Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Nghệ Thuật Xoay Chuyển Tình Thế

Dù bạn là ai, một CEO, một nhân viên bán hàng hay chỉ đơn thuần là người muốn tạo nên sự khác biệt, bạn đều mong muốn gây ảnh hưởng nhiều hơn tới mọi người. Tuy nhiên, đa số chúng ta lại không thật sự cố gắng tạo ra thay đổi vì nghĩ rằng điều đó quá khó hoặc không thể. Chúng ta thường mải miết phát triển các chiến lược ứng phó phức tạp, trong khi lẽ ra chỉ cần học các công cụ và phương pháp của những người có ảnh hưởng nhất trên thế giới. Hãy thay đổi thực tế này với "Nghệ thuật xoay chuyển tình thế". Cuốn sách trình bày toàn bộ các bước của quá trình gây ảnh hưởng - bao gồm cả những chiến lược mạnh mẽ để biến chuyển những điều tưởng chừng như không thể thay đổi trong cuộc sống cá nhân, công việc và cả thế giới. Làm một tác nhân xoay chuyển, bạn có thể giúp mọi người trưởng thành hơn, thông minh, cuốn hút hơn và sống tốt đẹp hơn. Với một tác nhân xoay chuyển, chỉ có giới hạn duy nhất - Bầu trời! *** Tôi định mua cuốn Sức mạnh của việc suy nghĩ tích cực rồi chợt nghĩ: Cuốn sách đó có ích gì? — RONNIE SHAKES — Mở đầu cuốn sách là một lời khẳng định đầy táo bạo. Chúng tôi đã nói rằng nếu bạn sử dụng đúng chiến thuật với các kỹ thuật gây ảnh hưởng đủ cả về số lượng và loại hình, bạn có thể thay đổi mọi thứ. Dường như lời khẳng định này có vẻ đầy tự mãn và khó tin. Vì rõ ràng, có hàng nghìn thứ mà không ai có thể thay đổi được. Chúng tôi đã giải thích rằng hành vi là nguyên nhân gây ra hầu hết các vấn đề dai dẳng và đau đầu nhất của chúng ta. Nguồn tri thức ngày càng rộng mở cũng như nguồn cung cấp các câu chuyện về những thành công có thật trong cuộc sống sẽ dạy cho chúng ta cách thay đổi hầu hết các hành vi ứng xử của con người. Hãy đọc các tác phẩm sâu sắc của tiến sĩ Albert Bandura. Sau đó, hãy quan sát những điều mà tiến sĩ Mimi Silbert đang làm ở Delancey. Hai bậc thầy xoay chuyển này cho ta thấy nếu biết mình đang làm gì, bạn có thể thay đổi những hành vi thâm căn cố đế nhất. Ví dụ, 500 con người từng là tội phạm, nghiện ngập ở Delancey bây giờ luôn sẵn sàng tham gia các hoạt động sôi nổi có áp dụng các chiến thuật gây ảnh hưởng mà chúng tôi đã đề cập. Các chiến thuật này đã được sử dụng đúng chỗ để giúp những công dân đó từ bỏ thói quen phạm pháp và trở thành người có ích. Tất nhiên, việc mang lại những thay đổi sâu sắc như vậy ở 500 con người không hề dễ dàng, nhất là khi bạn đang làm việc với những người từng phạm trọng tội trung bình bốn lần. Nói cách khác, bạn đang phải xử lý vấn đề của một nhóm người gần như không còn chút hy vọng nào. Họ có thể là thành viên của băng đảng, người thiểu số hay tội phạm. Trước khi gia nhập Delancey, họ từng chịu các bản án hình sự nhưng khi mãn án, họ lại phạm tội. Hình phạt không giúp được họ. Họ có thể đã thề thốt rằng sẽ thay đổi, nhưng lần nào cũng vậy, họ lại khiến những người yêu quý thất vọng vì những việc làm sai trái của mình. Bản thân họ cũng thất vọng về chính mình. Họ đã không thay đổi mình. Họ thất bại vì không sử dụng đầy đủ và toàn diện chiến thuật thay đổi để làm lại cuộc đời. Tất cả 500 con người đó đã