Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Hồ Sơ Vụ Án Đồ Thật Đồ Giả

Tại tiệm đồ cổ “Kura” toạ lạc giữa khu phố mua sắm Teramachi Sanjo ở Kyoto, có một “chàng trai cố đô” kì lạ với mắt thẩm định và quan sát hết sức tinh tường, đến mức được người ta tặng cho biệt danh “Holmes.” “Không phải đâu Aoi. Mọi người chỉ gọi anh bằng cái tên Holmes vì họ của anh là Yagashira thôi.” Phải. Hán tự gồm chữ Gia và chữ Đầu, nên đọc thành Homes. “.. Ủa, giờ này mà anh vẫn còn đính chính chuyện đấy à?” Đây là ghi chép về những vụ án li kì mà anh Holmes, tên thật là Yagashira Kiyotaka, và tôi, một nữ sinh trung học phổ thông tên là Mashiro Aoi, đã gặp phải tại thành phố Kyoto. *** Yagashira Kiyotaka: Hai mươi hai tuổi. Sinh viên cao học năm nhất Đại học Kyoto. Tên thường gọi là “Holmes”. Cháu trai ông chủ tiệm đổ cổ “Kura” toạ lạc ở Teramachi Sanjo, Kyoto. Cư xử dịu dàng và lịch lãm, nhưng lại sắc sảo đến đáng sợ. Đôi lúc thích bắt nạt người khác, một chàng trai Kyoto “nham hiểm”. Mashiro Aoi: Mười bảy tuổi. Học sinh lớp Mười Một. Chuyển từ thành phố Omiya tỉnh Saitama đến Kyoto sinh sống đã được bảy tháng. Từ một sự việc không lường trước mà bắt đầu làm thêm tại cửa tiệm “Kura”. Vẫn còn vương vấn người yêu cũ ở trường cấp ba ngày trước. *** #độc_giả_review_sách  [HOLMES Ở KYOTO - Mai Mochizuki]  Chắc hẳn khi đọc tiêu đề Holmes ở Kyoto, bất kì ai cũng sẽ liên tưởng tới thám tử Sherlock Holmes lừng danh. Cuốn sách này lại viết về anh chàng Yagashira Kiyotaka 20 tuổi, sinh viên năm nhất đại học Kyoto, có biệt danh là Holmes bởi “sự sắc sảo đến đáng sợ” của anh.  Cuốn sách được viết dựa trên lời kể của cô bé Mashiro Aoi, mười bảy tuổi, học sinh lớp Mười Một. Aoi đã bị Holmes nắm thóp từ lần đầu gặp mặt và tình cờ trở thành nhân viên giúp việc tại cửa hàng đồ cổ của gia đình anh. Từng câu chuyện khác mở ra, kéo theo sau những biến chuyển trong tình cảm của Aoi với sự dịu dàng, lịch lãm nhưng lại sắc sảo đến đáng sợ của Holmes. Những tưởng Holmes cũng là một người siêu phàm, thật bất ngờ khi Aoi khám phá ra được Holmes cũng là một người có quá khứ, giống như Aoi, cũng từng để mất người yêu vào tay của người khác… Điều mình cảm thấy cực kì thích ở cuốn sách này đó là cuốn sách mang đến cho người đọc những cảm nhận hết sức chân thật về văn hóa cũng như lịch sử của Nhật Bản. Bản thân mình là người rất thích đi du lịch, khi đọc cuốn sách mình cảm thấy như đang thật sự được trải nghiệm từng ngóc ngách và nét văn hóa của Nhật.  Cách sử dụng vốn từ trong cuốn sách khá là dung dị, đời thường, cộng thêm các câu chuyện đều rất thực tế, không đẫm máu, không chết chóc, không có những thủ đoạn giết người hay khủng bố như nhiều cuốn sách trinh thám khác, nên cuốn sách mang lại cảm giác dễ chịu gần gũi, đôi lúc khiến người đọc bật cười khi những suy nghĩ của mình bị bóc mẽ bởi lập luận cùng khả năng quan sát tinh tường của Holmes, từ đó mình có thể học hỏi và áp dụng trong cuộc sống hàng ngày. Đặc biệt hơn cả, cuốn sách lấy bối cảnh là ở Kyoto, xoay quanh cửa hàng đồ cổ Kura của nhà Holmes và những nhân vật hết sức nhã nhặn, lịch sự, có đam mê và sở thích rất tao nhã với nghệ thuật cổ, cộng thêm sự am hiểu văn hoá và lịch sử nước nhà của tác giả khiến cho mình có cảm giác rất thanh khiết khi đọc cuốn sách này.  Mình nghĩ đây sẽ là một cuốn sách rất phù hợp cho những ai đang chịu áp lực và muốn giải tỏa stress cũng như những bạn yêu thích Nhật Bản và thích đi du lịch Nhật Bản mà chưa có điều kiện đi như mình. - Review của bạn @Linh Phương *** hi cái nóng ngột ngạt của Kyoto đã dịu đi một chút cũng là lúc kì nghỉ hè kết thúc và một học kì mới lại bắt đầu. Thế nhưng, đám học sinh thì vẫn chưa thoát ra khỏi tâm lí muốn xả hơi. Chúng tôi còn là học sinh lớp Mười Một, sang năm sẽ phải thi đại học rồi, chắc thế nên nhiều người có tâm lí tranh thủ năm nay chơi cho xả láng, vì vậy mà bộ dạng cháy nắng của đám bạn cùng lớp cứ liên tục hiện lên trước mắt tôi. Đến giờ nghỉ trưa, bầu không khí trong lớp càng trở nên uể oải. “Hảảả, vậy là Aoi đã chấm dứt hẳn với bạn trai cũ rùi hở?” Người vừa la lên với vẻ kinh ngạc là Miyashita Kaori, từ lớp bên cạnh sang chơi. Cậu ấy chơi thân với tôi sau “vụ lá thư đe doạ gửi đến Saiodai” và là người duy nhất trong số bạn bè ở trường này biết về anh Holmes cùng quá khứ của tôi. Tiện nói luôn, giờ tôi với cậu ấy đã chuyển sang gọi thẳng tên nhau. Chúng tôi hiện đang ngồi bên ô cửa sổ thoáng gió và cập nhật cho nhau tình hình gần đây sau một thời gian dài không gặp. “... Ừ, mặc dù dây dưa cũng hơi lâu.” Sau khi kể lại cho Kaori chuyện xảy ra vào đêm Yoiyoiyama đợt lễ hội Gion, tôi cụp mắt xuống. ... Chuyện xảy ra vào mùa hè năm ngoái. Vì hoàn cảnh gia đình mà tôi phải chuyển từ Saitama đến Kyoto sinh sống. Ở Saitama, tôi có một cậu bạn trai, là người tôi đã hẹn hò từ hồi cấp hai. Như một lẽ đương nhiên, chúng tôi phải yêu xa trong vài tháng. Không lâu sau đó, cậu ấy cuối cùng cũng nói lời chia tay. Ban đầu tôi đã chấp nhận rằng xa mặt cách lòng là chuyện không thể nào tránh khỏi. Nhưng lí do chia tay thật sự lại là vì cậu ấy đã bắt đầu hẹn hò với bạn thân của tôi... Biết được sự thật ấy, tôi vô cùng choáng váng. Tôi muốn lập tức quay về Saitama để xác minh mọi chuyện, vì thế mà định bán đi mấy bức tranh cuộn treo tường của người ông đã khuất làm chi phí đi đường. Thế là vào một ngày tháng Ba, khi tiết trời vẫn còn se lạnh, tôi đã ghé vào tiệm đồ cổ “Kura” trong khu phố mua sắm Teramachi Sanjo. Tại đó, tôi đã gặp gỡ một chàng thanh niên kì lạ mang tên Yagashira Kiyotaka với biệt danh là “Holmes”. “Aoi, nếu được, em có muốn làm việc ở đây không? Thay vì lén lút bán bảo vật của gia đình đi để lấy tiền, em nghĩ thế nào về việc lao động chân chính nhằm kiếm phí tàu xe?” Bằng khả năng quan sát tinh tường đến đáng sợ, anh Holmes đã đoán ra mọi ý định của tôi và mời tôi đến làm thêm ở tiệm đồ cổ nhà mình. Sau