Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Tuổi Già Tập 1 - Simone de Beauvoir

Simone de Beauvoir (1908 - 1986) là nhà văn, nhà triết học và một nhà đấu tranh cho nữ quyền người Pháp. Là một nhà văn từng được giải Goncourt nhưng cũng là một học giả uyên bác, các tác phẩm của bà được lấy cảm hứng từ chính cuộc đời mình đồng thời đầy ắp các dữ kiện khoa học, lịch sử, thống kê… Hai tác phẩm non-fiction được biết ở Việt Nam nhiều nhất của bà là Giới tính thứ nhì và Tuổi già. Giới tính thứ nhì (xuất bản năm 1949), được xem là một trong những quyển sách hay nhất của thế kỷ 20, là một cuốn bách khoa toàn thư về các giai đoạn của cuộc đời phụ nữ từ lúc sinh ra, dậy thì, lấy chồng, làm mẹ; đồng thời vạch ra con đường giành quyền lợi cho nữ giới. Với tác phẩm này, bà được xem là “Bà mẹ của phong trào nữ quyền". Tuổi già được viết lúc Beauvoir hơn 50 tuổi, mô tả chi tiết cuộc sống của người già và đấu tranh giành quyền cho họ. Người ta chỉ có thể hiểu được thân phận người già khi ở tuổi đó. “50 tuổi, tôi giật nảy mình khi một nữ sinh viên Mỹ kể lại với mình câu nói của một cô bạn: "Nhưng Simone de Beauvoir là một bà già chứ sao!" Cả một truyền thống dồn cho từ ngữ này một cái nghĩa xấu; nó vang lên như một lời thoá mạ. Vì vậy, người ta phản ứng, thường bằng giận dữ, khi nghe người khác bảo mình già. Tôi có biết nhiều người phụ nữ được biết tuổi tác của mình một cách khó chịu qua một kinh nghiệm giống như kinh nghiệm Marie Dormoy: một người đàn ông, bị vẻ trẻ trung của hình bóng bà đánh lừa, đi theo bà trên đường phố; đến khi đi vượt qua bà và trông thấy gương mặt bà, thì thay vì bắt chuyện, ông ta rảo bước.” "Bạn có biết khuyết tật nào lớn nhất trong các khuyết tật không? Đó là tuổi trên 55" – Tourgueniev. Vào tuổi 55, Trotsky phàn nàn người mệt mỏi, mất ngủ, hay quên; ông có cảm giác sức lực sút kém; và lo lắng. Ông gợi lại quá khứ: "Anh buồn bã nhớ lại tấm ảnh của em, tấm ảnh của chúng ta, trong đó chúng ta trẻ trung biết chừng nào”. Già đi – đó là một điều không thể tránh khỏi và cũng là một quá trình chấp nhận đầy đau đớn. "Wagner kinh hãi thấy mình già đi, 80 tuổi, ông viết: “Hình hài tôi làm người ta khiếp sợ và khiến tôi u sầu một cách xót xa”. Sự suy sụp về thể chất khiến người già không còn có thể tham gia sản xuất hay xây dựng, do đó họ bị xem như gánh nặng, phải phụ thuộc vào người khác. Beauvoir viết về những trại dưỡng lão ở ngoại ô Paris với những người già như bị xã hội bỏ quên, sống mòn mỏi chờ đợi những cuộc viếng thăm của con cháu. Theo Beauvoir, đối đãi công bằng với người già là cách ứng xử có trước có sau mà nếu khác đi là làm lung lay gốc rễ của xã hội hiện đại. *** Khi còn là thái tử Siddharta, bị vua cha nhốt trong một tòa lâu đài tráng lệ, nhiều lần Thích Ca trốn đi dạo chơi bằng xe ngựa trong vùng. Trong lần dạo chơi đầu tiên, thái tử gặp một người tàn tật, tóc bạc, răng rụng, da nhăn nheo, cúi gập người trên một cây gậy, miệng lập cập, hai tay run rẩy. Chàng lấy làm ngạc nhiên và người xà ích giải thích đó là một ông già. Thái tử liền thốt: “Những kẻ hèn yếu và dốt nát, chuếnh choáng vì niềm kiêu hãnh của tuổi trẻ, không thấy được tuổi già. Khốn khổ biết chừng nào! Hãy trở nhanh về nhà thôi. Các trò chơi và niềm vui mà làm gì, vì ta là nơi ẩn náu của tuổi già mai sau”. Qua một ông già Thích Ca nhận ra số phận của chính mình, sinh ra để cứu vớt loài người, Thích Ca muốn chia sẻ hoàn toàn với số phận của họ. Và về điểm này, Người khác họ: họ lẩn tránh những gì không làm họ vui lòng. Và đặc biệt là tuổi già. Châu Mỹ đã loại trừ ra khỏi từ vựng của họ từ: người chết: mà chỉ nói người khuất bóng thân yêu; cũng giống như vậy, họ tránh liên hệ tới tuổi già. Ở nước Pháp ngày nay, đó là một đề tài cấm kỵ. Khi bắt buộc phải vi phạm điều cấm kỵ ấy, tôi đã bị người ta la ó! Chấp nhận mình đã bước vào ngưỡng cửa của tuổi già, tức là cho rằng nó rình rập tất cả mọi người phụ nữ, rằng nó đã tóm cổ nhiều người. Với thái độ dễ thương hay giận dữ, nhiều người, nhất là người già, không ngớt nhắc đi nhắc lại với tôi rằng làm gì có tuổi già! Có những người không trẻ bằng những người khác, chỉ thế thôi! Đối với xã hội, tuổi già xuất hiện như một điều bí ẩn đáng xấu hổ, mà nói tới là điều khiếm nhã. Trong mọi lĩnh vực, văn học viết rất nhiều về phụ nữ, về trẻ em, về thiếu niên; ngoài các công trình chuyên môn, người ta rất ít ám chỉ tới tuổi già. Một tác giả băng hoạt hình đã phải làm lại cả một loạt tác phẩm vì trước đó ông ta đã đưa vào trong số các nhân vật một cặp vợ chồng đáng tuổi làm ông làm bà: “Hãy loại bỏ người già đi!” - người ta hạ lệnh cho ông ta[1]. Khi tôi nói mình viết một cuốn tiểu luận về tuổi già, người ta thường thốt lên: “Sao lại kỳ thế!... Bà đâu có già!... Đề tài ấy, ngán lắm...” Chính vì lý do ấy mà tôi viết cuốn sách này: để phá tan sự đồng tình im lặng. Theo Marcuse, xã hội tiêu thụ đem một ý thức tốt đẹp thay thế cho ý thức xấu xa và bài xích mọi ý nghĩ tội phạm. Cần khuấy động sự yên ổn của nó. Đối với người có tuổi, nó chẳng những là phạm tội, mà còn là một tội ác. Ẩn náu phía sau các huyền thoại bành trướng và phong túc, nó cho người già là những kẻ khốn cùng. Ở Pháp, nơi tỷ lệ người già cao nhất thế giới - 12% dân số trên 65 tuổi - họ bị dồn vào cảnh khốn cùng, cô đơn, tàn tật, thất vọng. Ở Mỹ, số phận của họ cũng không sung sướng hơn. Nhằm dung hòa sự man rợ này với thứ đạo lý nhân văn chủ nghĩa mà họ thuyết giáo, giai cấp thống trị có cách đơn giản là không xem họ là những con người; nếu nghe tiếng nói của họ, người ta bắt buộc phải thừa nhận đó là một tiếng nói của con người; tôi sẽ buộc độc giả của mình nghe tiếng nói ấy. Tôi sẽ miêu tả hoàn cảnh của họ và cách họ sống; tôi sẽ nói những gì diễn ra thực sự trong đầu óc và trong con tim họ - những thứ bị dối trá, huyền thoại và những lời sáo rỗng của nền văn hóa tư sản xuyên tạc. Vả lại, thái độ của xã hội đối với họ mang tính chất đồng lõa sâu sắc. Nói chung, xã hội không coi tuổi già là một lớp tuổi rõ rệt. Cuộc khủng hoảng về tuổi dậy thì cho phép vạch ra giữa một thiếu niên và người trưởng thành một đường ranh giới chỉ mang tính võ đoán trong những giới hạn chật hẹp; ở tuổi 18, 21, thanh niên được chấp nhận vào xã hội con người. Hầu như bao giờ xung quanh sự thăng tiến ấy cũng có những “nghi thức chuyển giai đoạn”. Còn thời điểm bắt đầu tuổi già thì không được xác định rõ rệt, nó thay đổi theo từng lúc, từng nơi. Không ở đâu, người ta bắt gặp “nghi