Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Trò Bịp Trên Phố Wall

Trò Bịp Trên Phố Wall là hồi ký của Michael Lewis về bốn năm làm việc tại hãng đầu tư Salamon Brothers, từ một kẻ học việc Geek non nớt đến một tay kinh doanh trái phiếu Big Swinging Dick thành đạt, mang về hàng triệu đô-la cho hãng và kiếm tiền từ cuộc đổ xô "tìm vàng: thời hiện đại. Cuốn sách ghi lại giai đoạn đỉnh điểm của những năm điên cuồng và đầy biến động đó - Một cái nhìn hậu trường trong một thời kỳ khác thường và hỗn loạn của nền kinh tế Mỹ. Bằng vốn hiểu biết sâu rộng và những lý giải hài hước của người trong cuộc, Lewis mô tả khoảng thời gian từ năm 1984 đến cuộc khủng hoảng năm 1987 như một thời kỳ mà lòng tham không đáy và phương cách làm giàu vô nhân đạo chưa từng thấy thống trị thị trường.   Cội nguồn Salomon Brothers, thành lập năm 1910, là một trong những ngân hàng đầu tư lớn nhất Phố Wall trong thập niên 1980. Năm 1984, tổng tài sản của ngân hàng này đạt mốc 34 tỷ đô la. Đây là nơi khai sinh cụm từ “chứng khoán hóa” − mầm mống của đại khủng hoảng tài chính. Cuối thập niên 1970, các ngân hàng Mỹ không còn muốn liều lĩnh tài trợ cho vay mua bất động sản dài hạn bằng nguồn tiền gửi ngắn hạn đầy bấp bênh. Nếu những người đi gửi tiền bỗng dưng thích giấu tiền dưới gối hơn là để nó ở nhà băng, các ngân hàng sẽ chẳng biết lấy đâu ra tiền mà trả cho khách, sụp đổ là điều khó tránh khỏi. Cung giảm nhưng nhu cầu mua nhà lại tăng do số người đến tuổi trưởng thành ngày càng nhiều. Áp lực tài chính đè nặng lên “giấc mơ Mỹ”. Vì thế, hoặc là có một bước đột phá, hoặc là người Mỹ nên tập quen với những căn nhà tùng tiệm hơn. Và thế là một phát minh vĩ đại ra đời. Thời cơ đến nhưng chỉ có Salomon Brothers cùng vị phó chủ tịch huyền thoại Lewis Ranieri là chộp được để ghi tên mình vào lịch sử. Năm 1977, liên kết với Bank of America, Salomon phát hành MBS (mortgage-backed securities) tư nhân đầu tiên. Đây là một trái phiếu được phát hành trên cơ sở đảm bảo bởi các khoản vay thế chấp mua nhà. Bằng cách phát hành các chứng khoán nợ này, “chủ nợ” của các khoản vay thế chấp chuyển từ ngân hàng sang nhà đầu tư. Ngân hàng có điều kiện quay vòng vốn nhanh hơn và thay vì phải huy động vốn tiền gửi với lãi suất cao và kỳ hạn ngắn, nay nó đã tiếp cận được một kênh huy động vốn dài hạn với lãi suất hấp dẫn hơn nhiều. Không chỉ vậy, rủi ro không thanh toán cũng được chuyển trực tiếp từ ngân hàng sang các nhà đầu tư mua MBS. Vận may đã mỉm cười với Salomon, năm 1981, chính quyền Mỹ ban hành đạo luật hoàn toàn bộ thuế trong vòng mười năm trước đó cho các quỹ tiết kiệm và cho vay (S&L) không có nợ xấu. Các quỹ này buộc phải bán các MBS thấp hơn giá trị thực rồi ngay lập tức mua lại các MBS khác để “làm sạch” bảng kết toán tài sản. Nhưng trên Phố Wall, chỉ duy nhất Salomon Brothers có bộ phận giao dịch MBS, vì thế, họ độc quyền. Các quỹ S&L chẳng còn lựa chọn nào khác ngoài cách tìm đến với Ranieri. Ước tính đã có tới 1 nghìn tỷ đô-la MBS qua tay các tay giao dịch của Salomon Brothers. Nhà đầu tư tại London nay có thể tài trợ cho những căn nhà tại Los Angeles, Tokyo hay Frankfurt. Khi nguồn cung vốn vay được khơi thông, tất yếu đẩy lãi suất cho vay thấp xuống. Lãi suất hạ, số người đi vay mua nhà ngày càng tăng, thị trường MBS gần như là của riêng Salomon lại càng thêm sôi động. Sáng tạo nối tiếp sáng tạo, sau nhà đất, các khoản vay mua ôtô, đi học, mua tivi, tủ lạnh cũng được đóng gói thành các chứng khoán bảo đảm bằng tài sản. Cụm từ “chứng khoán hóa” đăng ký nơi ra đời tại tầng 45 tòa nhà Trung tâm Thương mại Thế giới, nơi đặt trụ sở của Salomon Brothers. Sáng tạo đồng nghĩa với lợi nhuận, tiền cứ thể đổ vào túi họ. Năm 1984, lợi nhuận của Salomon Brothers còn lớn hơn tất cả các công ty ở Phố Wall cộng lại và con số 38 tỷ đô-la danh mục đầu tư của nó lớn gấp bốn lần bất kỳ đối thủ nào. Kế đến là quyền lực, ngay đến Bộ Tài chính cũng phải nhờ tới Salomon mới phát hành hết được 2,3 nghìn tỷ đô-la nợ chính phủ trong thập niên 1980, vì họ là người mua lớn nhất. Có nhiều lời đồn đại cho rằng Salomon điều khiển được cả lãi suất trái phiếu chính phủ Mỹ. Trong ngôi đền của những huyền thoại, cái tên Salomon Brothers đã trở thành bất tử. Mặt trái của tấm huân chương Salomon dẫn đầu, Salomon là vua, Salomon vượt mặt toàn bộ Phố Wall. Trong thập niên 1980, những lời tung hô che giấu đi phần nào mặt trái tại Salomon Brothers. Trái với quan niệm trọng bằng cấp, bản thân Ranieri cùng nhiều nhân viên cao cấp tại Salomon chưa bao giờ có bằng đại học, một người mới chỉ học hết lớp 8. Nhưng đó là chuyện bình thường tại Salomon. Ranieri không yêu cầu nhân viên của mình phải có kiến thức chuyên sâu về tài chính, chỉ cần biết đánh vào điểm yếu của người khác, đe dọa để họ phải nghe lời, giăng bẫy người