một thời gian tiếp xúc với chàng trai kì lạ ấy cùng những tác phẩm nghệ thuật tuyệt đẹp, vết thương trong lòng tôi dần được chữa lành. Cả cậu bạn trai cũ lẫn cô bạn thân kia đều đã là chuyện quá khứ. Khi ấy, tôi đã định từ bỏ việc quay trở lại Saitama. Vào đêm Yoiyoiyama của lễ hội Gion... Tôi đã phải đối mặt với bạn thân và bạn trai cũ khi họ tới đây từ Saitama theo chương trình dã ngoại của trường. Đương nhiên là không hề có cách giải quyết dễ dàng cho mọi chuyện. Bạn bè trong nhóm ai cũng về phe bạn thân và bạn trai cũ của tôi, trong khi tôi một mình vật lộn với nỗi nhục nhã và đau đớn như đang ngồi trên bàn chông vậy. Người đã đến giải cứu tôi khi ấy cũng chính là anh Holmes. Anh ấy đã kéo mạnh tay tôi, dắt tôi khỏi nơi đó... khiến tôi có cảm giác như mình thật sự được cứu rỗi. “Khóc cho hết đi nha, Aoi đã gắng lắm rùi mờ.” Bàn tay to lớn nhẹ nhàng vỗ lưng tôi. Mỗi lần hồi tưởng lại cảnh mình khóc trong vòng tay anh Holmes, dưới ánh sáng của những chiếc đèn lồng... tôi lại thấy nóng râm ran trong lồng ngực. “Nè, vậy là bồ mê người ta rồi hén?” Kaori đột nhiên nhòm vào mặt tôi, khiến tim tôi nảy thót lên một cái. “H-Hả?” “Ảnh đã cứu bồ khỏi một bàn thua trông thấy còn chi? Lại điển trai như vậy, có cảm thấy ngây ngất vì ảnh cũng hổng kì đâu à. Chị hai nhà tui cũng hâm mộ anh Holmes lắm á.” “C-Còn Kaori thì sao?” Tôi ngần ngừ hỏi. Kaori liền nhăn nhó ra mặt, rồi lắc đầu. “Tui chịu chết. Ấn tượng rằng ảnh đáng sợ và khó lường trong tui quá mạnh. Chị hai suốt ngày mơ mộng kêu ảnh đẹp trai. Chứ tui thì thực lòng ớn cái kiểu nhìn thấu mọi chuyện của ảnh lắm.” Cũng phải, trong vụ Saiodai, những việc Kaori làm đều bị anh Holmes phát hiện ra, cảm thấy sợ có lẽ cũng chẳng có gì vô lí. “Thế Aoi thấy sao?” “N-Nói thật là cũng hơi xao động... Có điều, tớ đã trải qua một thời gian dài đau khổ vì bạn trai cũ, nên giờ cũng không hiểu rõ lắm về cảm xúc của mình.” “Cũng phải. Cơ mà cả mùa hè bồ ở cạnh anh Holmes thì phải rút ngắn được thêm khoảng cách chứ?” “Không, anh Holmes theo ông chủ ra nước ngoài suốt kì nghỉ hè, còn tớ thì chỉ trông cửa hàng thôi.” “Ông chủ là ông Yagashira Seiji ấy hả?” Ông nội của anh Holmes, chuyên gia giám định cấp quốc gia Yagashira Seiji có vẻ được khá nhiều người trong thành phố này biết đến. “Ừ, nghe nói ông chủ nhận rất nhiều công việc ở nước ngoài, hình như đợt nghỉ hè nào cũng dẫn anh Holmes đi đây đi đó.” “Ờ, phải rồi, anh Holmes là người kế nghiệp ông ấy mà ha” Kaori gật gù. Cụm từ “kế nghiệp” quả nhiên không lệch đi đâu được. Là người có tầm ảnh hưởng quốc tế trong giới giám định mĩ thuật hiện nay, có vẻ ông chủ đang cố gắng hết sức để đứa cháu kế nghiệp mình là anh Holmes được thật nhiều người trong ngành biết đến. Theo lời anh Holmes thì đó không phải chuyện mới bắt đầu gần đây, mà từ xưa, hễ được nghỉ dài là anh ấy lại bị ông lôi đi nước ngoài, không có thời gian học hành gì cả. Nhắc mới nhớ, hồi mới gặp anh ấy cũng kể mình “toàn đi chơi với ông nội nên không vào được hệ đại học của Đại học Kyoto”, hoá ra là ám chỉ chuyện này. “Nên là trong thời gian nghỉ hè, tớ đã cùng quản lí trong tiệm Kura.” “Chẹp, mùa hè của bồ coi bộ hổng có chút hơi thở lãng mạn nào sất. Ngồi coi tiệm với bác quản lí thì nhạt nhẽo thí mô à.” “Tớ thấy trong tiệm cùng bác quản lí cũng thoải mái lắm.” Quản lí tuy ít nói nhưng rất tốt bụng, tôi rất thích khoảng thời gian được ở cùng bác ấy. “Vậy là một mình bác quản lí phải trong cả cửa tiệm lẫn nhà riêng, coi bộ cũng cực ha... Nhắc mới nhớ, hổng biết cái anh Holmes đó sống trong căn nhà như thế nào ta?” Tôi chỉ biết chớp mắt trước câu hỏi từ trên trời rơi xuống của Kaori. “Nhà á?” “Ảnh dầu sao cũng là người trong giới mĩ nghệ cổ, nên tui có cảm giác ảnh sẽ sống trong một căn nhà kiểu Nhật có kiến trúc xưa cũ hay đại loại thế?” “Ừ, hợp lí. Anh ấy lại còn đặc sệt chất trai Kyoto, dễ là sống trong nhà kiểu Nhật[6] truyền thống lắm.” Tôi gật đầu tán thành. Kaori bỗng nhíu mày nhìn tôi với vẻ khó hiểu. “Trai Kyoto là sao? Phải là ‘nam nhân Kyoto’ chứ?” Cậu ấy đặt câu hỏi giống hệt anh Holmes. Dân Kyoto xem ra hơi bị nhạy cảm khi người khác tuỳ tiện cải biên những từ ngữ có từ xưa của họ. “Ừ, tớ biết, cơ mà tớ thấy ‘trai Kyoto’ dùng để diễn tả anh Holmes hợp hơn là ‘nam nhân Kyoto’ ấy. Cảm giác nhẹ nhàng hơn nam nhân Kyoto một chút, kiểu thế.” “... Ờ, nghe bồ biểu tui mới thấy đúng là có thể cảm nhận được sắc thái đó thiệt.” Cậu ấy gật gù, có vẻ đã thông. Xem ra người Kyoto vẫn sẽ chấp nhận sự cải biên miễn là họ hiểu được nó. “Mà vậy nghĩa là bồ hổng biết nhà anh Holmes ở đâu hử?” Kaori khơi lại chủ đề, khiến tôi sực tỉnh và ngẩng mặt lên. “Ừ. Tớ chưa từng đến hay trông thấy nhà anh ấy.” Chỉ là, tôi đã từng nghe qua “tình trạng nơi ở” của gia đình Yagashira. Nhà ông chủ ở gần chùa Ginkaku-ji, quản lí sống trong một khu chung cư ở Yasaka, còn anh Holmes vừa đi lại giữa hai căn nhà ấy vừa coi sóc chúng. Đối với anh Holmes, trạng thái đó giống như anh có hai căn nhà vậy. “Vậy sao? Ra là cả nhà họ hổng có sống chung.” Sau khi nghe tôi kể về tình trạng nơi ở của gia đình Yagashira, Kaori ồ lên, hai tay khoanh trước ngực với vẻ hứng thú. “Mà sắp tới tớ được mời đến nhà ông chủ đấy.” “Thích vậy. Về nhớ tả lại cho tui nghe xem nhà cửa thế nào nha.” Nhưng khi nghe tôi nói tiếp rằng, “Hôm ấy tớ muốn Kaori đi cùng tớ nữa cậu ấy bật ra một tiếng “Hả?” lạc điệu, rồi lắc đầu nguây nguậy như muốn cự tuyệt bằng toàn bộ cơ thể. “Tui á? Tại sao? Chịu thui, tui hổng muốn đụng mặt anh Holmes đâu.” “Ơ, tại sao?” “Cảm giác làm gì cũng sẽ bị ảnh bắt bài, sợ lắm.” Kaori phản đối với vẻ mặt hết sức nghiêm túc, khiến tôi bất giác phì cười. “Có thể anh ấy sẽ bắt bài được cậu thật, nhưng không sao đâu.” “Rõ ràng là sẽ bị bắt bài mờ, hãi chết đi được. Mà sao Aoi vẫn tỉnh queo vậy? Bị ảnh đi guốc trong bụng mà hổng thấy ớn sao?” “T-Tớ à? Ban đầu có hơi rợn gáy thật, nhưng dạo này cũng quen quen rồi. Có thể nói rằng nhanh hiểu ý nhau hơn kể ra cũng là chuyện tốt?” “Nhanh hiểu ý nhau là do bồ quen quá thành chai rùi đó. Mà sao tự dưng lại rủ tui?” Kaori thấy thắc mắc cũng dễ hiểu thôi. “Chuyện là... ngày hôm qua...” Khi tôi bắt đầu chậm rãi kể, Kaori nuốt nước bọt lắng nghe. Mời các bạn mượn đọc sách Hồ Sơ Vụ Án Đồ Thật Đồ Giả của tác giả Mai Mochizuki & Dương Dương (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Đảo Ngục Môn
