Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Mùa Gặt Đỏ

MÙA GẶT ĐỎ - KHO BÁU BỊ ĐÁNH MẤT. Một tay súng đơn độc đi vào trong thị trấn. Anh ta sẽ dọn dẹp nó dù muốn hay là không? "Người chiến đấu với quái vật phải cẩn thận nếu không muốn trở thành một con quái vật khác". Được xuất bản lần đầu vào năm 1929, Mùa gặt đỏ (Red Harvest) là một cuốn tiểu thuyết trinh thám kinh điển của Dashiell Hammett - người được coi là "ông tổ" của thể loại trinh thám đen - hard-boiled. Đây cũng là nguồn cảm hứng cho nhiều bộ phim nổi tiếng, trong đó có Yojimbo (1961), A Fistful of Dollars (1964) và Blood Simple (1984)… Truyện được mở đầu bằng việc Hãng thám tử tư Continental cử một đặc vụ tới Personville - thành phố đang chìm đắm trong bạo lực và sợ hãi dưới sự cai trị của các băng đảng tội phạm và đám quan chức tham nhũng - theo yêu cầu của Donald Willsson, chủ bút tờ báo địa phương và là người đang muốn lấy lại trật tự, công bằng cho thành phố. Nhưng khi nhân viên đặc vụ đó tới nơi thì phát hiện ra khách hàng của mình đã bị bắn chết. Theo như thỏa thuận từ trước, Personville vẫn sẽ được "thanh tẩy", cho dù cái giả phải trả là có thể khiến nó bị nhấn chìm trong biển máu. *** Dashiell Hammett (1894 - 1961) là một trong những tác giả tiên phong của thể loại tiểu thuyết trinh thám đen, với các tác phẩm tiêu biểu như Mùa gặt đỏ (1929), Chim ưng Malta (1930) và Chìa khóa thủy tinh (1931). Những tiểu thuyết của ông thường mang phong cách mạnh mẽ, gay cấn, lối viết ngắn gọn, không hoa mỹ, tiết tấu nhanh, hấp dẫn, đậm mùi súng đạn. Mùa gặt đỏ, tác phẩm đầu tay của Hammett, mang đầy đủ những đặc trưng của thể loại trinh thám đen, đồng thời là hình mẫu cũng như nguồn cảm hứng cho nhiều tác giả trinh thám sau này: một bầu không khí nhớp nhúa ở phần tối của xã hội; một hình ảnh “người hùng không hoàn hảo” với quan niệm về công lý không hoàn toàn đồng nhất với pháp luật. Người thám tử vô danh ấy đến thành phố tội lỗi đó như một lãng khách độc hành thấy việc bất bình ra tay nghĩa hiệp, để rồi bắt đầu “mùa gặt”, mang lại bình yên cho thành phố… *** Review sách Mùa Gặt Đỏ Mùa gặt đỏ được xuất bản lần đầu vào năm 1929, Mùa gặt đỏ (Red Harvest) là một cuốn tiểu thuyết trinh thám kinh điển của Dashiell Hammett - người được coi là "ông tổ" của thể loại trinh thám đen - hard-boiled. Tôi đã khá băn khoăn khi quyết định đọc hay không vì không muốn sa đà liên tục vào trinh thám. Thế nhưng vì một vài lí do, tôi vẫn đọc. Có thể vì thế mà tâm trạng đã không tốt khi tiếp cận cuốn sách. Truyện Trinh thám về những thế lực bên rìa công lý, kiểu mafia, mở đầu bằng cái chết của thân chủ khi chưa kịp làm việc với tay thám tử mà mình mời về. Nhiều nhân vật liên quan, nhiều vấn đề nổi cộm của thế giới thu nhỏ Personville được phơi bày. Theo như thỏa thuận từ trước, Personville vẫn sẽ được "thanh tẩy", cho dù cái giả phải trả là có thể khiến nó bị nhấn chìm trong biển máu.Tiết tấu càng ngày càng nhanh với sự mưu mô, toan tính cả bằng trí tuệ và sự nhanh nhẹn trong việc siết cò với những pha hành động tương đối kịch tính. Truyện thuộc dang trinh thám đen, hành động kịch tính và mang tính giải trí. Cơ bản có lẽ tại tôi không thích văn phong hơi khô của tác giả (hay dịch giả)??, hội thoại, lời văn ngắn gọn, súc tích. Tôi cũng không thích bìa, không thích tên gọi, chỉ an ủi được là việc biên tập đã ổn hơn khá nhiều so với những cuốn sách trước đây của PM. Tạm gác lại, biết đâu một ngày nào đó sẽ có hứng thú đọc lại và biết đâu sẽ thích. Cho tạm 3* vì cuốn sách chưa đủ hấp dẫn khiến tôi bị cuốn hút cũng như tò mò. Hồng Khánh 14.9.2019 *** Người phụ nữ trong bộ đồ xanh và người đàn ông trong bộ đồ xám Lần đầu tiên tôi nghe thấy Personville được đọc lái thành Poisonville là từ một gã tóc đỏ đầu đường xó chợ tên Hickey Dewey tại khách sạn Con Tàu Lớn ở Butte. Hắn cũng phát âm shirt thành shoit. Lúc đó tôi không nghĩ ngợi gì về cách hắn đọc tên thành phố, nhưng rồi tôi thấy những người đã phát âm đúng chữ “r” nhưng vẫn đọc sai như vậy. Tôi chỉ cho rằng việc đám trộm cướp dùng từ richardsnary thay cho dictionary thật quá sức nhạt nhẽo. Vài năm sau, khi đến Personville, tôi mới hiểu rõ hơn. Tôi gọi tới tờ Herald từ một bốt điện thoại tại ga, yêu cầu được nói chuyện với Donald Willsson và sau đó bảo anh ta rằng tôi đã tới. “Anh có thể tới nhà tôi lúc mười giờ tối nay được không?” Anh ta nói, giọng quả quyết. “Số 2101 đại lộ Mountain. Bắt một chiếc xe điện, xuống ở chỗ đại lộ Laurel, rồi đi bộ theo hướng Tây hai dãy nhà.” Tôi hứa sẽ có mặt. Rồi tôi tới khách sạn Great Western, vứt mấy chiếc túi xuống và ra ngoài ngắm nhìn thành phố. Thành phố này không đẹp. Hầu hết chủ thầu xây dựng ở đây đều có gu thẩm mỹ lòe loẹt. Có thể ban đầu họ đã đạt được mục đích. Rồi những lò luyện kim mọc lên sừng sững bên một ngọn núi ảm đạm ở phía Nam đã hun mọi thứ trong lớp khói màu vàng xỉn. Thế là chúng ta có một thành phố xấu xí với bốn mươi ngàn dân, nằm trong một khe hẻm xấu xí giữa hai ngọn núi xấu xí bị ô nhiễm vì sự khai mỏ. Bao trùm lấy nó là bầu không khí ám đầy bụi, như thể vừa chui ra từ ống khói của lò luyện kim. Người cảnh sát đầu tiên mà tôi gặp rõ ràng cần phải cạo râu. Người thứ hai có vài chiếc cúc bị đứt trên bộ đồng phục tồi tàn. Người thứ ba đứng ở giữa giao lộ chính của thành phố, giữa Broadway và phố Union, với một điếu xì gà trên miệng. Sau đó thì tôi không để ý đến họ nữa. Vào lúc chín giờ rưỡi, tôi bắt một chiếc xe điện và đi theo hướng mà Donald Willsson đã chỉ. Nó đưa tôi tới một ngôi nhà có hàng rào bao quanh bãi cỏ. Người giúp việc ra mở cửa bảo tôi rằng ông Willsson không có nhà. Trong khi tôi đang giải thích rằng mình có hẹn với anh ta thì một người phụ nữ tóc vàng mảnh khảnh, khoảng dưới ba mươi tuổi, bận bộ đồ vải crepe màu xanh bước tới. Ngay cả khi cười, sự lạnh nhạt vẫn ẩn hiện trong đôi mắt xanh của cô ta. Tôi giải thích lại một lần nữa. “Chồng tôi hiện