bản được phân công. Các sai lầm và sự thiếu sót nhỏ trong màn trình diễn là điều không tránh khỏi. Thành công của hoạt động phản gián thường nhờ vào việc phát giác ra các chi tiết vụn vặt như vậy, dù những khoảnh khắc lưỡng lự bất thường, phản ứng quái lạ hay những cái giật mình vô tình được hiểu là ác ý hay ôn hòa. Như nhà nhân loại học Margaret Mead từng nói, đó là lý do một số điệp viên Xô Viết thường dùng tẩu. Hành động đó giúp họ duy trì biểu cảm trên khuôn mặt. Những cái nút với khuyết áo đan chéo (chứ không may song song) có thể tiết lộ quốc tịch của điệp viên và làm hỏng cả một chiến dịch khai thác thông tin mật hoàn hảo. Ở Ai Cập, một điệp viên nước ngoài từng bị phát hiện vì tư thế đứng tiểu nơi công cộng. Thomas biết rằng trong hoạt động tình báo, tất cả các chi tiết đều quan trọng và Schelkmann có lý lịch rất đáng gờm trong ngành. Schelkmann có hai cơ hội lật mặt nạ buổi diễn tối hôm đó. Đầu tiên là khi hắn yêu cầu được bổ nhiệm làm giám đốc bộ phận tình báo của Thomas. Thomas sau đó nói với người viết hồi ký của mình, Christopher Robbins, “Tôi không lường trước được điều này. Tôi không thể đáp ứng yêu cầu đó của hắn nếu không tuyển mộ hắn vào tổ chức, một điều tất nhiên là hoàn toàn bất khả thi. Tôi đã chỉ ra các điểm yếu trong hoạt động của hắn, dù trong thực tế đó là điều tôi buộc phải thán phục hắn.” Theo kế hoạch, Thomas không chỉ phải bịa ra một âm mưu phản kháng giả mà còn phải tỏ ra khinh thường một mạng lưới tình báo được quản lý tốt. Schelkmann không phát hiện ra và không phản kháng. Khoảnh khắc thành bại thứ hai của tối hôm đó – theo Thomas là khoảnh khắc nguy hiểm nhất – là khi Schelkmann bất ngờ hỏi xin mệnh lệnh. “Und was befehlen Sie uns jetzt zu tun?” Và giờ ngài ra lệnh cho chúng tôi làm gì? Như Robbins nhớ lại, Thomas sợ rằng mặt nạ của ông bị lộ ra và ông đã bước ra khỏi vai diễn. Nhưng một lần nữa, những sĩ quan SS không để ý thấy điều đó. Thomas trấn tĩnh, ra lệnh cho những người Đức dừng bất kỳ hoạt động đang trì hoãn nào và chuẩn bị cho một cuộc kiểm tra. Màn trình diễn của ông đã sơ suất hai lần, nhưng Schelkmann cũng đã bỏ lỡ cả hai. Đây là lợi ích của những hành động bịt mắt, đổi xe, đi qua bùn đất, quần áo đẫm nước mưa và màn đối xử khinh miệt mà nhóm những kẻ âm mưu bị buộc phải chịu đựng: bỏ qua những manh mối, xem nhẹ các dấu hiệu. Thành công của hoạt động đêm hôm đó không dựa vào sự hoàn hảo trong triển khai. Ngược lại, Thomas biết rằng sẽ xuất hiện những sơ suất có thể làm hỏng buổi diễn và buộc ông phải bắt nhóm đảng viên Quốc Xã ngay lập tức. Tài năng của ông nằm ở khả năng thao túng tâm trạng và làm giảm đi nhu cầu kiểm soát mà nhờ đó, những người này sẽ ít lưu ý đến những sai lầm mang tính khoảnh khắc đó. Vài tháng sau, khi Thomas rời công việc với CIC ở Đức để về Mỹ, một điệp viên mới nhận nhiệm vụ giăng bẫy nhóm đảng viên Quốc Xã liều lĩnh này. Đóng vai phó của Frundsberg, điệp viên thay thế này sắp xếp một cuộc họp với Schelkmann và nhóm người của hắn ở một quán bia địa phương. Vợ và bạn gái được phép tham gia. Lần này, một khoảnh khắc căng thẳng ập đến và điệp viên ngầm này tỏ ra bối rối, khiến nhóm sĩ quan SS cảm thấy có gì đó không đúng. Chúng quyết liệt thẩm vấn anh ta. Điệp viên CIC này hoảng loạn rút ra một