Sau chiến tranh, trên chuyến tàu xuất ngũ, một đồng đội của Kindaichi đã chết như cá ươn giữa bầu không khí hầm hập ngột ngạt. Trước khi trút hơi thở cuối cùng, cậu có trăng trối rằng mình ra đi thế này, mấy cô em ở nhà cũng sẽ bị giết mất. Cậu nhờ Kindaichi đi ngăn chặn thảm họa hộ. Nhận lời bạn, Kindaichi đã tìm đến nơi, mới biết gia đình họ là hậu duệ cướp biển, sinh sống trên một hòn đảo ngoài khơi với cái tên “cửa địa ngục”. Mặc dù đã cảnh giác từ đầu, anh vẫn không ngăn được những cái chết thảm thương, kì quái, nhằm vào những cô gái trẻ đẹp của gia đình bạn. Bị đánh lạc hướng, gián tiếp tác động vào vòng quay của bánh xe định mệnh, sự xuất hiện của Kindaichi không ngờ lại là lời cáo chung cho dòng họ có gia huy đầu quỷ rùng rợn ấy. Đảo Ngục Môn đã có ảnh hưởng rất lớn với nhiều tác giả thế hệ sau, trở thành một kim tự tháp rực rỡ huy hoàng trong dòng văn ly kì trinh thám! *** [Review] Đảo Ngục Môn - Yokomizo Seishi -------------- Vụ án mạng trên đảo địa ngục Đảo Ngục Môn là cuốn sách trinh thám cổ điển thuần suy luận. Giữa một bối cảnh khép kín, 3 án mạng đã xảy ra theo cách rùng rợn nhất, để rồi khi hung thủ lộ diện, tất cả đều phải kinh hãi bởi sự thật ẩn giấu đằng sau Kindaichi là thám tử truyện tranh nổi tiếng đã làm mưa làm gió trên mạng, còn Đảo Ngục Môn lại là câu chuyện kể về một thám tử Kindaichi khác, đúng hơn là ông nội của Kindaichi phiên bản truyện tranh. Bối cảnh xảy ra thảm án trên Đảo Ngục Môn là thời hậu chiến tranh thế giới thứ I, khi Nhật thua trận và trong bối cảnh u uất của những người lính chiến bại trở về, ở quê nhà nơi đón tiếp họ cũng chẳng hề yên bình hơn Nhận được lời ủy thác của một người bạn, cũng đồng thời là người lính, anh chàng Kindaichi đến Đảo Ngục Môn để ngăn chặn một vụ án mạng đang có nguy cơ xảy ra, bởi theo lời trăng trối của anh chàng kia thì 3 cô em gái của anh ta đang bị lưỡi hái tử thần kẹp chặt. Nhưng Kindaichi không biết rằng, chính thời điểm anh mang giấy báo tử của người bạn anh về hòn đảo Địa Ngục ấy, cũng là lúc kích hoạt phương án giết người đã được kẻ thủ ác nung nấu từ rất lâu Một câu chuyện về sự mê tín Tín ngưỡng là một vấn đề nhạy cảm của bất kỳ dân tộc nào. Tuy nhiên cuồng tín lại là một vấn đề khác, nguy hiểm hơn nhiều. Ở một nơi cách ly với thế giới bên ngoài, việc tin tưởng mù quáng sẽ dẫn tới những đại họa không thể tin nổi Như Kindaichi đã phải thốt lên “Dân trên đảo này, họ điên cả rồi!” Việc 3 nạn nhân, kẻ bị treo ngược thi thể lên cây, người bị chôn dưới chiếc chuông chùa, người bị bóp cổ ngay trên nhà cầu nguyện, với những cách thức giết người man rợ theo một phương án không thể tin nổi như vậy, ít người tin rằng đây là hành vi của những kẻ không thuộc một giáo phái nào đó. Đến khi Kindaichi bóc trần sự thật trần trụi, độc giả mới có thể ngỡ ngàng, bởi sợi chỉ đỏ dẫn dắt hành vi tội ác ở đây chính là niềm tin! Có vẻ như là trinh thám cổ điển nên tác giả bỏ qua hết mọi vấn đề về tâm lý tội phạm. Với những dòng máu lạnh xuống tay giết người, lại là sát nhân lần đầu ra tay, không khỏi kinh hãi và bỡ ngỡ. Nhưng tác giả đã miêu tả cứ hệt như những sát thủ chuyên nghiệp! Lạnh lùng và man rợ đến khó tin. Đấy chỉ có một lý do để giải thích: Tín ngưỡng! Một niềm tin mù quáng có thể gây ra hàng loạt hành vi điên rồ chết người! Hậu quả của trọng nam khinh nữ, dân trí thấp & môi trường sống Vấn đề chia sẻ gia tài, tìm người thừa kế của những gia tộc khổng lồ sẽ luôn khiến báo chí tốn nhiều giấy mực trong bất kỳ thời đại nào. Và cũng là cảm hứng bất tận cho những nhà văn. Trong câu chuyện này, người thừa kế gia sản địa vị của ông chủ tàu giàu có nhất Đảo Địa Ngục là nòng cốt để đại họa xảy ra. Nếu như dân trí cao, có lẽ các bậc trưởng giả ngày xưa đã có một cái nhìn vẹn toàn hơn, công bằng hơn cho những thế hệ kế tiếp. Nếu dân trí cao, người dân đã không đặt niềm tin quá nhiều vào tôn giáo, và họ đã có thể cứu mạng được nhiều nạn nhân vô tội Và cuối cùng là môi trường sống. Có lẽ một khu vực khép kín chưa bao giờ là nơi tốt lành cho những tâm hồn tội lỗi, ngay cả đó là Đảo Địa Ngục Một cuốn sách dễ đọc, nhưng không mang nhiều giá trị trinh thám Thuộc danh mục trinh thám cổ điển, tuy nhiên Đảo Ngục Môn không mang nhiều chất trinh thám. Suy luận của Kindaichi mang nhiều sự may mắn. Bắt một tù nhân trong cái nhà giam khổng lồ mà anh ấy vẫn không thể lần ra sớm hơn, một cảm giác yếu đuối và bất lực. Đáng lẽ cuốn sách đã có thể tốt hơn nếu miêu tả cẩn trọng hơn về tâm lý tội phạm. Đáng tiếc điều đó đã không xảy ra. Và bởi vì thế, dù đây là một cuốn sách miêu tả đặc sắc, rùng rợn về những án mạng, nhưng chưa thể trở thành một “món ăn ngon miệng” cho những độc giả yêu truyện trinh thám vốn ngày một khắt khe & khó tính hơn. *** Nhận lời trăng trối của Kito Chima – đồng đội mình, Kindaichi đã tìm đến gia đình của bạn. Khi tìm đến thì Kindaichi mới biết gia đình họ là hậu duệ cướp biển, sinh sống trên một hòn đảo ngoài khơi với cái tên Đảo Ngục môn. Mặc dù đã cảnh giác từ đầu, Kindaichi vẫn không ngăn được những cái chết thảm thương, kì quái nhằm vào những cô gái trẻ đẹp của gia đình bạn… ĐẢO NGỤC MÔN   Cốt truyện khá hấp dẫn. Tuy phần khởi đầu khá chậm, nhưng không hề dài dòng hay rườm rà. Mình cũng khá ấn tượng bởi cách thức giết người của hung thủ, mỗi nạn nhân một kiểu chết khác nhau.   