không có nhà.” Âm giọng địa phương mờ nhạt khiến phát âm của cô ta hơi nhịu. “Nhưng nếu đã có hẹn thì chắc anh ấy sẽ về sớm thôi.” Cô ta dẫn tôi lên tầng, tới một căn phòng nhìn về hướng đại lộ Laurel. Căn phòng được sơn hai màu nâu đỏ và có rất nhiều sách. Chúng tôi ngồi xuống chiếc sofa da, nửa quay về phía người đối diện, nửa hướng về phía lò sưởi đang đỏ than, và cô ta bắt đầu tìm hiểu về chuyện giữa tôi và chồng cô ta. “Anh sống ở Personville à?” Cô ta hỏi trước. “Không. San Francisco.” “Nhưng đây không phải lần đầu anh tới Personville, phải vậy không?” “Đây là lần đầu tiên.” “Thật ư? Anh nghĩ sao về thành phố này?” “Tôi chưa quan sát đủ để có thể đưa ra ý kiến.” Đó là một lời nói dối. Tôi đã thấy đủ. “Tôi vừa mới tới lúc chiều.” Sự tò mò biến mất khỏi đôi mắt lấp lánh của cô ta. Rồi cô ta nói: “Anh sẽ thấy rằng đây là một chốn ảm đạm.” Rồi cô ta tiếp tục soi mói, “Tôi cho rằng tất cả các thành phố mỏ đều giống như thế này. Anh có tham gia vào ngành khai mỏ không?” “Hiện tại thì không.” Cô ta nhìn đồng hồ trên mặt lò sưởi và nói: “Donald thật thiếu chu đáo khi hẹn anh tới rồi lại để anh ngồi đợi, giữa đêm hôm khuya khoắt thế này. Đã quá giờ làm việc lâu quá rồi.” Tôi đáp rằng không sao. “Có lẽ đây không phải là vấn đề công việc.” Cô ta bóng gió. Tôi không trả lời. Cô ta cười, tiếng cười cộc lốc và có phần chói tai. “Thường thì tôi không tọc mạch thế này đâu”, cô ta vui vẻ nói, “nhưng anh quá kín đáo đến mức tôi không thể không tò mò. Anh không phải dân buôn rượu lậu đấy chứ? Donald đổi người rất thường xuyên.” Tôi để cô ta tự suy diễn và nở một nụ cười. Chuông điện thoại reo dưới tầng. Cô Willsson duỗi đôi chân đi dép lê xanh về phía lò sưởi đang đỏ than và vờ như không nghe thấy gì. Tôi không hiểu tại sao cô ta nghĩ thế là cần thiết. Cô ta bắt đầu, “Tôi sợ rằng mình sẽ ph…”, và dừng lại, nhìn về phía cô hầu đứng bên cửa. Người giúp việc nói rằng đầu dây bên kia muốn gặp cô Willsson. Cô ta cáo lỗi rồi ra ngoài. Cô ta không đi xuống tầng dưới mà nói qua máy điện thoại kéo dài, trong tầm nghe của tôi. Tôi nghe được, “Tôi, Willsson nghe đây… Vâng… Xin lỗi?… Ai đấy?… Anh có thể nói to lên không?… Gì cơ?… Vâng… Vâng… Ai đó?… A lô! A lô!” Rồi có tiếng dập máy và tiếng bước chân của cô ta vang lên trên hành lang. Tôi châm một điếu thuốc và nhìn chằm chằm vào nó cho đến khi nghe thấy tiếng bước chân của cô ta dưới thềm. Rồi tôi tới bên cửa sổ, vén rèm lên, nhìn xuống đại lộ Laurel và thấy phía sau ngôi nhà là một nhà để xe màu trắng. Ngay sau đó, một người phụ nữ mảnh mai đội mũ và bận áo khoác tối màu vội vã đi ra chỗ nhà để xe. Đó là cô Willsson. Cô ta lái chiếc Buick hai chỗ đi. Tôi quay lại ghế và chờ đợi. Bốn mươi lăm phút trôi qua. Lúc mười một giờ năm phút, tiếng phanh ô tô rít lên bên ngoài. Hai phút sau, cô Willsson bước vào phòng. Cô ta cởi mũ và áo khoác ra. Mặt cô ta trắng bệch, đôi mắt ủ dột. “Tôi vô cùng xin lỗi”, cô ta nói với khuôn miệng mím chặt chuyển động nhát gừng, “anh đã mất công ngồi đợi vô ích rồi. Tối nay chồng tôi sẽ không về nhà.” Tôi nói rằng tôi sẽ liên lạc với anh ta tại Herald sáng mai. Tôi đi về và tự hỏi tại sao mũi dép bên trái của cô ta lại dính thứ gì đó sẫm màu và ướt giống như máu vậy. • • • Tôi đi bộ đến Broadway và bắt một chiếc xe điện. Qua ba dãy nhà lớn ở phía Bắc khách sạn, tôi xuống xe để xem đám đông đang làm gì quanh lối vào Tòa thị chính. Tầm ba, bốn mươi người đàn ông và lác đác vài phụ nữ đang đứng trên vỉa hè, nhìn vào một cánh cửa gắn biển Sở Cảnh sát. Đám đông bao gồm những người công nhân mỏ và lò nung vẫn mặc nguyên đồ bảo hộ, những anh chàng mặc đồ lòe loẹt vừa bước ra từ tiệm bi-a và vũ trường, những gã chải chuốt với khuôn mặt nhợt nhạt, những người mang vẻ ngoài trì độn của một ông chồng đứng đắn, vài người phụ nữ cũng trì độn và đứng đắn y như vậy cùng vài ả gái điếm. Đến bên rìa đám đông, tôi dừng lại cạnh một người đàn ông nghiêm nghị mặc bộ đồ xám nhàu nhĩ. Khuôn mặt và đôi môi dày của anh ta trông cũng xám xịt, mặc dù nhìn qua anh ta không quá ba mươi tuổi. Khuôn mặt anh ta rộng, đường nét thô kệch và sáng sủa. Anh ta đeo một chiếc cà vạt đỏ thắt kiểu Windsor trên chiếc áo sơ mi bằng vải flannel màu xám. “Chuyện gì ồn ào vậy?” Tôi hỏi anh ta. Anh ta cẩn thận nhìn tôi trước khi trả lời, như thế muốn chắc chắn rằng thông tin sẽ được gửi đi một cách an toàn. Mắt anh ta cũng xám như bộ đồ, nhưng trông chúng không hề mềm như thế. “Don Willsson đã đến ngồi bên tay phải của Chúa, nếu Chúa không ngại nhìn vào những vết đạn.” “Ai đã bắn anh ta?” Tôi hỏi. Người đàn ông gãi đầu và đáp lại: “Một kẻ nào đó mang súng.” Tôi muốn thông tin, chứ không phải sự hóm hỉnh. Tôi sẽ thử vận may với một người khác trong đám đông nếu gã đeo cà vạt đỏ này không khiến tôi hứng thú. Tôi bảo: “Tôi mới đến thành phố. Cứ diễn vở Punch và Judy* với tôi đi. Người lạ thì phải chịu thôi.” “Quý ngài Donald Willsson, chủ biên của tờ Herald Buổi sáng và Herald Buổi tối, mới được tìm thấy trên phố Hurricane, bị một kẻ vô danh nào đó bắn chết.” Anh ta nói một lèo bằng giọng đều đều. “Hết cảm thấy bị tổn thương rồi chứ?” “Cảm ơn.” Tôi đưa tay ra và chạm vào đầu chiếc cà vạt thắt lỏng của anh ta. “Có ý nghĩa gì không? Hay chỉ đeo vậy thôi?” “Tôi là Bill Quint.” “Hóa ra là anh!” Tôi kêu lên, giả bộ như mình đã biết cái tên này. “Chúa ơi, tôi rất mừng được gặp anh!” Tôi rút chiếc ví chứa danh thiếp ra và lục lọi trong đống danh thiếp mà tôi đã kiếm được bằng nhiều cách, ở nhiều nơi khác nhau. Tấm màu đỏ là cái tôi muốn tìm. Trên đó ghi tôi là Henry F. Neill, thủy thủ được đào tạo bài bản, thành viên cấp cao của Hiệp hội Công nhân Công nghiệp Thế giới*. Không một chữ nào là sự thật. Tôi đưa tấm danh thiếp cho Bill Quint. Anh ta đọc kỹ nó, cả mặt trước lẫn mặt sau, rồi trả lại và nhìn tôi từ đầu đến chân một cách ngờ vực. “Chẳng có gì để nhìn nữa đâu.” Anh ta nói. “Anh định đi đâu?” “Đâu cũng được.” Chúng tôi đi cạnh nhau, rẽ vào sau góc phố một cách bâng quơ. “Điều gì đã đưa anh tới đây, nếu anh là một thủy thủ?” Anh ta chợt hỏi. “Sao anh lại nghĩ vậy?” “Có tấm danh thiếp đó.” “Tôi còn có một cái ghi rằng mình là tiều phu nữa cơ.” Tôi nói. “Nếu anh muốn tôi trở thành thợ mỏ, tôi sẽ làm một cái ngay trong ngày mai.” “Anh không kiếm được đâu. Tôi điều hành ở đây.” “Thế nếu anh nhận được điện báo từ Chi* thì sao?” Tôi hỏi. “Mặc xác Chi! Tôi điều hành ở đây.” Anh ta hất đầu về phía nhà hàng và hỏi, “Uống gì không?” “Kiếm được không đã.