khẩu súng ngắn, và các sĩ quan CIC ngầm nấp trong quán bia chẳng còn lựa chọn nào khác ngoài việc xông đến bắt đám người này, tóm được ít kẻ âm mưu hơn so với kỳ vọng. Schelkmann ngồi tù 12 năm. Ban đầu khi bị buộc tội, hắn và các đồng sự kịch liệt phủ nhận tuyên bố dường như khó hiểu của bên truy tố rằng Frundsberg cũng làm việc cho những người Mỹ. Cũng giống như những học viên của Thomas, những sĩ quan SS đã đóng tư duy của họ lại. *** Cuốn sách này nghiên cứu cách con người diễn giải thế giới. Nó viết về những gì xảy ra khi chúng ta bối rối và mọi thứ có vẻ không rõ ràng. Tất nhiên, hầu hết thách thức trong cuộc sống thường cực kỳ rõ ràng. Khi trời đổ tuyết, chúng ta biết mặc áo khoác trước khi ra ngoài. Khi điện thoại kêu, chúng ta nhấc điện thoại lên. Đèn đỏ có nghĩa là chúng ta phải dừng lại. Ở chiều ngược lại, nhiều phạm vi kiến thức hoàn toàn khiến chúng ta bối rối. Nếu giống tôi, bạn sẽ chẳng hiểu gì khi đọc chữ Ba Tư hay nghe một cuộc tranh luận của các chuyên gia vật lý hạt nhân. Chúng ta sẽ không thể bối rối nếu có ít nhiều hiểu biết nào đó trong đầu. Thay vì cảm thấy khó chịu vì chỉ hiểu một phần vấn đề, chúng ta nên cảm thấy bình tĩnh trước sự ngu ngơ của bản thân, giống như cách chúng ta an tâm tuân theo những trình tự thường nhật. Cuốn sách này nghiên cứu vùng đất chếnh choáng nằm giữa hai cực, khi chúng ta có vẻ đang thiếu những thông tin cần thiết để thấu hiểu một trải nghiệm hay những thông tin nào đó quá phức tạp. Sự mơ hồ sẽ xuất hiện trong những tình huống không hoàn toàn rõ nghĩa này. Trạng thái tâm trí bối rối vì sự mơ hồ được gọi là trạng thái bất định, và nó là một trạng thái khuếch đại cảm xúc. Nó khiến sự căng thẳng trở nên đau đớn hơn, và cảm giác thích thú trở nên thú vị hơn. Ví dụ, cảm giác thích thú với trò chơi ô chữ đến từ quá trình suy nghĩ và giải quyết các manh mối không rõ ràng. Những câu chuyện trinh thám tạo ra sự hồi hộp bằng cách duy trì trạng thái bất định về những manh mối và kẻ thủ ác. Nghệ thuật hiện đại đi theo hướng bẻ cong tư duy, tính đa dạng của thơ ca, những câu đố của Lewis Carroll, chủ nghĩa hiện thực thần kỳ của Marquez, văn châm biến hiện thực của Kafka – sự mơ hồ thấm đẫm tất cả những hình thái và tác phẩm nghệ thuật của loài người, hàm ý một bản chất cảm xúc sâu sắc. Goethe từng nói rằng: “Sự đồng thuận khiến chúng ta trở nên thụ động, nhưng mâu thuẫn sẽ khiến chúng ta trở nên hiệu quả hơn.” Sự mơ hồ cũng vậy. Những chuyến du lịch, các bảo tàng khoa học và những câu đố trí tuệ xác nhận tiềm năng tuyệt vời của sự mơ hồ trong vai trò quyến rũ trí tưởng tượng của chúng ta. Nhưng chúng cũng cho thấy mối quan hệ giữa chúng ta và sự thiếu trật tự mang tính nhận thức có thể biến đổi thế nào. Chúng ta thích sự bất định được đưa vào nề nếp cẩn thận như một buổi trưng bày nghệ thuật hiện đại. Chúng ta chỉ thích cảm giác mơ hồ trong những bối cảnh không mang tính đe dọa, như khi âm nhạc chơi đùa với những âm thanh chói tai hay một bộ phim kinh dị chơi đùa với sự điên khùng. Khi đối mặt với những trải nghiệm không rõ ràng vượt ra khỏi giới hạn này, chúng ta hiếm khi cảm thấy an toàn. Các tình huống bất định trong đời thực thể hiện ở những sự kiện không thể lý giải, các dự định không rõ ràng, hay những thông tin tài