mua vướng vào mớ trái phiếu tệ hại − thế là đủ. Khi giá đã ổn định, MBS không còn gì hơn các loại trái phiếu trên thị trường cũng như Salomon không còn gì hơn các đối thủ khác. Từ đây, như một quả báo, vận rủi và tai tiếng cứ liên tiếp ập xuống Salomon. Năm 1991 là khoản phạt 290 triệu đô-la vì gian lận đấu thầu chứng khoán và cáo buộc thao túng thị trường. Danh tiếng tiêu tan và công ty suýt bị thôn tính. Thói gian lận có lẽ đã ám ảnh Salomon. Năm năm sau ngày trở thành một bộ phận của Citigroup năm 1998 với cái tên Salomon Smith Barney, công ty lại là trung tâm trong vụ án mâu thuẫn lợi ích “Global Settlement”, với cáo buộc phát hành báo cáo nghiên cứu gian lận và hối lộ lãnh đạo doanh nghiệp. Cuộc khủng hoảng tài chính hiện nay nhen nhóm từ MBS rồi bùng phát dữ dội vì CDO (collateralized debt obligation), một “sáng tạo” nữa của Ranieri thời còn gắn bó với Salomon. Chính Citigroup cũng vì MBS và CDO mà suýt nữa rơi vào cảnh phá sản, nếu không nhận được sự cứu trợ từ chính phủ Hoa Kỳ. Về phần mình, Ranieri giúp ngân hàng Franklin Bank của mình tránh khỏi mớ bòng bong của MBS và CDO, nhưng tránh “vỏ dưa gặp vỏ dừa”, tháng 11 năm 2008, Franklin Bank vẫn sụp đổ vì nợ xấu của các nhà thầu xây dựng! Trò bịp trên Phố Wall Tất cả những sự kiên, diễn biến ở Phố Wall và Salomon được kể lại đầy lôi cuốn và hấp dẫn qua cuốn tự truyện của Michael Lewis. Liar's Poker (Trò bịp trên Phố Wall) mô tả kinh nghiệm của tác giả trong vai trò một tay buôn trái phiếu trên Phố Wall trong suốt thập niên 1980. Cuốn sách chính là một “bản báo cáo nội gián” soi rõ từng chân tơ kẽ tóc giới giao dịch chứng khoán.  Vào thập niên 1980, Michael Lewis là tay kinh doanh trái phiếu tập sự cho Salomon Brothers ở New York và London trong suốt bốn năm. Poker – Bài nói dối – là một trò chơi mang tính lừa bịp và đặt cược cao mà các thương nhân, các tay buôn cổ phiếu và giới ngân hàng đầu tư thường chơi mỗi buổi chiều, nhưng nó cũng là một ẩn dụ cho các nền văn hóa của Salomon đầy mạo hiểm, rủi ro và bịp bợm. Đó là một cuộc chơi không khoan nhượng. Lewis kể về câu chuyện thực của Phố Wall trong cả những ngày vinh quang và giai đoạn sụp đổ với giọng văn đầy hài hước, châm biếm. Những nhân vật đầy màu sắc và nổi tiếng ở Phố Wall như Michael Milken, người đã phát triển loại trái phiếu có lãi suất cao nhưng đầy rủi ro (high-yield debt/junk bond), nhà đầu tư Warren Buffett, nhà phân tích chứng khoán Bill Simon, Lewis Ranieri − người đứng đầu phòng thế chấp của Salomon Brothers và John Gutfreund − giám đốc điều hành Salomon đều xuất hiện sống động trong cuốn sách này.  Là sinh viên Đại học Princeton, Lewis muốn bước chân vào Phố Wall nhưng đều bị mọi công ty mà ông nộp đơn từ chối. Không kiếm được việc, ông phải xin vào Trường Kinh tế London (LSE) để kiếm một tấm bằng Thạc sỹ Kinh tế. Tình cờ Lewis có dịp ngồi cạnh bà vợ của hai nhà quản lý Salomon Brothers và nhờ đó tìm được việc làm đầu tiên của mình ở Salomon. Ở New York, Lewis đã học những bài bọc đầu tiên về nền văn hóa tiền bạc của Salomon và Phố Wall trong một chương trình đào tạo của công ty này. Sau đó, Lewis chuyển tới văn phòng Salomon Brothers ở London. Mặc dù là tay kinh doanh thiếu kiến thức và kinh nghiệm song ông sớm được giao quyền xử lý hàng triệu đô-la trong các tài khoản đầu tư. Năm 1987, ông đã chứng kiến sự mua bán liều mạng và đầy thù địch của Salomon Brothers, nhưng vẫn tiếp tục trụ lại công ty. Giao dịch và kinh doanh trái phiếu − tưởng chừng đó là loại công việc cần trình độ và tư duy tài chính, song thực tế lại đòi hỏi những kỹ năng khác hẳn: khai thác những điểm yếu và đe dọa người khác, tận dụng sự thiếu hiểu biết của những “kẻ khờ” để kiếm tiền và nhờ đó trở nên cực kỳ giàu có. Lewis đã gọi đó là thế giới của “Luật rừng”. Năm 1988, khi ngày càng trở nên thất vọng với công việc, Lewis từ bỏ công việc mà ông đang ở trên đỉnh cao để viết cuốn sách này, bắt đầu sự nghiệp một nhà báo tài chính. Cuốn sách đã vạch trần toàn bộ mọi sự vụ ở Phố Wall, về văn hóa Phố Wall, về giới giao dịch trái phiếu, về niềm tin của họ và công việc thật sự của họ. Khi kể về những tháng ngày tại Salomon, Lewis đã viết: “Salomon là khu rừng hoang dại đầy những con thú khát máu gắn mác giao dịch viên”.  Với mức độ thâu tóm và nhận diện chính xác cả một thời kỳ, Trò bịp trên Phố Wall chính là bản dự báo cho hai cuộc khủng hoảng tài chính hiện nay và một số yếu tố trong sự sụp đổ của Enron hay nhiều vụ bê bối tài chính khác, bởi gốc rễ lịch sử của chúng khởi phát mầm mống từ chính những trò lừa đảo của Phố Wall, mà Salomon là đại diện tiêu biểu. Cùng với những cuốn sách mà Alpha Books đã xuất bản như Trên đỉnh Phố Wall của Peter Lynch và John Rothchild, Hồi ức của một thiên tài đầu tư chứng khoán của Edwin Lefèvre, Bước đi ngẫu nhiên trên Phố Wall của Burton G. Malkiel, Đánh bại Phố Wall của Peter Lynch…, Trò bịp trên Phố Wall của Michael Lewis là cuốn sách kinh điển, được xem như là “gối đầu giường” của giới giao dịch chứng khoán và những người tham vọng gia nhập vào thế giới này. Xin trân trọng giới thiệu cùng độc giả! Tháng 1 năm 2010 Nguyễn Cảnh Bình Giám đốc Công ty Alpha Books Mời các bạn đón đọc Trò Bịp Trên Phố Wall của tác giả Michael Lewis.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Nhớ
