Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Lính Canh

Như mọi khi, Reacher không có nơi nào cụ thể để đi. Một buổi sáng, anh đến một thị trấn gần Pleasantville, Tennessee. Nhưng không có gì dễ chịu về nơi này. Trong ánh sáng ban ngày, Reacher phát hiện ra một linh hồn không may bước vào một ổ phục kích. "Đó là bốn chọi một" ... vì vậy Reacher can thiệp để giải quyết xung đột. Người đàn ông anh cứu là Rusty Rutherford, một giám đốc CNTT khiêm tốn, gần đây đã bị sa thải sau một cuộc tấn công mạng, khóa dữ liệu, hồ sơ và thông tin của thị trấn ... và những bí mật. Những kẻ xấu coi Rutherford là một phần của một cái gì đó nghiêm trọng, liên quan đến một âm mưu, một sự che đậy và giết người - tất cả đều tập trung vào một anh chàng nhỏ nhắn nhu mì trong chiếc áo sơ mi dính màu cà phê, người không biết anh ta phải chống lại điều gì. Quy tắc một: nếu bạn không biết mình đang gặp phải rắc rối gì, hãy giữ Reacher bên mình. *** Kể từ năm 1997, độc giả khắp thế giới đã bị cuốn vào những câu chuyện về Jack Reacher, nhân viên điều tra thuộc lực lượng quân đội Mỹ từng được tác giả Lee Child giới thiệu lần đầu tiên trong cuốn tiểu thuyết Killing Floor. Những câu chuyện về cuộc đời và chiến công của Jack Reacher sau đó tiếp tục được Lee Child khai thác trong hơn 20 cuốn tiểu thuyết được xuất bản sau đó. *** Các sách trong bộ "Jack Reacher" bao gồm "Killing Floor", "The Enemy" và "One Shot." Lee Child là tác giả của bộ truyện và hiện có một danh sách đầy đủ trên phần Sách của LeeChild.com, kể từ tháng 6 năm 2015. "Killing Floor", phát hành năm 1997, là tiểu thuyết đầu tay trong loạt phim "Jack Reacher". Trong cuốn sách, Reacher quyết định đến thăm Margrave, Georgia, nhưng nhanh chóng bị bắt vì tội giết người mà anh ta không thực hiện. Một thám tử địa phương và một nữ cảnh sát cố gắng giúp anh ta chứng minh sự vô tội của mình. Trong quá trình này, cả ba phát hiện ra các hoạt động bất hợp pháp đang diễn ra ở Margrave. "The Enemy" được phát hành vào năm 2004 và là cuốn sách thứ tám trong bộ truyện. Cuốn sách là phần tiền truyện của "Killing Floor", diễn ra tám năm trước các sự kiện trong cuốn sách đó. Khi đang làm nhiệm vụ ở Bắc Carolina, Reacher nhận được cuộc gọi về một người lính đã chết. Tuy nhiên, người lính này là một vị tướng đáng lẽ phải đến châu Âu, và Reacher sớm phát hiện ra vợ của vị tướng cũng đã chết. "One Shot", phát hành năm 2005, là cuốn sách thứ chín trong bộ truyện. Tại một thị trấn nhỏ ở Indiana, 5 người bị giết bởi một tay súng, và bằng chứng cho thấy một cựu lính bắn tỉa của Quân đội là kẻ giết người. Nghi phạm yêu cầu Reacher, người đến thị trấn để điều tra vụ án. Cuốn sách này đã được chuyển thể thành bộ phim "Jack Reacher" năm 2012, với sự tham gia của Tom Cruise trong vai Reacher. Tính đến tháng 9 năm 2015, có 20 cuốn sách "Jack Reacher" của tác giả Lee Child. Trong cuốn sách thứ năm, "Echo Burning", Reacher đi nhờ xe trong cái nóng mùa hè ở Texas và được đón bởi một người phụ nữ tên là Carmen, người đang bị ai đó theo dõi. Chồng cô là một người đàn ông bạo lực bị nhốt trong tù, và Reacher quyết định giúp Carmen chống lại anh ta và bất cứ ai khác muốn làm hại cô. "Bad Luck and Trouble" là cuốn 11 trong bộ truyện và theo chân Reacher từ Los Angeles đến Las Vegas. Hành động bắt đầu khi một người ẩn danh gửi tiền vào tài khoản ngân hàng của Reacher, khiến anh ta tò mò. Reacher sớm nhận ra khoản tiền gửi là tín hiệu mà chỉ đội Quân đội cũ của anh ta mới biết, khiến anh ta phải tìm kiếm đồng đội của mình và phát hiện ra kẻ giết người. Trong cuốn 19, "Personal", Reacher đi đến châu Âu để tìm một tay súng bắn tỉa đã cố giết tổng thống Pháp. Tay bắn tỉa rất nguy hiểm và khó nắm bắt, và Reacher phải đi qua nhiều quốc gia để bắt anh ta và tìm ra ai đã thuê anh ta và lý do tại sao. *** Rusty Rutherford ở tại căn hộ của mình vào một buổi sáng thứ Hai, đúng một tuần sau khi bị sa thải. Anh ấy đã dành vài ngày đầu tiên sau khi bị cho thôi việc, làm việc trong kho dự trữ pizza đông lạnh của mình và chờ điện thoại đổ chuông. Rất nhiều điểm yếu, lá thư sa thải cho biết. Không làm đúng hướng dẫn. Các lỗi cơ bản. Thật không thể tin được. Một sự bóp méo sự thật. Thật bất công. Đó là một sai lầm. Thông thường và đơn giản. Nhiều giờ đã trôi qua. Điện thoại im lặng. Và email cá nhân không có gì ngoài thư rác. Anh ta cố thêm một ngày nữa, rồi cầm lấy chiếc máy tính xách tay cũ và bật nguồn. Anh ta không sở hữu súng hay dao. Nhưng có người phải trả giá. Có lẽ kẻ thù trong đời thực của anh. Nhưng không phải nhân vật phản diện trong trò chơi điện tử mà một người bạn đã gửi cho. Trước đây anh đã tránh chơi chúng. Cảm giác bạo lực quá nghiêm trọng. Không cần thiết. Nó không còn cảm thấy như vậy nữa. Những ngày thể hiện lòng thương xót của anh ấy đã kết thúc. Trừ khi ... Điện thoại của anh im lặng. Anh đóng máy tính và thả mình xuống ghế dài. Anh ta ở đó trong một khoảng thời gian, chọn ngẫu nhiên từ một chồng đĩa Blu-ray mà anh không nhớ là đã mua khi nào và thầm cầu xin được trở lại làm việc. Anh ấy sẽ khác, anh ấy thề. Hòa hợp hơn. Kiên nhẫn hơn. Giao lưu. Thậm chí, đồng cảm,. Anh ấy sẽ mua bánh rán cho mọi người trong văn phòng. Hai lần một tháng. Ba lần, nếu cần. Điện thoại của anh im lặng. Anh ấy không thường xuyên uống rượu, nhưng còn việc gì khác phải làm bây giờ? Các hóa đơn nằm trên một đĩa khác. Anh ấy không thể xem thêm bộ phim nào nên và vào bếp. Lấy một chai Jim Beam chưa mở từ phía sau tủ. Quay trở lại phòng khách và nghe đĩa nhạc Elmore James. Jim Beam là một nhãn hiệu rượu whisky bourbon của Mỹ được sản xuất tại Clermont, Kentucky, bởi Beam Suntory. Đây là một trong những thương hiệu bán chạy nhất của bourbon trên thế giới. Kể từ năm 1795, bảy thế hệ của gia đình Beam đã tham gia sản xuất rượu whisky cho công ty sản xuất thương hiệu này. Anh ngủ thiếp đi, úp mặt xuống sàn, không rõ là bao lâu. Tất cả những gì anh ấy biết là khi thức dậy, đầu đau như búa bổ. Anh nghĩ nỗi đau sẽ không bao giờ kết thúc. Nhưng khi cảm giác nôn nao cuối cùng cũng qua đi, anh thấy mình đang trải qua một cảm xúc mới. Sự thách thức. Dù gì thì anh cũng là một người vô tội. Không có điều gì tồi tệ đã xảy ra là lỗi của anh. Đó là điều chắc chắn. Anh là người đã thấy trước vấn đề. Ai đã cảnh báo cấp trên. Hết lần này đến lần khác. Ở nơi công cộng và riêng tư. Và ai đã bỏ qua. Hết lần này đến lần khác. Vì vậy, sau bảy ngày ròng rã một mình, Rutherford quyết định đã đến lúc lộ diện. Để kể câu chuyện. Cho bất cứ ai sẽ lắng nghe. Anh đi tắm và lấy một số quần áo trong tủ ra. Quần chinos và áo sơ mi polo. Thương hiệu mới. Màu tối, nhìn như dân kinh doanh. Sau đó, anh lấy giày từ các góc đối diện của hành lang nơi anh ném chúng. Lục tung tìm chìa khóa và kính râm từ tủ sách bên cửa. Bước ra hành lang. Đi xuống thang máy, một mình. Qua sảnh. Đẩy qua cánh cửa xoay nặng nề và dừng lại trên vỉa hè. Mặt trời giữa trưa giống như một cái lò cao và sức nóng kéo theo những hạt mồ hôi trên trán và nách. Anh cảm thấy một sự hoảng loạn. Có tội mới đổ mồ hôi. Anh đã đọc điều đó ở đâu đó và điều anh cố gắng tránh là trông tội lỗi. Anh liếc nhìn xung quanh, tin chắc mọi người sẽ nhìn chằm chằm vào mình, sau đó buộc mình phải di chuyển. Anh bước nhanh, cảm thấy như đang khỏa thân đi bộ xuống phố. Nhưng sự thật là hầu hết những người đi qua thậm chí không nhận thấy anh đang ở đó. Trên thực tế, chỉ có hai người chú ý