chính, y tế không mang tính kết luận. Có thể vợ hoặc chồng bạn không có được một công việc mà cô ấy/anh ấy hoàn toàn đủ năng lực. Hay bạn cảm thấy không khỏe nhưng các chẩn đoán của bác sĩ không thể lý giải được mọi triệu chứng của bạn. Có lẽ bạn đang thương lượng một vụ làm ăn với ai đó mà bạn không thực sự tin tưởng. Hay có thể bạn đang cố gắng viết một kế hoạch kinh doanh trong một thị trường thay đổi nhanh chóng và rất cạnh tranh. Những lần đưa ra quyết định quan trọng trong cuộc sống của chúng ta – từ chọn trường đại học đến quyết định nơi sinh sống – luôn liên quan đến hoạt động xử lý các thông tin mập mờ trong những tình huống đầy rủi ro. Tuy nhiên, ngày nay thế giới đang trở nên quá tải thông tin và hỗn độn hơn bao giờ hết. Nghịch lý của cuộc sống hiện đại là dù công nghệ phát triển – trong ngành giao thông, truyền thông và sản xuất – có thể mang lại nhiều thời gian hơn cho con người, nhưng các phát minh đó lại làm gia tăng số lượng các lựa chọn theo cấp số nhân. Thư điện tử nhanh hơn thư bưu điện rất nhiều và Internet cũng mang lại cả Twitter, YouTube, v.v... Như nhà xã hội học người Đức Hartmut Rosa mô tả: “Dù có gia tăng ‘tốc độ cuộc sống’ nhanh thế nào đi nữa, chúng ta cũng không thể bắt kịp trận đại hồng thủy các thông tin và lựa chọn.” Kết quả là “phần thế giới mà chúng ta tiếp cận” có vẻ như ngày càng nhỏ lại, thậm chí khi chúng ta tiếp cận nó một cách hiệu quả hơn. Ước tính rằng có 90% dữ liệu trên thế giới đã được tạo ra chỉ trong 5 năm gần đây. Tất cả chúng ta đều đang chết chìm trong cơn lũ thông tin, một thực tế khiến những quyết định đơn giản nhất – ăn ở đâu, đăng ký chương trình chăm sóc sức khỏe gì, mua cà phê từ nhà sản xuất nào – trở nên đầy rủi ro. Trong khi đó, chúng ta đối mặt với những căng thẳng xã hội đến từ sự bất bình đẳng gia tăng và một tương lai kinh tế bất định khi máy móc bắt đầu thay thế con người trong nhiều ngành công nghiệp. Quản lý trạng thái bất định ngày càng trở thành một kỹ năng thiết yếu. Nhà kinh tế học Noreena Hertz gần đây tranh luận rằng một trong những thách thức căn bản của thế giới hôm nay là “sự thiếu trật tự – một sự kết hợp của sự sụp đổ những trật tự cũ, vững chãi và bản chất cực kỳ bất định của thời đại chúng ta.” Tự động hóa và thuê ngoài sẽ đòi hỏi những người lao động trong tương lai phải cách tân và sáng tạo hơn. Như chuyên gia kinh tế Lawrence Katz đã nói, thành công hay thất bại sẽ chỉ dựa trên một câu hỏi: “Bạn giải quyết những vấn đề không cấu trúc như thế nào, và bạn xử lý những tình huống tốt ra sao?” Những công việc mà có thể “được biến thành một thuật toán”, theo cách gọi của ông, sẽ không quay trở lại. Katz nói với tôi: “Kỹ năng sẽ được coi trọng trong tương lai là năng lực học các kỹ năng mới mà vẫn thích nghi với môi trường và năng lực khám phá ra những giải pháp sáng tạo vượt ra khỏi những cách làm tiêu chuẩn.” Cũng như những người lao động ngày nay phải học cách thích nghi với những gì xa lạ, lực lượng lao động ngày mai phải chuẩn bị cho điều đó. Miguel Escotet, một nhà khoa học xã hội đã đưa ra một lập luận rất hay. Các trường học nên “giảng dạy kỹ năng xử lý sự bất định, đơn giản vì với rất nhiều sinh viên, hầu như họ không thể biết chuyện gì sẽ xảy ra vào thời điểm bước chân vào thị trường