thất bại nhiều lần trước khi đến Delancey. Thế nhưng phương pháp của tiến sĩ Mimi Silbert đã dần biến đa số họ thành những công dân tuân thủ luật pháp. Thành công của tiến sĩ Silbert hoàn toàn không phải vì bà đã dành nhiều thời gian và tiền bạc hơn các tổ chức khác. Trong quá trình hoạt động, tổ chức của bà đã tự gây quỹ. Cho đến nay, Silbert đã giúp thay đổi hơn 14 nghìn người sa ngã. Đó là vì bà là một tác nhân xoay chuyển chân chính, một bậc thầy xoay chuyển. Bà biết cách giúp mọi người thay đổi suy nghĩ và hành động. Năm 1992, khi tiến sĩ Don Berwick và Viện Chăm sóc Sức khỏe Massachusetts (IHI) triển khai chiến dịch 100 nghìn sinh mệnh, họ đã đảm đương nhiệm vụ của một trong những tổ chức lâu đời nhất thế giới: Hệ thống Chăm sóc Sức khỏe Liên bang Mỹ. Thời điểm đó, ước tính có tới 100 nghìn bệnh nhân chết trong bệnh viện mỗi năm do chăm sóc sai. Berwick và đồng nghiệp quyết tâm tìm cách ngăn chặn những sai lầm này. Điều này đồng nghĩa với việc họ phải tìm ra phương thức để vừa tạo điều kiện, vừa tạo động lực cho các chuyên gia y tế, khích lệ họ làm việc theo phương pháp mới. Khi chiến dịch này mới bắt đầu, một số người trong ngành y tế còn chưa ý thức được rằng hành động của chính họ có thể gây nguy hại. Ngay cả những người ý thức được mối nguy hiểm tiềm tàng cũng không đủ khả năng xây dựng các chiến thuật xoay chuyển cần thiết để mang lại sự thay đổi sâu sắc và lâu dài. Berwick và đồng nghiệp đã kiên trì với chiến dịch cho đến khi tìm ra chính xác yếu tố cần thiết để thay đổi những hành vi đã ăn sâu bám rễ. Chỉ trong 18 tháng triển khai chiến dịch, theo ước tính đã có 122 nghìn ca tử vong được giảm bớt tại 3.100 bệnh viện. Hiện tại, Berwick và nhóm của ông đang tiến hành chiến dịch 5 triệu sinh mệnh. Nếu thành công, họ sẽ ngăn chặn được rất nhiều đau thương mất mát và mang lại hạnh phúc cho rất nhiều người trên thế giới. Chỉ tiêu của họ bây giờ cao gấp 50 lần chỉ tiêu ban đầu. Đó là vì họ đã có kinh nghiệm xoay chuyển tình thế. Để xem xét những thông tin cập nhật mới nhất, hãy trở lại vùng phụ cận Sahara, châu Phi. Trong vài thập kỷ qua, các nhà nhân chủng học và các chuyên viên y tế tâm huyết đã nỗ lực khuyến khích người dân địa phương đọc tài liệu về sán Guinea, tham gia các lớp tập huấn hay đơn giản là làm theo những lời khuyên chân thành của họ. Chỉ cần người dân lắng nghe, họ sẽ tránh được bệnh sán Guinea đáng sợ. Nhưng rất ít người làm theo những lời khuyên ấy và dịch bệnh đã lây lan cho hàng chục triệu người. Tiến sĩ Donald Hopkins và các bậc thầy xoay chuyển khác ở Trung tâm Carter đã vào cuộc. Kể từ thời điểm khởi đầu của chiến dịch xóa sổ sán Guinea, đội ngũ này đã giúp giảm tới 99,7% số ca mắc bệnh, xóa bỏ hoàn toàn bệnh dịch tại 11 trong số 20 quốc gia ước tính ban đầu. Theo kế hoạch, họ sẽ xóa sổ hoàn toàn dịch bệnh trước năm 2009. Họ có thể làm được như vậy không phải nhờ sự đột phá của y học mà bằng cách tạo động lực và điều kiện để những người hoàn toàn xa lạ có thể thay đổi hành vi của mình. Giống như các bậc thầy xoay chuyển mà chúng ta đã nghiên cứu, đội ngũ bác sĩ mẫn cán ấy đã chấp nhận một thử thách khó khăn, bỏ lại