đến anh. Cùng lúc Rusty Rutherford ra khỏi căn hộ của mình, Jack Reacher bước vào một quán bar. Anh đã ở Nashville, Tennessee, bảy mươi lăm dặm về phía đông bắc từ thị trấn nhỏ buồn ngủ của Rutherford, và đang tìm kiếm giải pháp cho một vấn đề. Đó là một vấn đề thực tế. Một câu hỏi vật lý. Và sinh học. Cụ thể là làm thế nào để chổng ngược một người từ trần nhà mà không gây ra quá nhiều vết thương. Ít nhất là lên trần nhà. Reacher lần đầu tiên đặt chân đến nơi này một ngày trước đó. Vào thứ bảy. Gần như là Chủ nhật, vì lúc anh vào thị trấn đã gần nửa đêm. Cuộc hành trình của anh không được suôn sẻ. Xe buýt bị hư và mất thời gian sửa chữa. Reacher bị tê cứng vì ngồi lâu, cuối cùng ra khỏi nhà ga Greyhound, và mất vài phút để thư giãn các cơ và khớp. Anh đứng đó, khuất một nửa trong bóng tối, trong khi những hành khách còn lại ngồi xung quanh nói chuyện, nghịch điện thoại và thu dọn hành lý. Reacher vẫn ở lại. Anh không vội vàng. Anh đến muộn hơn dự kiến, nhưng đó không phải là vấn đề lớn. Anh không có cuộc hẹn nào. Không có cuộc họp nào để tham dự. Không ai đợi anh, lo lắng hay phát điên lên. Anh đã lên kế hoạch tìm một nơi để qua đêm. Một quán ăn, với một số thức ăn. Và một quán bar nơi anh có thể nghe một số bản nhạc hay. Anh có thể làm tất cả những điều đó. Anh có thể phải thay đổi thứ tự. Có thể kết hợp một vài hoạt động. Và với một số khách sạn, loại Reacher ưa thích, nó đóng cửa muộn. Đặc biệt nếu bạn trả tiền mặt. Điều anh luôn làm. Âm nhạc trước, Reacher quyết định. Anh biết không thiếu địa điểm ở Nashville, nhưng anh muốn có một địa điểm cụ thể. Một nơi nào đó. Với một số lịch sử. Nơi Blind Blake có thể đã chơi, trong ngày trở lại. Arthur Blake, được biết đến với cái tên Blind Blake, là một ca sĩ và nghệ sĩ guitar blues và blagtime người Mỹ. Ông được biết đến với nhiều bản ghi âm mà ông đã thực hiện cho Paramount Records trong khoảng thời gian từ 1926 đến 1932. Câu hỏi duy nhất là làm thế nào để tìm được một nơi như vậy. Đèn vẫn sáng trong bến xe buýt, và một số ít người vẫn đang làm việc hoặc chờ đợi hoặc chỉ muốn tránh xa đường phố. Có lẽ, một số là người địa phương. Reacher có thể hỏi đường. Nhưng anh không hỏi. Anh ấy thích điều hướng theo bản năng hơn. Anh biết các thành phố. Anh có thể đọc hình dạng và dòng chảy của chúng giống như một thủy thủ có thể cảm nhận được hướng của những con sóng. Linh cảm bảo anh đi về phía bắc, vì vậy anh bắt đầu băng qua một giao lộ hình tam giác rộng và đến một bãi đất trống đầy đá dăm. Mùi hôi của dầu diesel và thuốc lá mờ dần sau lưng, và bóng anh dài ra phía trước khi anh bước đi. Nó dẫn đến những dãy phố hẹp, song song với những tòa nhà gạch tương tự nhau, nhuốm đầy bồ hóng. Có cảm giác công nghiệp, nhưng mục nát và rỗng. Reacher không biết loại hình kinh doanh nào đã phát triển mạnh trong quá khứ của Nashville, nhưng bất cứ thứ gì được sản xuất, bán hoặc lưu trữ thì rõ ràng đã xảy ra xung quanh đó. Và rõ ràng là nó sẽ không xảy ra nữa. Các cấu trúc là tất cả những gì còn lại. Và không lâu nữa, Reacher nghĩ. Tiền sẽ chảy vào và nuôi sống chúng, hoặc chúng sẽ sụp đổ. Reacher bước ra khỏi vỉa hè đổ nát và tiếp tục đi xuống đường. Anh nghĩ sẽ thêm hai khối nữa. Nhiều nhất là ba. Nếu anh không tìm thấy bất cứ điều gì tốt thì anh sẽ sang bên phải, về phía sông. Anh đi ngang qua một nơi bán lốp xe cũ. Một nhà kho mà một tổ chức từ thiện đang sử dụng để lưu trữ đồ đạc quyên góp. Sau đó, khi băng qua con đường tiếp theo, anh nghe được tiếng réo rắt của một cây guitar bass và tiếng trống sấm sét. Âm thanh phát ra từ một tòa nhà ở trung tâm khu nhà. Nó không có vẻ hứa hẹn. Không có cửa sổ. Không có bảng chỉ dẫn. Chỉ là một dải ánh sáng vàng mỏng manh thoát ra từ bên dưới một cánh cửa gỗ duy nhất. Reacher không thích những nơi có ít lối ra tiềm năng nên anh có xu hướng tiếp tục đi bộ, nhưng khi anh đi ngang qua thì cánh cửa đã mở ra. Hai chàng trai, có lẽ ở độ tuổi gần hai mươi, với chiếc áo phông cộc tay và một vết xăm, loạng choạng bước ra vỉa hè. Reacher di chuyển để tránh họ, và cùng lúc đó, một cây đàn guitar bắt đầu réo rắt từ bên trong. Reacher dừng lại. Riff hay. Nó vút lên, bay bổng và như thể đã hoàn thành nốt nhạc cuối cùng, tiếp tục với giọng một người phụ nữ. Nó thê lương, tuyệt vọng, đau đớn. Reacher không thể cưỡng lại. Anh bước vào. Trong âm nhạc, riff là một đoạn nhạc hoặc một chùm hợp âm được lặp đi lặp lại trong một nhạc phẩm hoặc một cuộc trình diễn âm nhạc. Không khí bên trong có mùi bia và mồ hôi, và không gian phía trước hẹp hơn nhiều so với dự đoán của Reacher. Phía sau rộng hơn, tạo ra hai khu vực riêng biệt với một vùng chết ở giữa. Phía bên tay phải dành cho những người yêu âm nhạc. Có vài chục, một số đứng, một số khiêu vũ, một số thực hiện cả hai. Sân khấu dựa vào bức tường phía xa, chiếm hết chiều sâu của căn phòng. Nó thấp, được dựng từ các thùng bia với một số tấm gỗ đóng đinh. Có một ngăn xếp loa khiêm tốn ở mỗi bên và một cặp thanh kim loại treo trên trần nhà để giữ đèn. Ca sĩ ở trung tâm. Đối với Reacher, cô ấy có vẻ nhỏ bé. Cao nhất là 1.5m, và mỏng như một cây kim. Tóc cô ấy là kiểu bob màu vàng hoàn hảo, tỏa sáng rực rỡ đến mức Reacher tự hỏi liệu đó có phải là tóc giả hay không. Người chơi guitar ở bên trái cô, gần cửa nhất. Người chơi bass ở bên phải cô. Cả hai đều có mái tóc xoăn hoang dại và gò má cao, sắc nét, trông giống nhau đến nỗi họ có thể là anh em sinh đôi. Chắc chắn là anh em. Tay trống cũng ở đó, đập theo nhịp, nhưng cái bóng ở phía sau sân khấu quá sâu khiến Reacher không thể nhìn rõ cô ấy. Phía bên trái là quầy rượu. Có sáu bàn tròn, mỗi bàn có bốn ghế, và bốn ghế đẩu ở quầy bar được kê dựa vào tường, đối diện sân khấu. Một chiếc gương chạy hết chiều rộng với một vết nứt hình ngôi sao lởm chởm ở giữa. Reacher nghĩ, kết quả của việc một cái chai bị ném đi. Anh thích hình ảnh đó. Reacher đợi cho đến khi ban nhạc kết thúc bài hát cuối cùng, sau đó đi về phía quầy bar. Anh là người duy nhất ở phía đó của căn phòng. “Cà phê,” Reacher nói, khi người pha chế nhìn anh. Anh nói thêm “đen.” “Không có cà phê,” người pha chế trả lời. “OK. Bánh mì kẹp phô mai. Khoai tây chiên. Không có rau diếp. Không có dưa chua. Và một lon Coke.” “Không có bánh mì kẹp phô mai.” “Vậy có thức ăn gì?” “Không có thức ăn.” “Có tiệm nào xung quanh đây?” Người pha chế nhún vai. “Đừng sống quanh đây.” Reacher lấy Coke của mình và quay lại nhìn sân khấu. Anh đã hy vọng một ban nhạc khác sẽ tiếp tục nhưng không có dấu hiệu nào. Một nửa số khán giả đã tụ Mời các bạn đón đọc Lính Canh của tác giả Lee Child.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Bóng Chim Câu Trên Sóng Biển Maiami - Daniel Chavarria
Bóng Chim Câu Trên Sóng Biển Maiami có được 3 mặt thành công: nội dung thú vị, văn phong/ngôn ngữ phong phú, và sử dụng khéo léo những biện pháp kỹ thuật. Cuốn truyện trinh thám phi thường này lấy đề tài chính là sự thâm nhập của CIA vào Cuba để phá hoại nền công nghiệp cam chanh của Cuba. Tác giả đã đưa chúng ta vào thế giới phức tạp của những cuộc đấu tranh chống gián điệp phá hoại, và tác giả đã thành công rõ ràng. *** Daniel Chavarría là một nhà văn và nhà cách mạng người Uruguay, sống ở Cuba từ những năm 1960  và giành giải thưởng Văn học quốc gia Cuba năm 2011, tác giả các tiểu thuyết nổi tiếng như Joy, Adios Muchachos.   Mời các bạn đón đọc  Bóng Chim Câu Trên Sóng Biển Maiami của tác giả Daniel Chavarria.