Dàn nhân vật cũng được tác giả xây dựng khá phong phú, mỗi người một vẻ, thậm chí mình còn ấn tượng với Kindaichi. Không chỉ thông minh, xuất sắc trong quá trình phá án, Kindaichi còn thuộc loại nhây khi trêu cảnh sát trên đảo đến mức bị nhốt trong phòng giam cả một đêm, rồi còn khi gặp gái đẹp thì nói lắp liên tục, không chỉ một lần mà nhiều lần.   Câu chuyện cũng phản ánh một thời kỳ xưa mà xã hội Nhật vẫn theo hướng trọng nam, khinh nữ. Người phụ nữ địa vị trong gia tộc bị coi nhẹ tạo nên căn nguyên bi kịch cho vụ án. Điểm: 7,5/10 Đen Đá Không Đường  ĐẢO NGỤC MÔN Mình mua cuốn sách này sau khi biết đến tên tuổi của tác giả Yokomizo Seishi với một tác phẩm khác là “Rìu, Đàn, Cúc”. Mình chưa đọc “Rìu, Đàn, Cúc”, mặc dù đây hình như là tác phẩm được nhiều người nhắc đến nhất của Seishi thì phải, vì mình nghe nói nhân vật thám tử Kindaichi nổi tiếng của ông không có nhiều đất phô diễn tài năng lắm trong cuốn sách đó. Mình chọn “Đảo Ngục Môn” là cuốn sách “mở hàng” của mình khi đến với các tác phẩm của Yokimizo Seishi, vì mình nghe nói cuốn này thể hiện tính suy luận phá án nhiều hơn. Nội dung của “Đảo Ngục Môn” thì chắc cũng không cần tóm tắt hay đề cập nhiều nữa. Cảm giác ban đầu đọc cuốn này của mình, đó chính là tội nghiệp thanh niên Kindaichi, đã bề ngoài lôi thôi lếch thếch, đầu tóc toàn gàu mà cứ thích gãi thì thôi chớ =)))), đến Đảo Ngục Môn làm phước thay mặt người quá cố, cố gắng bảo toàn tính mạng cho 3 cô em gái của người lính Chima đã hy sinh thì thôi chớ, lại còn bị nghi ngờ là quân gian tà, bị một người dân đảo bắt giam =)))) Đã thế thanh niên này còn mắc chứng cà lăm, nói năng lắp bắp mỗi khi bị căng thẳng hay hồi hộp (ơ cái này hình như hơi bị giống mình… Hình như người nào thông minh xuất chúng cũng đều gặp phải một vấn đề gì đó liên quan đến ngôn ngữ thì phải ???? ???? :D). Đối với hầu hết các tiểu thuyết trinh thám mà mình đã đọc trước đó, mình đều thử nghi ngờ, suy đoán xem ai có thể là hung thủ thực sự. Cơ mà đối với cuốn này, thú thật là có muốn nghi ngờ, mình cũng chẳng biết nghi ngờ ai, vì dân đảo đa phần toàn những người kỳ dị. Họ kỳ dị trong cách nói chuyện, cách suy nghĩ, và bao phủ lên các vụ án mạng trong cuốn sách này cũng là một màu sắc liêu trai chí dị (giết người rồi dàn dựng hiện trường xác chết theo những hình ảnh trong thơ haiku), làm thanh niên Kindaichi bao lần nghĩ nhầm và có những điểm mù chưa nhìn ra. Đến lúc thanh niên phá án và vạch trần chân tướng hung thủ thì hỡi ôi, đúng là người đọc đây rớt hàm dập mặt luôn… Không thể ngờ được… Nhưng điều còn khiến mình bất ngờ hơn (hay là uất ức hơn), chính là nguyên do dẫn đến các vụ án mạng này. Với tư cách là một người phụ nữ, khi đọc cuốn sách, mình không thể nào hiểu nổi làm sao kẻ thủ ác có thể có cái suy nghĩ xem mạng sống phụ nữ rẻ mạt đến thế… Và cái sự thật kiểu plot twist “đấm vào mặt” ở khúc cuối đã biến tất cả những giết chóc này trở thành một tấn bi kịch đầy ám ảnh cho gia tộc Kito trên Đảo Ngục Môn. Những gì mình cảm nhận được sau khi đọc đến trang sách cuối cùng, đó chính là sự nặng nề, một sự nặng nề đến khó thở khi chứng kiến tấm mạng u tối bủa vây lấy hòn đảo vốn kỳ dị và đầy rẫy cướp biển này, khi nhận ra biết bao câu niệm Phật “nam mô…” cùng quyết tâm mang lại tương lai tươi sáng cho dòng tộc cũng không thể nào xóa bỏ được những cái chết vì bị giết của những cô gái trẻ vô tội… Nguyễn Việt Ái Nhi “Nhờ anh…đến đảo Ngục Môn…một chuyến…ba đứa em tôi…ôi…em họ tôi…em họ…” Trước khi chết, Chima đã gửi gắm tâm nguyện của mình tới Kindaichi nhằm nhờ anh đến đảo Ngục Môn ngăn chặn những thảm kịch xảy ra với những đứa em của mình. Kindaichi đã tìm đến nơi – hòn đảo với những người là hậu duệ cướp biển để bảo vệ 3 đứa em của Chima. Thế nhưng những bi kịch kinh hoàng cứ liên tiếp xảy đến. Trên đảo, những con người với tư tưởng kì dị hiện ra trước mặt Kindaichi: Sư Ryozen – người có quyền uy nhất đảo. Bác sĩ Murase với hàm râu dê. Ba chị em Tsukiyo kì quặc. Phu nhân Shiho tính cách quái gở. Chàng Ukai đẹp trai chiếm được tình cảm của cánh phụ nữ. Quý cô Sanae mạnh mẽ, can trường. Tuy tính cách họ không giống nhau nhưng họ có chung tư tưởng được kế thừa từ cụ Kaemon đã mất. Những điều bí ẩn từ gia tộc của cụ Kaemon, quan hệ giữa chi thứ và chi chính, quan hệ giữa đời trước và đời sau lẫn cái tư tưởng cổ hủ, cực đoan liệu có liên quan gì đến những cái chết kinh hoàn mà Kindaichi sẽ phải đối mặt? Liệu cách nhìn nhận của những người dân đảo sẽ khiến cho độc giả có suy nghĩ như thế nào về cái thế giới mà Yokomizo-sensei vẽ ra? – Truyên phản ánh những tiêu cực trong xã hội Nhật Bản lúc bấy giờ: người phụ nữ không được coi trọng, họ bị xem thường và khinh miệt. Người phụ nữ trong thế giới này không được quyền quản lí, kế thừa của cải, tài sản do cha ông để lại. – Cái tôi của người đàn ông quá lớn, lớn đến nỗi bất chấp máu mủ ruột rà, bất chấp hận thù xưa cũ mà nhân vật Kagemon có thể tàn nhẫn với những đứa con của con trai mình. – Sự cuồng tín đến ghê người. Kẻ ác dùng cả tôn giáo lẫn chuẩn mực đạo đức xã hội để thực hiện điều ác. – Tôn vinh những giá trị đẹp đẽ, kiệt tác văn học mà ở đây là thơ haiku. Chỉ ra vẻ đẹp tìm ẩn trong thơ Basho. – Là kim tự tháp rực rỡ cho những tác phẩm trinh thám sau này. Khi đọc tác phẩm này bạn sẽ thấy nhiều điều bất ngờ vì những cú lừa của tác giả. Tình tiết gay cấn, hồi hợp, lôi cuốn. Nhân vật có chiều sâu, có nét riêng. ———————————————————————- Chấm điểm: 6,5/10. Lý do: – Truyện hay, hấp dẫn làm mình đọc liền một tẹo hết nguyên cuốn. – Bìa đẹp. – Dịch: thiếu gì đó nhưng cũng ok. – Có nhiều giá trị đặc biệt là giá trị hiện thực. Đáng lẽ mình cho 9,5/10 nhưng vì ????: – Chọc giận phụ nữ: tư tưởng trọng nam khinh nữ của cụ Kaemon => trừ 1,5 điểm. – Hung thủ giết mèo để gây án ( xúc phạm quàng thượng, quàng thượng là để yêu thương) => trừ 1 điểm. – Cuối truyện diễn biến nhanh, tác giả viết hơi yếu => trừ 0,5 điểm. Neko Sayuri Mời các bạn đón đọc Đảo Ngục Môn của tác giả Yokomizo Seishi.