lao động”. Với Escotet, giảng dạy kỹ năng quản lý sự bất định nghĩa là giúp sinh viên trở nên linh hoạt, tự biện, tò mò và chấp nhận rủi ro – những năng lực có xu hướng biến mất khi sự căng thẳng chiếm lĩnh tâm trí chúng ta. Tương tự, các doanh nhân không thể cách tân nếu không có khả năng đi thong dong vào những vùng lãnh thổ xa lạ khác nhau. Năng lực xử lý sự mơ hồ và trạng thái bất định không phải là một chức năng của sự thông minh. Trên thực tế, khả năng này chẳng liên quan gì đến chỉ số IQ. Tuy nhiên, nó là một thách thức cảm xúc – một câu hỏi về tư duy – và là thứ mà tất cả chúng ta cần phải thành thạo. Vấn đề ngày nay là tìm ra cái phải làm – trong công việc, quan hệ và cuộc sống hằng ngày – khi chúng ta không biết phải làm gì. Sự quan tâm của giới khoa học đối với sự mơ hồ đã bùng nổ trong hơn một thập kỷ qua. Hầu hết đều tập trung vào việc tìm hiểu về một khái niệm mang tên nhu cầu kết thúc vấn đề. Được phát triển bởi nhà tâm lý học lỗi lạc Arie Kruglanski, nhu cầu kết thúc vấn đề của một người được đo lường bởi “một khao khát cụ thể nhằm tìm ra đáp án xác định cho chủ đề nào đó, miễn sao đáp án đó không rối rắm và mập mờ”. Cũng như phương pháp giảng dạy ngược đời của Michel Thomas, khái niệm của Kruglanski – và thực tế là một nghiên cứu tâm lý hiện đại về chủ đề sự mơ hồ – có thể truy ngược để thấu hiểu Chủ nghĩa Quốc Xã. Năm 1938, nhà tâm lý học nghiên cứu Chủ nghĩa Quốc Xã tên là Erich Jaensch đã xuất bản cuốn sách Der Gegentypus (tạm dịch: Vật tượng trưng), một cuốn sách đáng ghê tởm trong đó ông mô tả sự chắc chắn là dấu hiệu đáng ngại của sức khỏe tâm thần. Với Jaensch, hành động chịu đựng sự nghi ngờ là bằng chứng của bệnh tâm thần. Sau cuộc chiến, Else Frenkel-Brunswik, một nhà tâm lý học ở Đại học California, đã giới thiệu khái niệm không khoan dung sự mơ hồ. Trong một thí nghiệm, bà cho các đối tượng nghiên cứu xem một chuỗi các hình ảnh, bắt đầu bằng bản phác thảo hình một con chó. Các hình ảnh dần thay đổi hình dạng thành hình một con mèo. Các đối tượng không khoan dung sự mơ hồ – những người có xu hướng nhìn nhận thế giới theo các phạm trù cứng nhắc – khăng khăng một cách cố chấp rằng hình ảnh đó vẫn là con chó. Phát biểu ngược hoàn toàn với Jaensch, Frenkel-Brunswik cho rằng hành động không thể chịu đựng được những thông tin không rõ ràng cho thấy một trạng thái tâm thần không lành mạnh. Kruglanski đưa ra một luận điểm khiêm tốn và có phần nhiễu loạn hơn Frenkel-Brunswik. Ông hiểu rằng con người có nhu cầu giải quyết trạng thái bất định và diễn giải những gì vô nghĩa. Ông lý luận rằng con người sẽ mất đi tính thích nghi nếu chúng ta không có cơ chế thúc đẩy bản thân giải quyết những sự thiếu nhất quán và ra quyết định. Khi không có động lực giải quyết vấn đề, chúng ta sẽ chẳng bao giờ làm xong việc gì. Đó là nhu cầu kết thúc vấn đề. Nhưng Kruglanski cũng nghi ngờ rằng xu hướng bài xích sự bất định của chúng ta không bất động. Ông tự hỏi chuyện gì sẽ xảy ra nếu khao khát tìm kiếm các đáp án rõ ràng của chúng ta trở nên quá mạnh? Chuyện gì xảy ra nếu Chủ nghĩa Quốc Xã một phần được châm ngòi bởi sự kết hợp nguy hiểm giữa một lý tưởng đầy căm hờn đi kèm với xu hướng ghét bỏ sự mơ hồ bị thổi phồng của những người ủng hộ? Thực tế, đó là điều