thức chuyển giai đoạn” thiết lập một quy chế mới[2], về chính trị, suốt đời, cá nhân giữ nguyên những quyền lợi và nghĩa vụ giống nhau. Luật Dân sự không mảy may phân biệt giữa một cụ già trăm tuổi và một người tuổi bốn mươi. Các nhà làm luật cho rằng ngoài những trường hợp bệnh lý ra, trách nhiệm hình sự của người có tuổi cũng hoàn toàn đầy đủ như của thanh niên[3]. Trong thực tiễn, người ta không coi họ là một lớp người riêng, vả lại, họ cũng không muốn như vậy; có sách, báo, sân khấu, những buổi truyền hình và truyền thanh dành cho trẻ em và thiêu niên: còn đối với người già thì không[4]. Trên tất cả những bình diện này, người ta đồng hóa họ với lớp người lớn tuổi trẻ hơn. Nhưng khi quyết định quy chế kinh tế của họ, hình như người ta cho là họ thuộc một lớp người xa lạ: họ không có những nhu cầu cũng như những tình cảm giống như những người khác, nếu chỉ cần ban cho họ một chút bố thí khốn khổ là cảm thấy hết nợ đối với họ. Các nhà kinh tế học, các nhà làm luật tin vào cái ảo ảnh thuận tiện ấy khi phàn nàn cái gánh nặng những người không hoạt động gây nên cho những người hoạt động: như thể những người này không phải là những người không hoạt động trong tương lai và không bảo đảm chính ngày mai của mình trong lúc xây dựng việc nhận lấy trách nhiệm đối với những người có tuổi. Còn các nhà hoạt động công đoàn thì không nhầm lẫn: khi đưa ra những đòi hòi, bao giờ họ cũng coi trọng vấn đề hưu trí. Những người già không tạo nên một lực lượng kinh tế nào thì không có cách gì để đòi hỏi quyền lợi của mình: lợi ích của những kẻ bóc lột, là tiêu diệt tình đoàn kết giữa người lao động và người không sản xuất, sao cho không một ai bênh vực những người này. Những huyền thoại và lời sáo rỗng theo tư duy tư sản tìm cách chỉ ra một con người khác trong người già. “Chính với những thiếu niên sống khá nhiều năm mà cuộc đời tạo nên lớp người già” - Proust từng nhận định như vậy - họ giữ lại những nết tốt và những tật xấu của con người trong họ. Điều đó, dư luận không muốn biết tới. Nếu biểu thị những ham muốn, những tình cảm, những đòi hỏi giống như những người trẻ tuổi, thì người già làm người ta công phẫn; ở họ, tình yêu nam nữ, lòng ghen tuông hình như là bỉ ổi hay lố bịch, còn tình dục thì đáng ghê tởm và bạo lực thì chẳng có nghĩa lý gì. Họ phải là tấm gương về mọi đức tính. Trước hết, người ta đòi hỏi ở họ sự thanh thản; người ta khẳng định họ có lòng thanh thản ấy, nên cho phép người ta không quan tâm tới nỗi bất hạnh của họ. Cái hình ảnh người ta tô vẽ về họ là hình ảnh một nhà Hiền triết trong ánh hào quang của một mái tóc bạc trắng, giàu kinh nghiệm và khả kính, vượt lên rất xa thân phận con người; nếu rời khỏi hình ảnh ấy, là họ rơi xuống phía dưới; cái hình ảnh đối lập với hình ảnh trên đây, là hình ảnh một lão già điên lẩm cẩm, lố lăng, bị trẻ em chế giễu. Dẫu sao, do đức độ hay do sự đê tiện của họ, họ ở ngoài nhân loại. Vì vậy, người ta có thể không ngại ngần khước từ đối với họ những gì tối thiểu được coi là cần thiết cho một cuộc sống con người. Người ta đẩy xa sự loại thải này tới mức làm cho nó quay trở lại chống chính bản thân mình; người ta sẽ không công nhận bản thân mình trong hình ảnh ông già mà chính mình là ông già đó. Proust nhận xét một cách xác đáng: “Trong mọi hiện thực, (tuổi già) có lẽ là hiện thực mà chúng ta giữ lại một khái niệm thuần túy trừu tượng lâu bền nhất trong đời”. Tất thảy mọi người đều khả tử: họ nghĩ tới điều đó. Nhiều người trong số họ trở thành người già: hầu như không một ai hình dung trước sự biến đổi ấy. Người ta không chờ đón, không dự kiến một cái gì khác ngoài tuổi già. Khi được hỏi về tương lai của họ, thanh niên, nhất là nữ thanh niên, cho đời mình kéo dài nhiều nhất đến tuổi 60. Một số cô gái bảo: “Em không chờ đến ngày ấy, em sẽ ra đi trước đó”. Và thậm chí, một vài cô nói: “Em sẽ tự sát trước ngày ấy”. Người trưởng thành hành động như thế không bao giờ phải trở thành người già. Thông thường, người lao động kinh hoàng khi điểm giờ nghỉ hưu: thời hạn nghỉ hưu vốn đã được ấn định trước, người đó biết thời hạn ấy, nhẽ ra họ phải chuẩn bị sẵn. Sự thật là sự hiểu biết ấy vẫn xa lạ đối với họ cho tới giây phút cuối cùng - trừ phi nó thực sự mang tính chất chính trị. Đến ngày đó, và khi đã bước tới gần, thông thường, người ta thích tuổi già hơn là cái chết. Tuy vậy, đứng cách xa, người ta xem xét cái chết sáng suốt hơn cả. Cái chết nằm trong phạm vi những khả năng trực tiếp của chúng ta, uy hiếp chúng ta ở mọi lứa tuổi; có lúc chúng ta suýt chết; thông thường, chúng ta sợ chết. Con người ta không trở nên già nua trong chốc lát; ở tuổi thanh niên hay lúc tráng niên, chúng ta không nghĩ là tuổi già tương lai đã tiềm ẩn trong con người mình như Thích Ca: tuổi già ấy cách xa chúng ta tới mức khoảng cách ấy lẫn lộn trước mắt mình với sự vĩnh hằng: tương lai đối với chúng ta như thể phi hiện thực. Vả lại, cái chết không là gì cả; người ta có thể cảm thấy một nỗi bàng hoàng siêu hình trước cái hư vô ấy, nhưng bằng một cách nào đó, nó làm người ta yên lòng, nó không đặt thành vấn đề. “Ta sẽ không còn nữa”. : ta giữ hình tích của mình trong sự tiêu vong ấy[5]. Ở tuổi 20, hay 40, tôi nghĩ mình già, tức là nghĩ mình là người khác. Trong mọi sự biến đổi, đều có một cái gì đó khủng khiếp. Ở tuổi ấu thơ, tôi bàng hoàng, và thậm chí kinh hoàng khi hiểu ra sẽ có ngày mình sẽ trở thành người lớn. Nhưng ý muốn mình vẫn là bản thân mình, thường được bù đắp ở buổi thiếu thời bởi những lợi thế của quy chế người trưởng thành. Còn tuổi già thì xuất hiện như một nỗi bất hạnh: ngay cả ở những người mà người ta cho là vẫn giữ được vẻ quắc thước, sự suy sụp về thể chất mà tuổi già kéo theo cũng vẫn lồ lộ trước mắt. Vì ở loài người, sự đổi thay do năm tháng là nổi bật nhất. Loài vật thì gầy đi, yếu đi, nhưng không biến đổi. Còn con người thì có. Người ta se lòng khi nhìn thấy bên cạnh một thiếu phụ trẻ, phảng phất trong gương hình ảnh chính mình những năm tháng sau này: tức là mẹ mình. Theo Lévi-Strauss, người Da đỏ Namblikwara chỉ có một từ để nói “trẻ và đẹp” và một từ để nói “già và xấu”. Trước hình ảnh người già gợi ý với chúng ta về tương lai của mình, chúng ta không tin; một tiếng nói nội tâm thầm thì một cách phi lý với chúng ta rằng điều đó sẽ không đến với mình: sẽ không còn là chúng ta nữa khi điều đó xảy tới. Trước khi nó ập xuống chúng ta, tuổi già là cái chỉ liên quan tới ngườl khác. Vì vậy, có thể hiểu vì sao xã