những phương pháp cũ và thất bại để xác định: Nếu muốn ngăn chặn thành công nạn dịch Guinea khủng khiếp, họ phải bắt đầu từ chính mình. Việc đầu tiên họ cần làm là học cách tác động lên hành vi của con người. Và họ đã thực hiện điều đó. Họ đến thăm các đối tượng cần thay đổi, nghiên cứu các hình mẫu tích cực và áp dụng nhiều phương pháp mà chúng tôi mô tả trong cuốn sách này. Kết quả là trong một ngày không xa, sán Guinea sẽ bị xóa sổ vĩnh viễn khỏi trái đất. Loại ký sinh trùng đáng sợ này sẽ tuyệt chủng; đó là sự đảm bảo cho cuộc sống của con người. Trên thực tế, Silbert, Berwick, Hopkins hay tất cả các bác sĩ và học giả mà chúng ta đã nhắc đến đã có những đóng góp kỳ diệu cho lịch sử khi tạo ra sự thay đổi. Họ đã thành công khi rất nhiều người khác thất bại. Họ đã chứng minh một điều: nếu biết cách sử dụng các phương thức tác động thích hợp và đặt chúng trong các chiến thuật được tính toán cẩn thận, bạn có thể thay đổi mọi thứ. Và điều tốt đẹp nhất mà mỗi bậc thầy xoay chuyển mang lại cho chúng ta là niềm hy vọng. Chúng ta cũng có thể trở thành bậc thầy xoay chuyển, tất nhiên là phải nỗ lực hết mình. Chúng ta phải chấm dứt kiểu xử lý vấn đề qua loa và học cách xây dựng chiến thuật gây ảnh hưởng toàn diện. Điều này đặt ra một vấn đề: liệu những người bình thường có thể sử dụng những nguyên tắc mà các bậc thầy xoay chuyển sử dụng không? Câu trả lời chắc chắn là “có”. Không ai trong số những người mà chúng ta đã nhắc đến được đào tạo kỹ năng gây ảnh hưởng. Nhưng họ đều học được cách khuất phục những vấn đề nan giải nhất. Để bắt đầu những nỗ lực của chính mình, hãy sử dụng cuốn sách này để học cách tạo ra thay đổi. ĐI TÌM NHỮNG HÀNH VI MANG TÍNH QUYẾT ĐỊNH Hãy bắt đầu từ những hành vi mang tính quyết định. Chẳng ích gì khi sử dụng cùng lúc hàng tá phương pháp phức tạp nhưng lại hướng tới những hành động sai lầm. Hãy học hỏi từ các công trình nghiên cứu của Ethna Reid. Phương pháp của bà là tìm hiểu và so sánh cách làm việc của những người có thành tích cao nhất và những người bình thường; tìm hiểu những hành vi độc đáo của họ, mà không thể có ở người khác; sau đó hướng dẫn những người yếu kém thực hiện chúng. Nếu đạt được những tiến bộ rõ rệt, nghĩa là nỗ lực của bạn đã không bị lãng phí. Khi lụa chọn một danh sách các chiến thuật xoay chuyển mà, hãy lựa chọn kỹ lưỡng và khoa học. Chỉ chấp nhận những giải pháp đã được thực chứng qua các phương pháp phân tích so sánh. Mở đầu bằng việc tìm kiếm những công trình học thuật, các ấn bản của các trường đại học, các công trình nghiên cứu hay được trích dẫn và kết quả nghiên cứu của những người có danh tiếng trong ngành. Bạn sẽ tìm thấy chúng trong các bài viết được công chúng quan tâm và trân trọng chứ không phải trong các tờ quảng cáo. Trong bất cứ trường hợp nào, hãy tìm hiểu kỹ lưỡng những kiến thức sẵn có và đừng vội vàng chấp nhận kế hoạch đầu tiên bạn có. Sau khi nghiên cứu các hành vi mang tính quyết định mà những người khác đã sử dụng thành công, hãy tìm ra phương pháp phù hợp với bạn nhất bằng cách áp dụng các nguyên tắc của hình mẫu tích cực. Xem xét lại những lần bạn đã thành công và cố gắng