Tôi là nhạc sĩ nên phải có trí nhớ tốt. Nhớ kỹ hàng ngàn bài hát, thuộc lòng hàng ngàn điệu nhạc. Nhớ những chuyện vui buồn xa lắc xa lơ. Còn nhớ cảnh, nhớ người nữa chứ! Đi nhiều, tất nhiên tôi có nhiều bạn lắm. Nhớ rất nhiều người đã đi qua đời mình... Tôi có nhiều bài hát nhớ quê hương (Tình Hoài Thương, Thuyền Viễn Xứ...), nhớ những cảnh huống (Còn Chút Gì Để Nhớ, Nha Trang Ngày về...) nhưng nhớ người bao giờ cũng da diết hơn là nhớ cảnh, thế mà tôi không có một bài hát nhớ bạn nào cả! Âu là nhớ bạn và viết ra nổi nhớ, khi tôi đã trở về sống tại quê nhà và có ít nhiều ngày tháng rảnh rang... Phạm Duy *** Nhớ cảnh, nhớ người Cuộc đời tôi thật ra chưa có lúc nào yên ổn như bây giờ , khi tôi trở về sống trên quê hương mình sau ba mươi năm hòa bình và thống nhất... Từ khi sinh ra và trưởng thành, hoàn cảnh chung của đất nước thường xuyên biến động, thời cuộc đẩy đưa tôi thành một kẻ giang hồ nay đây mai đó. Đi khắp nơi trong nước, đi khắp nơi trên địa cầu, từ khi còn là tóc xanh môi đỏ cho tới khi đã là tóc bạc răng long. Sống tại nhiều nơi quá, xê dịch nhiều quá, thay đổi chỗ ở luôn luôn đến độ khi tuổi đã trên tám mươi rồi mà vẫn còn phải dọn nhà thêm một lần nữa, phải di chuyển tất cả sách vở, máy móc, đồ đạc từ một lục địa này qua một lục địa khác... Dù rằng trong đầu luôn luôn có nỗi sợ của câu châm ngôn Việt Nam: dọn nhà, như cha chết! Tôi là nhạc sĩ nên phải có trí nhớ tốt. Nhớ kỹ hàng ngàn bài hát, thuộc lòng hàng ngàn điệu nhạc. Nhớ những chuyện vui buồn xa lắc xa lơ. Còn nhớ cảnh, nhớ người nữa chư ! Đi nhiều, tất nhiên tôi có nhiều bạn lắm. Nhớ rất nhiều người đã đi qua đời mình. Tôi có nhiều bài hát nhớ quê hương (Tình Hoài Hương, Thuyền Viễn Xứ), nhớ những cảnh huống (Còn Chút Gì Để Nhớ, Nha Trang Ngày Về) nhưng nhớ người bao giờ cũng da diết hơn là nhớ cảnh, thế mà tôi không có một bài hát nhớ bạn nào cả! Âu là bây giờ ngồi nhớ bạn và viết ra nỗi nhớ, khi tôi đã trở về sống tại quê nhà và có ít nhiều ngày tháng rảnh rang. Nhớ bạn! Bạn nào? Bạn từ bao giờ? Tôi nghĩ rằng lúc chúng ta tới tuổi cắp sách tới trường là lúc chúng ta khởi sự có bạn. Những bạn đầu tiên của tôi là những bạn học ở trường mẫu giáo chỉ có tên gọi là Trường Hàng Thùng và Trường tiểu học Nguyễn Du, tức Trường Hàng Vôi, Hà Nội. Tôi không bao giờ gặp lại những bạn học của thời thơ ấu này, hơn nữa cũng chẳng có ai là bạn thân để tôi nhớ. Tôi chỉ có cơ hội gặp lại một người là Nguyễn Đình Thi, hành nghề bác sĩ tại Orange County, California, USA. *** Cũng như bao người bình thường khác, ở chặng cuối của đường đời, thứ quý giá nhất còn lại với người nhạc sĩ tài hoa chính là kỷ niệm. Nói là quý giá bởi khi đi đến cái tuổi xế chiều, vô số người rơi vào cái tình cảnh “nhớ đấy rồi quên đấy”, thậm chí có khi còn quên hẳn đi những điều đang xảy ra xung quanh mình và với mình nữa chứ chưa kể là những ký ức của mấy mươi năm về trước. Nên còn nhớ được, còn ghi chép lại được những điều từng nghĩ, từng làm của bản thân thành những trang văn là một điều vô cùng may mắn. Được mệnh danh là “cây đại thụ của Tân nhạc Việt Nam”, những hồi ức, kỷ niệm của Phạm Duy trong cuốn bút ký Nhớ cũng trở nên đặc biệt hơn người khác. Ở đó, người ta tìm thấy những yếu tố đã tạo nên con người và cá tính Phạm Duy trong cả âm nhạc lẫn đời thường, những chất xúc tác và hoàn cảnh khiến ông chấp bút viết nên những bản nhạc đi cùng năm tháng. Đặc biệt, qua những dòng hồi ức của ông, người ta còn gặp lại những khuôn mặt lẫy lừng của nền văn nghệ Việt Nam một thuở. Có thể nói cuộc đời Phạm Duy là một cuộc rong ruổi và dạo chơi bất tận. Điều này đã được chính ông xác nhận qua lời tự thuật mở đầu tập bút ký: “Đi khắp nơi trong nước, đi khắp nơi trên địa cầu, từ khi còn là tóc xanh môi đỏ cho tới khi đã là tóc bạc răng long”. Mỗi chuyến xê dịch của ông dường như luôn gắn với một hay nhiều câu chuyện. Đó là câu chuyện của bản thân ông, của nhiều người khác có liên hệ tới ông hoặc cũng chính là câu chuyện của thời cuộc, của đất nước. Trước khi định hình cá tính và tài năng của mình trên lĩnh vực âm nhạc, bản thân Phạm Duy đã trải qua những tháng năm tuổi trẻ dịch chuyển về cả không gian sống và nghề nghiệp, công việc của mình. Có lúc ông hiện diện trong hình ảnh một công nhân học việc, có khi ông lại cận kề với cuộc sống của người nông dân cần lao, rồi