hội có thể khiến chúng ta không coi người già là đồng loại của mình. Thôi, chúng ta đừng tự lừa dối mình nữa; ý nghĩa cuộc sống chúng ta nằm trong tương lai đang đón đợi mình; chúng ta không biết mình là ai, nếu không muốn biết mình sẽ là người thế nào: chúng ta hãy tự nhận biết mình ở ông lão kia, ở bà già nọ. Cần phải như vậy nếu chúng ta muốn đảm nhận thân phận con người của mình một cách trọn vẹn. Chỉ có như vậy, chúng ta mới không còn chấp nhận một cách thờ ơ nỗi bất hạnh của lứa tuổi cuối cùng, chúng ta sẽ cảm thấy mình ở trong cuộc: và quả chúng ta ở trong cuộc. Nỗi bất hạnh ấy tố cáo một cách vang dội chế độ bóc lột chúng ta đang sống. Người ta không thể tự mình thỏa mãn nhu cầu của mình, bao giờ cũng bị coi là một gánh nặng. Nhưng trong những tập thể có một sự bình đẳng nào đó - trong lòng một cộng đồng nông thôn, ở một số dân tộc nguyên thủy - người đứng tuổi, tuy không muốn biết, vẫn biết ngày mai thân phận của mình sẽ là thân phận mà ngày hôm nay người đó quy cho người già. Đấy là ý nghĩa truyện cổ tích của Grim, được thuật lại ở mọi miền thôn dã. Một gã nông dân bắt người cha già ăn riêng, trong một cái máng gỗ nhỏ; hắn bất chợt thấy đứa con trai đang ghép những miếng ván. Nó bảo ông bố: “Cho bố đấy, khi bố về già”. Thế là ông già lại ngồi vào bàn ăn cùng cả nhà. Trước lợi ích lâu dài và lợi ích trước mắt, các thành viên còn hoạt động trong tập thể sáng tạo nên những sự thỏa hiệp. Tình trạng cấp bách của nhu cầu buộc một số người nguyên thủy giết chết bố mẹ, dù về sau, có phải chịu một số phận như thế. Trong những trường hợp ít căng thẳng hơn, sự phòng xa và tình cảm gia đình chế ngự tính ích kỷ. Trong thế giới tư bản, lợi ích dài hơn không còn tác dụng: những kẻ có đặc quyền và quyết định số phận của đám đông không sợ phải nếm trải số phận ấy. Còn những tình cảm nhân văn chủ nghĩa thì không bao giờ can thiệp tới, mặc dù những lời huyênh hoang dối trá. Cơ sở của nền kinh tế là lợi nhuận; trên thực tiễn, toàn bộ nền văn minh phụ thuộc vào nó: người ta chỉ quan tâm tới tập thể người trong một doanh nghiệp trong chừng mực tập thể ấy có lợi. Sau đó, họ bị vứt bỏ. Tại một hội nghị gần đây, tiến sĩ Leach, nhà nhân chủng học ở Cambritgiơ tuyên bố: “Trong một thế giới đang chuyển động, trong đó máy móc có những cuộc đời rất ngắn ngủi, con người không nên phục vụ quá lâu. Tất cả những gì vượt qua 55 năm tuổi đều phải loại bỏ”[6]. Cái từ “đồ bỏ đi” nói đúng điều nó muốn nói. Người ta kể lể với chúng ta rằng nghỉ hưu là thời gian của tự do và giải trí; có những nhà thơ ca ngợi “lạc thú nghỉ ngơi”. Đó là những lời dối trá vô liêm sỉ. Xã hội áp đặt cho số đông người già mức sống khốn khổ tới mức từ ngữ “già nua và đói nghèo” trở thành hầu như một từ thừa (pléonasme); ngược lại, số đông người bần cùng là người già. Nhàn rỗi không mở ra cho người nghỉ hưu những khả năng mới; vào lúc cá nhân, đến phút cuối cùng, được giải thoát khỏi những sự ràng buộc, người ta tước đoạt của họ mọi phương tiện sử dụng quyền tự do. Họ buộc phải sống lay lắt trong cô đơn và phiền muộn, như một vật phế thải không hơn không kém. Khi trong mười lăm hay hai mươi năm cuối đời, một con người chỉ còn là một vật chẳng ai đoái hoài, thì đó là sự thất bại của nền văn minh chúng ta: sự thật hiển nhiên ấy khiến chúng ta nghẹn ngào nếu chúng ta coi người già là những con người từng có một cuộc sống con người phía sau họ, chứ không phải là những xác chết dật dờ. Những ai tố cáo cái chế độ đọa đày vốn là chế độ chúng ta, phải đưa điều điếm nhục ấy ra ánh sáng. Chính bằng cách tập trung nỗ lực của mình vào thân phận những người xấu số nhất, người ta có thể làm lay chuyển một xã hội. Để phá hủy hệ thống đẳng cấp, Gandhi tìm cách giải quyết thân phận tầng lớp Tiện dân (parias); nhằm tiêu hủy gia đình phong kiến, nước Trung Hoa cộng sản giải phóng phụ nữ. Đòi hỏi con người cứ phải là con người ở lứa tuổi cuối cùng của họ bao hàm một sự đảo lộn triệt dể. Không thể thu được kết quả ấy với một vài cải cách hạn hẹp không đụng chạm tới hệ thống: chính nạn bóc lột người lao động, chính quá trình phân hủy xã hội và sự khốn cùng của một nền văn hóa chỉ dành riêng cho tầng lớp quan lại, dẫn tới những cảnh già nua phi-nhân văn ấy. Chúng chỉ ra rằng cần làm lại tất cả, từ đầu. Chính vì vậy, vấn đề này bị nhấn chìm trong im lặng hết sức kỹ lưỡng; và chính vì vậy, cần phá tan sự im lặng ấy: tôi mong đợi độc giả giúp đỡ tôi trong công việc này.   Mời các bạn đón đọc Tuổi Già Tập 1 của tác giả Simone de Beauvoir.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Con Mắt Biên Tập
Tác giả cuốn sách là những nhà báo và chuyên gia tên tuổi trong giới truyền thông Mỹ. Bà Jane T. Harrigan là giáo sư khoa báo chí ở Đại học New Hampshire kiêm cố vấn cho nhiều ấn phẩm đa dạng. Bà Jane đã có 23 năm giảng dạy nghiệp vụ biên tập. Còn Karen Brown Dunlap là giám đốc Viện Báo chí Poynter ở Florida và đã hai lần tham gia ban giám khảo giải thưởng báo chí Pulitzer. "Con mắt biên tập" là cuốn sách nghiệp vụ báo chí đầu tiên trong tủ sách "Nghề báo" do công ty Sài Gòn truyền thông thực hiện. Nhà báo Trần Trọng Thức, người có nhiều đóng góp với các tờ Tin Sáng, Tuổi Trẻ, Lao Động, Thời báo Kinh tế Sài Gòn... và hiện nay là tờ Doanh nhân Sài Gòn Cuối tuần đã viết lời giới thiệu cuốn sách. Tuần Việt Nam xin trân trọng giới thiệu tới quí vị độc giả: Bài báo đến với bạn đọc là một quá trình không đơn giản bởi phải qua rất nhiều công đoạn. Tác giả những bài viết có chất lượng cao thường được độc giả yêu mến và cảm phục, thế nhưng người làm cho bài báo ấy hoàn chỉnh hơn, chính xác hơn và hấp dẫn hơn lại không được mấy ai biết đến. Đó là các biên tập viên, thường được ví von là "những nhà báo thầm lặng". L.R.Blanchard thuộc hệ thống báo chí Gannett nổi tiếng trên thế giới, khi nói về tầm quan trọng của biên tập viên đã cho rằng, một Ban Biên Tập thật giỏi với những biên tập viên trình độ nghiệp vụ trung bình cũng chỉ có thể cho ra đời một tờ báo xoàng xĩnh. Một Ban Biên Tập tầm thường mà có những người biên tập đầy năng lực thì có thể đưa ra công chúng một tờ báo hạng khá. Một Ban Biên Tập bản lĩnh được hậu thuẫn bởi những người biên tập giỏi thì bảo đảm xã hội có được một tờ báo thật hay. Ông nói thêm: "Dù người viết nổi tiếng đến thế nào đi nữa, bài của họ chỉ có lợi hơn nếu được người khác đọc và biên tập". Vai trò của người biên tập ngày càng quan trọng cùng với quá trình phát triển của truyền thông nói chung