Tội Phạm Ma Túy Ở Amsterdam - Alistair Mac Lean
Alistair Mac Lean đã thành công ở một loạt tiểu thuyết trinh thám đầy ắp tình tiết hấp dẫn và gay cấn. Và có lẽ thành công nhất khi ông viết về Paul Sherman với những con rối khủng khiếp của đường dây ma túy xuyên quốc gia ở Amsterdam. Ma túy đang là vấn nạn trên toàn thế giới. Nó hủy hoại con người ta hơn tất cả mọi loại độc dược, nó giăng bẫy khắp nơi, nó thao túng mọi ngóc ngách của đời sống xã hội và những ai đã vướng vào nó hầu như không có đường lui. Nhưng ghê tởm nhất, đáng lên án nhất và phải quyết tâm tiêu diệt nhất, bởi ngày càng có nhiều kẻ vì lợi nhuận siêu ngạch của nó đã biến đến cả những người dân lương thiện ở những làng quê thật hiền hòa thành những con quỷ mặt người. Theo chân Paul Sherman - thiếu tá trưởng phòng cảnh sát điều tra tội phạm ma túy của Interpol trong “Tội phạm ma túy ở Amsterdam” của Alistair Mac Lean - bạn sẽ ngập trong cảm giác ngạc nhiên, sửng sốt và không thiếu những giây phút bàng hoàng, ghê sợ. Đương nhiên là phải trả những bài học đắt giá, nhưng Sherman đã dần dần nhận ra chân tướng đường dây ma túy nguy hiểm này. Một vụ án ma túy được phá trong thời gian rất ngắn. Cái thông điệp phải cùng nhau loại trừ triệt để ma túy trên toàn thế giới này hiện lên thật rõ nét. Đó là những gì bạn cảm nhận khi lật đến trang cuối của “Tội phạm ma túy ở Amsterdam”. NHÀ XUẤT BẢN HẢI PHÒNG Mời các bạn đón đọc Tội Phạm Ma Túy Ở Amsterdam của tác giả Alistair Mac Lean.
Bí Ẩn Nĩa Ba Răng - Fred Vargas
Chín vụ giết người từ năm 1949 đến 2003 có một điểm chung: nạn nhân chết bởi ba nhát đâm xuyên người. Cuộc săn đuổi của cảnh sát trưởng Adamsberg lần theo dấu vết kẻ giết người đội lốt viên thẩm phán uy quyền kéo dài mười bốn năm đã chấm dứt bởi một lý do hết sức đơn giản: con quỷ của anh đã chết, mang theo bí ẩn về vụ giết người mà chính em trai anh là nghi phạm cách đây ba mươi năm. Nhưng, mọi thứ đột ngột trỗi dậy khi Adamsberg vô tình thấy dòng tin về một cô gái bị giết bởi ba nhát đâm xuyên người. Con quỷ với cái nĩa ba răng phải chăng đã sống dậy từ lòng đất? Và thách thức lần này của Adamsberg: anh đang chạy theo một con ma sống hay anh chính là kẻ giết người? Suy luận logic có chiến thắng được trực cảm của người thợ xúc mây? Vẫn lối kể chuyện giản dị nhưng đặc biệt thông minh, Fred Vargas, cây bút được mệnh danh là nữ hoàng truyện trinh thám Pháp, bất ngờ đưa bạn đi trên dây lúc nào mà bạn không hay. "Sự hòa quyện giữa tính chất chặt chẽ khoa học và những ý tưởng phóng khoáng, giữa sự chính xác đến từng milimet và những chi tiết lóe sáng đầy sáng tạo đã tạo nên sức lôi cuốn cho tác phẩm của Fred Vargas. Và "Bí ẩn Nĩa Ba Răng" là một trong những tác phẩm thành công nhất." - Télérama *** Mười sáu năm trước, em trai của Cảnh sát trưởng Adamsberg, Raphael vô tình bị nghi oan giết người. Nạn nhân là người yêu của cậu, bị đâm ba nhát thẳng hàng nhau. Adamsberg lúc đó đã cố gắng cứu em trai thoát khỏi án tù và minh oan cho em. Nhưng anh thắt bại khi không tìm ra được bằng chứng kết tội hung thủ thật sự, hơn nữa lúc đó anh hẵng còn quá trẻ. Vụ án rơi vào quên lãng và Raphael phải bỏ trốn. Đứng trước sự thách thức của hung thủ, Adamsberg cũng phải bỏ chạy. Mang trong mình nỗi mặc cảm, Adamsberg luôn bị ám ảnh bởi bóng ma Nĩa ba răng. 16 năm sau, tại Shiltighem lại xảy ra vụ án mạng gần giống hệt vụ của em trai anh. Cũng có 1 người bị nghi oan, 1 nạn nhân bị xiên bằng ba nhát đâm thẳng hàng. Kích thước và chiều rộng gần chính xác. Adamsberg tin rằng bóng ma ngày xưa đã quay trở lại nhưng không một ai tin tưởng anh. Nhưng càng điều tra, Adamsberg càng phát hiện suốt 16 năm qua, bóng ma vẫn không ngừng ra tay. Đến khi xảy ra tiếp vụ án mạng ở tận Quebec, Canada, tổng số nạn nhân của hắn đã là 13 người. Không thể thuyết phục được bất kỳ ai, thậm chí có lúc chính Adamsberg cũng nghi ngờ anh có phải chính là con ma giết người hay không. Đặc biệt khi anh dính bẫy của hung thủ. Phải trốn chạy, phải sử dụng mọi trí tuệ cùng sự giúp đỡ của những người tin tưởng anh, Adamsberg mới chứng tỏ được mình đã đúng, đồng thời minh oan được cho Raphael. Đọc nội dung thì có vẻ hấp dẫn. Tuy nhiên, hơn 500 trang truyện thực sự là cuộc chiến, lời thách thức của Fred Vargas đối với mình. Tầng tầng lớp lớp hình ảnh ẩn dụ, người có, động vật có, từ vật vô tri đến vật.... có tri tất cả đều hiện lên xuyên suốt truyện, lặp đi lặp lại đến mức không thể chịu nổi. Truyện chỉ hấp dẫn được ở 100 trang cuối cùng. Đoạn kết theo mình là cực chán. Đến giờ cái đọng lại là toàn bộ những hình ảnh ẩn dụ của Adamsberg mà thôi. Có lẽ mình nên tạm biệt Fred Vargas lẫn trinh thám Pháp một thời gian. Sau những Alex, Cái Bóng Kinh Hoàng và giờ là Nĩa ba răng, mình chưa thấy cuốn nào hấp dẫn hết. Giá như Fred Vargas tiết chế những hình ảnh ẩn dụ, thì truyện quả thật đã hấp dẫn hơn nhiều. Điểm 6/10 Người viết: Quang Huy Nguyễn *** Fred Vargas là bút danh của Frédérique Audoin-Rouzeau, một nhà sử học, nhà khảo cổ học và tiểu thuyết gia người Pháp. Là một nhà sử học và nhà khảo cổ học, cô được biết đến với công trình về Cái chết đen. Sinh năm 1957 tại Paris, có mẹ là nhà hóa học và bố là một nhà trí thức không bao giờ xuất bản tác phẩm của mình, cô bé Fred (thu gọn từ cái tên Frédérique) nhanh chóng thể hiện rõ những gì được thừa hưởng: đầu óc toán học của mẹ và khiếu nghệ thuật của cha. Tất cả những phẩm chất này giúp Fred trở thành một nhà khảo cổ học xuất sắc tại Trung tâm Nghiên cứu Khoa học Quốc gia CNRS. Tuy nhiên, bà vẫn cảm thấy nhu cầu thể hiện khuynh hướng nghệ thuật thừa hưởng từ cha và bắt đầu sáng tác truyện tranh, chơi accordeon.  Các tiểu thuyết của bà tiếp nối nhau và lượng sách bán ra ngày một tăng (đã vượt con số 4,5 triệu bản). Trước thành công rực rỡ của mình (báo chí gọi bà là Nữ hoàng tiểu thuyết trinh thám của Pháp), nữ tác giả lại ngày càng ít xuất hiện trước công chúng, bà không thích những gì thuộc xã hội thượng lưu. Fred Vargas tiếp tục lối sống giản dị và dành khoảng thời gian rảnh rỗi ít ỏi cho gia đình: cậu con trai và người em gái sinh đôi mà bà coi là một nửa của mình. Điều khiến Fred Vargas lo lắng nhất đó là, hoàn cảnh sẽ biến một nhà nghiên cứu trầm lặng thành người lãnh đạo và biến một tác giả tiểu thuyết trinh thám thành người nổi tiếng. Giải thưởng văn học, doanh thu bán sách khổng lồ - tất cả đều không khiến bà quan tâm.  Tác phẩm: Trong Những Cánh Rừng Vĩnh Cửu - Fred Vargas Ma Sói - Fred Vargas Xác Chết Dưới Gốc Sồi - Fred Vargas Bí Ẩn Nĩa Ba Răng - Fred Vargas Mời các bạn đón đọc Bí Ẩn Nĩa Ba Răng của tác giả Fred Vargas.