Điệu Ru Nước Mắt
Đến loại tiểu thuyết gọi là du đãng, Duyên Anh đã cẩn thận nhấn mạnh : “Tuổi trẻ bơ vơ, thèm xả thân cứu giúp đời, mà rốt cuộc tinh thần hào hiệp đó biến thành tinh thần du đãng” . Đã hơn một lần, cũng trong Điệu Ru Nước Mắt, Duyên Anh nói về những người trẻ tuổi này là “những thằng trong sạch nhất trong xã hội” , “du đãng nhiều thằng lương thiện gấp bội những thằng to tiếng đòi giáo dục du đãng” hay “xã hội du đãng cũng ăn đứt xã hội đạo đức giả”. Chúng nổi loạn vì cô đơn, “nổi loạn tâm hồn” vì “bất mãn gia đình, học đường, tổ quốc”, hoặc thù đời, “khinh miệt cuộc đời, vì cuộc đời cứ coi nó là du đãng ” Trong bài nói chuyện với nhà văn Đỗ Tiến Đức, Duyên Anh cho biết khi viết “cuốn tiểu thuyết du đãng đầu tiên là cuốn Điệu Ru Nước Mắt là lúc các tướng lãnh mình đảo chánh nhau, ông tướng này bắt ông tướng kia, nay là tướng anh hùng mai là tướng gian, lung tung hết. Dưới mắt một nhà văn thì tình trạng đó nản quá, chẳng còn gì đáng ca ngợi nữa. Với phản ứng đó, tôi mới đem du đãng ra ca ngợi, thế thôi”. Duyên Anh đã viết về tuổi trẻ du đãng với cái nhìn âu yếm, hiểu biết, có khi ông đã phẫn nộ như trong Ảo Vọng Tuổi Trẻ : “Hình phạt nào mới xứng đáng cho một tên lừa gạt tuổi trẻ, cho những tên làm ung thối một thế hệ mới vươn lên để tìm chỗ đứng cho dân tộc dưới ánh mặt trời” Xã hội này có luật lệ của nó nhưng cũng có những phẩm tính tốt như yêu thương nhau, biết đùm bọc nhau. Có tuổi trẻ vì hoàn cảnh mà đi du đãng như Trần Đại, Nguyễn Đạm, Trần Long, Trần Thị Diễm Châu, Lê Hùng, v.v. đã học xong trung học, có người đậu cả tú tài Pháp. Họ cũng hào hoa phong nhã và “rất nghệ sĩ”. Một đính chính cho cảm thông. Vì tuổi trẻ đường xá này sẽ chấp nhận hoàn lương, vào trường các nữ tu như trong Trần Thị Diễm Châu “xã hội không cải thiện cuộc đời của du đãng thì nội trú Hòa Hưng sẽ cải thiện họ”. Và tuổi trẻ du đãng cũng sẽ nhập ngũ làm bổn phận công dân thời chiến. Một nhân vật của Sa mạc tuổi trẻ : “quân đội là nơi lý tưởng nhất để nó làm lại cuộc đời” và “kỷ luật quân đội dạy người lính trở nên chín chắn, biết yêu biết ghét đúng đắn”. Trần Đại của Điệu Ru Nước Mắt được đàn em James Dean Hùng khen “Anh Trần Đại được làm tướng đi đánh nhau với cộng sản, chắc chắn anh ấy thương lính của anh ấy như thương chúng mình, anh ấy lại ‘cừ” nữa, cộng sản cứ gọi là hết ngáp…” GIA ĐỊNH 6-1-1965 ĐIỆU RU NƯỚC MẮT – Truyện dài của Duyên Anh *** NHÀ VĂN DUYÊN ANH: ĐỜI LƯU VONG BI KỊCH Duyên Anh tên thật là Vũ Mộng Long, sinh ngày 16 tháng 8 năm 1935 tại làng Tường An, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình. Ông học tiểu học và trung học ở Thái Bình và Hà Nội. Là một trong những nhà văn nổi tiếng của miền Nam trước năm 1975, Duyên Anh được biết đến như một con người nhiều tài, lắm tật, miệng làm hại thân! Duyên Anh thích "tháu cáy" và khích tướng đối thủ, nhưng lại rất cay cú khi bị người khách "tháu cáy". Năm 1954, Duyên Anh di cư vào Nam. Để kiếm sống, ông đã làm mọi công việc của một thanh niên hè phố, chẳng có nghề ngỗng nào nhất định. Khi thì theo một nhóm sơn đông mãi võ, khi tháp tùng đoàn cải lương lưu diễn đây, mai đó. Lại có lúc quảng cáo cho gánh xiếc rong, rồi giữ xe đạp hội chợ… Sang trọng nhất là làm gia sư, dạy kèm cho trẻ con và dạy đàn ghita, sáo trúc cho những người theo học vỡ lòng nghệ thuật. Duyên Anh làm thơ rất sớm, đến những năm cuối của thập niên 50, ông bắt đầu viết văn xuôi. Viết để thỏa mãn giấc mơ cầm bút, chẳng đăng đâu cả. Mãi đến năm 1960, ông được nhà văn Trúc Sĩ dẫn tới diện kiến nhà văn Nguyễn Mạnh Côn, lúc đó đang làm chủ bút tờ Chỉ Đạo. Bài thơ "Bà mẹ Tây Ninh" - sáng tác đầu tiên của ông được đăng trên tờ báo này. Một tháng sau, thêm truyện ngắn "Hoa Thiên Lý", rồi "Con sáo của em tôi" tiếp tục có mặt trên tờ Chỉ Đạo, với lời giới thiệu bốc tới mây xanh của Nguyễn Mạnh Côn. Ngay lập tức, ông được người đọc đón nhận nồng nhiệt. Mỗi truyện được trả nhuận bút 5.000 đồng, thời đó mua được hơn một cây vàng. Nguyễn Mạnh Côn tỏ ra rất ưu ái, tận tình nâng đỡ Duyên Anh để sáng tác của ông thường xuyên xuất hiện trên văn đàn. Và đây cũng là đầu mối oan nghiệt cho cả hai sau này. Đến năm 1961, khi ông Nguyễn Mạnh Côn rời tạp chí Chỉ Đạo thì Duyên Anh đã thành danh. Ông bắt đầu tung hoành làng báo Sài Gòn với nhiều bút danh khác nhau: Thương Sinh, Mõ Báo, Thập Nguyên, Vạn Tóc Mai, Nã Cẩu, Lệnh Hồ Xung, Độc Ngữ… bằng một giọng văn châm chọc, hết sức cay độc. Thời đó, có hai nhà văn làm báo mà người ta sợ nhất, đó là Chu Tử với bút hiệu Kha Trấn Ác, trong mục Ao Thả Vịt và Duyên Anh. Nạn nhân của Duyên Anh không phải chỉ toàn là người xấu, mà nhiều khi chỉ là một ai đó bị ông ghét, cũng bị ông lôi lên mặt báo, "đánh" không thương tiếc! Sự kiêu căng, miệng lưỡi cay độc của ông đã gây dị ứng cho không ít người. Một nhân vật lãnh đạo chóp bu của VNCH, khi lưu vong ở Mỹ đã bắn tiếng với ông Tô Văn Lai của chương trình Thúy Nga Paris rằng: "Bảo thằng Duyên Anh câm mồm nó lại". Duyên Anh được xem như tay tổ trong loại sách "xúi con nít đập lộn", với những cuốn tiểu thuyết viết về giới du đãng rất ăn khách như "Điệu ru nước mắt", "Sa mạc tuổi trẻ", "Vết thù trên lưng ngựa hoang". Tác phẩm của ông từng ngợi ca tay anh chị Trần Đại (Đại Ca-Thay) như một kẻ giang hồ mã thượng. Trong một bài phỏng vấn, tuần báo Đời hỏi ông: Tại sao trong thời buổi nhiễu nhương lại tôn vinh một tay du đãng, sống ngoài vòng pháp luật lên tận mây xanh? Duyên Anh trả lời: "Chính vì thời buổi nhiễu nhương, không có thần tượng cho tuổi trẻ, nên phải đi tìm cho họ một mẫu thần tượng. Xem ra, Trần Đại là xứng đáng hơn cả". Duyên Anh là người thẳng thắn, yêu, ghét rạch ròi. Đã quý mến ai rồi thì ông sống trọn tình, trọn nghĩa với người đó. Năm 1978, Duyên Anh gặp lại Nguyễn Mạnh Côn trong trại cải tạo. Nhà văn Nguyễn Mạnh Côn có thâm niên hơn 40 năm là đệ tử của ả phù dung nên sức khỏe rất