và báo chí nói riêng. Đã từ lâu, nhiệm vụ của biên tập viên chủ yếu là sửa sai, gạn lọc và trau chuốt câu cú làm cho bài viết giản dị, dễ hiểu. Để làm công việc vừa nói một cách hoàn mỹ, người biên tập cần tra cứu, đối chiếu tài liệu và hội ý với người viết. Bài viết sau khi được sửa sẽ trở nên trong sáng, mạch lạc và ít sai sót hơn. Nhưng chừng ấy vẫn chưa đủ, anh ta còn phải sống trong dòng thời sự chủ lưu, có trí phán đoán, sự uyên bác trong nhiều lĩnh vực, óc biện luận và phản biện, trí tưởng tượng, đức tính thận trọng và khiêm tốn, đồng thời cũng phải biết hoài nghi. Giờ đây khái niệm biên tập đã được mở rộng, biên tập viên có mặt hầu như ở các khâu quan trọng trong quá trình sản xuất của một tờ báo với nhiều chức danh khác nhau, từ biên tập nội dung đến biên tập kỹ thuật, từ biên tập tít tựa các bài viết đến hình ảnh và cả biên tập trình bày trang báo... Với ban biên tập, họ là một bộ phận tham mưu đắc lực về nội dung tờ báo. Với phóng viên họ là người bạn đồng hành cùng làm việc, có khi tham gia từ bước đầu tư duy đề tài, trao đổi thông tin lẫn giúp hoàn chỉnh bài viết. Khái niệm huấn luyện viên viết báo (Writing-coach) được nói đến trong cuốn sách nghiệp vụ báo chí mà bạn đọc đang cầm trên tay có thể cho chúng ta hình dung biên tập viên làm việc như một huấn luyện viên trong thể thao. Họ không dạy dỗ mà cùng làm việc và chia sẻ thông tin với phóng viên, biết phát huy thế mạnh của từng người trong đội ngũ và tôn trọng phong cách của các cây viết. Sửa bài nhưng không được sửa ý, đó là nguyên tắc mà người biên tập nào cũng thuộc nằm lòng. Chính sự tôn trọng ý tưởng của người viết khiến báo chí phản ánh được những góc nhìn khác nhau về một vấn đề được xã hội quan tâm, mới không bị rập khuôn như cách hiểu máy móc báo chí là một công cụ. Với cộng tác viên, biên tập viên làm vai trò trung gian giữa người làm báo và người viết báo. Vai trò ấy khiến việc sửa bài cho người bên ngoài đôi khi khó khăn và phức tạp hơn. Đã có không ít các bậc học giả, các chuyên viên mà tên tuổi đã trở thành "thương hiệu" khi thấy bài viết của mình bị sửa đôi chút đã vội phê phán tòa soạn một cách nặng nề rằng: đẻ đứa con ra không ai muốn con mình bị cắt chân, cắt tay. Thật ra người biên tập không độc ác như vậy, anh ta chỉ cắt những mẩu thịt thừa và vài dị tật của cơ thể ấy mà thôi. Thế nhưng điều này không phải lúc nào cũng được các tác giả đồng tình. Chẳng hạn không ít cộng tác viên là chuyên viên lỗi lạc, nội dung các bài viết của họ nhiều khi được chuyển tải bằng những ngôn ngữ có tính bác học, phù hợp với phong cách nghiên cứu. Nhưng khổ nỗi, tờ báo lại có yêu cầu là làm sao để hầu hết độc giả của mình nắm bắt được những kiến thức uyên thâm ấy bằng một thứ ngôn ngữ đời thường dễ hiểu, đó là ngôn ngữ của báo chí. Cho nên tìm được một chuyên viên, một học giả, một nhà văn viết báo giỏi là điều rất quý đối với một tờ báo. Nếu không được như vậy, thì công việc của người biên tập sẽ rất nặng nề để tranh thủ được sự vừa lòng cả hai phía người viết và người đọc. Thực tế cho thấy để bài báo hoàn chỉnh hơn thì công việc biên tập nên khởi đầu từ chính tác giả. Người viết, nếu được trau dồi kỹ năng sẽ biết những nguyên tắc căn bản về sửa bài để tránh bớt những sơ sót, cũng như để hoàn thiện cách sử dụng từ ngữ và lối hành văn. Bài viết của những nhà báo thận trọng sau khi qua tay người biên tập giỏi có khả năng sẽ tăng thêm hiệu ứng, tờ báo tạo thêm được uy tín với độc giả. Báo chí là một sản phẩm của xã hội. Định chế xã hội dù có khác nhau nhưng đạo đức nghề nghiệp vẫn cần được chuẩn hóa trên cơ sở tôn trọng sự thật, tính trung thực và khách quan, vì sự tiến bộ mọi mặt của con người và sự phát triển của cộng đồng. Làm thế nào để góp phần làm cho xã hội ngày hôm nay tốt hơn hôm qua và ngày mai tốt hơn hôm nay, phải chăng suy nghĩ đó đã khiến ngày càng có nhiều người thuộc các lĩnh vực hoạt động khác nhau tham gia vào đời sống báo chí. Trong một không gian viết báo ngày càng được mở rộng như vậy thì "Con mắt biên tập" (The Editorial Eye) của hai tác giả Jane T. Harrigan và Karen Brow Dunlap được Sài Gòn Media và báo Sài Gòn Tiếp Thị giới thiệu với người đọc vào thời điểm này rõ ràng đã đáp ứng nhu cầu của những người yêu nghề báo. Có thể xem đây là một cẩm nang nghiệp vụ đúng nghĩa với những chỉ dẫn chi tiết dành cho cả người viết lẫn người làm báo, không chỉ bổ ích cho phóng viên mới vào nghề tránh được những vấp ngã mà còn giúp những ai muốn đi xa hơn trong nghề viết hệ thống lại kỹ năng cơ bản. Nội dung cuốn sách này còn bổ sung cho những khiếm khuyết trong giáo trình báo chí ở các trường đại học hiện nay, nơi mà những nhà báo tương lai được truyền đạt kiến thức đại cương và lý thuyết nhiều hơn các kỹ năng nghiệp vụ của báo chí thế giới đang phát triển không ngừng. Không quá đáng khi nói rằng, "Con mắt biên tập" là một đóng góp đáng kể trong việc hoàn chỉnh phong cách viết báo hiện đại mà chúng ta đang hướng đến. *** LỜI GIỚI THIỆU           Để một bài báo đến được với bạn đọc là một quá trình không đơn giản bởi phải qua rất nhiều công đoạn. Tác giả những bài viết có chất lượng cao thường được độc giả yêu mến và cảm phục, thế nhưng người làm cho bài báo ấy hoàn chỉnh hơn, chính xác hơn và hấp dẫn hơn lại không được mấy ai biết đến. Đó là các biên tập viên, những người thường được ví von là "những nhà báo thầm lặng".     L.R.Blanchard thuộc hệ thống báo chí Gannett nối tiếng trên thế giới, khi nói về tầm quan trọng của biên tập viên, đã cho rằng, một ban biên tập thật giỏi với -những biên tập viên trình độ nghiệp vụ trung bình cũng chỉ có thể cho ra đời một tờ báo xoàng xỉnh. Một ban biên tập tầm thường mà có những người biên tập đầy năng lực thì có thể đưa ra công chúng một tờ báo hạng khá. Một ban biên tập bản lĩnh được hậu thuẫn bởi những người biên tập giỏi thì bảo đảm xã hội có được một tờ báo thật hay. Ông nói thêm: "Dù người viết nổi tiếng đến thế nào đi nữa, bài của họ chỉ có lợi hơn nếu được người khác đọc và biên tập".     Vai trò của người biên tập ngày càng quan trọng cùng với quá trình phát triển của truyền thông nói chung và báo chí nói riêng. Đã từ lâu, nhiệm vụ của biên tập viên chủ yếu là sửa sai, gạn lọc và trau chuốt câu cú làm cho bài viết giản dị, dễ hiểu. Để làm công việc vừa nói một cách hoàn mỹ, người biến tập cần tra cứu, đối chiếu tài liệu và hội ý với người viết. Bài viết sau khi được sửa sẽ trở nên trong sáng, mạch lạc và ít sai sót hơn. Nhưng chừng ấy vẫn chưa đủ, anh ta còn phải sống trong dòng thời sự chủ lưu, có trí phán đoán, sự uyên bác trong nhiều lĩnh vực, óc biện luận và phản biện, trí tưởng tượng, đức tính thận trọng và khiêm tốn, đồng thời cũng phải biết hoàn nghi.     