những tháng năm lang bạt cùng gánh hát Đức Huy – Charlot Miều trong vai trò ca sĩ hay những ngày trở thành người lính theo kháng chiến chống Pháp… Tất cả đã mang đến cho ông một vốn sống dồi dào và phong phú để về sau trở thành chất liệu vô giá trong công việc sáng tác. Những chuyến đi cũng mang đến cho Phạm Duy rất nhiều bè bạn, họ có thể là những người bình thường, cũng có thể là những tên tuổi lớn của nền văn chương và nghệ thuật Việt Nam những thập niên 1930 – 1940 thuộc thế kỷ trước như: Lưu Trọng Lư, Hoàng Cầm, Văn Đông, Lê Thương… và đặc biệt hơn cả là Văn Cao, người thầy và cũng là người tri kỷ của Phạm Duy trong cuộc sống và trong âm nhạc. Họ đã hội ngộ cùng ông trong một khoảnh khắc nào đó giữa đoạn đời tuổi trẻ đầy sôi nổi, kết mối tương giao với nhau trong cõi mênh mang của thơ, của nhạc, chia ly đằng đẵng, rồi tái ngộ khi tuổi đã xế chiều. Ông đã nhớ, nghĩ và viết về những con người ấy với tất cả sự trân trọng, mến yêu. Ký ức của Phạm Duy còn là thiên ái tình vô tận với vô vàn những bóng hồng đã đi qua trong đời ông. Thói thường, với ái tình, người ta chỉ kể về nó bằng những điều trong trắng, đẹp và mơ mộng nhất, riêng nhạc sĩ họ Phạm thì không, ông kể về ái tình của đời mình với đầy đủ mọi cung bậc: thơ mộng và trần trụi, khổ đau và hoan lạc, thuần khiết và nhục dục, có lúc là cả sai trái… Có thể thấy, sự chân thật trong ái tình có lẽ là một trong những điều đáng quý của con người Phạm Duy. Nhưng đọc Phạm Duy, nghe Phạm Duy không phải chỉ để biết về bản thân hay cuộc đời ông. Mà còn là để hiểu về thời cuộc và những tao đoạn đã diễn ra trong quá khứ, hiện tại khiến bao phận người xô dạt “khóc cười theo mệnh nước nổi trôi”. Nhìn và ngẫm về cuộc đời của ông với những sự xoay chiều về quan điểm hay lập trường, hẳn có người sẽ phê phán ông là một kẻ xu thời, không có chính kiến và là một tay trần tục. Nhưng ngẫm nghĩ lại, có bao giờ Phạm Duy tự nhận hay lựa chọn lối sống cho mình là một thánh nhân đâu. Phạm Duy sống thật, rất thật! Thật với chính mình và thật với đời. Ông không chọn cho mình cách sống đối nghịch với cuộc đời hay thời thế mà luôn luôn xuôi theo nó, sống một cuộc đời tự do, không buộc mình vào bất cứ chủ thuyết hay phe phái nào. Và nói cho cùng, ở đời, nếu được lựa chọn thì ai lại chẳng muốn có một cuộc sống tự do và không bị trói buộc, huống chi là những kẻ sinh ra vốn “mang nợ với gió trăng”.   Mời các bạn đón đọc Nhớ của tác giả Phạm Duy.
Hồi ký Phạm Duy
Kể lại chuyện mình xẩy ra từ sáu, bẩy mươi năm về trước là một việc làm không dễ. Tuy nghề nghiệp bắt buộc người nhạc sĩ phải có trí nhớ tốt để thuộc lầu hàng trăm, hàng ngàn bản nhạc, nhưng khi ngồi đào sâu ký ức để tìm về quá khứ thì tôi thấy những dữ kiện quá ư phức tạp, quá ư hỗn độn. Tôi lại không còn ở trong nước để kiểm chứng hàng chục, hàng trăm những nghi vấn về địa chí, về danh xưng và cũng không có trong tay những bản đồ với tên tỉnh, tên huyện, tên phố đã được thay đổi tới 4, 5 lần dưới nhiều chính thể... Do đó Hồi Ký Thời Thơ Â'u Vào Đời này có những khuyết điểm tuy không quan trọng nhưng tác giả cũng xin một sự độ lượng nào đó của người đọc. Là con mồ côi cha quá sớm, tôi muốn dâng cuốn Hồi Ký này lên người bố mà tôi không được gần gũi, vì tôi tin ở huyết thống. Tôi mường tượng bố tôi sinh ra đã có người Pháp cai trị dân Việt Nam rồi. Bên cạnh những hành động của Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh cùng với các bạn "đồng chí hướng" như Nguyễn Văn Vĩnh, Trần Trọng Kim... bố tôi đem uẩn ức của dân nô lệ vào đời và hoạt động trong nhiều địa hạt, khi làm công tác trong một Nghĩa Thục, khi dùng ngòi bút tả chân trong văn chương và báo chí, khi tranh thương với Hoa Kiều v.v... Tất cả cho mục đích thay đổi xã hội, thay đổi cuộc đời. Nói như vậy vì tôi thèm được thấy bạn đọc nhìn nhận Hồi Ký này không khởi sự từ những năm 20 khi tôi vừa ra đời mà còn ôm đồm thêm những dữ kiện về thế hệ cha ông trong những năm đầu của thế kỷ. Nếu được như vậy, toàn bộ Hồi Ký của tôi sẽ bao trùm được đủ 100 năm của thế kỷ mà 50 năm đầu là sự đoàn kết của tất cả "người Việt nô lệ" -- trong đó có bố con tôi -- trong việc giành Độc Lập và Tự Do. Muốn biết rõ hơn cuộc đời của một "người Việt tự do" -- là tôi -- trong 50 năm sau của thế kỷ thứ 20, xin mời bạn đọc tiếp những cuốn Hồi Ký tiếp theo. Thế hệ ông cha ta, với các phong trào Văn Thân, Đông Du và Đông Kinh Nghĩa Thục, thành công hay thất bại, ai cũng đều biết. Riêng tôi biết rõ bố tôi chết đi mà chưa thực hiện được những giấc mơ của mình. Những đứa con là nơi để bố trút bầu tâm sự. Bốn người con lớn không thừa hưởng vẹn toàn thông điệp của bố, có lẽ tại vì các anh các chị chưa phải là thứ "tinh trùng bất mãn" được bố cấy vào trong mẹ. Thằng con út, khởi sự là bào thai đã được bố gửi gấm những hoài bão vào