Sau Cánh Cửa Đóng
Jack tài năng và lịch lãm, còn Grace xinh đẹp và thành công. Trong mắt mọi người, họ là một cặp đôi hoàn hảo. Thậm chí, thử thách duy nhất cho mối quan hệ tưởng chừng không gì có thể hủy hoại của họ - sự xuất hiện của Millie, người em gái bị bệnh Down và hoàn toàn sống dựa vào Grace - dường như chỉ là chất xúc tác để họ nhận ra vẻ đẹp tâm hồn, sự bao dung và lòng vị tha vô bờ bến của nhau… Nhưng, liệu có thật là như thế, hay thực ra, cái tam giác Jack - Grace - Millie chính là căn nguyên cho một bi kịch khủng khiếp, là vỏ bọc hoàn hảo để kẻ ác tự do đùa giỡn và hành hạ con mồi của mình?  Và, có mấy ai biết đến sự tồn tại của những bí mật kinh khủng, trái ngang đằng sau cánh cửa luôn khép chặt của một gia đình lý tưởng, nơi hạnh phúc hoàn hảo và tội ác hoàn hảo nhiều khi chỉ cách nhau một cánh cửa đóng? *** HIỆN TẠI Chai sâm panh va vào bệ đá hoa cương trong bếp khiến tôi giật nẩy người. Tôi đưa mắt nhìn Jack, hy vọng anh không nhận thấy tôi đang căng thẳng đến nhường nào. Anh mỉm cười khi bắt gặp tôi đang nhìn. “Hoàn hảo,” anh nhẹ nhàng nói. Jack cầm tay tôi dắt ra chỗ khách khứa đang chờ. Trên đường đi qua hành lang, tôi thấy cây loa kèn đang nở hoa được Diane và Adam tặng để chúng tôi trồng trong vườn. Hoa màu hồng đẹp đến mức tôi hy vọng Jack sẽ trồng ở nơi tôi ngắm được từ cửa sổ phòng ngủ. Chỉ cần nghĩ tới khu vườn là nước mắt đã trào lên trong lòng, nhưng tôi vội nuốt xuống. Vào một đêm sống còn như đêm nay, tôi phải tập trung vào thực tại. Lửa đang cháy đều trong lò sưởi cổ tại phòng khách. Đã là cuối tháng Ba nhưng không khí vẫn tê cóng, mà Jack thì muốn khách khứa của chúng tôi được thoải mái hết mức. “Nhà cậu tuyệt thật đấy, Jack ạ,” Rufus ngưỡng mộ nói. “Em có thấy thế không, Esther?” Tôi không biết cả Rufus lẫn Esther. Họ mới chuyển tới khu này và đây là lần đầu tiên chúng tôi gặp nhau, thành ra tôi càng căng thẳng. Nhưng vì không được phép để Jack thất vọng nên tôi phải cố nhoẻn miệng cười, thầm cầu nguyện họ sẽ quý mình. Esther không mỉm cười đáp lại, tôi đoán cô đang dè dặt phán đoán. Nhưng tôi không trách cô được. Kể từ tháng vừa rồi sau khi cô kết bạn với chúng tôi, tôi biết chắc cô đã được nghe đi nghe lại rất nhiều lần rằng Grace Angel, vợ của chàng luật sư sáng giá Jack Angel, là ví dụ hoàn hảo cho một phụ nữ có mọi thứ trên đời - ngôi nhà hoàn hảo, tấm chồng hoàn hảo, cuộc sống hoàn hảo. Nếu là Esther, tôi cũng sẽ dè dặt với tôi như thế. Ánh mắt tôi rơi xuống hộp kẹo sô cô la đắt tiền cô vừa lấy ra khỏi túi xách và một cảm giác kích động chợt dấy lên trong lòng. Không muốn cô đưa hộp kẹo cho Jack, tôi nhẹ nhàng đưa tay về phía cô và theo bản năng, cô chìa hộp kẹo cho tôi. “Cảm ơn cô, trông ngon quá,” tôi cảm kích nói, đặt hộp kẹo lên mặt bàn uống nước để lát nữa khi uống cà phê sẽ mở ra. Tôi thấy khoái Esther. Cô đối lập hoàn toàn với Diane - cao, tóc vàng, người mảnh dẻ, tính kín đáo - và tôi không thể không đánh giá cao cô vì cô là người đầu tiên bước vào nhà chúng tôi mà không nói mãi về vẻ đẹp của nó. Jack nhất quyết đòi tự chọn nhà, bảo ngôi nhà chính là quà cưới cho tôi, vậy nên mãi đến khi chúng tôi trở về sau tuần trăng mật, tôi mới thấy nó lần đầu tiên. Mặc dù Jack đã nói trước là ngôi nhà thực hoàn hảo cho chúng tôi, nhưng tôi không hoàn toàn hiểu hết ý anh, cho tới lúc tận mắt nhìn thấy nó. Nằm trên khu đất rộng lớn ở tận cuối làng, ngôi nhà mang lại sự riêng tư Jack hằng khao khát, đồng thời trao cho anh đặc quyền được làm chủ ngôi nhà đẹp nhất Spring Eaton. Và cũng là ngôi nhà an ninh nhất, được trang bị hệ thống báo động phức tạp, với những cánh cửa chóp bằng thép bảo vệ cửa sổ tầng trệt. Quả cũng kỳ quặc khi những cánh cửa này thường xuyên đóng im ỉm cả ngày, nhưng như Jack vẫn luôn nói mỗi khi có người hỏi đến, một trong những ưu tiên hàng đầu với một người làm công việc như của anh chính là an ninh. Tường phòng khách nhà chúng tôi treo rất nhiều tranh, nhưng mọi người thường bị thu hút bởi bức tranh vải bạt khổ lớn màu đỏ phía trên lò sưởi. Mặc dù đã từng thấy bức tranh này, Diane và Adam vẫn không cưỡng nổi mà phải bước lại gần ngắm thêm lần nữa, Rufus cũng theo họ, còn Esther thì ngồi xuống một trong những chiếc sofa da màu kem. “Thật kỳ diệu,” Rufus nói, mê mẩn ngắm hàng trăm đốm nhỏ li ti đã làm nên phần lớn bức tranh. “Tên tranh là Đom đóm,” Jack nói trong khi tháo sợi dây thép cột nút cổ chai sâm panh. “Tôi chưa từng thấy thứ gì tương tự thế này.” “Grace vẽ đấy,” Diane bảo anh ta. “Anh có tin được không?” “Anh phải xem các bức tranh khác của Grace mới được.” Jack bật nút chai rượu, chỉ làm vang lên một âm thanh nhỏ xíu. “Chúng thật sự ấn tượng lắm đấy.” Rufus nhìn quanh phòng vẻ hứng thú. “Trong phòng này hả?” “Không, chúng được treo ở những nơi khác trong nhà cơ.” “Chỉ để một mình Jack ngắm,” Adam đùa. “Và cả Grace nữa. Phải không, em yêu?” Jack nói, mỉm cười nhìn tôi. “Chỉ để hai ta ngắm.” “Vâng, đúng thế,” tôi đồng tình, quay đầu đi chỗ khác. Chúng tôi ra sofa ngồi cùng Esther và Diane thích thú reo lên khi Jack rót sâm panh vào những chiếc ly cao thành. Cô ta nhìn sang tôi. “Chị đã đỡ hơn chưa?” cô ta hỏi. “Hôm qua, Grace không đi ăn trưa cùng tớ được vì bị ốm,” Diane quay sang nhìn Esther giải thích. “Chỉ nhức đầu thôi mà,” tôi phản đối. “Thật không may, Grace rất hay bị nhức đầu.” Jack nhìn tôi thông cảm. “Nhưng ơn trời, chúng không bao giờ kéo dài quá.” “Lần này là lần thứ hai chị lỡ hẹn với em đấy nhé,” Diane nhận xét. “Tôi rất tiếc,” tôi xin lỗi. “Chậc, ít ra thì lần này không phải do chị quên,” cô ta đùa. “Sao ta không hẹn vào thứ Sáu tuần tới để bù lại nhỉ? Chị có rảnh không, Grace? Không có cuộc hẹn khám răng nào chị đột nhiên nhớ ra vào phút chót đấy chứ?” “Không, và hy vọng cũng sẽ không có cơn nhức đầu nào hết.” Diane quay sang Esther, “Cậu có muốn đi cùng không? Sẽ phải chọn quán trong thị trấn để tớ còn đi làm.” “Cảm ơn cậu, tớ rất thích.” Cô đưa mắt nhìn tôi, chắc để đảm bảo tôi không phiền khi có cô cùng tham dự, và khi mỉm cười đáp lại cô, tôi cảm thấy áy náy kinh khủng vì biết mình sẽ không đến được. Gọi to để mọi người chú ý, Jack đề nghị nâng ly