Giờ đây khái niệm biên tập đã được mở rộng, biên tập viên có mặt hầu như ở các khâu quan trọng trong quá trình sản xuất của một tờ báo với nhiều chức danh khác nhau, từ biên tập nội dung đến biên tập kỹ thuật, từ biên tập tít tựa các bài viết đến hình ảnh và cả biên tập trình bày tang báo…     Với ban biên tập, họ là một bộ phận tham mưu đắc lực về nội dung tờ báo. Với phóng viên họ là người bạn đồng hành cùng làm việc, có khi tham gia từ bước đầu tư duy đề tài, trao đổi thông tin lẫn giúp hoàn chỉnh bài viết.     Khái niệm huấn luyện viên viết báo (Writing-coach) được nói đến trong cuốn sách nghiệp vụ báo chí mà bạn đọc đang cầm trên tay có thể cho chúng ta hình dung biên tập viên làm việc như một huấn luyện viên trong thể thao. Họ không dạy dỗ mà cùng làm việc và chia sẻ thông tin với phóng viên, biết phát huy thế mạnh của từng người trong đội ngũ và tôn trọng phong cách của các cây viết.     Sửa bài nhưng không được sửa ý, đó là nguyên tắc mà người biên tập nào cũng thuộc nằm lòng. Chính sự tôn trọng ý tưởng của người viết khiến báo chí phản ánh được những góc nhìn khác nhau về một vấn đề được xã hội quan tâm, mới không bị rập khuôn như cách hiểu máy móc báo chí là một công cụ.     Với cộng tác viên, biên tập viên làm vai trò trung gian giữa người làm báo và người viết báo. Vai trò ấy khiến việc sửa bài cho người bên ngoài đôi khi khó khăn và phức tạp hơn. Đã có không ít các bậc học giả, các chuyên viên mà tên tuổi đã trở thành "thương hiệu" khi thấy bài viết của mình bị sửa đôi chút đã vội phê phán tòa soạn một cách nặng nề rằng: đẻ đứa con ra không ai muốn con mình bị cắt chân, cắt tay. Thật ra người biên tập không độc ác như vậy, anh ta chỉ cắt những mẩu thịt thừa và vài dị tật của cơ thể ấy mà thôi.     Thế nhưng điều này không phải lúc nào cũng được các tác giả đồng tình. Chẳng hạn không ít cộng tác viên là chuyên viên lỗi lạc, nội dung các bài viết của họ nhiều khi được chuyển tải bằng những ngôn ngữ có tính bác học, phù hợp với phong cách nghiên cứu. Nhưng khổ nỗi, tờ báo lại có yêu cầu là làm sao để hầu hết độc giả của mình nắm bắt được những kiến thức uyên thâm ấy bằng một thứ ngôn ngữ đời thường dễ hiểu, đó là ngôn ngữ của báo chí. Cho nền tìm được một chuyên viên, một học giả, một nhà văn viết báo giỏi là điều rất quý đối với một tờ báo. Nếu không được như vậy, thì công việc của người biên tập sẽ rất nặng nề để tranh thủ được sự vừa lòng cả hai phía người viết và người đọc.     Thực tế cho thấy để bài báo hoàn chỉnh hơn thì công việc biên tập nên khởi đầu từ chính tác giả. Người viết, nếu được trau dồi kỹ năng sẽ biết những nguyên tắc căn bản về sửa bài để tránh bớt những sơ sót, cũng như để hoàn thiện cách sử dụng từ ngữ và lối hành văn. Bài viết của những nhà báo thận trọng sau khi qua tay người biên tập giỏi có khả năng sẽ tăng thêm hiệu ứng, tờ báo tạo thêm được uy tín với dộc giả.     Báo chí là một sản phẩm của sản phẩm của xã hội. Định chế xã hội dù có khác nhau nhưng đạo đức nghề nghiệp vẫn cần được chuẩn hóa trên cơ sở tôn trọng sự thật, tính trung thực và khách quan, vì sự tiến bộ mọi mặt của con người và sự phát triển của cộng đồng. Làm thế nào để góp phần làm cho xã hội ngày hôm nay tốt hơn hôm qua và ngày mai tốt hơn hôm nay, phải chăng suy nghĩ đó đã khiến ngày càng có nhiều người thuộc các lĩnh vực hoạt động khác nhau tham gia vào đời sống báo chí.     Trong một không gian viết báo ngày càng được mở rộng như vậy thí CON MẮT BIÊN TẬP (The Editorial Eye) của hai tác giả Jane T. Harrigan và Karen Brow Dunlap được Công ty Sài Gòn truyền thông giới thiệu với người đọc vào thời điểm này rõ ràng đã đáp ứng nhu cầu của những người yêu nghề báo. Có thể xem đây là một cẩm nang nghiệp vụ đúng nghĩa với những chỉ dẫn chi tiết dành cho cả người viết lẫn người làm báo, không chỉ bổ ích cho phóng viên mới vào nghề tránh đuợc những vấp ngã mà còn giúp những ai muôn đi xa hơn irên con đường viết lách hệ thống lại kỹ năng cơ bản.     Nội dung cuốn sách này còn bổ sung cho những khiếm khuyết trong giáo trình báo chí ở các trường đại học hiện nay, nơi mà những nhà báo tương lai được truyền đạt kiến thức đại cương và lý thuyết nhiều hơn các kỹ năng nghiệp vụ của báo chí thế giới dang phát triển không ngừng.     Không quá dáng khi nói rằng, CON MẮT BIÊN TẬP là một đóng góp đáng kể trong việc hoàn chỉnh nhông cách viết báo hiện đại mà chúng ta dang hướng đến.     TRẦN TRỌNG THỨC     NHÀ BÁO Mời các bạn đón đọc Con Mắt Biên Tập của tác giả Jane T. Harrigan & Karen Brown Dunlap.
Sống Với Sách
Mỗi cuốn sách đều chứa đựng một phần thông tin. Sách là bản văn hữu ích theo nhiều cách khác nhau. Không chỉ gần gũi, thân quen với con người, sách còn là phẩm vật thông dụng nhất trong những đồ vật ở nhà và cũng là tài sản quý giá nhất được lưu giữ trong ngôi nhà của chúng ta. Tuy nhiên, sống với sách phải là cả một nghệ thuật. Do vậy, điều cần nhất là làm sao phối hợp nhịp nhàng giữa sách với chức năng của ngôi nhà chúng ta. Cuốn Sống với sách của tác giả Alan Powers do Trần Hoàng Dung biên dịch đã tìm tòi và khám phá những phương cách khác nhau để sách không những được lưu trữ một cách hợp lý mà còn đóng vai trò hoàn hảo trong việc tạo cá tính cho ngôi nhà hay căn hộ của chúng ta. Cuốn sách dày 144 trang, khổ 14,5x20,5cm do Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin ấn hành. svois.jpg "Sống với sách" gồm nhiều chuyên mục. Mỗi chuyên mục hướng dẫn cho bạn đọc cách phân chia các phòng và cách sắp xếp sách ở thư viện gia đình, văn phòng, tại nhà, phòng khách, phòng ngủ, phòng tắm, bếp... Sự ra đời của sách có 2 thời điểm tách biệt nhau: thứ nhất, sách được làm hoàn toàn bằng tay do những người chuyên sao chép lại; thứ hai, cách 1.500 năm sau, sách được in ấn theo phát minh của Johann Gutenberg tại Đức. Sau đó, nhờ kỹ thuật in ấn phát triển nên việc in sách được dễ dàng và được phổ biến rộng rãi hơn. Sách không phải là nguồn thông tin vô hồn mà là tạo tác văn hóa có ý nghĩa muôn màu muôn vẻ được tích lũy theo thời gian. Nhà học giả Walter Benjamin đã hiểu ý nghĩa tượng trưng của cuốn sách như thế nào và giá trị không tùy thuộc vào sự tiện dụng của nó. Đối với ông, việc mượn được một cuốn sách trong thư viện có tiếng không bằng có trong tay bản sách đó. Do vậy, ông có cái cảm giác vui sướng vì sục sạo tìm mua được cuốn sách vừa ý nhất và đặc biệt đó là việc "cứu" được cuốn sách, trả tự do lại cho cuốn sách. Theo ông, tất cả các cuốn sách được hoàn toàn tự do một khi đã nằm trên kệ sách. Mỗi cuốn sách đều có giá trị nhân bản, đó là được đóng góp vào niềm vui của người được sở hữu nó. Sách xứng đáng có vai trò thích đáng và cho chúng ta thêm nhiều niềm vui, sự yêu thích khi mình được tự tay sắp xếp, lưu giữ chúng một cách có ý thức và thích hợp. Có rất nhiều cách thức kết hợp giữa nhà cửa và sách và ngược lại, tùy thuộc vào đặc tính của ngôi nhà, cá tính của người chủ và thể loại sách. Thư viện gia đình thường có chức năng phụ là phòng học, khởi đầu nó là nơi sinh hoạt thân hữu, rồi trở thành phòng đọc sách cũng là nơi các thành viên trong gia đình tụ họp sinh hoạt mỗi khi rảnh rỗi.  Tùy theo điều kiện từng nhà, thư viện gia đình có thể đơn giản chỉ là tận dụng khoảng không dưới mái, tận dụng ánh sáng tự nhiên, cũng có thể là một phòng khách rộng lớn. Tác giả cuốn sách đã cho chúng ta thấy cái nhìn tổng thể về việc thiết kế một thư viện gia đình, từ cách bày trí kệ sách, bàn ghế đến bày trí sách theo phong cách hiện đại. Thiết kế phòng đọc sách đẹp hay không đẹp dựa trên các kệ sách hay tủ sách mà tùy thuộc vào chất lượng ánh sáng. Đọc sách không chỉ là một hoạt động của trí óc mà còn là một hoạt động của cả cơ thể nên ánh sáng tự nhiên sẽ làm cho phòng đọc sách có một không gian tuyệt hảo. Để mở rộng khoảng không, kệ sách còn được dùng làm vách ngăn giữa thư viện và các chỗ sinh hoạt khác. Đặc biệt, đồ đạc trong phòng không nên có màu tối. Trong một căn nhà, thật khó có thể nói rõ sự khác biệt giữa một văn phòng làm việc với một phòng đọc sách. Theo tác giả, phòng đọc sách là nơi người ta thực hiện các hoạt động như đọc, viết, vẽ cho dù có được xem là nơi thư giãn hay làm việc chuyên môn hay không. Còn văn phòng là một nơi để làm việc. Sự khác biệt rất tinh tế dựa vào sự hiện diện của máy vi tính, máy điện thoại... Sự phân định rõ ràng giữa thư viện gia đình và văn phòng phần lớn là vì lợi ích của người sử dụng, nhằm kích thích, phát triển tâm trạng làm việc nghiêm túc, tránh những ảnh hưởng khác có thể làm mất tập trung tư tưởng. Với bất cứ văn phòng nào, sách bao giờ cũng đóng một vai trò quan trọng, một ngôn ngữ đầy phong thái được tập hợp từ sự đa dạng của nhiều yếu tố. Do vậy, sự hiện diện của những cuốn sách cũng hàm ý là có những kệ sách. Đối với văn phòng thì hệ thống kệ rời rất thuận lợi: nhanh chóng lắp đặt, sắp xếp lại các kệ... Sách cũng minh hoạ những công cụ bình thường dùng để tiết kiệm khoảng trống nhằm dành chỗ cho sách ở những nơi linh tinh như cầu thang, hành lang, lối đi lại. Trong một căn nhà có người ham đọc sách đương nhiên không có nơi nào là không thể chứa sách được. Nhưng không có nghĩa là bất cứ phòng nào, hay lối đi nào cũng đều có thể làm thư viện. Sách xuất hiện theo nhiều lối khác nhau và góp phần vào bất cứ khoảng không nào nếu như được thiết kế một cách có ý thức. Một trong những cách sống với sách trong nhà, có tính sáng tạo và hữu ích nhất là phối hợp sách với các đồ vật khác.   Sách dùng như vật trang trí và là phương tiện tạo bầu không khí sáng tạo, nhưng quan trọng hơn, có lẽ là sách có khả năng ảnh hưởng đến cấu trúc của khoảng không chung quanh chúng. Do vậy, trưng bày sách ở nơi sinh hoạt là điều mà bất cứ nhà thiết kế nào cũng phải hết sức quan tâm. Nhà thiết kế giỏi sẽ sắp xếp để tạo ra cảm giác rộng thoáng và bao bọc cùng lúc bằng cách điều chỉnh kích thước và ánh sáng trong khoảng không, thu hẹp các cạnh hoặc hạ thấp khoảng không phía trên, hoặc cả hai. Nếu việc xếp sách làm biến đổi bề mặt bức tường, cần xem việc đó đang đóng vai trò gì, một lần nữa cho thấy rằng xử lý theo cách tổng quát là tốt nhất. Sách trong phòng ăn là người bạn tốt. Nó tạo một hậu cảnh giảm âm, đó là điều quan trọng trong nội thất hiện đại. Sách cũng hữu ích trong việc giải quyết những quan điểm về một sự kiện hoặc tìm những đoạn trích dẫn giữa bữa ăn, hoặc để giải trí khi ăn không có bè bạn, người thân. Một nhà bếp thiết thực thì cũng cần có một kệ sách, trong đó đa số là loại sách dạy nấu ăn, những tài liệu, công thức nấu ăn cắt từ báo chí. Kệ sách có thể đặt ở trên hay dưới mặt chỗ nấu nướng miễn là thoải mái và dễ sử dụng. Người tỉ mỉ thì có thể bố trí cả một chỗ đọc. Đây là cách sắp xếp thân mật, không theo quy ước, cho ta cách hiệu quả để đến với sách. Sách trong nhà bếp cần đặt xa chỗ làm thức ăn bề bộn. Sách làm tăng thêm vẻ thân mật và nhiều khi tựa đề và gáy sách có thể kích thích ăn ngon và khi ngồi ăn thấy vui. Đồ đạc khác trong bếp thì có thể dấu trong tủ chạn nhưng sách thì cần để chỗ dễ thấy. Điều đó chắc chắn sẽ giúp ngăn ngừa cảm giác quá sạch sẽ và hiệu quả từ cuộc sống đầy áp lực và tính cách cá nhân khỏi len vào phòng. Ai đó đã có bộ sưu tập sách để ở nhiều nơi khác nhau trong nhà sẽ thấy phòng ngủ và phòng tắm cũng là nơi tốt để mở rộng thư viện gia đình. Sách trong phòng ngủ thật sự làm người ta thoải mái, nhất là đối với những người không thể nào đi ngủ mà không có ít nhất vài ba cuốn sách bên cạnh. Sách trong phòng ngủ nên nằm trong tầm tay, có thể trải dài ở dưới hay trên đầu giường, hoặc phía lối ra vào. Phần cuối sách nói về cách giữ gìn và bảo quản sách cùng những gợi ý về kỹ thuật hữu dụng để lên kế hoạch thiết kế kệ sách. Tác giả cuốn sách đã đưa ra những gợi ý nhỏ mang tính nguyên tắc tổng quát về sự cần thiết phải chăm sóc, bảo quản sách. Nước là kẻ thù số một của sách. Đối với những cuốn sách bị ướt, cần dùng giấy thấm xen kẽ các trang sách cho sách khô từ từ. Côn trùng là một vấn đề gây nguy hại cho sách. Trong hơn 100 trang sách, có đến hơn 100 bức ảnh minh họa sinh động về các cách bài trí, sắp xếp một thư viện gia đình cho phù hợp, một kệ sách đơn giản mà thuận tiện. "Sống với sách" hay cũng là sống cùng sách tưởng đơn giản mà lại là cả một nghệ thuật, đòi hỏi những người yêu sách phải dụng công thiết kế, sắp đặt để sách trở thành một thành viên trong gia đình, gần gũi và rất hữu ích. Hy vọng với cuốn sách này, bạn đọc sẽ có một khái niệm để tự mình thiết kế thật đẹp những nơi lưu trữ sách, tận dụng những khoảng trống mà mình vô tình đã bỏ sót, và nhất là tạo được phong cách độc đáo cho tổ ấm gia đình của mình. Mời các bạn đón đọc Sống Với Sách của tác giả Alan Powers.