*” Chúng tôi bước vào nhà hàng, leo lên các bậc thang và bước vào một căn phòng nhỏ với một dãy bàn dài trên tầng hai. Bill Quint gật đầu và nói, “Hullo!” với vài cậu trai và cô gái, rồi đưa tôi vào một trong nhũng căn buồng có màn che màu xanh lá nằm thẳng hàng dọc bức tường đối diện quầy bar. Chúng tôi dành hai giờ để uống rượu whiskey và nói chuyện. Người đàn ông trong bộ đồ xám cho rằng tôi chẳng liên quan gì tới tấm danh thiếp mà tôi vừa cho anh ta xem, cũng như những danh tính khác mà tôi đã đề cập. Anh ta cũng không cho rằng tôi là một thành viên cấp cao của Hiệp hội. Với vai trò là thủ lĩnh quan trọng của IWW ở Personville, anh ta cho rằng nhiệm vụ của mình là phải tìm ra sự thật về tôi, đồng thời không để mình bị dò hỏi ngược lại trong khi đang làm việc đó. Với tôi thế cũng chẳng sao. Tôi hứng thú với các vấn đề ở Personville. Anh ta thì không bận tâm tới chuyện đó mà chỉ tập trung vào tấm thẻ đỏ của tôi. Và đây là những gì tôi moi được từ anh ta: Trong vòng bốn mươi năm, Elihu Willsson - cha của người đàn ông bị giết đêm qua - đã sở hữu trái tim, linh hồn cũng như xác thịt của Personville. Lão là chủ tịch và cổ đông lớn nhất của Tập đoàn Khai mỏ Personville cũng như ngân hàng First National, là chủ sở hữu của tờ Herald Buổi sáng và Herald Buổi tối, những tờ báo duy nhất của thành phố, và đồng sở hữu gần như tất cả các doanh nghiệp quan trọng khác. Cùng với khối tài sản đó, lão cũng nắm trong tay một Thượng nghị sĩ Mỹ, vài dân biểu, thống đốc bang, thị trưởng thành phố và hầu hết các cơ quan lập pháp của bang. Elihu Willsson là Personville, và gần như là toàn bộ bang. Hồi chiến tranh, IWW - khi đó đang lan rộng về phía Tây - đã giúp đỡ Tập đoàn Khai mỏ Personville. Nói giúp đỡ là không hoàn toàn chính xác. Họ đã sử dụng sức mạnh để đòi hỏi quyền lợi. Elihu già buộc phải chấp nhận và nín nhịn chờ thời. Chuyện xảy ra vào năm 1921. Việc kinh doanh gặp khó khăn. Elihu già không quan tâm xem liệu có phải đóng cửa tạm thời hay không. Lão xé hết những bản thỏa thuận trước đó và đá đám công nhân trở lại tình trạng khó khăn trước thời chiến. Tất nhiên là các công nhân đã yêu cầu sự giúp đõ. Bill Quint được trụ sở chính của IWW ở Chicago cử đến để giải quyết tình hình. Anh ta phản đối bạo loạn hay đình công. Anh ta khuyên họ hãy sử dụng một mánh cũ, trở lại làm việc và phá hoại từ bên trong. Nhưng điều đó là không đủ với các công nhân của Personville. Họ muốn tên mình được biết đến, muốn tạo ra lịch sử. Vậy là bạo loạn nổ ra. Nó kéo dài tám tháng. Cả hai bên đều tổn thất nặng nề. Chính các thành viên của Hiệp hội cũng phải đổ máu. Elihu già đã thuê các tay súng, lực lượng chống bạo loạn, vệ binh quốc gia và thậm chí là cả quân đội để chiến đấu cho mình. Khi đám tàn quân cuối cùng bị tiêu diệt, công đoàn của Personville chỉ còn là một xác pháo nổ tan tành. Nhưng, Bill Quint nói, Elihu già không biết gì về lịch sử nước Ý. Lão thắng, nhưng đã đánh mất quyền lực ở thành phố và tiểu bang. Để đánh bại đám thợ mỏ, lão đã để cho đám lính đánh thuê được tự do lộng hành. Khi cuộc chiến kết thúc, lão không thể loại bỏ chúng. Lão đã trao thành phố vào tay chúng và không đủ mạnh để lấy lại. Personville là một miếng mồi ngon và chúng đã chiếm lấy nó. Chúng giúp lão thắng cuộc chiến, và chiến lợi phẩm chúng yêu cầu là thành phố. Lão không thể công khai chống lại chúng. Chúng quá mạnh so với lão. Lão phải chịu trách nhiệm với những gì chúng đã làm trong cuộc bạo loạn. Khi câu chuyện tới được đó thì cả Bill Quint và tôi đều đã chếnh choáng. Anh ta bỏ kính xuống, gạt mớ tóc lòa xòa trước mặt và đưa câu chuyện về thì hiện tại: “Giờ kẻ mạnh nhất trong số chúng có lẽ là tay Pete Người Phần Lan. Thứ chúng ta đang uống đây cũng thuộc sở hữu của hắn. Rồi đến Lew Yard. Hắn có một tiệm cho vay trên phố Parker, chuyên thu tiền bảo lãnh và dính líu tới hầu hết các sự vụ nóng sốt của thành phố - đó là theo những gì người ta nói, và khá thân với Noonan - cảnh sát trưởng. Tay Max Thaler - biệt danh Kẻ Thầm Thì - cũng có rất nhiều bạn. Một gã da màu lươn lẹo có vấn đề ở cổ họng. Không thể nói được. Một tay cờ bạc. Ba kẻ đó, cùng với Noonan, đã giúp Elihu điều hành thành phố của lão - giúp nhiều hơn những gì lão muốn. Nhưng lão buộc phải hợp tác với chúng, hoặc là…” “Người bị bắn tối nay - con trai của Elihu - vị trí của anh ta là ở đâu?” Tôi hỏi. “Ông già đặt đâu thì gã ngồi đó, lúc nào cũng vậy.” “Ý anh là lão già đã khiến anh ta…?” “Có thể, nhưng tôi không cho là vậy. Tay Don đó chỉ vừa mới về nhà và bắt đầu điều hành tờ báo cho lão già. Lão quỷ già này, sắp xuống mồ đến nơi mà vẫn không để cho ai tóm đuôi mà không cắn lại. Nhưng lão phải cẩn trọng với đám kia. Lão đã mang con trai và người vợ quốc tịch Pháp của gã từ Paris về và sử dụng gã như một con khỉ trong rạp xiếc - một chiêu trò chết tiệt của một người cha. Don bắt đầu tiến hành cải tổ tờ báo. Dọn sạch sự tham nhũng và thối nát - đồng nghĩa với việc loại bỏ cả Pete, Lew và Kẻ Thầm Thì, đấy là nếu nó thành công. Anh hiểu rồi chứ? Nước cờ của lão già đã khiến chúng lâm vào thế bị động. Tôi đoán chúng chán chuyện đó rồi.” “Có gì đó sai sai trong suy đoán của anh.” Tôi nói. “Cái chốn đê tiện này còn cả đống thứ sai hơn nhiều. Uống đủ rồi chứ?” Tôi nói đã đủ. Chúng tôi xuống phố. Bill Quint bảo rằng anh ta đang ở trong khách sạn Miners trên đường Forest. Đường về của anh ta đi qua khách sạn của tôi, vậy nên chúng tôi đi cùng nhau. Có một gã cao lớn trông giống một tay cớm mặc thường phục đứng trước khách sạn của tôi, đang nói chuyện với một gã ngồi trong chiếc Stutz du lịch. “Trong xe là Kẻ Thầm Thì.” Bill Quint bảo tôi. Tôi bỏ qua người đàn ông lực lưỡng và thấy khuôn mặt trông nghiêng của Thaler. Hắn còn trẻ, da sậm và nhỏ con, với gương mặt đẹp như tượng tạc. “Hắn trông dễ thương đó.” Tôi nói. “Ừ hứ”, người đàn ông mặc đồ xám đồng ý, “và thuốc nổ cũng thế.” Mời các bạn đón đọc Mùa Gặt Đỏ của tác giả Dashiell Hammett & Nguyệt Minh (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Nạn Nhân Thứ Tư