chúc mừng Esther và Rufus, chào mừng họ tới sống trong khu. Tôi nâng cốc nhấp một ngụm sâm panh. Tăm rượu sủi trong miệng khiến cảm giác hạnh phúc chợt bừng lên và tôi cố níu giữ nó. Nhưng nó tan biến nhanh không kém gì lúc ùa tới. Tôi nhìn Jack đang sôi nổi chuyện trò với Rufus. Anh với Adam gặp Rufus tại câu lạc bộ golf hai tuần trước và đã mời Rufus chơi cùng. Khi phát hiện ra Rufus là một tay golf tuy cừ khôi nhưng chưa đủ để đánh bại mình, Jack bèn mời anh ta cùng Esther đến nhà ăn tối. Quan sát hai người họ, có thể thấy rõ mười mươi Jack đang cố gây ấn tượng với Rufus, có nghĩa tôi sẽ phải cố gắng lái Esther theo ý mình. Nhưng việc đó chẳng dễ chút nào; trong khi Diane đơn giản chỉ thán phục tất thảy mọi thứ, Esther lại có vẻ phức tạp hơn nhiều. Tôi cáo lỗi vào bếp để lấy món canapé[1] đã làm từ trước và hoàn thành những công đoạn cuối cùng cho bữa tối. Jack rất mô phạm với các phép tắc xã giao nên tôi không được phép vắng mặt quá lâu. Tôi nhanh tay đánh bông lòng trắng trứng đang chờ sẵn trong tô rồi đổ lên kem bánh souffle đã làm khi nãy. Vừa xúc hỗn hợp này vào từng chiếc khuôn, tôi vừa căng thẳng nhìn đồng hồ, sau đó đặt các khuôn bánh vào khay cách thủy và đưa vào lò nướng, ghi nhớ chính xác thời gian. Tôi thoáng hoảng hồn, sợ mình sẽ không làm xong mọi thứ, nhưng sau khi nhắc nhở bản thân rằng sợ hãi chính là kẻ thù, tôi cố bình tĩnh mang khay canapé quay lại phòng khách. Tôi mời mọi người, cảm kích đón nhận những lời khen ngợi của họ, vì Jack cũng nghe được chúng. Quả vậy, sau khi tặng tôi một nụ hôn lên đỉnh đầu, anh đồng ý với Diane rằng tôi đúng là một đầu bếp xuất sắc và tôi khẽ thở phào nhẹ nhõm. Kiên quyết tạo tiến triển với Esther, tôi ngồi xuống cạnh cô. Thấy thế, Jack liền đỡ khay bánh giùm tôi. “Em nên nghỉ một chút, em yêu, sau những vất vả suốt cả ngày hôm nay,” anh nói, những ngón tay thon dài thanh lịch giữ khay bánh thăng bằng. “Có vất vả gì đâu,” tôi phản đối, mặc dù đó là một lời nói dối và Jack biết rõ điều đó, vì chính anh đã lên thực đơn. Tôi bắt đầu hỏi Esther những câu hỏi hợp tình hợp lý: cô đã thấy hòa nhập với khu này chưa, có thấy tiếc vì đã bỏ Kent ra đi không, hai đứa nhỏ đã ổn định ở trường mới chưa. Chẳng hiểu vì sao, cô có vẻ khó chịu vì thấy tôi biết nhiều thế, vậy nên, tôi cố tình hỏi tên con trai và con gái cô, mặc dù đã biết thừa chúng là Sebastian và Aisling. Tôi còn biết chúng lên mấy nữa, một đứa lên bảy và một đứa lên năm, nhưng tôi vờ như chưa biết. Jack đang lắng nghe từng từ tôi nói nên tôi biết chắc anh sẽ tự hỏi tôi đang chơi trò gì. “Chị chưa có con, đúng không,” Esther nói, nghe như một lời khẳng định hơn là câu hỏi. “Chưa, vẫn chưa. Chúng tôi định dành hai năm đầu tiên cho riêng mình đã.” “Tại sao chứ, hai người đã kết hôn được bao lâu rồi?” Giọng cô biểu lộ sự ngạc nhiên. “Một năm,” tôi thú nhận. “Họ vừa kỷ niệm ngày cưới vào tuần trước,” Diane xen vào. “Và tôi vẫn chưa muốn chia sẻ cô vợ xinh đẹp của mình với ai hết,” Jack nói, rót thêm rượu vào ly cô ta. Nhất thời xao lãng, tôi nhìn một giọt rượu nhỏ xíu trượt khỏi miệng ly rơi xuống đầu gối chiếc quần chino mới tinh của Jack. “Tôi hy vọng hỏi thế này không làm chị khó chịu,” Esther lại nói, nỗi tò mò đã thắng thế, “nhưng đã ai trong hai người từng qua một lần đò chưa?” Có vẻ cô muốn câu trả lời là rồi, như thể một anh chồng cũ hoặc một cô vợ cũ đầy thù hận ẩn nấp trong lai lịch của Jack và tôi sẽ là bằng cớ chứng tỏ chúng tôi không hoàn hảo. “Chưa, cả hai chúng tôi đều kết hôn một lần,” tôi nói. Cô đưa mắt nhìn Jack và tôi biết cô đang băn khoăn tại sao một người đẹp trai như vậy lại có thể độc thân lâu đến thế. Cảm thấy ánh mắt cô đổ dồn vào mình, Jack mỉm cười thiện chí. “Phải thú nhận là ở tuổi bốn mươi, tôi đã bắt đầu tuyệt vọng nghĩ rằng mình sẽ không bao giờ tìm được người phụ nữ hoàn hảo. Nhưng ngay khi thấy Grace, tôi đã biết cô ấy chính là người mình mong chờ bấy lâu nay.” “Lãng mạn thật,” Diane thở dài, biết rõ chuyện tôi với Jack gặp nhau thế nào. “Tớ không còn đếm được mình đã cố giới thiệu cho Jack bao nhiêu cô gái nữa, mối nào cũng không thành cho đến khi anh ấy gặp Grace.” “Còn chị thì sao, Grace?” Esther hỏi. “Với chị cũng là tình yêu sét đánh chứ?” “Đúng,” tôi nói và nhớ lại. “Đúng thế.” Choáng ngợp trước kỷ niệm, tôi đứng dậy hơi nhanh, Jack liền xoay đầu về phía tôi. “Món souffle,” tôi điềm tĩnh giải thích. “Chắc đã chín rồi. Mọi người sẵn sàng ngồi vào bàn chưa?” Được Diane hối thúc và giải thích rằng món souffle không đợi bất kỳ ai, mọi người uống cạn ly rồi ra bàn. Tuy nhiên, Esther đang đi thì dừng lại để nhìn kỹ bức Đom đóm hơn, và khi Jack tới ngắm cùng Esther thay vì giục cô vào bàn, tôi nhẹ nhõm thở hắt ra vì món souffle còn lâu mới chín. Nếu chúng đã chín thì chắc sự kề cà này sẽ khiến tôi phát khóc vì căng thẳng mất, đặc biệt là khi Jack bắt đầu giải thích vài kỹ thuật khác nhau tôi đã sử dụng để vẽ bức tranh. Năm phút sau, khi cuối cùng tất cả đã yên vị, món souffle cũng vừa chín đến độ hoàn hảo. Lúc Diane biểu lộ sự kinh ngạc, Jack mỉm cười nhìn tôi từ đầu bàn đối diện và bảo mọi người rằng tôi quả thực nấu nướng rất khéo. Chính những buổi tối thế này khiến tôi nhớ ra vì sao mình đem lòng yêu Jack. Quyến rũ, vui tính và thông minh, anh biết chính xác mình phải nói gì và nói ra sao. Vì Esther và Rufus mới chuyển đến nên Jack đảm bảo chúng tôi vừa ăn souffle vừa trò chuyện về những điều có ích cho họ. Anh gọi cho Diane và Adam kể ra những thông tin riêng có thể giúp ích cho hai người bạn mới của chúng tôi, chẳng hạn như họ mua sắm ở đâu và chơi môn thể thao nào. Mặc dù Esther lịch sự lắng nghe danh sách các trò tiêu khiển của họ, tên của những người làm vườn và các cô trông trẻ, hay nơi bán cá ngon nhất, nhưng tôi biết mình mới là chủ đề cô quan tâm, tôi cũng biết cô sẽ quay lại với chuyện Jack và tôi kết hôn khá muộn, hy vọng sẽ tìm ra điều gì đó - điều gì cũng được - giúp cô thấy mọi chuyện không hoàn hảo như vẻ bề ngoài. Không may cho Esther, rồi cô sẽ thất vọng thôi. Cô chờ Jack cắt xong miếng thịt bò Wellington rồi ăn cùng khoai tây bỏ lò và cà rốt láng mật ong. Còn có cả những hạt