Bí Quyết Của Thành Công
Trong cuộc sống, ai cũng mong muốn có được thành công. Chúng ta học tập, rèn luyện và làm việc để thực hiện ước mong đó. Và hẳn chúng ta đã từng bao lần suy nghĩ, trăn trở để lựa chọn hướng đi và nghĩ về giá trị đích thực của thành công. Cũng như hạnh phúc, luôn có những mục tiêu riêng của thành công trong từng giai đoạn cuộc sống. Dù muốn dù không, mỗi người chúng ta đều đi tìm và mong muốn đạt được thành công phù hợp với mình nhất. Và một số người thì thành công, một số khác thì không. Thành công không phải là một may mắn hay là một số phận như một số người lầm tưởng - mà thành công là sự cố gắng của cả một quá trình. Và con đường đến thành công không hề dễ dàng, chúng ta phải vượt qua rất nhiều khó khăn thử thách để có thể đến đích. Nhưng như thế nào mới được gọi là thành công? Chúng ta phải làm gì, suy nghĩ như thế nào để tiến gần thành công hơn? Tưởng chừng khó có thể tìm được một công thức chung của sự thành công cho tất cả mọi người.Nhưng nhà nghiên cứu tâm lý David Niven qua những cuộc nghiên cứu khoa học và xã hội học nhiều năm liền với những người thành công trên khắp thế giới đã tìm ra những nguyên tắc, những bí quyết thật đơn giản của sự thành công. Và ông đã tổng hợp thành tác phẩm nổi tiếng "Bí Quyết củaThành Công". Với những trải nghiệm quý báu và chân lý đơn giản, thực tế nhất, cuốn sách đã mang lại cho độc giả một cái nhìn mới mẻ, thú vị về những bí mật đơn giản nhưng thật sâu sắc của sự thành công, những lời khuyên chân tình, khơi dậy niềm tin vào bản thân, hy vọng vào tương lai và khích lệ ý chí cho một sự khởi đầu tươi sáng. Bạn đọc khắp nơi đã chuyền tay nhau cuốn sách này, mua tặng nhau như một món quà chúc nhau may mắn. David Niven đã chỉ ra trong một phần của cuốn sách rằng: "Thành công của một đời người không phụ thuộc vào những mục đích mà bạn đã đạt được.Bạn sẽ cảm thấy thành công thực sự khi đã làm việc hết mình, sống trọn vẹn với niềm tin và tình yêu cuộc sống". Vâng! Đôi lúc ý nghĩa của thành công giản dị vậy thôi. *** “Khi đối mặt với một thử thách, hãy tìm cách vượt qua nó chứ không phải tìm lối thoát”. - David L, Weathertford “Nếu tôi có thể ước mơ cho mình một cuộc sống không gặp trở ngại nào thì hấp dẫn thật đấy, nhưng tôi sẽ khước từ vì khi ấy tôi sẽ không học được điều gì từ cuộc sống nữa”. - Allyson Jones “Bằng niềm tin và cảm hứng, bạn có thể đặt chân trên bất cứ con đường nào mà bạn đã chọn”. - Dr. Suess “Cuộc sống không bao giờ là bế tắc thực sự nếu con người dám rời bỏ những lối mòn và dũng cảm tìm ra những giá trị mới”. - Khuyết danh “Điều quan trọng không phải là vị trí ta đang đứng - mà ở hướng ta đang đi”. - Khuyết danh “Cảnh khổ, sự thất bại là một nấc thang cho bậc anh tài, một kho tàng cho người thông minh và là một vực thẳm cho kẻ yếu hèn”. - Balzac *** Khám phá Bí quyết của Thành Công Trong cuộc sống, ai cũng mong muốn có được thành công. Chúng ta học tập, rèn luyện và làm việc để thực hiện ước mong đó. Và hẳn chúng ta đã từng bao lần suy nghĩ, trăn trở để lựa chọn hướng đi và nghĩ về giá trị đích thực của thành công. Cũng như hạnh phúc, luôn có những mục tiêu riêng của thành công trong từng giai đoạn cuộc sống. Dù muốn dù không, mỗi người chúng ta đều đi tìm và mong muốn đạt được thành công phù hợp với mình nhất. Và một số người thì thành công, một số khác thì không. Thành công không phải là một may mắn hay là một số phận như một số người lầm tưởng - mà thành công là sự cố gắng của cả một quá trình. Và con đường đến thành công không hề dễ dàng, chúng ta phải vượt qua rất nhiều khó khăn thử thách để có thể đến đích. Nhưng như thế nào mới được gọi là thành công? Chúng ta phải làm gì, suy nghĩ như thế nào để tiến gần thành công hơn? Tưởng chừng khó có thể tìm được một công thức chung của sự thành công cho tất cả mọi người.Nhưng nhà nghiên cứu tâm lý David Niven qua những cuộc nghiên cứu khoa học và xã hội học nhiều năm liền với những người thành công trên khắp thế giới đã tìm ra những nguyên tắc, những bí quyết thật đơn giản của sự thành công. Và ông đã tổng hợp thành tác phẩm nổi tiếng "Bí Quyết củaThành Công". Với những trải nghiệm quý báu và chân lý đơn giản, thực tế nhất, cuốn sách đã mang lại cho độc giả một cái nhìn mới mẻ, thú vị về những bí mật đơn giản nhưng thật sâu sắc của sự thành công, những lời khuyên chân tình, khơi dậy niềm tin vào bản thân, hy vọng vào tương lai và khích lệ ý chí cho một sự khởi đầu tươi sáng. Bạn đọc khắp nơi đã chuyền tay nhau cuốn sách này, mua tặng nhau như một món quà chúc nhau may mắn. David Niven đã chỉ ra trong một phần của cuốn sách rằng: "Thành công của một đời người không phụ thuộc vào những mục đích mà bạn đã đạt được.Bạn sẽ cảm thấy thành công thực sự khi đã làm việc hết mình, sống trọn vẹn với niềm tin và tình yêu cuộc sống". Vâng! Đôi lúc ý nghĩa của thành công giản dị vậy thôi. Tiến sĩ David Niven, một nhà tâm lý học, nhà xã hội học và là giáo sư giảng dạy các môn khoa học này ở các trường đại học trên khắp nước Mỹ. Tên tuổi của ông không chỉ được biết đến trong giới khoa học, với những công trình nghiên cứu chuyên sâu, mà còn được đông đảo bạn đọc trên khắp thế giới biết đến qua những cuốn sách về kinh nghiệm và tư duy sống. Những cuốn sách của ông được xếp vào hạng bán chạy nhất, nó vượt không gian nước Mỹ, được dịch ra nhiều thứ tiếng và đến với công chúng khắp năm châu. Trong số những tác phẩm nổi tiếng của ông, phải kể đến những cuốn sách đặc biệt như "Bí mật của hạnh phúc" - với những khám phá mới và thực tế về hạnh phúc cuộc sống đang được bạn đọc Việt Nam yêu thích - và tiếp theo là tác phẩm "Bí quyết của thành công" đang có trên tay bạn. "Bí quyết của thành công" không hề là những gì xa lạ và khó thực hiện - và cũng không có vẻ bí ẩn như một "bí kíp võ công", đòi hỏi phải rèn luyện công phu trong nhiều năm mới có được. Cuốn sách cũng không đưa ra những điều cao siêu, đặt ra những mục đích lớn lao vượt khỏi khả năng để thôi thúc chúng ta phải hướng đến những mục tiêu xa vời đó để làm nên một cuộc đời thành công. Đó đơn giản là những thái độ sống, những suy nghĩ tích cực, những điều khuyên thực tế bình dị mà bạn có thể áp dụng ngay vào lúc này - bất kể hoa ân cảnh và tình trạng đang có của bạn. Chẳng hạn như: "Hãy xác định mục tiêu cụ thể", "Muốn thành công một việc lớn, trước tiên hãy làm tốt một việc nhỏ", "Hãy làm việc, học hỏi bằng sự say mê của mình", "Tìm kiếm cơ hội trong mọi hoàn cảnh", "Hãy có ước mơ và dám thực hiện", "Biết vui đùa và hài hước", "Biết chia sẻ, quan tâm đến người khác".Chúng ta thường nôn nóng đạt được mục tiêu nên dễ phạm sai lầm, chưa kể là tự đánh mất một phần giá trị tinh thần rất lớn, đó là sự cảm nhận về chính mình và sự thanh thản, hoặc dễ gục ngã, buông xuôi trước những khó khăn, thử thách. Có bí quyết khuyên chúng ta "Hãy lựa chọn thái độ đúng","Sự việc xảy ra không quan trọng bằng cách nhìn của bạn", "Hãy học từ những thất bại", "Hãy làm sống dậy hy vọng và ước mơ trong bạn", "Luôn tự tin và lạc quan"như những lời chia sẻ thật chân thành, rất lạc quan và đầy tình người. Đây không chỉ là nghiên cứu của một tác giả tâm huyết, mà còn là sự đúc kết, trải nghiệm từ rất nhiều số phận, rất nhiều cuộc đời.Trong nguyên bản tiếng Anh có những phần chưa phù hợp với người Việt Nam, nên chúng tôi đã chuyển đổi và bổ sung những trải nghiệm thích hợp trong cuộc sống chúng ta hiện nay. Hãy chiêm nghiệm 100 bí quyết thành công của David Niven, chúng ta sẽ thấy những trang sách của ông quý giá biết ngần nào. Mong rằng cuốn sách ý nghĩa này sẽ là người bạn đồng hành với bạn trong mọi thời điểm của hành trình cuộc sống, trong những lúc đối đầu với khó khăn, thất bại hay vượt qua thử thách để tìm được sự thành công và hạnh phúc cuộc sống. - First News Mời các bạn đón đọc Bí Quyết Của Thành Công của tác giả David Niven.