Hắn lẻn vào những ngôi nhà khi đêm đến. Hắn tiến lại gần mép giường, nơi các cô gái đang ngủ say. Họ sẽ thức dậy và gặp cơn ác mộng kinh khủng nhất trong đời. Tính chính xác trong cách thức hoạt động của hắn cho thấy hắn là một bác sỹ bệnh hoạn, điều đó khiến báo chí gọi hắn bằng cái tên “Bác sỹ phẫu thuật”. Dẫn đầu là thám tử Moore và Rizzoli, các cảnh sát tìm ra nạn nhân của một loại tội phạm tương tự. Hai năm trước, bác sỹ Catherine Cordell đã chống cự và giết chết kẻ tấn công mình trước khi hắn có thể hoàn thành việc tra tấn cô.   Giờ tên sát nhân mới tái tạo lại một cách chính xác đến rợn người cung cách giết người mà Andrew đã làm với bác sỹ Cordell. Sau mỗi vụ giết người, hắn muốn làm cô hoang mang. Hắn tiếp cận cô ngày càng gần hơn ở cả bệnh viện nơi cô làm việc và căn hộ của cô. Cả Moore và Rizzoli đều không thể bảo vệ Cordell khỏi tên sát nhân máu lạnh. Bằng cách thức nào đó, hắn hiểu hết và cảm nhận được nỗi sợ hãi của tất cả những cô gái bị hắn giết. Một câu truyện tiết tấu nhanh với những tình tiết ly kỳ. Tất cả những yếu tố đó đã dẫn đến đỉnh điểm căng thẳng và rùng mình Đây là một trong những cuốn truyện trinh thám hay nhất... những nhân vật sắc sảo. Nó khiến bạn dán mắt vào từng trang giấy. *** Tess Gerritsen là một bác sĩ điều trị và một tác giả nổi tiếng thế giới. Tác phẩm tiểu thuyết đầu tay của bà về sự trì hoãn trong y học đã dành được rất nhiều lời khen ngợi. Harvest là cuốn sách bán chạy nhất theo tờ Thời báo New York. Bà cũng là tác giả của nhiều cuốn sách bán chạy khác như The Mephisto Club, Vanish, Body Double, The Sinner, The Apprentice, The Surgeon, Life Support, Bloodstream và Gravity. Tess Gerritsen sống tại Maine. Có thể ghé thăm website của bà tại địa chỉ www.tessgerrritsen. Là nhà tâm lý giải nghệ nên khi chuyển sang viết lách, nữ nhà văn người Mỹ Tess Gerritsen tỏ ra rất thấu hiểu nội tâm của các nhân vật của mình. Văn phong của bà bị ảnh hưởng bởi xu hướng diễm tình trong những tiểu thuyết mà bà đọc khi còn trẻ, nhưng sau đó đã được chuyển hóa một cách vô cùng mượt mà, hiệu quả sang thể loại trinh thám đen tối hơn. Dù vậy, Tess Gerritsen vẫn giữ được nhiều tình tiết rất ngọt ngào đậm chất phái nữ, giúp cho các tác phẩm như Call After Midnight (1987), Peggy Sue Got Murdered (1994), The Bone Garden (2007)... tạo được ấn tượng lâu dài trong lòng người đọc. Đặc biệt, những kiến thức về hình sự, tội phạm cũng được nữ nhà văn nghiên cứu rất kỹ và chuyển tải đầy đủ, trọn vẹn, hợp lý trong những cuốn sách của mình. Tác phẩm: Biến Mất Tội Ác Mùa Gặt Mạng Sống Mong Manh Quái Vật Khu Vườn Xương Nạn Nhân Thứ Tư Titanic Trong Vũ Trụ Chôn Sống ,,, *** Hôm nay họ sẽ tìm thấy cô ta.   Ta biết việc này sẽ xảy ra. Ta có thể tưởng tượng khá sống động các chuỗi sự kiện dẫn đến phát hiện đó. Vào 9 giờ, mấy bà cô ở Hãng lữ hành Kendall và Lord đó sẽ ngồi ở bàn làm việc, những móng tay được cắt tỉa đẹp đẽ của họ đang gõ trên bàn phím máy tính. Họ đang đăng ký chuyến viễn du đến biển Địa Trung Hải cho bà Smith, một kỳ nghỉ ở khu trượt tuyết tại Kloters cho ông Jones. Còn ông bà Brown thì có chút thay đổi trong năm nay. Họ sẽ đến nơi nào đó tuyệt đẹp như Chiang Mai hay bán đảo Madagascar nhưng họ sẽ chẳng gặp chút mạo hiểm nào. Ồ không, một chuyến đi trên hết phải thật thoải mái và dễ chịu. Đó là khẩu hiệu của Hãng lữ hành Kendall và Lord: “Những chuyến đi thoải mái”. Đây là một hãng lữ hành đông khách và điện thoại reo liên tục.   Rồi chẳng bao lâu sau, các bà chị mới nhận thấy Diana không có ở bàn làm việc.   Một trong số họ sẽ gọi đến khu dân cư Back Bay của Diana, điện thoại reo nhưng không ai nhấc máy. Có lẽ Diana đang ở trong buồng tắm nên không nhận điện. Hay cô ta đã đi làm nhưng chạy cuống cuồng vì đã muộn giờ làm. Người gọi điện sẽ nghĩ rằng hàng chục khả năng tốt lành đến mức hoàn hảo. Nhưng cả ngày trôi qua, và những cuộc gọi liên tục không có ai nhận máy thì người đó sẽ nghĩ đến những khả năng khác đáng lo hơn.   Ta nghĩ người quản lý tòa nhà sẽ cho phép đồng nghiệp của Diana vào căn hộ của cô ta. Ta thấy ông ta lo lắng xục xạo chùm chìa khóa và nói.   Cô là bạn của cô ấy à? Cô chắc là cô ấy sẽ không phiền chứ? Vì tôi phải nói với cô ấy là tôi đã cho phép cô vào.   Họ bước vào căn hộ, cô bạn đồng nghiệp gọi to.   Diana, cô có nhà không? Họ bắt đầu đi dọc hành lang, qua những tấm áp phích quảng cáo du lịch được đóng khung cẩn thận. Người quản lý đứng ngay sau cô ta để canh chừng xem cô ta có cuỗm vật gì không.   Rồi ông nhìn lối vào và nhìn giường ngủ. Ông ta thấy Diana Sterling và không còn lo ngại về những việc vụn vặt như việc ăn cắp nữa. Ông ta chỉ muốn ra khỏi căn hộ trước khi bị đuổi.   Ta muốn có mặt ở đó khi cảnh sát đến nhưng mình đâu có ngu. Ta biết họ sẽ để ý từng ô tô đi qua, từng khuôn mặt trong đám người đứng xem túm tụm bên đường. Họ biết ta rất muốn trở lại đó. Ngay cả bây giờ, khi đang ngồi ở Starbucks, ngắm nhìn một ngày sáng sủa qua cửa sổ, ta vẫn cảm thấy căn phòng đó đang gọi ta quay lại. Nhưng ta rất giống anh chàng Ulysses, an toàn buộc mình vào cột buồm, khao khát điệu hát của nàng tiên cá. Ta sẽ không tự đập đầu vào đá. Ta sẽ không phạm sai lầm. ...  Mời các bạn đón đọc Nạn Nhân Thứ Tư của tác giả Tess Gerritsen.