đậu Hà Lan bé xíu tôi đã nhúng vào nước sôi ngay trước khi lấy thịt bò ra khỏi lò. Diane kinh ngạc khi thấy tôi có thể thu xếp hoàn thành tất cả các món cùng lúc, rồi thú nhận rằng mình luôn chọn một món chính như cà ri để có thể nấu sẵn từ sớm và trước khi ăn chỉ việc hâm nóng lên là xong. Tôi muốn nói với cô ta rằng tôi cũng muốn làm như thế, rằng việc tính toán khó nhọc cùng những đêm mất ngủ chính là cái giá tôi phải trả để cho ra mắt một bữa tối hoàn hảo đến thế. Nhưng nấu một bữa ăn thiếu hoàn hảo không phải là lựa chọn dành cho tôi. Esther nhìn tôi từ phía bên kia bàn. “Thế chị với Jack gặp nhau ở đâu?” “Tại công viên Regent,” tôi đáp. “Vào một chiều Chủ nhật.” “Chị kể chi tiết cho cô ấy nghe đi,” Diane giục, làn da nhợt nhạt ửng hồng vì sâm panh. Tôi lưỡng lự trong giây lát vì trước đây đã từng kể chuyện này. Nhưng đó là câu chuyện Jack thích nghe tôi kể nên lặp lại lần nữa sẽ có lợi cho tôi. May thay, Esther giải vây cho tôi. Tưởng tôi lưỡng lự vì ngại, cô nhảy ngay vào. “Chị kể đi,” cô giục. “Chậc, rất có thể tôi sẽ khiến những người đã nghe chuyện này phát ngấy đấy nhé,” tôi bắt đầu với một nụ cười hối lỗi. “Lúc đó, tôi đang cùng em gái, Millie, chơi ngoài công viên. Chúng tôi thường ra công viên vào chiều Chủ nhật. Hôm ấy, tình cờ có một ban nhạc đang chơi. Millie rất thích âm nhạc, nó thích đến nỗi đứng dậy khỏi ghế rồi bắt đầu nhảy trước bục biểu diễn. Nó mới học nhảy valse nên vừa nhảy vừa dang tay ra trước mặt, hệt như đang khiêu vũ cùng ai đó.” Tôi thấy mình mỉm cười trước kỷ niệm này, tuyệt vọng ao ước cuộc đời tôi vẫn đơn giản và trong sáng như trước. “Mặc dù mọi người nói chung rất độ lượng và vui vẻ khi thấy Millie thích thú như thế,” tôi kể tiếp, “nhưng tôi có thể thấy một hai người khó chịu và tôi biết mình nên làm gì đó, tỷ dụ như gọi em mình quay lại ghế ngồi. Nhưng một phần trong tôi cảm thấy miễn cưỡng không muốn làm thế, vì…” “Em gái chị bao nhiêu tuổi?” Esther cắt ngang. “Mười bảy.” Tôi dừng lời một lát, không muốn đối diện với thực tại. “Gần mười tám.” Esther nhướn mày. “Thế thì con bé thuộc loại thích được chú ý rồi.” “Không, không phải vậy, chỉ là…” “Chớ còn gì nữa. Ý tôi là, chẳng ai tự nhiên lại đứng dậy khiêu vũ trong công viên, phải không?” Cô đắc thắng nhìn quanh bàn và khi ai cũng tránh ánh nhìn của cô, tôi không thể không thấy thương hại Esther. “Millie mắc hội chứng Down.” Giọng Jack phá tan sự im lặng khó xử đã buông xuống cả bàn. “Thế nên con bé thường có những hành động cực kỳ bột phát.” Nét mặt Esther ngập tràn vẻ bối rối và tôi thấy khó chịu khi mọi người kể lể đủ chuyện về tôi với cô mà không hề nhắc đến Millie. “Dù sao thì, trước khi tôi kịp quyết định nên làm gì,” tôi nói để giải vây cho Esther, “quý ông hoàn hảo đây bỗng đứng dậy, tới chỗ Millie đang khiêu vũ, cúi chào rồi đưa tay ra cho con bé. Chà, Millie thích lắm. Khi cả hai bắt đầu nhảy valse, mọi người cũng bắt đầu vỗ tay, sau đó vài cặp khác đứng lên và cũng bắt đầu khiêu vũ. Thực là một khoảnh khắc vô cùng, vô cùng đặc biệt. Và tất nhiên rồi, tôi yêu Jack ngay lập tức vì anh ấy đã khiến chuyện đó xảy ra.” “Lúc ấy, Grace không hề biết rằng tôi vốn đã thấy cô ấy cùng Millie trong công viên từ tuần trước và ngay lập tức đem lòng yêu cô ấy. Cô ấy vô cùng ân cần với Millie, không một chút vị kỷ. Tôi chưa bao giờ chứng kiến một tấm lòng tận tụy đến thế và nhất quyết phải làm quen với cô ấy.” “Còn Jack lúc ấy lại không biết một điều,” đến lượt tôi nói, “rằng tôi đã chú ý đến anh ấy từ tuần trước nhưng không bao giờ nghĩ anh ấy lại để ý đến một người như tôi.” Thấy mọi người gật đầu tán thành, tôi thích lắm. Mặc dù tôi là một cô gái hấp dẫn, nhưng vẻ ngoài điển trai như ngôi sao điện ảnh của Jack khiến mọi người nghĩ rằng tôi thật may mắn khi anh muốn kết hôn với tôi. Nhưng ý tôi không phải thế. “Grace không còn anh chị em nào khác nên cô ấy cứ nghĩ vì một ngày nào đó cô ấy rồi sẽ trở thành người duy nhất chăm sóc cho Millie, nên hẳn tôi sẽ mất hết hứng thú,” Jack giải thích. “Như đã xảy ra với những người khác,” tôi bổ sung. Jack lắc đầu. “Ngược lại, khi biết Grace sẽ làm bất cứ điều gì cho Millie, tôi nhận ra cô ấy chính là người phụ nữ tôi đã tìm kiếm cả đời. Với nghề nghiệp của tôi, người ta rất dễ mất niềm tin vào con người.” “Hôm qua, tôi đọc báo thấy đã đến lúc chúc mừng anh một lần nữa,” Rufus nói, nâng ly về phía Jack. “Đúng thế, cừ lắm.” Adam, luật sư cùng công ty với Jack, cũng hùa vào. “Lại một chiến thắng nữa trong tay cậu.” “Vụ ấy khá rõ ràng,” Jack khiêm tốn đáp. “Mặc dù có đôi chút khó khăn vì phải chứng minh những vết thương đó không phải do thân chủ của tôi tự gây ra, trong khi cô ấy có xu hướng tự gây thương tích cho mình.” “Nhưng nhìn chung, chẳng phải các vụ ngược đãi thường rất dễ chứng minh sao?” Rufus hỏi, trong khi Diane nói với Esther, phòng trường hợp cô chưa biết, rằng Jack là người bênh vực cho những người yếu thế, cụ thể hơn là cho những người vợ bị ngược đãi. “Tôi không muốn chê bôi những việc làm tuyệt vời của anh, nhưng các vụ ấy thường có bằng chứng vật lý hay nhân chứng mà, đúng không?” “Jack có biệt tài khiến các nạn nhân tin tưởng và kể hết cho anh ấy nghe những chuyện đã xảy ra,” Diane giải thích, tôi nghi cô ta đã đem lòng thích Jack. “Rất nhiều phụ nữ không biết phải trông cậy vào ai và sợ sẽ chẳng ai tin mình.” “Cậu ấy còn đảm bảo những kẻ gây ra tội ác phải trả giá trong một thời gian dài,” Adam thêm vào. “Trước những kẻ bị phát hiện giở trò bạo lực với vợ mình, tôi không có cảm giác gì khác ngoài khinh thường,” Jack tuyên bố chắc nịch. “Chúng xứng đáng nhận mọi hình phạt dành cho mình.” “Tôi xin uống mừng điều đó,” Rufus lại nâng ly. “Anh chưa bao giờ thua vụ nào, đúng không Jack?” Diane hỏi. “Chưa, tôi cũng không có ý định sẽ để thua vụ nào hết.” “Thành tích không gián đoạn - đúng là tuyệt vời,” Rufus trầm ngâm vẻ ấn tượng. Esther nhìn sang tôi. “Em gái Millie của chị nhỏ hơn chị khá nhiều tuổi nhỉ,” cô nhận xét, hướng cuộc trò chuyện về chủ đề chúng tôi đang nói dở. “Đúng, chúng tôi cách nhau mười bảy năm. Millie ra đời khi mẹ tôi đã bốn mươi sáu. Lúc đầu, do không biết mình đang mang