lúc bố biết mình đã thất bại và sắp chết. Nó lớn lên, vì sự linh thiêng của huyết thống, nó thực hiện giấc mộng không thành của người cha ?! Hình như Goethe và Maxime Gorki đã coi những ngày thơ ấu của hai ngài là những ngày Đại Học. Vốn chẳng được theo đuổi việc học hành trong sách vở tại nhà trường, tôi cũng bắt chước hai vị để nói rằng trường Đại Học Âm Nhạc của tôi là kho tàng âm nhạc bình dân mà tôi hấp thụ trong quãng đời sớm lang bạt của tôi. Thuật sống của tôi học được ở mọi tầng lớp nhân dân mà tôi sớm được tiếp xúc. Lẽ dĩ nhiên sự giáo dục về cuộc đời cũng đến với tôi từ mẹ ruột, từ vú nuôi, từ mẹ nuôi, từ thầy giáo, từ bạn bè... đến cả từ những khắc nghiệt của người anh cũng như từ những ân sủng của người tình. Xin được tri ân tất cả! Tôi cũng cần phải cám ơn những người giúp tôi rất nhiều trong việc hoàn tất tập HỒI KÝ này: Bạn cùng học tại những ngôi trường cũ như Bác Sĩ Nguyễn Đình Thi (Trường Hàng Vôi), Cao Trung (Trường Bách Nghệ), Tạ Tỵ, Võ Lăng (Trường Mỹ Thuật). Bạn tâm giao cũ hay bạn mới làm quen là những người ở từng địa phương như Phạm Thanh Liêm, Lê Ninh (Hưng Yên), chị Lê Tôn Hy (YênThế-Bắc Giang), Nguyễn Sĩ Hưng (Thanh Hoá), Cao Xuân Vỹ, Nguyễn Đình Khuê (Nghệ An), Nguyễn Cúc (Huế), Hàn Vĩ, Lê Trọng Nguyễn (Hội An), Nguyễn Văn Sang (Quảng Ngãi), Lữ Liên (Dalat), Trần Văn Khê (Vĩnh Long). Bạn văn nghệ như Lê Văn-Vũ Bắc Tiến, Nguyễn Hiền. Tất cả đã nhắc lại tên các rạp hát và các điạ danh của tỉnh mình, hoặc kể lại vài mẩu chuyện cũ để cho cuốn Hồi Ký của tôi thêm mầu sắc và thêm xác thực. Lẽ ra có hai tập: Hồi Ký Thời Thơ Â'u và Hồi Ký Thời Vào Đời. Nhưng để tiết kiệm thời giờ và tiền mua sách của bạn đọc, tôi thu gọn hai tập vào một cuốn sách. Do đó toàn bộ Hồi Ký chỉ còn 4 tập thay vì 5 tập như tôi đã rao. Vậy tôi xin rao lại, và xin trân trọng mời bạn đọc cùng tôi đi về dĩ vãng. Thị Trấn Giữa Đàng, Mùa Đông 1989 ***   Tôi ra đời tại nhà hộ sinh ở số 40 Rue Takou (phố Hàng Cót) Hà Nội vào lúc 1 giờ 15 sáng ngày 05 tháng 10 năm 1921, theo âm lịch là ngày mùng 5 tháng 9 (nhuận) năm Tân Dậu. Trước đó vài giờ, mẹ tôi còn đang ôm bụng ngồi đánh tổ tôm với mấy bà bạn và với Bác Hàn Làng Vẽ. Mẹ tôi vừa ù xong ván bài tổ tôm thì dở dạ và người nhà vội vàng đưa vào nhà đẻ. Do đó, khi tôi lớn lên, mỗi lần gặp Bác Hàn là bác nhắc tới chuyện ván bài tổ tôm và gọi tôi là thằng Tôm. Ai ngờ bây giờ về già, tôi cũng trở thành một thứ Uncle Tom. Tuy luôn luôn đắc ý cho rằng mình ra đời trong một canh bạc thắng của mẹ, nhưng khi lớn lên thằng Tôm này lại khoái với cái tên tự do chính mình đặt ra là Mộng Vân. Vì sao? Vì trong một lúc quá yêu Tôm, mẹ buột miệng nói rằng đã nằm mơ thấy những đám mây trong thời kỳ có mang... Lại cũng là một cái tên tiền định. Thằng Tôm sẽ như mây, lang thang suốt đời. Và khi du nhập vào nghề hát rong thì đụng ngay một đoàn hát Cải Lương mang tên Gánh Mộng Vân. Ngoài hai tên hiệu đó, cái tên thật -- rất quan trọng vì là tên cúng cơm -- cha mẹ đặt cho khi tôi vừa chào đời, tuy nó chẳng ngộ nghĩnh hay thơ mộng gì cho lắm, nhưng khi tôi trở thành ca sĩ của một gánh hát rong và chỉ dùng chữ họ và chữ đệm để cho khán giả dễ nhớ tên thì... cái tên cúng cơm đó biến mất. Ngay chị ruột tôi, về sau, cũng chỉ gọi tôi bằng tên đệm mà thôi. Giống như là có một sự quên tên hay kiêng tên vậy. Có điều chắc chắn là tôi đã ra thoát được tục lệ từ xưa của người Việt là thường đặt những cái tên rất xấu xí cho con cái để ma quỷ không thèm bắt đi như: (xin lỗi) thằng Buồi, thằng Đít vân vân... Bố tôi là Phạm Duy Tốn, được người đời biết như là một nhà báo, một nhà văn đã từng tiếp súc với văn hóa Âu Tây và đã không còn là một nhà nho thuần túy nữa, nhưng khi bố tôi đặt tên cho con cái thì đều dựa vào chữ nho cả. Tên của ông cũng như tên của các con đều là tên của những đức tính và nếu viết bằng chữ nho thì chữ nào cũng nằm trong bộ ngôn, nghĩa là bộ chữ thuộc vào những hạng người thích ăn to nói lớn. Anh cả của tôi mang tên Khiêm, tới hai người chị là Thuận và Trinh, rồi tới người anh hơn tôi 2 tuổi là Nhượng. Hai người anh trong thực tế sẽ sống bằng nghề ăn nói, họ đều là những ông thầy dạy học. Nhưng họ đều giống tôi ở chỗ tính nết sẽ không như cái tên bố đã đặt cho. Ông Khiêm nhiều khi có vẻ thiếu khiêm cung. Ông Nhượng không hẳn lúc nào cũng nhường nhịn em nhỏ. Còn tôi, với cái tên Cẩn, nếu suốt đời đã sống nhờ chữ ''ngôn'' trong cái tên thì trái với điều mong muốn của bố tôi, chẳng bao giờ tôi thấy trong tôi có được một sự cẩn trọng tối thiểu! Tuy vậy, về sau tôi cũng học mót bố tôi trong việc đặt tên cho tám đứa con. Chúng đều phải mang những cái tên tốt đẹp như: Quang, Minh, Hùng, Cường, Hiền, Thảo, Đức, Hạnh. Tôi đã thừa hưởng tinh thần hướng thượng của bố tôi vậy. Mời các bạn đón đọc Hồi ký Phạm Duy của tác giả Phạm Duy.