tìm ra động lực hay chiến thuật đã mang lại thành công đó. Khi đã xác định được các hành động từng mang lại thành công, hãy tiến hành những thử nghiệm nhỏ để khẳng định chắc chắn những phân tích nói trên. Đừng đề ra mục tiêu quá cao. Thay vào đó, hãy đặt ra những mục tiêu ngắn hạn. Thử nghiệm những hành vi mang tính quyết định trong môi trường ít rủi ro và quan sát xem bạn thành công với phương pháp nào. THÊM NGUỒN Đằng sau mỗi hành vi mang tính quyết định luôn có sáu nguồn tác động riêng biệt. Nếu may mắn, một nguồn tác động này cũng có thể mang lại thành công cho chiến thuật thay đổi. Nếu bạn nhận ra rằng để giúp các con của bạn yêu thích đọc sách thì bạn phải cùng đọc chúng, chắc hẳn bạn sẽ thu được kết quả tốt đẹp. Có thể bạn từng tức điên lên khi cho nhân viên tham gia các chương trình hợp tác đào tạo, rồi khi trở về với môi trường xã hội thực tại, không ai áp dụng những điều đã học. Vì vậy, bạn phải tăng cường yếu tố xã hội và cấu trúc vào hỗn hợp đó. Hiển nhiên, những nền tảng kiến thức và kinh nghiệm bạn có được sẽ là chỗ dựa vững vàng cho những tình huống tương tự bạn gặp phải. Trong một vài trường hợp, dù không phổ biến, khi các chiến thuật tác động trước đây của bạn còn thiếu sức mạnh để mang lại thay đổi, việc chọn lọc các khái niệm mà chúng ta đã vạch ra sẽ đưa bạn trở lại con đường thành công. CHẨN ĐOÁN TRƯỚC KHI KÊ ĐƠN Chú ý: nếu bạn phải đương đầu với những thách thức nan giải hơn nhiều, bạn cần học theo các bậc thầy xoay chuyển. Hãy chẩn đoán trước khi kê đơn. Tìm hiểu xem những nguồn tác động nào ảnh hưởng đến hành vi bạn muốn thay đổi. Hầu hết các nhà lãnh đạo không làm việc này mà chỉ kết hợp các phương pháp thành một chiến thuật tác động tổng hợp và cho rằng có thể áp dụng nó trong mọi tình huống. Các bậc thầy xoay chuyển sẽ không làm như vậy. Hãy xem xét trường hợp của bác sĩ Warren Warwick tại Bệnh viện Trẻ em thuộc Đại học Fairview. Ông khám phá ra thuốc men không tốt hơn chiến thuật tác động. Một bệnh nhân u nang 18 tuổi không chịu tuân theo kế hoạch điều trị. Thay vì giảng giải cho cô gái về hậu quả của việc bỏ dở điều trị, bác sĩ Warwick đã tìm hiểu nguyên nhân sâu xa. Thay vì hét lên: “Chuyện quái gì xảy ra với cô thế?” ông đã cố gắng tìm hiểu xem vì sao cô gái lại không chịu tuân theo quá trình điều trị để cứu mạng sống của mình. Sau khi điều tra và chịu khó lắng nghe, ông đã tìm ra lý do. Cô gái này mới có bạn trai và một nửa thời gian của cô là ở cùng với anh ta. Trước đây, mẹ cô gái vẫn theo dõi quá trình điều trị của cô nhưng bây giờ, cô thường không ở nhà vào giờ uống thuốc. Cô có một công việc mới vào buổi tối. Ngôi trường cô đang học thay đổi nội quy và yêu cầu cô phải có y tá riêng để theo dõi thuốc men. Không chấp nhận điều này, cô ngừng uống thuốc. Điều tệ nhất là dù thể tích phổi của cô đã giảm 20% trong hai tháng, nhưng cô lại cảm thấy khỏe hơn. Điều này khiến cô nghĩ rằng ngừng điều trị cũng không sao. Càng nói chuyện nhiều với bệnh nhân, bác sĩ Warrwick càng hiểu rõ nguyên nhân vì sao cô gái không tuân theo quá trình điều trị. Sau khi đã tìm ra nguồn cần tác động, ông cùng bệnh nhân xây dựng kế hoạch