thai nên mẹ tôi có hơi sốc trước việc sẽ được làm mẹ một lần nữa.” “Millie sống với cha mẹ chị à?” “Không, nó học nội trú tại một ngôi trường tuyệt vời ở Bắc London. Nhưng nó sẽ lên mười tám vào tháng Tư nên phải rời trường vào mùa hè này, âu cũng đáng tiếc vì nó rất thích ngôi trường ấy.” “Vậy con bé sẽ đi đâu? Về nhà cha mẹ chị à?” “Không.” Tôi dừng một lát vì biết điều mình sắp nói sẽ khiến cô sửng sốt. “Cha mẹ tôi sống ở New Zealand.” Mất một lúc Esther mới phản ứng lại. “New Zealand?” “Đúng thế. Họ nghỉ hưu và chuyển đến đó vào năm ngoái, ngay sau đám cưới của chúng tôi.” “Tôi hiểu rồi,” cô nói. Nhưng tôi biết cô chẳng hiểu gì. “Millie sẽ chuyển đến sống cùng chúng tôi,” Jack giải thích. Anh nhìn tôi mỉm cười. “Tôi biết đó là điều kiện để Grace đồng ý kết hôn với tôi và tôi hoàn toàn vui lòng chấp nhận.” “Anh cao thượng thật đấy,” Esther nói. “Hoàn toàn không phải thế - tôi rất mừng vì Millie sẽ sống ở đây. Việc đó sẽ mở ra một khía cạnh mới cho cuộc sống của chúng tôi, phải không, em yêu?” Tôi nâng ly nhấp một ngụm rượu để khỏi phải trả lời. “Rõ là anh rất hòa hợp với con bé,” Esther nhận xét. “Chậc, tôi hy vọng con bé cũng yêu quý tôi như tôi yêu quý nó, mặc dù vẫn phải mất một thời gian sau khi tôi và Grace kết hôn mới được như thế.” “Sao lại thế?” “Tôi nghĩ việc chúng tôi kết hôn với nhau khiến con bé bị sốc,” tôi trả lời cô. “Con bé ngay từ đầu đã rất quý Jack, nhưng khi chúng tôi trở về sau tuần trăng mật và Millie hiểu ra Jack sẽ ở bên tôi mãi mãi, nó lại thấy ghen tị. Nhưng giờ thì ổn rồi. Jack lại là người con bé yêu quý nhất rồi.” “May sao, George Clooney đã thế chỗ tôi trở thành đối tượng đáng ghét trong lòng Millie,” Jack phá lên cười. “George Clooney?” Esther thắc mắc. “Đúng thế.” Tôi gật đầu, hài lòng vì Jack đã đề cập đến việc này. “Tôi thích anh ta…” “Ai mà chẳng thích,” Diane lẩm bẩm. “… và Millie ghen tị đến nỗi, khi mấy người bạn tặng tôi một tờ lịch in hình George Clooney vào lễ Giáng sinh, nó đã nguệch ngoạc viết lên đó ‘Tôi không thích George Clooney’, có điều nó viết tên anh ta theo cách phát âm - J-O-R-J K-O-O-N-Y - con bé gặp khó khăn khi phát âm chữ ‘L’,” tôi giải thích. “Đáng yêu thế chứ.” Ai cũng cười. “Giờ thì gặp ai nó cũng nói chỉ thích tôi chứ không thích anh ta. Nghe gần như tụng kinh vậy - ‘Em thích anh, Jack ạ, nhưng em không thích George Clooney.’ “ Jack mỉm cười. “Phải thừa nhận là tôi thấy rất khoái khi được so sánh với anh ta,” anh khiêm tốn nói thêm. Esther nhìn Jack. “Anh biết không, trông anh cũng khá giống anh ta đấy.” “Trừ một điều, Jack đẹp trai hơn nhiều.” Adam nhe răng cười. “Cô không hình dung nổi tất cả chúng tôi đã cảm thấy nhẹ nhõm đến mức nào khi cậu ấy kết hôn với Grace đâu. Ít ra thì đám phụ nữ trong văn phòng không còn mộng tưởng về Jack nữa, cả nam giới cũng vậy,” anh ta vui vẻ thêm vào. Jack thở dài hiền hậu. “Đủ rồi đấy, Adam.” “Chị không đi làm, đúng không?” Esther quay sang hỏi tôi. Tôi nhận ra giọng cô thoáng ẩn giấu sự coi thường mà phụ nữ đi làm thường dành cho những người chỉ ở nhà, điều đó thôi thúc tôi phải bào chữa cho mình. “Ngày trước thì có, nhưng tôi đã nghỉ làm ngay trước khi chúng tôi kết hôn.” “Thật sao?” Esther nhíu mày. “Tại sao lại thế?” “Cô ấy không muốn thôi việc,” Jack xen vào. “Nhưng cô ấy đã có một công việc chức trọng quyền cao và tôi không muốn về nhà khi đã kiệt sức chỉ để thấy Grace cũng kiệt sức như mình. Có lẽ tôi đã ích kỷ khi đề nghị cô ấy thôi việc, nhưng tôi muốn được về nhà để trút bỏ mọi căng thẳng trong ngày hơn là bị người khác trút lên mình. Công việc của cô ấy cũng đòi hỏi phải đi lại khá nhiều và tôi không muốn về một ngôi nhà trống, như cách tôi đã sống suốt bao năm qua.” “Chị làm gì?” Esther hỏi, đôi mắt xanh nhạt nhìn thẳng vào tôi. “Tôi nhập hàng cho Harrods[2].” Mắt cô sáng lên, cho thấy cô rất ấn tượng, nhưng việc cô không hỏi thêm nữa chứng tỏ cô chưa muốn cho tôi thấy điều đó. “Chị ấy thường đi khắp thế giới trên khoang hạng nhất,” Diane nín thở nói. “Không phải khắp thế giới đâu,” tôi chỉnh lại. “Chỉ tới Nam Mỹ thôi. Tôi tìm nguồn hoa quả ở đó, chủ yếu từ Chile và Argentina,” tôi bổ sung, chủ yếu để cho Esther biết. Rufus nhìn tôi đầy thán phục. “Chắc là thú vị lắm.” “Đúng thế.” Tôi gật đầu. “Tôi yêu từng giây từng phút được làm công việc của mình.” “Thế thì chắc chị nhớ lắm,” Esther lại tuyên bố. “Không, cũng không hẳn,” tôi nói dối. “Ở đây có khối việc chiếm trọn thời giờ của tôi rồi.” “Chẳng mấy chốc, chị lại phải chăm sóc cho cả Millie nữa.” “Millie rất tự chủ và dù sao thì con bé cũng sẽ dành phần lớn thời gian làm việc ở Meadow Gate.” “Ở nhà vườn ấy hả?” “Đúng thế. Con bé rất thích cây cối hoa lá và đã may mắn được nhận vào làm một công việc hoàn hảo.” “Thế cả ngày chị thường làm gì?” “Thì cũng như hiện tại thôi - cô biết rồi đấy, nấu ăn, dọn dẹp, làm vườn - nếu thời tiết cho phép.” “Sau này cô phải tới dự bữa trưa Chủ nhật để thăm vườn mới được,” Jack nói. “Grace mát tay trồng trọt lắm.” “Trời ạ,” Esther nhẹ nhàng nói. “Chị nhiều tài thật đấy. Thật mừng là tôi được mời làm việc ở St Polycarp. Ở nhà cả ngày tôi thấy chán lắm.” “Bao giờ cô bắt đầu?” “Tháng sau. Tôi thế chỗ cho một cô giáo nghỉ sinh con.” Tôi quay sang Rufus. “Jack nói với tôi vườn của anh lớn lắm,” tôi gợi ý, và trong khi tôi lấy thêm thịt bò Wellington được giữ ấm cùng rau quả trên bếp điện, cuộc chuyện trò bên bàn bắt đầu xoay quanh chủ đề phong cảnh thay vì về tôi. Khi mọi người cười nói với nhau, tôi thấy mình bâng khuâng nhìn hai người phụ nữ kia, tự hỏi nếu mình là Diane hoặc Esther thì sẽ ra sao, hay nếu không phải chăm lo cho Millie thì tôi sẽ thế nào. Tôi lập tức thấy có lỗi vì tôi yêu Millie hơn cả cuộc đòi này và sẽ không đánh đổi con bé để lấy bất cứ thứ gì. Chỉ cần nghĩ đến Millie, lòng tôi dâng lên một quyết tâm mới và tôi cố ý đứng dậy. “Đã ai muốn ăn tráng miệng chưa?” tôi hỏi. Jack và tôi dọn bàn, sau đó anh theo tôi vào bếp. Tôi bỏ đĩa bát gọn gàng vào bồn rửa để lát nữa xối nước cho sạch, trong khi Jack cất con dao lạng thịt về chỗ cũ. Món tráng miệng tôi làm quả là kiệt tác - một ổ bánh trứng đường hoàn hảo, không một vết rạn, cao