Miền Đất Hứa
Cùng với hồi ký Chất Michelle của cựu đệ nhất phu nhân Michelle Obama, First News - Trí Việt vừa giao dịch thành công bản quyền hồi ký A Promised Land (tạm dịch: Miền đất hứa) của cựu Tổng thống Barack Obama. Sách đã được phát hành hơn 3 triệu bản tại Mỹ trong lần xuất bản đầu tiên và sẽ ra mắt độc giả Việt Nam trong thời gian sớm nhất.   Ngày 17-11, dù dịch Covid-19 vẫn đang bùng phát mạnh tại Mỹ nhưng hồi ký Miền đất hứa của cựu Tổng thống Barack Obama vẫn trở thành tâm điểm chú ý của dư luận. Ngay trong lần in đầu tiên, cuốn sách đã phát hành được hơn 3 triệu bản, ngay lập tức tạo nên cơn sốt với hơn 890.000 bản được bán trong ngày đầu tiên phát hành.   Hồi ký Miền đất hứa dày 768 trang, là tập đầu tiên trong bộ hai tập sách của cựu Tổng thống Barack Obama. Tác phẩm viết về những bước đầu trong sự nghiệp chính trị của cựu Tổng thống Mỹ, chiến dịch tranh cử tổng thống năm 2008 của ông và kết thúc tại sự kiện cái chết của trùm khủng bố Osama bin Laden năm 2011.     Tại Mỹ, NXB Penguin Random House đã dự đoán số người đặt mua sách rất lớn nên đã in 3 triệu bản sách tại thị trường Mỹ. Để dự phòng số đơn hàng tăng cao hơn, nhà xuất bản này đã thêm phương án đặt in thêm một triệu bản tại Đức và sắp xếp vận chuyển trên ba con tàu, 112 container để đưa về Mỹ.   Sau ngày 17-11, tập 1 của hồi ký sẽ được phát hành tại nhiều nước trên thế giới, chuyển ngữ sang 25 thứ tiếng -  trong đó có tiếng Việt, tiếng Tây Ban Nha, tiếng Trung, tiếng Ả Rập, tiếng Czech, tiếng Phần Lan.   Ông bà Obama đã bán bản quyền những cuốn hồi ký của mình cho đơn vị xuất bản tại Mỹ với giá lên đến 65 triệu USD và gây được những thành công vang dội. Chỉ riêng cuốn hồi ký nổi tiếng của cựu đệ nhất phu nhân Michelle Obama đã bán được hơn 8,1 triệu bản, tính riêng tại Mỹ và Canada cho tới thời điểm này. Sách cũng tạo nên một hiện tượng xuất bản tại Việt Nam về thể loại hồi ký phu nhân nguyên thủ thế giới sau hồi ký Hilary Clinton, cũng do First News - Trí Việt chuyển ngữ phát hành ở Việt Nam.   Năm ngoái, First News - Trí Việt đã tham gia đấu giá Royalty Auction quốc tế, vượt qua hàng chục NXB trong nước để mua bản quyền hai cuốn hồi ký Chất Michelle và Miền đất hứa để xuất bản hai tác phẩm này bằng tiếng Việt.   Được biết, hiện tại First News - Trí Việt đã nhận được đầy đủ file cuốn hồi ký gây sốt của cựu Tổng thống Obama từ NXB Penguin Random House - nơi nắm giữ bản quyền tác phẩm, từ New York chuyển về. Dự kiến, hồi ký của cựu Tổng thống Obama sẽ được First News biên dịch và xuất bản để phục vụ bạn đọc Việt Nam trong thời gian sớm nhất. *** Tôi bắt đầu viết quyển sách này ngay sau khi kết thúc nhiệm kỳ tổng thống của tôi — sau khi Michelle và tôi lên máy bay Không Lực Một lần cuối và đi du lịch về phía Tây trong một kỳ nghỉ dài hạn. Tâm trạng trên máy bay buồn vui lẫn lộn. Cả hai chúng tôi đều kiệt quệ cả về thể chất và tinh thần, không chỉ bởi công sức của tám năm trước mà còn bởi kết quả bất ngờ của một cuộc bầu cử trong đó một người hoàn toàn phản đối tất cả những gì chúng tôi ủng hộ đã được chọn làm người kế nhiệm của tôi. Tuy nhiên, sau khi hoàn thành chặng đường của cuộc đua, chúng tôi hài lòng khi biết rằng chúng tôi đã làm hết sức mình — và dù tôi đã hụt hẫng với tư cách là tổng thống, bất kỳ dự án nào tôi mong muốn nhưng không hoàn thành, đất nước bây giờ đang ở trong tình trạng tốt hơn so với khi tôi bắt đầu. Trong một tháng, Michelle và tôi ngủ muộn, ăn tối nhàn nhã, đi bộ đường dài, bơi ở biển, đi mua sắm, bồi đắp tình bạn, tìm lại tình yêu của chúng tôi và lên kế hoạch cho một hành động thứ hai ít biến cố hơn nhưng hy vọng không kém phần thỏa mãn. Và vào thời điểm tôi đã sẵn sàng trở lại làm việc và ngồi xuống với cây bút và tập giấy màu vàng (tôi vẫn thích viết mọi thứ bằng tay, nhận thấy rằng một chiếc máy tính cung cấp cho ngay cả những bản nháp thô nhất của tôi một độ mượt mà và khiến những suy nghĩ nửa vời trong chiếc mặt nã của sự ngăn nắp) , tôi đã phác thảo rõ ràng về cuốn sách trong đầu. Đầu tiên và quan trọng nhất, tôi hy vọng sẽ tái hiện trung thực thời gian tại vị — không chỉ là bản ghi chép lịch sử về các sự kiện quan trọng đã xảy ra trên đồng hồ của tôi và các nhân vật quan trọng mà tôi đã tương tác mà còn là bản tường thuật về một số mặt chính trị, kinh tế và sự giao thoa văn hóa đã giúp xác định những thách thức mà chính quyền của tôi phải đối mặt và những lựa chọn mà nhóm của tôi và tôi đã đưa ra để đối phó. Nếu có thể, tôi muốn cung cấp cho người đọc cảm giác trở thành tổng thống của Hoa Kỳ là như thế nào; Tôi muốn kéo bức màn lại một chút và nhắc nhở mọi người rằng, đối với tất cả quyền lực và sự phô trương của nó, chức vụ tổng thống vẫn chỉ là một công việc và chính phủ liên bang của chúng tôi là một doanh nghiệp con người như bao doanh nghiệp khác, và những người đàn ông và phụ nữ làm việc ở Nhà Trắng trải nghiệm sự kết hợp hàng ngày với sự hài lòng, thất vọng, xích mích trong văn phòng, những rắc rối và thành tích nhỏ như những người khác. Cuối