điều trị và cứu được tính mạng cô gái. BỔ SUNG CÁC NGUỒN KHÁC Khi hành vi bạn muốn thay đổi được duy trì bởi một vài nguồn, bạn cần một chiến thuật tác động để giải quyết mọi vấn đề bạn đang phải đối mặt. Thế giới được tổ chức hoàn hảo để mang lại cho bạn những thành quả mà bạn đáng được hưởng. Sử dụng cả sáu nguồn tác động Để đạt được thành quả mới, bạn cần thay đổi một vài yếu tố nhằm tạo động lực và điều kiện cho những hành vi lành mạnh. Tuy nhiên, đó lại không phải là cách mọi người thường làm. Trong những năm qua, chúng tôi đã làm việc với lãnh đạo các tập đoàn, những người biết rõ cần thay đổi toàn bộ giá trị văn hóa và thói quen hành động trong tổ chức của mình. Họ hiểu cách làm việc của nhân viên trong công ty đang khiến năng suất, số lượng khách hàng và lợi nhuận giảm đi. Khi chúng tôi mô tả các chiến thuật sử dụng sáu nguồn tác động cần thiết để đạt được kết quả mong muốn, các vị lãnh đạo này nói họ có thể chọn một trong các chiến thuật mà chúng tôi gợi ý, giống như việc chọn mua một món hàng trong catalog. Họ muốn “mua rẻ” những tác động, nhưng họ không thể có được những thay đổi mong muốn theo kiểu mua bán bớt một thêm hai như vậy. Tuy nhiên, hoàn cảnh tuyệt vọng sẽ dẫn đến những hành động liều lĩnh và mọi người thường tìm kiếm những giải pháp đơn giản, cho dù họ vẫn đang học hỏi các bậc thầy xoay chuyển. Ví dụ, tiến sĩ Silbert cho biết trong ba thập kỷ qua, bà đã dành rất nhiều thời gian làm việc với những người đã đi nửa vòng trái đất đến để tìm hiểu những điều bà đã và đang thực hiện để giúp những tên tội phạm và những con nghiện trở thành công dân tốt. Silbert kể lại toàn bộ những điều bà đã làm, nhấn mạnh mỗi yếu tố cần thiết để mang lại thành công. Bà nêu rõ những hành vi mang tính quyết định mà tổ chức luôn cố gắng khích lệ. Bà cũng lưu tâm đến cách chủ động tạo ra những kinh nghiệm thực tế hoặc các trải nghiệm gián tiếp nhằm giúp các đối tượng thay đổi tư duy. Bà cũng phải trải qua rất nhiều khó khăn để đảm bảo chiến thuật gây ảnh hưởng của mình đủ mạnh với cả sáu nguồn tác động. Những người cất công đến Delancey sẽ ra về với cảm giác tràn trề hy vọng. Họ trở về nhà, chọn một ý tưởng để bổ sung cho những nỗ lực không hiệu quả của mình. Đương nhiên, chỉ với yếu tố này, họ không thể có đủ sức mạnh để thay đổi. Vì vậy, phương pháp được cho là “mới và cải tiến” của họ lại thất bại. Điều này khiến các bậc thầy xoay chuyển không khỏi băn khoăn vì sao cố gắng của họ lại không thành công. Những nỗ lực thay đổi kiểu “quán ăn tự phục vụ” rất thường xảy ra. Ở đó, mỗi người chỉ chọn một vài yếu tố trong một tổ hợp đầy đủ. Ví dụ, nếu bạn xem xét việc quảng bá chiến lược “cơ hội thứ hai” ở bắc Carolina mà chúng tôi đã nhắc tới, bạn sẽ nhận ra hướng đi của nó hoàn toàn có thể dự đoán trước và kết thúc thất bại. Hẳn bạn vẫn nhớ chiến lược giảm số lượng tội phạm rất khôn khéo khi những kẻ buôn ma túy sắp bị bắt được đưa đến một căn phòng có nhiều hình ghi lại cảnh phạm tội của họ. Đầu tiên, viên chưởng lý sẽ mở các đoạn phim ghi lại cảnh phạm tội của các đối tượng. Sau đó, ông yêu cầu các đối tượng giơ tay lên khi cho rằng mình phạm tội. Và họ đã làm như vậy. Cách tạo ra sự ám ảnh tiềm tàng, kết hợp với sự hỗ trợ của gia đình, đào tạo nghề và những yếu tố thiết yếu khác đã mang lại kết quả tốt đẹp. Trên thực tế, những người thiết kế chương trình “cơ hội thứ hai” đã phải rất nỗ lực để đảm bảo cả sáu nguồn tác động đều chịu ảnh hưởng bởi chiến thuật thay đổi của họ. Những kết quả ấn tượng nhờ sự nỗ lực toàn diện và khéo léo đã được đưa lên báo. Lãnh đạo ngành cảnh sát vô cùng hào hứng với chiến thuật đó và lựa chọn một vài yếu tố mà họ cho rằng Hội đồng nhân dân thành phố sẽ tán đồng hay vài phương pháp có đủ kinh phí thực hiện. Hay họ có thể để tâm đến giải pháp hiện tại, nhưng gọi nó là “chương trình cơ hội thứ hai”. Nhưng hiển nhiên, nếu chỉ áp dụng một phần của cả chiến lược toàn diện thì những nỗ lực thay đổi sẽ thất bại. Cuối cùng, những người mong muốn học được kỹ năng gây ảnh hưởng lại phải tìm kiếm các kế hoạch thay đổi khác, lại lựa chọn chỉ một phần chiến lược và tiếp tục thực hiện mà không đạt hiệu quả. Họ sẽ còn thất bại nhiều lần. Nếu một nguồn tác động không mang lại kết quả, hãy sử dụng các nguồn khác Các chiến lược cực kỳ đơn giản mà hầu hết mọi người sử dụng như lựa chọn kiểu quán ăn tự phục vụ luôn có điểm tương đồng. Khi cần tạo động lực cho người khác, chỉ cần một yếu tố tác động đủ mạnh cũng có thể thay thế tất cả các nguồn tác động khác. Ví dụ, bạn không thích công việc hiện tại, bạn không ưa đồng nghiệp, tuy nhiên, bạn vẫn đến công ty hàng ngày. Đó là vì bạn cần tiền. Tiền khiến bạn chấp nhận công việc tẻ nhạt và những đồng nghiệp khó ưa. Tương tự, khi có quyền lực trong tay, nhiều người thường sử dụng cách dọa nạt thay vì khích lệ. Tất nhiên, khi đó, nhân viên cấp dưới buộc phải làm việc tích cực hơn. Nhưng khi bị thúc ép quá đáng, nếu không được giám sát thường xuyên, kết quả mà họ mang đến không phải lúc nào cũng tốt. Tệ hơn, việc lạm dụng quyền hạn sẽ biến những người có quyền lực trở thành những ông chủ độc đoán, khó ưa. Những người không có khả năng xoay chuyển sẽ bào chữa cho lựa chọn sai lầm của mình bằng cách khẳng định và kiên trì với phương án họ đang sử dụng. Ngược lại, các bậc thầy xoay chuyển sẽ sử dụng các nguồn tác động khác thay vì theo đuổi vô vọng nguồn tác động yếu kém duy nhất đã chọn. Ví dụ, những người sử dụng chiến thuật thay đổi dựa vào động cơ bên ngoài thường không biết tầm quan trọng và vai trò tạo động lực của các yếu tố bên trong. Những người có khả năng gây ảnh hưởng dễ dàng thành công hơn nhờ sử dụng cùng lúc nhiều nguồn tác động. Nói cách khác, họ sẽ hợp tác thay vì phản ứng lại áp lực từ đồng nghiệp. Họ tạo ra mối liên hệ giữa những hành vi mang tính quyết định và phương thức khen thưởng hợp lý. Tóm lại, họ liên kết tất cả các nguồn động lực với các hành vi mang tính quyết định. Đối với các vấn đề liên quan tới năng lực, việc khéo léo sắp xếp công việc để đảm bảo thành công rất quan trọng. Khi năng lực hạn chế, một nguồn tác động tích cực không thể thay thế các nguồn khác. Ngược lại, chỉ một yếu tố gây trở ngại cũng đủ khiến các nguồn tác động trở nên vô nghĩa. Ví dụ, tại công sở, bạn hoàn toàn có thể làm xong phần việc của