50 Mô Hình Kinh Điển Cho Tư Duy Chiến Lược
Khi suy nghĩ của chúng ta trở nên hỗn loạn, chúng ta thường phát triển những hệ thống để thiết lập lại trật tự, để thấu hiểu hay ít nhất là bao quát được toàn bộ sự việc. Mô hình giúp giảm bớt sự phức tạp, bằng cách che đi phần lớn những thứ xung quanh và chỉ tập trung vào cái cốt yếu. Cuốn sách này được viết cho tất cả những ai thường xuyên phải đối mặt với những câu hỏi: Tôi phải quyết định vấn đề này như thế nào? Tôi nên khích lệ chính bản thân và đội ngũ của tôi như thế nào? Tôi có thể thay đổi sự việc này bằng cách nào? Thậm chí cả những câu hỏi như: Bạn bè tôi nói gì về tôi? Tôi có sống trong hiện tại không? Tôi muốn gì?... Trong 50 chương ngắn gọn, những kết nối phức tạp nhất trong cuộc sống của chúng ta được minh họa một cách đơn giản, những tình huống rối rắm được đơn giản hóa tối đa và được phân tích đầy khách quan. Đây là một cuốn sách bài tập. Bạn có thể áp dụng nguyên xi, bổ sung, gạch bỏ hay tiếp tục phát triển các mô hình. Một cuốn sách có tính ứng dụng cao với mọi tình huống trong cuộc sống và không thể thiếu với bất cứ ai muốn đưa ra quyết định. *** HƯỚNG DẪN SỬ DỤNG Tại sao bạn phải đọc cuốn sách này? Cuốn sách được viết cho tất cả những ai làm việc với con người. Dù bạn là giáo viên mầm non hay giảng viên đại học, phi công hay nhà quản lý cấp cao: bạn thường xuyên phải đối mặt với những câu hỏi này: Tôi phải quyết định như thế nào? Tôi nên khích lệ chính bản thân và đội ngũ của tôi như thế nào? Tôi có thể thay đổi sự việc bằng cách nào? Tôi phải nâng cao hiệu quả làm việc như thế nào? Và có cả những câu hỏi như: Bạn bè tôi nói những gì về tôi? Tôi có sống trong hiện tại không? Tôi muốn gì? Bạn tìm thấy những gì trong cuốn sách này? 50 mô hình tốt nhất – nổi tiếng và cả chưa nổi tiếng – sẽ giúp bạn trả lời những câu hỏi đó. Bạn đừng trông chờ có được câu trả lời ngay lập tức, mà hãy chuẩn bị để được thử thách. Bạn sẽ nhận được những lời khuyên để suy ngẫm. Ngoài ra, bạn sẽ có thêm kiến thức để chia sẻ/tự tin nói trong bữa ăn tối cùng bạn bè và đồng nghiệp: Thiên Nga Đen là gì? Cái Đuôi Dài là gì? Và Nguyên lý Pareto là như thế nào? Tại sao chúng ta thường hay quên đi mọi thứ? Tôi nên ứng xử như thế nào trong những tình huống xung đột? Bạn ứng dụng cuốn sách này ra sao? Đây là một cuốn sách bài tập. Bạn có thể áp dụng nguyên xi, bổ sung, gạch bỏ hay tiếp tục phát triển các mô hình. Dù bạn phải trình bày một phương án nào đó hay tiến hành cuộc họp tổng kết cuối năm, dù bạn phải đưa ra một quyết định quan trọng hay đối mặt với một cuộc tranh luận không hồi kết, dù bạn muốn kiểm nghiệm ý tưởng kinh doanh của bạn hay muốn thấu hiểu bản thân mình hơn, thì cuốn sách này chính là lời hướng dẫn cho bạn. Và bạn chính là câu trả lời. Mô hình là gì? Các mô hình trong cuốn sách này đáp ứng những tiêu chuẩn sau: 1. Đơn giản hóa. Chúng không bao gồm tất cả các khía cạnh của hiện thực, mà chỉ những phần có liên quan. 2. Thực dụng. Chúng hướng tới sự hữu dụng. 3. Tóm tắt. Chúng là những tóm tắt giản lược của các mối liên hệ phức tạp. 4. Trực quan. Chúng giải thích bằng hình ảnh những thứ khó có thể diễn tả bằng từ ngữ. 5. Thiết lập trật tự. Chúng thiết lập nên cấu trúc và tạo các ngăn kéo. 6. Là các phương pháp. Chúng không đưa ra câu trả lời, mà đặt câu hỏi. Chỉ khi người đọc áp dụng những mô hình đó, tức là bổ sung và thông qua đó là làm việc, thì những câu trả lời mới hình thành. Về các mô hình này, chúng tôi còn cung cấp cho bạn một danh sách nguồn gốc hình ảnh, một bản phụ lục tài liệu tham khảo rõ ràng và các liên kết đến các trang mạng. Những mô hình nào không có chỉ dẫn nguồn gốc thì là những phát triển riêng của chúng tôi. Tại sao người ta cần những mô hình này? Khi suy nghĩ của chúng ta trở nên hỗn loạn, chúng ta thường phát triển những hệ thống để thiết lập lại trật tự, để thấu hiểu hay ít nhất là bao quát được toàn bộ sự việc. Mô hình giúp làm giảm bớt sự phức tạp, bằng cách che đi phần lớn những thứ xung quanh và chỉ tập trung vào cái cốt yếu. Các nhà phê bình thường thích chỉ ra rằng mô hình không phản ánh hiện thực. Điều đó đúng. Nhưng thật sai lầm khi quả quyết rằng mô hình khiến cho chúng ta suy nghĩ theo hướng đã bị tiêu chuẩn hóa. Mô hình không phải là cái có sẵn và phải suy nghĩ theo nó, chúng là kết quả của suy nghĩ chủ động. Bạn có thể đọc cuốn sách này theo kiểu Mỹ hay kiểu châu Âu. Người Mỹ thiên về cách ứng xử thử và sai: họ làm một điều gì đó, nếu thất bại họ học hỏi từ đó, tìm hiểu lý thuyết và làm lại. Ai thích lối làm việc này thì hãy bắt đầu đọc phần “Tôi cải thiện bản thân như thế nào”. Người châu Âu có khuynh hướng đọc lý thuyết trước rồi mới làm. Sau đó, họ phân tích, cải thiện và lặp lại thử nghiệm. Ai thích phương pháp này hãy bắt đầu với phần “Tôi hiểu bản thân mình tốt hơn như thế nào”. MỖI MÔ HÌNH CHỈ TỐT NHƯ NGƯỜI SỬ DỤNG NÓ. *** MA TRẬN EISENHOWER Bạn học cách làm việc hiệu quả hơn như thế nào "Những quyết định cấp bách nhất hiếm khi là quyết định quan trọng nhất”, cựu Tổng thống Mỹ Dwight D. Eisenhower đã nói như vậy. Ông được coi là bậc thầy trong việc quản lý thời gian; ông có khả năng làm mọi việc vào đúng thời điểm. Với phương pháp Eisenhower, bạn cần học cách phân biệt giữa quan trọng và cấp bách. Bất cứ nhiệm vụ nào rơi xuống bàn làm việc của bạn: hãy xếp nó vào mô hình Eisenhower, rồi mới quyết định cần phải làm gì vào lúc nào. Thường thì chúng ta chỉ chăm chăm tập trung vào vùng “khẩn cấp và quan trọng”, vào những việc cần phải thực hiện ngay lập tức. Bạn hãy tự hỏi: khi nào thì mình sẽ thực hiện những việc quan trọng nhưng không khẩn cấp? Khi nào thì mình dành thời gian để thực hiện những nhiệm vụ quan trọng trước khi chúng trở nên khẩn cấp? Nằm trong vùng này là các quyết định chiến lược lâu dài. Tỷ phú Warren Buffett có một phương pháp khác để phân chia thời gian của bạn tốt hơn: Bạn hãy lập danh sách tất cả những việc bạn muốn làm vào ngày hôm nay. Bạn hãy bắt đầu với nhiệm vụ ở trên cùng, và chỉ tiếp tục các nhiệm vụ phía dưới khi bạn đã làm xong công việc đó. Gạch bỏ những nhiệm vụ đã hoàn thành. MUỘN CÒN HƠN KHÔNG. NHƯNG KHÔNG BAO GIỜ MUỘN THÌ TỐT HƠN. *** PHÂN TÍCH SWOT Bạn tìm ra giải pháp thích hợp như thế nào? Với phân tích SWOT, người ta cố gắng ước lượng điểm mạnh (Strengths), điểm yếu (Weaknesses), cơ hội (Opportunities) và nguy cơ (Threats) của một dự án. Mô hình bắt nguồn từ một nghiên cứu của Đại học Stanford trong những năm 1960 khi tiến hành khảo sát các doanh nghiệp thành công nhất của Hoa Kỳ. Kết quả là: sự khác biệt giữa những gì các doanh nghiệp lập kế hoạch và những gì họ thật sự thực hiện là 35%. Vấn đề không nằm ở năng lực của các nhân viên, mà do đưa ra mục tiêu không rõ ràng. Nhiều nhân viên không biết rõ mục đích những việc họ đang làm. Từ kết quả của nghiên cứu, các nhà khoa học đã phát triển mô hình SWOT, để giúp những người tham gia dự án hiểu về nó rõ ràng hơn. Khi áp dụng, không nên chỉ hoàn thành phân tích SWOT một cách cứng nhắc, mà nên xem xét lại nó: Chúng ta có thể nhấn mạnh những điểm mạnh của chúng ta như thế nào và bù đắp (hay che đậy) những điểm yếu của chúng ta ra sao? Làm sao để tối đa hóa những cơ hội của chúng ta? Làm sao để bảo vệ mình trước những nguy cơ? Điều thú vị của phương pháp phân tích SWOT là nó có tính linh hoạt: nó có thể áp dụng cho những quyết định trong kinh doanh cũng như cho việc cá nhân. TÔI CÓ MỘT GIẢI PHÁP, NHƯNG NÓ KHÔNG PHÙ HỢP VỚI VẤN ĐỀ.  Mời các bạn đón đọc 50 Mô Hình Kinh Điển Cho Tư Duy Chiến Lược của tác giả Mikael Krogerus & Roman Tschappeler.