cùng, tôi muốn kể một câu chuyện cá nhân hơn có thể truyền cảm hứng cho những người trẻ đang cân nhắc cuộc sống phục vụ công cộng: sự nghiệp chính trị của tôi thực sự bắt đầu như thế nào với việc tìm kiếm một vị trí phù hợp, một cách giải thích những khía cạnh khác nhau của tôi - nâng cao di sản, và làm thế nào mà chỉ bằng cách nâng toa xe của tôi đến một thứ lớn hơn bản thân tôi mà cuối cùng tôi đã có thể định vị một cộng đồng và mục đích cho cuộc đời mình. Tôi nghĩ rằng tôi có thể làm tất cả những điều đó trong khoảng năm trăm trang. Tôi dự kiến sẽ được thực hiện trong một năm. Công bằng mà nói thì quá trình viết không diễn ra chính xác như tôi đã định. Bất chấp những ý định tốt nhất của tôi, cuốn sách vẫn tiếp tục phát triển về độ dài và phạm vi — lý do tại sao cuối cùng tôi quyết định chia nó thành hai tập. Tôi đau đớn nhận ra rằng một nhà văn có năng khiếu hơn có thể đã tìm ra cách để kể cùng một câu chuyện với sự ngắn gọn hơn (sau cùng, văn phòng tại nhà của tôi ở Nhà Trắng nằm ngay cạnh Phòng ngủ Lincoln, nơi có một bản sao của quyển Diễn văn Gettysbur g nằm bên dưới tủ kính). Nhưng mỗi lần như vậy tôi lại ngồi viết — cho dù đó là mô tả các giai đoạn đầu của chiến dịch của tôi, hay cách xử lý của chính quyền của tôi đối với cuộc khủng hoảng tài chính, hoặc các cuộc đàm phán với người Nga về kiểm soát vũ khí hạt nhân, hay các lực lượng dẫn đến Mùa xuân Ả Rập — Tôi thấy tâm trí mình đang chống lại một câu chuyện tuyến tính đơn giản. Thông thường, tôi cảm thấy có nghĩa vụ cung cấp ngữ cảnh cho các quyết định mà tôi và những người khác đã đưa ra và tôi không muốn chuyển nó thành chú thích cuối trang hoặc chú thích cuối sách (tôi ghét chú thích cuối trang và chú thích cuối sách). Tôi phát hiện ra rằng không phải lúc nào tôi cũng có thể giải thích động cơ của mình chỉ bằng cách tham khảo hàng đống dữ liệu kinh tế hoặc nhớ lại một cuộc họp báo đầy đủ ở Phòng Bầu Dục, vì chúng đã được định hình bởi một cuộc trò chuyện mà tôi đã có với một người lạ trên đường vận động, một chuyến thăm bệnh viện quân y, hay bài học thời thơ ấu mà tôi đã nhận được từ mẹ tôi nhiều năm trước đó. Ký ức của tôi lặp đi lặp lại những chi tiết dường như ngẫu nhiên (cố gắng tìm một vị trí kín đáo để hút thuốc buổi tối; nhân viên của tôi và tôi cười sảng khoái khi chơi bài trên Không Lực Một) đã ghi lại được, theo cách mà hồ sơ công khai không bao giờ có được, kinh nghiệm sống trong tám năm tôi ở Nhà Trắng   Mời các bạn đón đọc Miền Đất Hứa của tác giả Barack Obama.
Cha Tôi - Tổng Thống Thứ 41 Của Hoa Kỳ
Cuốn sách kể về cuộc sống và sự nghiệp của Tổng thống George H. W. Bush, qua đó tiết lộ về ảnh hưởng của ông đối với cuộc đời Bush con sau này, từ thời thơ ấu ở Texas cho đến khi bước vào con đường chính trị và trải qua hai nhiệm kỳ tổng thống. Đây là cuốn sách mà George Bush - Tổng thống thứ 43 của Hoa Kỳ - muốn bày tỏ tình yêu, sự tôn trọng và biết ơn đối với người cha kính yêu. Trong Cha tôi: Tổng thống thứ 41 của Hoa Kỳ, George Bush đã vẽ lên bức chân dung của người cha bằng tình cảm trìu mến. Ông không chú trọng viết về thời kỳ Bush-cha ngồi trong Nhà Trắng mà chỉ xoay quanh những điều mà ông gọi là “câu chuyện tình yêu” về tình phụ tử: “Nhiều năm qua đi, tôi đồ rằng sẽ có rất nhiều sách phân tích về George Herbert Walker Bush, về con người và nhiệm kỳ tổng thống của ông. Nhiều cuốn trong đó có thể theo chiều hướng khách quan. Nhưng cuốn sách này thì không. Đây là một cuốn truyện tình - chân dung về một cá nhân phi thường, người mà tôi được ban phước lành để gọi là Cha. Tôi không có ý định sẽ miêu tả toàn bộ các khía cạnh trong cuộc sống của ông hoặc những năm ông tại nhiệm. Tôi thật sự hy vọng sẽ thể hiện được lý do tại sao George H.W. Bush thật sự là một vị tổng thống tuyệt vời và là một người cha còn tuyệt vời hơn nữa...” “George W. Bush đã cho độc giả thấy quan điểm hết sức độc đáo về những phẩm chất cá nhân và nguyên tắc đã làm cho cuộc sống phục vụ đất nước và gia đình vô cùng lạ thường của George H. W. Bush thêm sinh động”- Maya Mavjee, nhà xuất bản Crown Publishers, cho biết. *** George Walker Bush (còn gọi là George Bush con, Bush Jr hoặc là Bush 43, sinh ngày 6 tháng 7 năm 1946) là một chính trị gia, doanh nhân, và là Tổng thống thứ 43 của Hoa Kỳ tại nhiệm từ năm 2001 đến năm 2009. Ông là thành viên Đảng Cộng hoà và từng đảm nhiệm chức Thống đốc thứ 46 của tiểu bang Texas từ năm 1995 đến năm 2000. Ngoài ra, ông còn là thành viên của một gia đình có quyền thế ở nước Mỹ, Gia tộc Bush, với cha của ông, George H. W. Bush, là Tổng thống thứ 41 của Hoa Kỳ tại nhiệm năm 1989 đến năm 1993. Bush là con trai cả của Barbara và George H. W. Bush, và là người con trai thứ hai trở thành Tổng thống Mỹ sau cha mình (người đầu tiên là John Quincy Adams). Sau khi tốt nghiệp Đại học Yale năm 1968 và Trường Kinh doanh Harvard năm 1975, ông làm việc trong ngành dầu khí. Bush kết hôn với Laura Welch vào năm 1977. Khoảng một năm sau khi kết hôn, Bush tranh cử dân biểu Hạ viện Hoa Kỳ. Tuy