mà Kruglanski và những nhà nghiên cứu khác đã khám phá ra. Như chúng ta sẽ thấy, nhu cầu “giải quyết những vấn đề còn dang dở” đóng vai trò thiết yếu đối với năng lực hành động của chúng ta ở thế giới này. Nhưng cũng giống như bất kỳ đặc điểm tâm lý nào khác, nhu cầu này có thể bị cường điệu hóa ở vài người và leo thang trong những tình huống nhất định. Như Kruglanski đã nói với tôi: “Tình huống, văn hóa, môi trường xã hội – nếu thay đổi bất kỳ yếu tố nào trong số đó, bạn sẽ thay đổi nhu cầu kết thúc vấn đề của ai đó.” Tâm lý e sợ sự bất định có thể mang tính lây truyền khi những người xung quanh chúng ta bị lây lan một cách vô thức. Trong các tình huống căng thẳng, chúng ta thường tin tưởng những cá nhân trong nhóm xã hội của chúng ta nhiều hơn và tin tưởng những người ngoài ít hơn. Sự mệt mỏi làm chúng ta ưu ái sự trật tự hơn. Áp lực thời gian cũng vậy. Khi nhu cầu kết thúc vấn đề tăng cao, chúng ta có xu hướng quay về những công thức có sẵn, nhảy thẳng đến các kết luận và từ chối những mâu thuẫn. Chúng ta có thể khăng khăng một cách cứng đầu như Rudolf Schelkmann, rằng con chó vẫn là con chó chứ không phải con mèo. Michel Thomas hiểu rõ sức mạnh của bối cảnh đối với việc mở hoặc đóng tư duy. Ông biết cách dùng sự mơ hồ để thao túng các đòn bẩy tình huống vốn kiểm soát sự thoải mái của chúng ta. Hãy suy nghĩ về việc bối cảnh của CIC ở Ulm đã biến đổi thành những bài học của Thomas ở City & Islington hoàn hảo như thế nào. Muốn khiến các sĩ quan SS chịu áp lực thời gian, ông trả lời nhiều cú điện thoại trong thời gian diễn ra cuộc gặp và bảo đảm rằng sẽ có những “trợ lý” luôn ngắt lời ông. Muốn đe dọa họ, ông trưng đầy vũ khí và các xấp tiền trong căn chòi đi săn. Để khiến các sĩ quan SS rơi vào trạng thái phòng thủ, ông nhốt họ vào một căn nhà an toàn xa lạ. Để khiến họ mệt mỏi và cảm thấy không thoải mái, ông bắt họ đi xe dưới trời mưa, đợi trong cái lạnh và đi qua những vũng nước băng giá. Ngược lại, ở London, Thomas khuyến khích các sinh viên kiên nhẫn. Để các sinh viên được thoải mái, ông nói với họ rằng nhiệm vụ của họ không phải là cố gắng ghi nhớ. Ông thậm chí còn yêu cầu họ khiêng những chiếc bàn học ra khỏi phòng và thay chúng bằng nội thất phòng khách cùng với những tấm rèm bằng liễu gai. Các sinh viên tự sắp xếp không gian học riêng. Để giúp họ kiểm soát bản thân tốt hơn, ông trấn an rằng họ đã quá quen với hàng nghìn từ tiếng Pháp. Thomas đã sử dụng những công cụ trấn áp cảm giác nghi ngờ của các đảng viên Quốc Xã để chống lại họ và sau đó áp dụng cách tiếp cận đối lập để giúp các học viên học tập hiệu quả. Sự đe dọa, cảm giác khó chịu, áp lực thời gian – những đồng minh của Thomas – cũng chính là kẻ thù của ông trong vai trò một giáo viên. Thomas biết cách gia tăng khả năng khiến Schelkmann và các sĩ quan của hắn bỏ qua những mâu thuẫn tiềm năng, ông cũng biết cách gia tăng sự thân thuộc giữa các học viên với một ngôn ngữ xa lạ. Thomas hiểu rằng nhu cầu kết thúc vấn đề không phải lúc nào cũng liên hệ trực tiếp đến một trường hợp mơ hồ cụ thể. Những chiếc ghế thoải mái chẳng liên quan gì đến đại từ tiếng Pháp, cũng như những vũng nước lạnh giá chẳng liên quan gì đến việc liệu có nên tin ai đó không. Ông thấy rằng phản ứng của chúng ta trước sự bất định (thậm chí với cả những căng thẳng không liên quan) là cực kì nhạy cảm. Như Kruglanski đã chỉ ra, chúng ta thường không nhận ra một tình huống làm gia tăng hay giảm bớt nhu cầu kết thúc vấn đề, hay việc này ảnh hưởng ra sao đến phản ứng của chúng ta trước sự mơ hồ. Đó là điều khiến phương pháp của Thomas trở nên quá ấn tượng. Chúng ta thường không nghĩ rằng việc đóng mở tư duy bị ảnh hưởng lớn bởi những tình huống xung quanh. Dù có thể nhận ra ai đó ít nhiều cảm thấy thoải mái với sự bất định, nhưng chúng ta có xu hướng xem đây là một đặc điểm bất biến. Tuy vậy, chúng ta không phụ thuộc vào yếu tố di truyền nhiều như chúng ta nghĩ. Cuốn sách này lập luận rằng chúng ta thường yếu kém trong việc quản lý sự mơ hồ và có thể làm tốt hơn. Vài năm trở lại đây, những khám phá mới trong ngành tâm lý xã hội và khoa học nhận thức đã mở rộng hiểu biết của chúng ta về cách con người phản ứng trước sự mơ hồ theo hướng mà các nhà nghiên cứu của những năm 1950 không thể đo lường được. Những nghiên cứu đột phá tạo ra các cách tiếp cận mới và thông minh hơn để giải quyết sự mơ hồ trong công việc và các mối quan hệ trong gia đình. Những khám phá này sẽ chỉ ra con đường để sự mơ hồ giúp chúng ta học được những thứ mới mẻ, giải quyết một vấn đề khó khăn hay nhìn thế giới từ một góc nhìn khác. Phần I sẽ trình bày các vấn đề nền tảng liên quan đến sự mơ hồ. Chúng ta sẽ khám phá các lựa chọn tự nhiên trong cơ chế tâm lý của chúng ta và gặp một nhà tâm lý học trẻ tuổi ở Hà Lan, người đang lãnh đạo phong trào hướng đến một lý thuyết mới, thống nhất về cách chúng ta diễn giải thế giới. Phần II tập trung vào các rủi ro của việc chối bỏ sự mơ hồ. Chúng ta sẽ nhìn nhận sự khác biệt giữa “phản ứng thông minh” và “phản ứng vội vã” trước những sự kiện bất định, theo dõi một đàm phán viên lão luyện của FBI đối thoại với một nhà lãnh đạo giáo phái lưỡng lự, và quan sát một tình huống mà trong đó cảm giác thoải mái của một bệnh nhân ung thư đã giúp thay đổi cách đưa ra các quyết định y học. Chúng ta cũng sẽ tìm hiểu cách một doanh nghiệp chuẩn bị cho tương lai bằng việc nhận ra sự vô ích của hoạt động dự báo. Phần III nhấn mạnh vào lợi ích của sự mơ hồ trong những bối cảnh mang tính thách thức như: cách tân, học tập hay nghệ thuật. Sự bất định có những công dụng gì? Làm sao để giáo viên có thể chuẩn bị tốt hơn cho sinh viên trước các thách thức bất định? Liệu hành động ôm ấp sự bất định có giúp chúng ta phát minh hoặc tìm thấy đáp án trong những vùng đất mới, hoặc thậm chí là gia tăng sự cảm thông không? Tại phần này, chúng ta sẽ thấy cách phản ứng của một nhà sản xuất xe mô tô Grand Prix trước một mùa giải thất bại, sau đó chúng ta sẽ làm quen với một nhà sáng chế ở Massachussetts, người đã vượt qua những giới hạn ẩn giấu đằng sau ngôn ngữ. Ngoài ra, chúng ta sẽ xem xét lợi ích của việc sử dụng song ngữ và gặp một nhà sản xuất phim táo bạo ở Jerusalem. Bên cạnh đó, tôi cũng hy vọng rằng bạn sẽ tin vào một tuyên bố đơn giản: trong một thế giới ngày càng phức tạp, bất định, điều quan trọng nhất không phải là IQ, sức mạnh tâm trí hay sự tự tin vào những gì chúng ta biết, mà là cách chúng ta xử lý những gì chúng ta không biết. Mời các bạn đón đọc Sức Mạnh Của Sự Mơ Hồ Và Bí Ẩn của tác giả Jamie Holmes.