bảy phân, phủ đầy kem tươi Devon. Tôi lấy số hoa quả đã chuẩn bị từ trước rồi cẩn thận xếp các khoanh xoài, dứa, đu đủ và kiwi lên trên lớp kem, sau đó thêm dâu tây, mâm xôi và việt quất. Khi cầm quả lựu lên, cảm giác của nó trong lòng bàn tay đưa tôi quay về một thời điểm khác, một địa điểm khác, nơi ánh mặt trời ấm áp rọi trên mặt và tiếng trò chuyện háo hức là những thứ tôi coi như nghiễm nhiên được hưởng trên đời. Tôi nhắm mắt lại trong giây lát, nhớ tới cuộc đời mình từng sống trước đây. Nhận thấy Jack đang giơ tay ra đợi, tôi đưa quả lựu cho anh cắt ra làm đôi, rồi tôi dùng thìa nạo hạt rắc lên chỗ hoa quả kia. Món tráng miệng đã hoàn thành, tôi bê ra phòng ăn, nơi những tiếng trầm trồ trước sự xuất hiện của nó khẳng định Jack đã đúng khi chọn món này thay vì bánh ga tô sô cô la hạt dẻ tôi muốn làm. “Cậu có tin là Grace chưa bao giờ học nấu ăn không?” Diane nói với Esther và cầm thìa lên. “Tớ thật ngưỡng mộ sự hoàn hảo này, cậu có thấy thế không? Mặc dù tớ sẽ không tài nào mặc vừa bộ bikini vừa mua nữa,” cô ta đế thêm, rên rỉ vỗ tay vào bụng dưới lớp váy lanh màu xanh nước biển. “Tớ không nên ăn mới phải, nhất là khi vừa đặt một chuyến nghỉ mát vào mùa hè này, nhưng ngon thế kia thì làm sao cưỡng nổi!” “Hai người định đi đâu?” Rufus hỏi. “Thái Lan,” Adam trả lời. “Chúng tôi định đi Việt Nam, nhưng sau khi xem ảnh kỳ nghỉ vừa rồi của Jack và Grace ở Thái Lan, chúng tôi quyết định sẽ đi Việt Nam vào năm sau.” Anh ta nhìn Diane cười. “Mọi chuyện được quyết ngay khi Diane trông thấy khách sạn họ đã ở.” “Vậy hai người sẽ ở đúng khách sạn ấy chứ?” “Không, khách sạn ấy đã kín chỗ. Không may là chúng tôi không được phép đi nghỉ ngoài thời gian làm việc.” “Hãy cố tận hưởng hết mức có thể,” Esther nói, quay sang nhìn tôi. “Tôi cũng định thế.” “Năm nay hai cậu có định quay lại Thái Lan không?” Adam hỏi. “Nếu có thì phải đi trước tháng Sáu, nhưng chắc tôi không đi được vì vụ Tomasin sắp tới,” Jack nói. Anh ném một cái nhìn đầy ẩn ý về phía tôi ở đầu bàn bên kia. “Còn sau đó thì Millie sẽ đến sống cùng chúng tôi.” Tôi nín thở, hy vọng không ai gợi ý rằng nếu kiên nhẫn chờ đợi, chúng tôi sẽ có thể đưa cả Millie đi cùng. “Vụ Tomasin hả?” Rufus nhướn mày. “Tôi có nghe được chút ít. Có phải vợ anh ta là một trong số các thân chủ của anh?” “Đúng thế.” “Dena Anderson,” anh ta trầm ngâm. “Chắc là một vụ rất thú vị.” “Quả vậy,” Jack đồng tình. Anh quay lại nhìn tôi. “Em yêu, nếu mọi người đã ăn xong, sao em không cho Esther xem ảnh lần trước bọn mình đi nghỉ ở Thái Lan nhỉ?” Tim tôi chùng xuống. “Chắc cô ấy không muốn xem ảnh đi nghỉ của chúng mình đâu,” tôi cố tình nói sao cho thật nhẹ nhàng. Nhưng chỉ một dấu hiệu nhỏ nhoi cho thấy sự bất hòa giữa hai chúng tôi cũng đã đủ cho Esther. “Tôi rất thích xem!” cô kêu lên. Jack đẩy ghế lùi lại rồi đứng dậy. Anh lấy cuốn album ảnh ra khỏi ngăn kéo và đưa cho Esther. “Vậy thì tôi với Grace đi pha cà phê trong khi cô xem ảnh nhé. Sao cô không sang phòng khách mà ngồi, ở đó thoải mái hơn nhiều.” Lúc chúng tôi mang khay cà phê trở lại từ trong bếp thì Diane đang trầm trồ khen ảnh, trong khi Esther chẳng nói gì nhiều. Tôi phải thừa nhận đó là những tấm ảnh tuyệt vời. Tôi có mặt ở tấm nào là y như rằng đều phô ra ưu điểm của mình trong tấm đó: làn da rám nắng tuyệt đẹp, thân hình thanh mảnh như hồi còn đôi mươi, mặc một trong hằng hà sa số các bộ bikini của mình. Hầu như trong ảnh nào tôi cũng đang đứng trước một khách sạn hạng sang, hoặc nằm dài trên bãi biển riêng, hay ngồi ở một quầy bar hoặc nhà hàng, bên cạnh ly cocktail sặc sỡ cùng một đĩa đồ ăn mới lạ trước mặt. Xem ảnh nào cũng thấy tôi tươi cười nhìn máy ảnh, quả là một ví dụ hoàn hảo về kiểu phụ nữ vô lo được cưng chiều và yêu chồng tha thiết. Jack khá cầu toàn khi chụp ảnh và thường chụp đi chụp lại một kiểu đến khi nào ưng mới thôi, vậy nên tôi đã học cách diễn cho chuẩn ngay lần đầu. Cũng có một số tấm ảnh hai chúng tôi chụp chung, do những người lạ dễ tính nháy máy hộ. Chính Diane đã trêu chọc và chỉ ra rằng trong những bức ảnh ấy, Jack với tôi thường nhìn nhau say đắm chứ chẳng hề nhìn đến ống kính. Jack rót cà phê. “Có ai muốn ăn sô cô la không?” tôi hỏi, cố hết sức làm ra vẻ ngẫu nhiên với lấy hộp sô cô la Esther mang tới. “Anh nghĩ tất cả đều đã ăn khá no rồi,” Jack gợi ý, nhìn quanh tìm kiếm sự đồng tình. “Quả vậy,” Rufus nói. “Tôi không thể ăn thêm bất cứ thứ gì nữa,” Adam rên rỉ. “Thế thì tôi cất đi để dịp khác vậy.” Jack chìa tay đón hộp kẹo. Tôi đang tưởng sẽ phải chấp nhận không bao giờ được nếm chúng thì Diane đã kịp đứng ra giải cứu. “Đừng cất đi - em nghĩ mình còn ăn được một, hai viên sô cô la.” “Nhắc cho em nhớ tới bikini chắc cũng vô ích,” Adam thở dài, lắc đầu tuyệt vọng chế giễu vợ. “Hoàn toàn vô nghĩa,” Diane đồng ý rồi lấy một viên sô cô la từ chiếc hộp Jack đưa cho mình, sau đó chuyền cho tôi. Tôi lấy một viên, bỏ tọt vào miệng và đưa hộp cho Esther. Thấy cô từ chối không ăn, tôi lại lấy thêm một viên nữa trước khi trả hộp cho Diane. “Sao chị làm được như thế?” Diane hỏi, nhìn tôi đầy băn khoăn. “Làm gì cơ?” “Ăn nhiều thế mà chẳng tăng cân chút nào.” “Nhờ may mắn,” tôi nói, thò tay ra lấy thêm một viên kẹo nữa. “Và có kiểm soát.” Đến tận khi đồng hồ nhích đến mười hai rưỡi, Esther mới nhắc đến chuyện đi về. Jack đưa áo khoác cho mọi người khi chúng tôi ra tới hành lang. Trong lúc anh giúp Diane và Esther mặc áo khoác, tôi đồng ý sẽ gặp họ trong thị trấn vào thứ Sáu tới để ăn trưa tại nhà hàng Chez Louis lúc mười hai rưỡi. Diane ôm tôi chào tạm biệt. Khi bắt tay Esther, tôi nói tôi mong được gặp lại cô vào bữa trưa đã hẹn. Hai người đàn ông hôn tạm biệt tôi và trong lúc tất cả ra về, họ đều cảm ơn chúng tôi vì một buổi tối hoàn hảo. Trên thực tế, từ “hoàn hảo” cứ vang lên khắp hành lang khi Jack đóng cửa sau lưng các vị khách, khiến tôi biết chắc mình đã thắng cuộc. Nhưng tôi phải đảm bảo Jack biết rằng tôi đã thắng. “Ngày mai ta sẽ phải lên đường vào lúc mười một giờ,” tôi nói, xoay lại nhìn anh. “Để tới nơi đúng giờ đưa Millie đi ăn trưa.” Mời bạn đón đọc Sau Cánh Cửa Đóng của tác giả B. A. Paris & Lan Young (dịch).