Quái Vật
Tiếp theo những vụ án của quyển Nạn nhân thứ tư, trong quyển sách này, thám tử Rozzoli lại đối đầu với những vụ giết người dã man và cách thức có gì đó hơi phảng phất đường nét của những vụ án do tên Bác sĩ phẫu thuật thực hiện 1 năm trước đó. Khi cô điên cuồng lao theo dấu vết tội phạm một cách tuyệt vọng thì lại được tin tên tội phạm Bác sĩ phẫu thuật đã vượt ngục.. Kinh hoàng, ám ảnh vẫn chưa phai nhạt sau một năm, giờ cô phải chuẩn bị tinh thần để đối đầu với hắn. Sẽ có một cuộc đối đầu... chỉ là không biết khi nào thì nó xảy ra... Đây là quyển sách tiếp theo của Nạn nhân thứ tư và trước quyển Tội ác. Nếu ai đã đọc Tội ác rồi thì sẽ biết về mối tình của Rozzoli với mật vụ Dan (trong quyển này thì họ mới quen nhau)... Cuốn sách "Quái vật" đã quay trở lại cùng với những tên sát nhân độc ác mang màu sắc huyền bí làm ta ớn lạnh. Dường như chúng vẫn quanh quất đâu đây trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta, nhưng đôi khi thật khó khăn để nhận ra, vì chúng có bộ mặt chẳng khác gì chúng ta. Và khi đã nhận ra, tội ác của chúng làm ta thật khó tin nổi... *** Tess Gerritsen là một bác sĩ điều trị và một tác giả nổi tiếng thế giới. Tác phẩm tiểu thuyết đầu tay của bà về sự trì hoãn trong y học đã dành được rất nhiều lời khen ngợi. Harvest là cuốn sách bán chạy nhất theo tờ Thời báo New York. Bà cũng là tác giả của nhiều cuốn sách bán chạy khác như The Mephisto Club, Vanish, Body Double, The Sinner, The Apprentice, The Surgeon, Life Support, Bloodstream và Gravity. Tess Gerritsen sống tại Maine. Có thể ghé thăm website của bà tại địa chỉ www.tessgerrritsen. Là nhà tâm lý giải nghệ nên khi chuyển sang viết lách, nữ nhà văn người Mỹ Tess Gerritsen tỏ ra rất thấu hiểu nội tâm của các nhân vật của mình. Văn phong của bà bị ảnh hưởng bởi xu hướng diễm tình trong những tiểu thuyết mà bà đọc khi còn trẻ, nhưng sau đó đã được chuyển hóa một cách vô cùng mượt mà, hiệu quả sang thể loại trinh thám đen tối hơn. Dù vậy, Tess Gerritsen vẫn giữ được nhiều tình tiết rất ngọt ngào đậm chất phái nữ, giúp cho các tác phẩm như Call After Midnight (1987), Peggy Sue Got Murdered (1994), The Bone Garden (2007)... tạo được ấn tượng lâu dài trong lòng người đọc. Đặc biệt, những kiến thức về hình sự, tội phạm cũng được nữ nhà văn nghiên cứu rất kỹ và chuyển tải đầy đủ, trọn vẹn, hợp lý trong những cuốn sách của mình. Tác phẩm: Biến Mất Tội Ác Mùa Gặt Mạng Sống Mong Manh Quái Vật Khu Vườn Xương Nạn Nhân Thứ Tư Titanic Trong Vũ Trụ Chôn Sống ,,, *** Hôm nay tôi đã chứng kiến một người đàn ông chết. Nó là một sự kiện bất ngờ và tôi vẫn còn cảm thấy ngạc nhiên vì hóa ra vở kịch vẫn chưa khép lại. Có quá nhiều điều thú vị xảy ra trong cuộc đời của chúng ta mà chúng ta không hề ngờ tới và chúng ta nên nhấm nháp, thưởng thức hương vị tuyệt vời của chúng khi chúng xuất hiện, đồng thời cũng cần trân trọng những giây phút tẻ nhạt đã trôi qua khiến ta ngán ngẩm. Nơi đây, ngày tháng trôi qua chậm chạp, trong cái thế giới đằng sau các bức tường này, con người chỉ được gọi bằng các con số chứ không được phân biệt bằng tên gọi của mình, cũng không bằng sự thông minh bẩm sinh mà bằng phẩm chất của những người đi ngang qua. Ở đây chúng tôi mặc giống nhau, ăn cùng loại thức ăn và đọc cùng những cuốn sách rách nát trong cùng một khu của nhà tù. Ngày nào cũng giống như ngày nào. Rồi bỗng nhiên một vụ xô xát nào đó xảy ra bỗng nhiên nhắc nhở chúng tôi rằng cuộc đời này có thể có cái kết giống như một cuốn tiểu thuyết rẻ tiền. Và chuyện đó xảy ra đúng hôm nay, ngày mùng 2 tháng 8. Trời hôm nay rất nóng nực, mặt trời rực rỡ và chín mọng theo đúng cách mà tôi vẫn thích. Trong khi những người khác toát hết mồ hôi và cố lẩn tránh ánh mặt trời như đám gia súc thì tôi lại ra đứng giữa sân tập thể dục, hướng mặt lên trời như con thằn lằn đang nằm sưởi nắng. Mắt tôi nhắm lại, vì thế mà tôi đã không nhìn thấy cú đâm bằng dao, tôi cũng không nhìn thấy anh chàng kia lảo đảo và đổ xuống. Nhưng tôi nghe được những tiếng la hét, nghe được âm thanh náo loạn xung quanh nên tôi mở mắt ra nhìn. ... Mời các bạn đón đọc Quái Vật của tác giả Tess Gerritsen.