nhiên, ông đã thất bại trong cuộc bầu cử lần đó. Vài năm sau, Bush trở thành đồng sở hữu một đội bóng chày mang tên Texas Rangers. Trong cuộc bầu cử Thống đốc bang Texas năm 1994, ông đã vượt qua vị Thống đốc lúc bấy giờ là Ann Richards để trở thành người lãnh đạo mới của tiểu bang Texas. Bush được bầu làm Tổng thống Hoa Kỳ năm 2000 sau khi đánh bại vị Phó Tổng thống đương nhiệm đến từ Đảng Dân chủ Al Gore. Đây là một chiến thắng khá sát sao và gây nhiều tranh cãi nhất lịch sử khi phải cần đến xét xử của Tòa án Tối cao Hoa Kỳ để chấm dứt việc kiểm phiếu lại ở tiểu bang Florida. Đồng thời, cũng với chiến thắng này, Bush trở thành người thứ tư được bầu làm Tổng thống với số phiếu phổ thông ít hơn đối thủ. Để đáp trả cuộc tấn công khủng bố ngày 11 tháng 9, Bush đã phát động cuộc "Chiến tranh chống khủng bố" và mở màng chiến dịch này với chiến tranh Afghanistan năm 2001. Vào năm 2003, ông cũng cho tiến hành Chiến tranh Iraq. Trong thời gian làm Tổng thống, Bush đã ký ban hành nhiều điều luật bao gồm các cắt giảm thuế, Đạo luật Yêu nước (Patriot Act), Đạo luật Giáo dục cho Mọi Trẻ em (No Child Left Behind Act), Đạo luật Cấm Phá Thai (Partial-Birth Abortion Act), Đạo luật Hiện đại Hóa Chương trình Bảo hiểm Sức khỏe (Medicare Modernization Act) và tài trợ cho chương trình cứu trợ AIDS mang tên là PEPFAR. Trong kỳ bầu cử Tổng thống năm 2004, Bush đã giành được một chiến thắng sát sao sau khi vượt qua Thượng nghị sĩ của Đảng Dân chủ John Kerry. Sau khi tái đắc cử, Bush đã phải nhận nhiều lời chỉ trích từ nhiều phía trên phổ chính trị (từ các chính trị gia thuộc cả Đảng Dân chủ và Đảng Cộng hòa) vì cách xử lý các vấn đề trong Chiến tranh Iraq, Bão Katrina, cũng như các thách thức khác. Giữa tình hình trên, Đảng Dân chủ đã giành lại quyền kiểm soát Quốc hội trong cuộc bầu cử năm 2006. Vào tháng 12 năm 2007, Hoa Kỳ bước vào thời kỳ suy thoái dài nhất kể từ Chiến tranh Thế giới thứ hai, và thời gian này thường được gọi là thời kỳ "Đại suy thoái". Sự việc này đã khiến chính quyền Bush phải dựa vào sự chấp thuận của Quốc hội cho nhiều chương trình kinh tế nhằm bảo toàn hệ thống tài chính của đất nước. Bush là một trong những tổng thống Hoa Kỳ nhận cả sự mến mộ lẫn không bằng lòng từ người dân. Sau vụ tấn công 11/9, ông có được sự tín nhiệm cao nhất trong lịch sử. Tuy nhiên, khi cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008 xảy ra, mức tín nhiệm lại xuống một trong những ngưỡng thấp nhất trong lịch sử. Bush kết thúc nhiệm kỳ thứ hai của mình vào năm 2009 và trở về Texas. Năm 2010, ông đã xuất bản hồi ký của mình mang tên Decision Points. Thư viện Tổng thống của ông được khai trương vào năm 2013. Mặc dù mức ủng hộ của người dân dành cho Bush đã dần được cải thiện đáng kể từ khi rời nhiệm sở, ông vẫn bị đánh giá là một trong những vị Tổng thống tệ nhất trong các cuộc thăm dò của các nhà sử học. *** ài tháng sau khi chúng tôi rời Nhà Trắng, Laura và tôi đã mời Tim Lawson cùng Phu nhân Dorie McCullogh Lawson đến trang trại của chúng tôi tại Crawford, bang Texas. Tôi đã nhờ Tim - một họa sĩ thực thụ, chứ không phải một người nghiệp dư như tôi - vẽ cảnh quan một số địa điểm mà chúng tôi yêu thích. Khi Tim quan sát các thảo nguyên rộng lớn và những gốc sồi sống trên mảnh đất màu mỡ thì Dorie và tôi nói chuyện về thân phụ của bà, ông David Mc Cullough. Tôi đã nói với bà ấy rằng được gặp thân phụ của bà là một điều đặc biệt trong nhiệm kỳ tổng thống của tôi, ông là một nhà sử học uyên bác và đã được nhận giải Pulitzer cho cuốn tiểu sử về Tổng thống John Adams. Sau khi cung cấp cho tôi một số thông tin về sức khỏe và công việc của thân phụ, Dorie nói rằng, “Ngài nên biết rằng điều mà cha tôi cảm thấy đáng tiếc nhất khi nghiên cứu về John Adams đó là không hề có ghi chép cụ thể nào về ông, bởi con trai ông là John Quincy Adams”. Dĩ nhiên bà ấy biết sự tương đồng giữa tôi và John Quincy: Chúng tôi đều là con trai của hai vị tổng thống và đều trở thành tổng thống. “Vì mục đích lịch sử”, bà ấy nói, “Tôi nghĩ ngài nên viết một cuốn sách về cha mình”. Tại thời điểm này, tôi đang hoàn thành hồi ký về nhiệm kỳ tổng thống của mình. Nhưng ý tưởng của Dorie gieo một hạt giống. Cuối cùng, nó đã đâm chồi nảy lộc thành cuốn sách này. Nhiều năm qua đi, tôi đồ rằng sẽ có rất nhiều sách phân tích về Geore Herbert Walker Bush, về con người và nhiệm kỳ tổng thống của ông. Nhiều cuốn trong đó có thể theo chiều hướng khách quan. Nhưng cuốn sách này thì không. Đây là một cuốn truyện tình - chân dung về một cá nhân phi thường, người mà tôi được ban phước lành để gọi là Cha. Tôi không có ý định sẽ miêu tả toàn bộ các khía cạnh trong cuộc sống của ông hoặc những năm ông tại nhiệm. Tôi thật sự hy vọng sẽ thể hiện được lý do tại sao George H.W. Bush thật sự là một vị tổng thống tuyệt vời và là một người cha còn tuyệt vời hơn nữa. Tôi gửi tình yêu vào cuốn sách này. Tôi hy vọng rằng các bạn sẽ thấy thú vị khi đọc nó. Mời các bạn đón đọc Cha Tôi - Tổng Thống Thứ 41 Của Hoa Kỳ của tác giả George W. Bush.