yếu. Biến chứng tâm, sinh lý của một con người có quá trình "phi yến thu lâm" (đọc trại cho… sang chữ "phiện, thú lắm") quá dài nên khi bị bắt buộc phải cai, cơ thể ông bị hành hạ liên tục. Do đó, sinh hoạt của ông rất bê bối, khiến đa số trại viên khác, dù có thông cảm đến mấy cũng không muốn gần gũi, chia sẻ, trong đó có Duyên Anh. Người khác chẳng sao, nhưng với Duyên Anh, Nguyễn Mạnh Côn cho rằng đó là bội bạc. Nhiều lần ông Côn nói với mọi người: "Không có tôi thì đã không có Duyên Anh! Tôi mà không biên tập nát ra thì truyện của nó ai mà thèm đọc". Và Duyên Anh đã phản ứng theo đúng tính cách kiêu ngạo của ông: "Không có "Côn Hít" thì Duyên Anh vẫn là Duyên Anh. Ông Côn giỏi sao không biến một thằng cha căng chú kiết nào đó thành một văn tài mà phải đợi đến Duyên Anh?" Từ đó, cả hai nhìn nhau tuy bằng mặt, mà không bằng lòng. Cũng chỉ có thế, ngoài ra Duyên Anh không có bất kỳ hành vi, thủ đoạn nào ác ý với Nguyễn Mạnh Côn, như lời đồn đại đầy ác ý của những kẻ thù ghét Duyên Anh sau này. Năm 1981, Duyên Anh được trở về với gia đình khi vợ và các con đã định cư tại nước ngoài. Năm 1983, ông vượt biên sang Malaysia, rồi sinh sống tại Pháp, tiếp tục viết. Cùng phận lưu vong nhưng ông không tiếc lời thóa mạ những đảng phái, phe nhóm chính trị lưu manh đang hoạt động tại hải ngoại. Duyên Anh gọi bọn họ là những kẻ giả hình, những tay lừa bịp, mộng du, chiến đấu trong chiêm bao. Ông cũng lên án đám lãnh đạo, chính khách, tướng tá của VNCH toàn là một lũ vô tài, bất tướng, giàu của cải nhờ bóc lột, nhưng quá nghèo nàn liêm sỉ và nhân cách. Nhưng cho dù Duyên Anh có thế nào đi nữa, thì ông cũng là một người cầm bút, không có lấy một tấc sắc trong tay để tự vệ. Ngày 6/2/1997 ông qua đời vì bệnh xơ gan. Các tác phẩm chính: Đêm thánh vô cùng Hoa thiên lý Ðiệu ru nước mắt Luật hè phố Thằng Vũ Dấu chân sỏi đá Dzũng ÐaKao Vết thù hằn trên lưng con ngựa hoang Bồn Lừa Ảo vọng tuổi trẻ Gấu rừng Cỏ non Ngày xưa còn bé Nặng nợ giang hồ Mùa thu Con suối ở Miền Ðông Danh ná truyện tuổi nhỏ Giặc cờ đỏ truyện tuổi nhỏ Nhóc tì phản động truyện tuổi nhỏ Hồn say phấn lạ tiểu thuyết trường thiên Cầu Mơ Ánh lửa đêm tù Ánh mắt trông theo Thằng Côn Trường cũ Tuổi 13 Nhà tôi Mơ thành người Quang Trung Ðàn bà Chương Còm Mặt Trời nhỏ Lứa tuổi thích ô mai Giặc ôkê Đồi Fanta truyện La colline de Fanta dịch bản tiếng Pháp nxb Belfond Paris Một người Nga ở Sài Gòn truyện (1986) Nam Á, Paris Un Russe à Saïgon dịch bản tiếng Pháp nxb Belfond Paris Un prisonnier Américan au Viêtnam truyện nxb Belfond Paris Hôn em kỷ niệm nhạc (1986) Nam Á, Paris Ru tình ngất ngây nhạc Thơ tù thơ (1984) Nam Á, Paris Em, Sài Gòn và Paris thơ Một người mang tên Trần Văn Bá truyện (1985) Nam Á, Paris Sỏi đá ngậm ngùi truyện (1985) Nam Á, Paris Bầy sư tử lãng mạn truyện (1985) Nam Á, Paris Quán trọ trước cổng thiên đường truyện (1987) Nam Á, Paris Thơ của đàn bà truyện Nhánh cỏ mộng mơ truyện Động lòng chữ nghĩa đoản văn Nhà tù hồi ký (1987) Xuân Thu Hoa Kỳ Trại tập trung hồi ký (1987) Xuân Thu Hoa Kỳ Sài Gòn ngày dài nhất hồi ký, Xuân Thu Hoa Kỳ Nhìn lại những bến bờ hồi ký, Xuân Thu Hoa Kỳ Mời các bạn đón đọc Điệu Ru Nước Mắt của tác giả Duyên Anh.
Xác Không Đầu
Cơ thể bị chia cắt của một người đàn ông được tìm thấy Trong Kênh Saint-Martin. Gần với hiện trường, Maigret gặp chủ nhân ngầm của một quán cà phê, Aline Calas, và tự hỏi liệu cơ thể trong con kênh có phải là của chồng cô không. Như thường lệ, bản năng của Maigret là chính xác. Buộc phải điều tra thêm nhưng với thời gian trên tay khi anh đã giải quyết xong vụ án, Maigret bắt đầu đào sâu vào quá khứ của tất cả những ai quan tâm. Không giống như hầu hết các hư cấu thám tử, nơi tìm kiếm giải pháp là trọng tâm của câu chuyện, cuốn tiểu thuyết này khám phá các động cơ khác nhau có thể dẫn đến phạm tội. Đây là lý do tự thù hận đằng sau những hành động theo đó bạn có thể làm tổn thương và làm tổn thương những người thân thiết nhất với bạn. Simenon, thông qua Maigret, tuyệt vọng cố gắng để tìm ra ý nghĩa thực sự và tham vọng, tin rằng sự hiểu biết có thể dẫn đến sự tha thứ và tha thứ sẽ làm giảm ổ đĩa để phạm tội. *** Nhà văn Georges Simenon sinh ngày 13.2.1903 mất ngày 4.9.1989. Năm 16 tuổi, Simenon là chàng phóng viên trẻ viết tin vắn cho tờ La Gazette de Liège. Mỗi ngày, ông đạp xe đến các bót cảnh sát, nhà băng, sở cứu hỏa, những cuộc thi thể thao để lấy tin cho báo. Năm 1922, ông tới Paris hoa lệ. Tiểu thuyết đầu tay Trên Chiếc Cầu Vòm Cung được xuất bản tại Liège (Bỉ) với bút danh Georges Sun. Nhưng sự thành công chưa vội đến với cây bút trẻ có hàng chục bút danh khác nhau này (Jean du Perry, Gom Gut, Christian Brull...). Mười năm miệt mài viết như người lao động khổ sai giúp ông thành thạo trong “tốc độ” sáng tác. Đây chính là thế mạnh của tác giả “bậc thầy trinh thám” sau này. “Suốt thời kỳ 1928-1931, ông chỉ viết những tác phẩm về Maigret, trung bình mỗi tháng một cuốn”, ông nổi tiếng như cồn khi tiểu thuyết trinh thám Con Chó Vàng (Le chien jaune, 1931) được xuất bản, với tên thật Georges Simenon. 