Hy Sinh
“Cái sự kiện có khả năng kích động cả hệ thần kinh ấy, bạn sẽ nhận ra nó ngay lập tức giữa tất cả các sự cố khác trong đời, bởi vì ngay khi nó xảy đến, bạn biết rằng nó sẽ gây ra những tác động khủng khiếp lên bạn, rằng điều xảy ra với bạn là không thể đảo ngược. Chẳng hạn như ba phát đạn từ một khẩu súng trường lên đạn bằng tay bắn vào người phụ nữ bạn yêu.” Đó chính là điều đã xảy ra với Camille, tức thiếu tá Verhoeven trứ danh, và Anne Forestier, người tình mới của ông và cũng là nhân chứng duy nhất của một vụ cướp nữ trang trên đại lộ Champs-Élysées. Nhân chứng mau chóng trở thành nạn nhân. Nhưng là nạn nhân của cái ác hay của sự hy sinh? Và rốt cuộc, phải chăng chỉ có duy nhất sự hy sinh ấy? Sau Alex, một lần nữa Pierre Lemaitre lại bất ngờ thộp lấy bạn, đẩy bạn vào những cơn run rẩy dồn dập chết người với những độc giả yếu tim nhất, và thiết lập một bầu không khí ám mùi cái ác ở trạng thái nguyên chất. Một lần nữa, tác giả lại khẳng định lối viết và tài năng của mình trong thế giới văn chương trinh thám. *** Tác phẩm này đã đoạt Giải CWA International Dagger năm 2015 Trở lại với thanh tra Camille lùn tịt nhưng siêu thông minh trong Alex, mà không hiểu sao Nhã Nam không cho dịch hai cuốn của series 4 quyển về Camille luôn đi. Mình thích quyển này lắm lắm.   Cụ thể thì về mặt nội dung, quả là khó nói. Anne, có thể coi là người tình của Camille, bị tấn công tàn bạo sau khi chứng kiến một vụ cướp liều lĩnh của bốn tên cướp. Mấy chục trang đầu cuốn sách là để tác giả thuật lại vụ tấn công đáng sợ này. Cái hay ở đây là tác giả vừa miêu tả thông qua góc nhìn của Camille khi xem lại đoạn băng ghi hình vừa tường thuật một cách hờ hững trong tư cách là một người thứ ba quan sát sự việc. Mình cực kì mê cách viết của tác giả luôn ấy, từ quyển Alex rồi. Lối kể chuyện vừa nằm trong đầu nhân vật nhưng đồng thời cũng giữ một thái độ khách quan của người kể chuyện khiến cho giọng văn mang tính giễu cợt, nhưng vẫn gây cảm xúc mạnh nơi người đọc. Đặc biệt ở đoạn đầu này, sự bạo lực được miêu tả vô cùng khắc nghiệt. Mình càng đọc thì tính bạo lực càng được đẩy lên cao đến mức mình phải nín thở để có thể đọc tiếp (đùa tí, không đến mức nín thở đâu). Những gì Anne phải hứng chịu làm mình không nghĩ là cô vẫn đủ sức níu kéo mạng sống – thế mà cô vẫn làm được. Sau đó, Camille, vì tình riêng đã quyết định lừa dối cấp trên và đồng nghiệp để được điều tra vụ cướp này. Chúng ta bắt đầu một màn đấu trí một sống một còn giữa một viên thanh tra lùn đầy quyết tâm và một tên hung thủ man rợ không còn tính người. Rốt cuộc thì ai là kẻ chiến thắng? Camille có để cảm xúc che mờ lý trí? Khác với cuốn Alex, nhịp truyện trong này tương đối chậm (kể cả đoạn bạo lực đầu truyện) nên mình thấy không nhiều người đánh giá cao cuốn này. Về cá nhân mình, nhịp chậm như vậy khiến mình lúc nào cũng trong trạng thái hồi hộp, chờ đợi màn phá án nhanh nhạy tiếp theo của Camille. Đáng tiếc là mình không đọc cuốn đầu tiên của series này nên bị spoil hoàn toàn cuốn đó – cuốn này có liên quan chặt chẽ tới cuốn đầu tiên. Nhưng dù sao thì điều đó vẫn không cản trở mình tận hưởng từng giây một việc đọc cuốn sách này. Sao mà mình vẫn ngưỡng mộ Camille thế nhỉ? Ông ấy cao có mỗi 1m45 mà ai ai cũng phải phục, và ông vẫn có người yêu đàng hoàng đấy chứ! Kiểu mình cũng khá thấp (chưa đến 1m50 cơ) nên mình đồng cảm với ông ấy ghê gớm luôn. Ông thật là thông minh, quyết đoán và cái gì cũng nhìn ra được chân tướng vụ việc. Mình đọc mà cứ thấy sợ là lý trí ông sẽ bị lu mờ đi bởi chuyện xảy ra đến Anne, nhưng thực sự là quá may mắn khi tác giả đã không cho Camille đi vào lối mòn đó. Dĩ nhiên là việc ông lừa dối cấp trên chỉ vì Anne cũng để lại hậu quả lớn mà ông sẽ phải đối mặt sau đó. Và rồi những gì ông phát hiện ra làm giọng văn trầm hẳn xuống – mình như cảm nhận được cả tâm trạng tác giả khi viết những dòng này, gần như là một cách để chia tay với nhân vật Camille và kết thúc cả series. Camille bẽ bàng nhận ra những gì ông đã làm từ đầu đến giờ, trong truyện, thực chất chỉ vì ông đã quá tin tưởng, quá ngu ngốc. Ông phải sửa chữa lại mọi thứ. Cuốn này mang nhiều điều suy ngẫm hơn, có lẽ vì chúng ta biết đây là thời khắc chia tay nhân vật Camille mãi mãi. Hy sinh chính là dòng chảy chính của truyện, Camille đã phải hy sinh cái gì để bắt hung thủ phải trả giá, Anne đã phải hy sinh cái gì khi vô tình bị bọn cướp tấn công. Nhưng nói thật là, mình chẳng quan tâm lắm tới cô Anne này đâu. Mình chỉ quan tâm tới Camille thôi. Kết quá quá là buồn, còn buồn hơn cả trong Alex. Mình cũng buồn, vì mình không muốn tạm biệt Camille đâu, mình muốn vẫn còn cuốn nữa cơ. Điểm: 5/5 Hương Spy *** “Máu chảy. Chảy tiếp. Không suy nghĩ, cô vớ một lọ nhựa đựng cồn chín mươi độ trong tủ thuốc, không có gạc, cô xòa bàn tay, đổ cồn vào đó rồi cứ thế áp lên mặt. Cơn đau đớn kéo đến… Cô gào lên và nắm tay đấm mạnh vào bồn rửa, các ngón tay cô, không được bảo vệ vì những thanh nẹp đã bị rơi ra, làm cô lại hét lên lần nữa. Lần thứ hai, xòe bàn tay, đổ cồn ra rồi áp trực tiếp lên mặt. Cô tì hai bàn tay vào mép bồn rửa, tưởng như sắp xỉu đến nơi, nhưng cô vẫn đứng vững”. Vì ấn tượng mạnh với tác phẩm Alex của Pierre Lemaitre nên khi cuốn “Hy sinh” được xuất bản, dù không được PR rầm rộ nhưng Biển vẫn không do dự rước nó về. Lần đầu đọc thì Biển chưa thấy hay nên đã đem cất, đến lần thứ hai thử đọc lại thì thấy cuốn hút hơn nhiều nên đã đọc đến hết. Tuy vậy, vẫn có vài đoạn Biển lướt nhanh vì thấy hơi lan man. Độc giả vốn đã biết đến thanh tra Camille Verhoven qua truyện Alex. Trong cuốn “Hy sinh”, ông đã phần nào vượt qua nỗi đau mất vợ để bắt đầu xây dựng mối quan hệ – có thể gọi là “mối tình” – với người phụ nữ tên Anne Forestier. Một buổi sáng đẹp trời, Anne tình cờ bước vào con hẻm phía sau tiệm kim hoàn và chạm mặt ba tên cướp đang chuẩn bị hốt một mẻ lớn. Chúng chưa kịp kéo mặt nạ xuống. Chẳng nói chẳng rằng, tên cao lớn nhất trong bọn bước đến, dùng báng súng nện