11 tác phẩm in năm đó thì 10 cuốn là tiểu thuyết với nhân vật sáng tạo Thanh tra Maigret. Một đời văn với hơn 300 tác phẩm viết bằng tiếng Pháp đã được xuất bản, người ta không khỏi thán phục năng lực sáng tác bền bỉ và trí tưởng tượng phong phú của nhà văn Georges Simenon. Bậc thầy tiểu thuyết trình thám thật sự chinh phục hàng triệu người đọc tại nhiều nước trên thế giới. Hơn 80 tiểu thuyết Thanh tra Maigret không nằm trong thể loại truyện hình sự tầm thường. Giá trị văn học của tác phẩm đã được các nhà phê bình nhìn nhận. Sau ngày ông mất, Đại học Liège ở Bỉ đã thành lập Trung tâm nghiên cứu Georges Simenon và đã xuất bản các tác phẩm nghiên cứu về ông. Cho đến nay, chưa có nhà xuất bản nào tại Pháp in toàn bộ tác phẩm của Georges Simenon. Mới đây, các tiểu thuyết của ông được Nhà xuất bản Ommious in thành 25 tập Tất cả Simenon nhưng chưa đầy đủ. Còn ở Việt Nam mới chỉ có khoảng chục cuốn thuộc thể loại trinh thám hình sự của Georges Simenon. Không học cao, không đọc nhiều, không quan hệ rộng và cũng chẳng mấy khi đi đâu xa, thế nhưng Georges Simenon lại lập kỷ lục về số sách bán được và làm giàu nhờ những tác phẩm được chuyển thể điện ảnh. Bị một số người xem thường suốt thời gian dài, nhà văn viết nhiều và viết nhanh này lại được những đồng nghiệp danh tiếng như André Gide, Henry Miller hết mực kính trọng. Làm thế nào một người rời trường học từ lúc 15 tuổi và thừa nhận mình chưa bao giờ đọc những tác phẩm văn học cổ điển lại trở thành nhà văn viết tiếng Pháp có nhiều người đọc nhất và có tác phẩm được dịch nhiều nhất trên thế giới? Văn phong của Georges Simenon không có gì đặc biệt, không hoa mỹ và không có những hình ảnh ấn tượng. Vốn từ vựng của ông cũng rất hạn chế. Tiểu thuyết của ông không có nhiều yếu tố lịch sử hay triết học. Mọi nhân vật trong truyện đều thuộc tầng lớp trung lưu, có cuộc sống bình lặng, những thị dân tiểu tư sản, chung thủy với vợ, ít ngao du, không tham vọng, không chính kiến rõ rệt. Thế mà không khí trong tiểu thuyết của ông khiến người đọc phải nhớ mãi. Trong 60 năm cầm bút, Georges Simenon trải qua nhiều trào lưu văn nghệ; chủ nghĩa siêu thực, chủ nghĩa hiện sinh, chủ nghĩa Marx và Tiểu thuyết mới, nhưng không trào lưu nào ảnh hưởng nơi ông. Để hiểu được phần nào bí quyết thành công của Georges Simenon, có lẽ cần trở lại thời thơ ấu của ông. Gia đình sống quanh quẩn trong thành phố quê hương, chẳng mấy khi đi đâu xa. Để thay đổi số phận, năm 16 tuổi, Georges Simenon đến Paris. Vì sinh kế, chàng thanh niên trẻ làm đủ mọi công việc liên quan đến viết lách. Con người rất ít khi đọc sách ấy lại có một năng khiếu đặc biệt: Có thể cùng lúc là thư ký, nhà báo, nhà văn, và viết rất nhanh. Khi một nhà xuất bản yêu cầu một cuốn tiểu thuyết, câu hỏi đầu tiên của Georges Simenon luôn là: “Ông muốn có sách vào thứ sáu này hay tuần tới?” Ông viết nhiều và nhanh đến nỗi khi chưa đến 25 tuổi đã có rất nhiều bút danh. Tất cả các tác giả từng viết tiểu sử Georges Simenon đều nhận định: Để viết cuốn tiểu thuyết “Maigret” (tên vị thanh tra, nhân vật chính trong tiểu thuyết của Simenon), nhà văn chỉ cần 6 ngày và chỉ mất 9 ngày cho những tác phẩm khác mà ông gọi là “tiểu thuyết hắc” (romans durs). Cách viết nhanh như vậy giúp ông đạt được những thành công đầu tiên. Pietr le Letton (1931) là cuốn truyện mở đầu loạt truyện Maigret. Trong vòng hai năm, ông viết hơn 20 tiểu thuyết, đem lại lợi nhuận lớn lao cho nhà xuất bản Fayard. Cuốn tiểu thuyết cuối cùng, Maigret et monsieur Charles (Maigret và ông Charles) được xuất bản năm 1972. Những cuộc phiêu lưu của thanh tra Maigret trải dài trên 75 tiểu thuyết (với khoảng chừng 10 năm), mà nhân vật chính không già đi, trán không gợn một nếp nhăn. Từ tác phẩm đầu tiên cho đến tác phẩm cuối cùng, thanh tra Maigret vẫn ở tuổi 50. Các nhà nghiên cứu nhận thấy tên Georges Simenon được ký trên hơn 200 cuốn tiểu thuyết và ông cũng viết ngần ấy tiểu thuyết với những bút danh khác (40 bút danh) và gần 1.000 truyện ngắn. Les fiançailles de monsieur Hire (Lễ Đính Hôn Của Ông Hire) và Le Chien Jaune (Con Chó Vàng) là những tác phẩm củng cố danh tiếng của ông. Những trí thức ở Paris không muốn nhắc đến “kẻ xa lạ” trốn tránh kinh đô Ánh sáng và xem thường những nghi thức của xã hội thượng lưu. Nhiều người phê phán Georges Simenon không có văn phong. Ngoại trừ nhà văn Pháp André Gide và nhà văn Mỹ Henry Miller, Georges Simenon không giao tiếp với ai nên bị giới văn học cho “ra rìa”. Ông cũng giữ thái độ mập mờ, không cộng tác với ai, cũng chẳng phản kháng ai. Khi nước Pháp thoát khỏi sự chiếm đóng của phát xít Đức, cũng như nhiều nhà văn khác, Georges Simenon bị buộc nhiều tội, trong đó hai tội chính: Ký hợp đồng với một nhà sản xuất phim người Đức để chuyển thể 9 cuốn tiểu thuyết của ông và Christian Simenon, em trai ông, ủng hộ phong trào chống chế độ đại nghị ở Bỉ, bị kết án tử hình vắng mặt. Năm 1945, Georges Simenon rời châu Âu sang Mỹ, lưu lại đây 10 năm. Nhưng ở nơi sống mới, “nỗi ám ảnh viết lách” không hề dịu đi. Trái lại, trí tưởng tượng của ông càng thêm phong phú nhờ những chuyến phiêu lưu khám phá kinh đô điện ảnh Hollywood. Lúc này ở châu Âu, những lời lên án ông hợp tác với phát xít Đức đã nhạt đi. Georges Simenon sang Thụy Sĩ, sống trong một dinh thự mênh mông ở Epalinges, cách Lausanne 10km. Ông đã là một ngôi sao. Người tra tranh nhau đăng tiểu thuyết của ông trên các báo và chuyển thể thành phim. Từ La nuit du carrefour (1932) đến Monsieur Hire (1989), tổng cộng 56 tiểu thuyết chuyển thể. Thêm một kỷ lục nữa: Georges Simenon trở nên giàu có nhờ số sách bán được và những bộ phim. Thoạt đầu, danh tiếng làm ông thích thú, nhưng rồi ông thấy chán ngán: “Tôi bán bản quyền và chẳng quan tâm nữa. Thậm chí tôi còn không đi xem phim”. Ở Epalinges, cuộc sống của ông rất bình lặng. Ông ít giao tiếp, dành toàn bộ thời gian để viết, đi dạo hai lần mỗi ngày, mỗi tháng gửi một bản thảo cho nhà xuất bản. Cuộc sống cứ thế trôi đi cho đến năm 1972, ông hầu như ngưng viết. Trước khi qua đời năm 1989, ông cho xuất bản 20 tác phẩm tự truyện. Sách của Georges Simenon được dịch sang 50 thứ tiếng. Trong bảng xếp hạng các sách được dịch nhiều nhất trên thế giới, sách của Georges Simenon và Agatha Christie chỉ xếp sau Kinh Thánh và các tác phẩm của Karl Marx. Cùng với việc viết lách, phụ nữ là mối quan tâm lớn của đời ông. Có nhiều lời đồn đoán về “năng lực tình ái” phi thường của Georges Simenon. Ông từng khoe đã yêu 10.000 phụ nữ. Denyse, người vợ thứ hai, cho biết lúc tuổi xế bóng, Georges Simenon vẫn chăn gối 3 lần mỗi ngày. Bà bếp tiết lộ đã dan díu với ông chủ Georges Simenon trong một thời gian dài, và trong lúc đi dạo, cha đẻ của Maigret lại tìm quên trong vòng tay của một cô gái làng chơi. Sinh hoạt tình dục sôi nổi ấy lại không để lại một dấu vết nào trong tác phẩm của Georges Simenon. Bà Maigret là một phụ nữ tiểu tư sản, mờ nhạt và lệ thuộc, luôn ngưỡng mộ chồng. Điểm này cũng là một bí ẩn của Georges Simenon. Ông kết hôn lần đầu tiên năm 19 tuổi với Tigy, có một con trai tên Marc. Marc kết hôn với nữ diễn viên nổi tiếng Mylène Demongeot, Georges Simenon cũng có quan hệ tình ái với ngôi sao nhạc kịch Joséphine Baker và suýt ly hôn với Tigy. Năm 1945, Georges Simenon gặp Denyse Ouimet, thoạt đầu là thư ký của ông, rồi trở thành người tình, người vợ, Georges Simenon và Denyse có 3 con: John, Mary và Pierre. *** Khi trời vừa rạng sáng thì Jules Naud, người anh cả của hai anh em nhà Naud, xuất hiện trên sà lan, trước hết là cái đầu, tiếp đó đến đôi vai và sau cùng là tấm thân cao lều nghều của anh. Đưa tay lên vuốt mớ tóc màu sợi lanh chưa kịp chải, anh nhìn âu thuyền có bến cảng Jemmages ở bên trái và bến cảng Valmy bên phải. Anh vừa cuốn một điếu thuốc lá và châm hút trong buổi sáng còn se lạnh thì ngọn đèn của một quán rượu ở phố Recollets bật sáng. Mặt tiền của quán rượu có màu vàng khè. Popaul, chủ quán, mặc áo không cổ, tóc chưa chải, đang đứng ngoài vỉa hè để tháo những cánh cửa lùa. Jules đi trên tấm ván bắc làm cầu lên bờ và cuốn điếu thuốc thứ hai trong khi đó thì Robert, người em, cũng cao lớn như anh, đã thức giấc và lên trên boong tàu. Anh ta thấy Jules đang tì tay lên quầy hàng đợi chủ quán rót thêm rượu vào tách cà phê của anh.  Robert đang đợi đến lượt mình. Cùng với những cử chỉ như Jules, anh ta cũng cuốn một điếu thuốc lá. Khi người anh cả rời khỏi quán hàng thì người em cũng đã lên khỏi sà lan. Hai người gặp nhau ở giữa đường. - Ta cho nổ máy đây - Jules bảo người em trai. Có những ngày hai người không nói với nhau quá một chục câu theo kiểu ấy. Con tàu của họ mang tên Hai anh em. Họ đã lấy hai chị em sinh đôi của một gia đình sống trên bờ sông. Robert cũng tì tay lên quầy hàng của ông Popaul béo lùn và đợi chủ quán rót rượu. - Hôm nay đẹp trời - Popaul gợi chuyện. Qua cửa sổ, Robert thấy trời đã chuyển sang màu hồng. Những ống khói trên các nóc nhà bắt đầu hoạt động, sương giá đọng trên các mái nhà lợp bằng đá bảng hoặc bằng ngói bắt đầu tan. Người ta nghe thấy tiếng nổ của đầu máy đi-ê-zen. Phía sau sà lan phụt ra những luồng khói đen. Robert đặt tiền lên quầy hàng, cầm lấy chiếc mũ cát-két và đi khỏi quán rượu. Người phụ trách âu thuyền trong bộ đồng phục đã xuất hiện chuẩn bị cho việc mở cửa âu. Người ta nghe thấy những bước chân ở cảng Valmy nhưng không nhìn thấy người. Tiếng trẻ con bi bô trong những khoang tàu, nơi các bà mẹ đang chuẩn bị cà phê. Jules đang cúi xuống nhìn mặt nước ở cuối sà lan. Người em thấy như có chuyện gì không ổn. Sà lan chở đá xây dựng từ Beauvais về. Chuyến này đá chở nhiều hơn thường lệ một vài tấn. Đêm qua sà lan từ bên La Vilette để đi vào kênh đào Saint-Martin. Thông thường thì tháng Ba kênh đào có nhiều nước. Năm nay ít mưa nên bùn trong các con kênh sục lên khi sà lan đi qua. Những cánh cửa âu thuyền được kéo lên. Jules ngồi bên vòng quay của bánh lái. Người em lên bờ tháo neo. Chân vịt bắt đầu quay tít, những bọt nước có bùn nổi lên. Tì người vào cây sào, Jules đẩy sà lan tránh xa bờ kênh. Bỗng nhiên chân vịt khựng lại, tiếng máy nổ rú lên và Robert thấy Jules đang cúi xuống máy. Cả hai đều không hiểu đã có chuyện gì xảy ra. Chân vịt không sát xuống đáy sông. Chắc chắn đã có vật gì mắc vào nó. Có thể là rác đã bị cuốn lên. Cầm một cây sào, Jules đến cuối sà lan và khuấy nước ở đấy lên. Chân vịt vẫn không nhúc nhích. Trong khi Jules đi tìm một chiếc móc bằng sắt thì Laurence từ khoang sà lan nhô đầu lên. - Có chuyện gì vậy? - Không biết. Cái móc bắt đầu làm việc. Vài phút sau đó thì Charles Dambois, người phụ trách âu thuyền, bước tới. Ông ta không hỏi han gì mà chỉ lặng lẽ nhồi thuốc vào tẩu để hút. Trên bờ kênh, người ta thấy nhiều y tá và hộ lý vội vã tới phố Cộng Hoà để làm việc tại bệnh viện Saint-Louis. - Anh đã thấy vật đó chưa? - Đã thấy. - Một sợi dây cáp ư? - Không biết. Jules đã móc được vật ấy lên và chân vịt lại tiếp tục quay. Chiếc móc sắt được nhấc lên khỏi mặt nước và mắc vào đấy là một gói giấy báo buộc kỹ. Giấy báo ngâm nước đã mủn ra. Đấy là một cánh tay người, từ bả vai đến bàn tay, thịt đã xám lại như con cá chết. *** Depoil, hạ sĩ cảnh sát của khu phố Ba, đã hết phiên trực đêm ở bến cảng Jemmages, đang chuẩn bị ra về thì gặp Jules chạy tới. - Tôi ở âu thuyền Recollets cùng với chiếc sà lan Hai anh em. Chân vịt đã không quay được khi chúng tôi cho sà lan chạy và chúng tôi đã gỡ từ đó ra một cánh tay người. Depoil đã làm việc ở quận Mười mười lăm năm, có phản ứng nhanh nhạy của người cảnh sát nên anh nắm ngay sự việc. - Tay của đàn ông ư? - Depoil hỏi với vẻ hoài nghi. - Phải. Cánh tay đầy lông màu hung và... Thường thì người ta vớt được xác chết ở kênh đào Saint-Martin từ chân vịt của tàu thuyền. Hầu hết là xác nguyên vẹn, đại đa số là xác đàn ông, ví dụ như xác của một ông già lang thang quá chén hoặc xác của một thanh niên bị địch thủ cho một nhát dao rồi đẩy xuống dòng kênh. Xác chết bị chặt ra từng khúc cũng không phải là không có, một năm trung bình một hai vụ, mà hầu hết là phụ nữ. Depoil có thể kể ra từng vụ một. Chín phần mười họ đều là gái bán dâm, đi lượn lờ trên bờ kênh vào ban đêm. "Tội ác do những kẻ loạn dâm gây ra" - Báo cáo của anh thường kết luận như vậy. Cảnh sát biết rõ những kẻ năng lui tới chốn này, họ có cả một danh sách những kẻ đáng nghi ngờ. Chỉ cần một vài ngày là đủ để tóm cổ được tác giả của vụ án cướp của giết người hoặc tấn công địch thủ bằng vũ khí. - Anh đã mang nó lên bờ rồi chứ? - Depoil hỏi. - Cánh tay người ư? - Anh để nó ở đâu? Mời các bạn đón đọc Xác Không Đầu của tác giả Georges Simenon & Trần Bình (dịch).