vỡ xương gò má của Anne, sau đó là một trận đòn khiến cô thương tích đầy mình, tính mệnh khó níu giữ. Sự việc đã gây nên cú sốc to lớn trong lòng thanh tra Camille – vốn là một người đàn ông nhạy cảm. Ông che giấu sự thật rằng nạn nhân chính là tình nhân hiện tại của mình, nhất quyết tiếp nhận vụ án trong khi cõi lòng mang đầy phẫn uất và không có chút manh mối nào. Qúa trình điều tra diễn ra rất chậm, có vẻ như sai lầm nối tiếp sai lầm, khiến cấp trên nổi giận còn đồng nghiệp thì dùng hết khả năng để bao che cho Camille. Tuy đã đưa người nhà đọc trước và bị dọa rằng “cuốn này dở lắm” nhưng vì thích cuốn Alex nên Biển quyết định đọc cuốn “Hy sinh” với tâm thế như một tờ giấy trắng, không định kiến. Lâu lâu đọc trinh thám Pháp đúng là có phong vị hoàn toàn khác với thể loại trinh thám Mỹ tốc độ nhanh và cốt truyện dữ dội mà Biển thường đọc. “Hy sinh” có lối viết hơi chậm, sau phần mở đầu dồn dập và tàn bạo thì gần như 300 trang đầu không hé lộ thêm gì mới, chủ yếu miêu tả cảm xúc của thanh tra Camille và vài diễn tiến sau khi vụ tấn công xảy ra. Nếu không vì thiện cảm với tác giả và sự tò mò cao độ với kết cuộc của vụ án thì có lẽ Biển đã xếp sách cất để sau này đọc tiếp. Tuy nhiên, sau khoảng 300 trang thì tình tiết kịch tính hơn, khiến Biển cảm thấy thú vị hơn và có động lực đọc đến cuối. Thanh tra Camille Verhoven, hay chính tác giả Pierre Lemaitre liệu có phải là một người mang chút tư tưởng body-shaming, vì trong cuốn “Hy sinh” có hai chỗ phê phán ngoại hình của những phụ nữ thừa cân, điều này khiến người viết review này cảm thấy không vui vì chính cô ấy cũng thừa cân. Biển hy vọng tác giả chỉ đưa vào những đoạn như vậy nhằm mục đích trào phúng chứ không thật sự có ý chê bai ngoại hình của bất cứ ai. “Camille nhìn cô ta, thầm vẽ chân dung cô ta trong đầu, cô ta cũng gây ấn tượng nhưng chỉ là khi nhìn lướt qua. Bởi vì khi xem xét đến từng chi tiết thì lại là chuyện khác: chân to, mũi ngắn, các đường nét hơi thô kệch, bộ mông rất phì nhiêu nhưng lại vênh lên quá cao. Bộ mông của một vận động viên leo núi. Cô ta cũng xức nước hoa… Có mùi i ốt. Có cảm giác mọi người đang tranh luận bên cạnh một sọt hàu”. Tuy nhiên, ngoài chút cảm giác khó chịu với chuyện body-shaming thì Biển khá ưng ý với những câu đậm chất triết lý về nhân gian quan hệ thỉnh thoảng xuất hiện trong truyện. Đọc văn của Pierre Lemaitre giống như đang trò chuyện với một vị tiền bối trung niên nắm vững nghệ thuật kể chuyện. Người đọc sẽ có cảm giác như đang ngồi trong quán rượu và lắng nghe một câu chuyện được kể lại bằng giọng điệu nhàn tản nhưng lôi cuốn, không thiếu những đoạn cao trào và những câu sâu sắc về tâm lý con người. “Việc ta là ai đối với người khác chính là một mối liên kết vô cùng mạnh mẽ”. “Họ bước cùng nhau trong một khoảng thời gian mà không biết gì về nó, một khoảng thời gian ngắt quãng, không chắc chắn và có thể tiếp diễn”. “… một người phụ nữ bốn mươi tuổi và một người đàn ông năm mươi tuổi nói chuyện gì khi gặp nhau kia chứ, ngoài việc tìm cách giảm thiểu những thất bại của bản thân nhưng lại không che giấu chúng hoàn toàn, nhắc đến những vết thương lòng mà không trưng chúng ra, cố gắng nói về chúng càng ít càng tốt”. “ ‘Chỉ cần anh xem qua thôi’, có nghĩa là: tôi muốn nghe ý kiến của anh, tôi có chút nghi ngờ, chính anh phải cho tôi biết, tôi không nói gì với anh cả, tôi không muốn gây ảnh hưởng đến anh, và giá anh có thể làm nhanh việc này…”. Cũng như cuốn Alex, trong cuốn “Hy sinh” có những đoạn miêu tả chi tiết về các đoạn hành hung hoặc bạo hành, được viết với một giọng văn lạnh lẽo thản nhiên cứ như đang nói chuyện thời tiết, càng tăng hiệu ứng tàn bạo của hành động, thể hiện rõ bản chất tàn nhẫn của nhân vật phản diện. Tuy nhiên, không chỉ nhân vật phản diện mới có thể tàn nhẫn, ngay cả một nhân vật phụ đáng thương cũng có thể tàn nhẫn nếu cách xử sự của anh ta / cô ta cho thấy sự vô tâm hời hợt khi người khác gặp nạn.. Trước khi đọc cuốn “Hy sinh” thì Biển khá thích cái bìa đơn giản nhưng ấn tượng của nó, sau khi đọc thì Biển hiểu rằng bìa sách minh họa cho nhiều cảnh trong sách. Tiếng Pháp chắc là khó dịch hơn tiếng Anh nên có vài câu / vài đoạn Biển không thể nắm rõ ý khi đọc, nhưng nhìn chung truyện đã được dịch thuật và biên tập tốt, không có lỗi chính tả hoặc lỗi in ấn. Gần cuối sách là một câu nói đáng lưu ý của thanh tra Camille về việc hy sinh: “Cho dù có rơi vào tình cảnh bi đát nhất, tôi vẫn thấy là không tồi khi có ai đó để ta có thể vì họ mà hy sinh một điều quan trọng. Trong thời đại của chủ nghĩa vị kỷ này, thậm chí đó còn là một thứ xa xỉ, cậu không thấy thế sao?” (Sea, 28-5-2020) Phía sau hình minh họa cho review này là một câu chuyện vui. Cáo Biển Non Xanh *** 10:00 Một sự kiện được coi là có tính chất quyết định khi nó khiến cuộc đời bạn lệch hẳn khỏi trục của nó. Đó chính là điều mà Camille Verhœven đã đọc được, vài tháng trước, trong một bài báo về “Sự tăng tốc của lịch sử”. Cái sự kiện mang tính quyết định, đột ngột, bất ngờ và có khả năng kích động cả hệ thần kinh ấy, bạn sẽ nhận ra nó ngay lập tức giữa tất cả các sự cố khác trong đời, bởi vì sự kiện ấy chứa đựng một nguồn năng lượng và chiếm một tỷ trọng đặc thù: ngay khi nó xảy đến, bạn biết rằng các hậu quả của nó sẽ gây ra những tác động khủng khiếp lên bạn, rằng điều xảy ra với bạn là không thể đảo ngược. Chẳng hạn như ba phát đạn từ một khẩu súng trường lên đạn bằng tay bắn vào người phụ nữ mà bạn yêu. Đó chính là điều đã xảy ra với Camille. Dẫu hôm đó, cũng giống như ông, bạn đang trên đường đến dự lễ tang người bạn thân nhất của mình, và bạn có cảm giác chừng ấy đã đủ nặng nề cho một ngày, thì cũng chẳng còn gì là quan trọng nữa. Số phận không có kiểu hài lòng với một sự tầm thường như thế, và mặc kệ chuyện đó, nó hoàn toàn đủ khả năng hiển hiện dưới hình dạng của một kẻ giết người được trang bị một khẩu Mossberg 500* cưa nòng, cỡ 12 ly. Bây giờ, chỉ còn tìm hiểu xem bạn sẽ phản ứng thế nào. Toàn bộ vấn đề nằm ở đó. Bởi vì suy nghĩ của bạn đờ đẫn đến nỗi trong phần lớn các trường hợp, bạn sẽ phản ứng thuần túy theo bản năng. Chẳng hạn như khi người phụ nữ bạn yêu, trước khi lĩnh ba phát đạn, bị dần cho một trận nhừ tử theo đúng nghĩa của từ này, và sau đó bạn nhìn thấy rõ mồn một kẻ giết người giơ súng lên ngắm sau khi lên đạn bằng một cử chỉ nhanh và dứt khoát. Chắc hẳn chính trong những thời khắc ấy, những con người phi thường sẽ lộ diện, những con người biết đưa ra quyết định đúng đắn trong hoàn cảnh tồi tệ. Nhưng nếu bạn là một ai đó bình thường, bạn sẽ tự vệ theo khả năng của bản thân. Và rất thường xuyên, khi phải đối diện với một cơn địa chấn như thế, bạn buộc phải hành động theo kiểu được chăng hay chớ hoặc theo cách sai lầm, nếu chưa rơi thẳng vào trạng thái bất lực. Khi đã đến một độ tuổi nhất định hoặc khi những chuyện kiểu đó từng giáng xuống đời bạn, bạn sẽ tưởng rằng mình được miễn dịch. Đó chính là trường hợp của Camille. Người vợ đầu của ông đã bị sát hại, một cơn tai biến, ông đã mất nhiều năm mới hồi phục được. Khi đã trải qua một thử thách như vậy, bạn sẽ nghĩ rằng chẳng còn chuyện gì có thể xảy đến với bạn nữa. Đó chính là cái bẫy. Bởi vì bạn đã mất cảnh giác. Đối với số phận, vốn có con mắt rất tinh tường, thì đây chính là thời điểm phù hợp nhất để tóm cổ bạn. Và nhắc cho bạn nhớ về tính đúng lúc không chệch đi đâu được của sự tình cờ. Anne Forestier bước vào hẻm thương mại Monier ít phút sau giờ mở cửa. Hành lang chính gần như vắng ngắt, vẫn còn thoang thoảng thứ mùi váng vất của chất tẩy rửa, các cửa hàng chậm rãi mở cửa, người ta bày ra các sạp sách vở, đồ trang sức, các tủ trưng bày. Hẻm thương mại này, được xây dựng vào thế kỷ 19 ở cuối đại lộ Champs-Élysées, bao gồm các quầy hàng cao cấp, quầy văn phòng phẩm, quầy đồ da, quầy đồ cổ. Hành lang được che phủ bằng kính màu, và khi ngước mắt lên, người đi dạo tinh mắt có thể phát hiện ra cả đống những chi tiết trang trí theo phong cách Art deco, những mảnh sành sứ, những gờ mái, những ô kính ghép màu nhỏ. Anne cũng có thể ngắm nghía chúng nếu muốn, nhưng cô sẵn lòng thú nhận rằng cô thường uể oải vào buổi sáng. Và vào giờ này, những thứ trên cao, các chi tiết và các khoảng trần nhà là thứ cuối cùng mà cô muốn quan tâm. Trước hết, cô cần một cốc cà phê. Đen đặc. Bởi vì hôm nay, như một việc cố tình, Camille vẫn nằm ườn trên giường. Trong khi trái ngược với cô, ông thường tỉnh táo vào buổi sáng. Nhưng Anne không quá để tâm đến việc đó. Do vậy, trong lúc nhẹ nhàng đẩy lùi những mơn trớn của Camille - ông có đôi bàn tay rất ấm, không phải lúc nào cũng dễ dàng cưỡng lại, cô đã chuồn vào tắm vòi sen mà quên mất cốc cà phê rót ra trước đó, cô vừa quay trở vào bếp vừa lau khô tóc, và thấy cốc cà phê đã nguội ngắt, chộp vội một trong hai mắt kính áp tròng khi nó chỉ còn cách lỗ thoát nước trong chậu rửa vài milimét... Sau đó thì đến giờ, cô phải đi. Với cái bụng rỗng. Vừa đến hẻm thương mại Monier, quá mười giờ vài phút, cô liền ngồi vào hàng hiên của một quán giải khát nhỏ nằm ngay lối vào, và cô là khách hàng đầu tiên. Bình pha cà phê vẫn còn đang đun, cô phải chờ trước khi được phục vụ, và nếu cô có nhìn đồng hồ nhiều lần thì cũng không phải vì đang vội. Mà là vì anh chàng nhân viên phục vụ. Để tìm cách làm anh ta nản chí. Bởi vì không có việc gì đáng kể để làm trong lúc chờ cà phê được đun nóng, nên anh ta nhân cơ hội đó cố bắt chuyện với cô. Anh ta vừa lau các bàn xung quanh vừa lén nhìn cô qua khe cánh tay, và vờ như vô tình, xáp lại gần cô theo những đường tròn đồng tâm. Đó là một gã cao lớn, gầy gò, lẻo mép, có mái tóc vàng hoe bóng dầu, kiểu người mà ta thường gặp trong những khu du lịch. Khi lau xong vòng cuối cùng, anh ta đứng sững bên cạnh cô, một tay chống hông, cất tiếng thở dài đầy ngưỡng mộ trong lúc nhìn ra ngoài và nói thành tiếng những gì anh ta nghĩ về thời tiết ngày hôm đó, những suy nghĩ tầm thường đến thảm hại. Anh chàng nhân viên phục vụ này là một gã ngốc, nhưng anh ta có thị hiếu không tồi, bởi vì ở độ tuổi bốn mươi, Anne trông vẫn rất rạng rỡ. Mái tóc màu nâu tinh tế, đôi mắt đẹp màu xanh sáng, nụ cười khiến người ta ngây ngất... Quả là một người phụ nữ tỏa sáng. Lại còn có lúm đồng tiền. Với những cử chỉ chậm rãi, uyển chuyển, bạn sẽ không cưỡng nổi ý muốn được chạm vào cô, bởi vì ở cô, mọi thứ đều có vẻ tròn trĩnh và rắn chắc, đôi bầu vú, cặp mông, chiếc bụng thon nhỏ, cặp đùi, và thật ra tất cả đều rất tròn trĩnh và rắn chắc, theo một kiểu khiến người khác phát điên. Mỗi lần nghĩ đến chuyện đó, Camille đều tự hỏi cô làm gì với ông. Ông đã năm mươi tuổi, hơi hói, nhưng nhất là, nhất là, ông chỉ cao có một mét bốn mươi lăm. Để dễ hình dung, đó gần như là chiều cao của một thằng nhóc mười ba tuổi. Chẳng thà nói rõ ngay lập tức để mọi người khỏi phải đoán già đoán non: Anne không cao nhưng dù sao cũng hơn ông hai mươi hai xăng ti mét. Thế cũng là cao hơn ông gần một cái đầu rồi. Anne đáp lại những cử chỉ cầu thân của anh chàng nhân viên phục vụ bằng một nụ cười quyến rũ, rất biểu cảm: anh làm ơn biến đi cho (anh chàng ra hiệu là đã hiểu, một bài học cho anh ta mỗi khi muốn tỏ ra dễ mến), và ngay sau khi uống xong cốc cà phê, cô đi qua hẻm Monier để tiến về hướng phố Georges-Flandrin. Khi gần đến đầu kia hành lang, cô chợt thọc tay vào túi xách, hẳn là để lấy ví, và cảm thấy có thứ gì đó ẩm ướt. Các ngón tay cô dính đầy mực. Một cái bút đã bị chảy mực. Đối với Camille, nói đúng ra thì chính là vì cái bút này mà mọi chuyện bắt đầu. Hoặc vì việc Anne chọn đi theo lối hành lang này mà không phải là một hành lang khác, đúng vào sáng hôm đó chứ không phải một sáng khác, vân vân. Tổng thể của những sự trùng hợp cần thiết để một thảm họa xảy ra quả là điều khiến người ta phải bối rối. Nhưng cũng chính nhờ tất cả những sự trùng hợp đó mà đã có cái ngày Camille gặp được Anne, thế nên ta không thể lúc nào cũng than thở về mọi chuyện. Mời bạn đón đọc Hy Sinh của tác giả Pierre Lemaitre & Nguyễn Thị Tươi (dịch).