mình, nhưng nếu người cung cấp vật liệu và thông tin bạn cần không thể hoàn thành phần việc của họ, rõ ràng, bạn sẽ gặp khó khăn. Thậm chí, ngay cả khi những người khác hoàn thành tốt nhiệm vụ của họ nhưng hệ thống máy tính hỏng, bạn cũng không thể hoàn thành công việc đúng tiến độ. Sai lầm mà những người ít có khả năng gây ảnh hưởng thường mắc phải khi nỗ lực tìm kiếm sự thay đổi không phải ở chỗ họ cố gắng thay thế các nguồn tác động không hiệu quả bằng nguồn tác động mạnh hơn. Sai lầm phổ biến của họ là họ chỉ tập trung vào một rào cản, cố gắng loại bỏ nó và cho rằng thế là thành công. Nhưng đằng sau mỗi rào cản đó có đến sáu nguồn tác động và rất nhiều yếu tố cần lưu tâm khác. Đằng sau mỗi vấn đề dai dẳng, sự bảo thủ là rào cản tiêu cực. Nó khiến vấn đề trở nên khó khăn hơn. Ví dụ về việc chăm sóc sức khỏe của bạn. Khi nói chuyện với chuyên gia tư vấn sức khỏe, bạn cần hiểu rằng một triệu chứng nào đó xuất hiện nghĩa là bạn đang có một căn bệnh trong cơ thể. Một nghiên cứu gần đây chỉ ra rằng những bệnh nhân nói: “Vâng, có vẻ như tôi đã bị bệnh X, nhưng liệu có còn bị bệnh gì khác không?” có nhiều khả năng chữa trị thành công và có sức khỏe tốt hơn những người tin rằng chỉ cần tìm ra nguyên nhân và chữa trị thành công một căn bệnh thì họ sẽ khỏe mạnh. Hầu hết chúng ta đều thuận theo khuynh hướng tự nhiên và bỏ qua rất nhiều công cụ có thể giúp làm việc tốt hơn. Khi cần xử lý các vấn đề cá nhân phức tạp, chúng ta thường không suy nghĩ và cân nhắc hành động. Ví dụ, trong môn học ảnh hưởng của năng lực lãnh đạo và kỹ năng xử thế, học sinh hiếm khi được dạy các hành vi cụ thể mà các em có thể thực hành đồng thời nhận được những nhận xét cụ thể của giáo viên. Những điều các em được học là một hệ tư tưởng không đầy đủ và khó có thể dẫn đến sự thay đổi hành vi. Khả năng chống lại sự cám dỗ hiếm khi được nhìn nhận như một kỹ năng. Trái lại, nó bị quy chụp là yếu tố di truyền, nét tính cách do bộ gen quy định. Đó là lý do tại sao không ai luyện tập các phương pháp kiềm chế sự hài lòng. Khi chúng ta không tin năng lực chiến thắng cám dỗ là một kỹ năng, chúng ta sẽ sử dụng bất cứ nguồn động lực nào có thể. Cuối cùng, những thất bại không thể tránh khỏi khiến ta đánh mất niềm tin, trở nên tuyệt vọng, không còn hứng thú tìm kiếm và học hỏi những kỹ năng mới và tốt hơn. Nguồn vốn xã hội cũng chứa đựng rất nhiều yếu tố có khả năng tạo ra thay đổi, nhưng vẫn chưa được khai thác đúng mức. Chúng ta thường cho rằng trong mỗi cuộc chiến tranh, chỉ duy nhất một người giành chiến thắng. Những người hùng luôn được nhắc tên riêng, không phải là cái tên tập thể như “nhóm” hay “đội”. Vì thế, nhiều người cho rằng đề nghị người khác giúp đỡ là một hành động thể hiện sự yếu đuối chứ không phải một chiến lược khôn ngoan. Các bậc thầy xoay chuyển hàng đầu hiểu rõ điều này. Họ xác định những cá nhân quan trọng trong nỗ lực thay đổi nhằm mang lại thành công. Họ biết tận dụng ảnh hưởng từ đồng nghiệp và đảm bảo các quy ước xã hội sẽ hỗ trợ chứ không cản trở các nỗ lực thay đổi. Hầu hết mọi người đều không ý thức được sức mạnh của môi trường vật chất trong việc tạo ra sự thay đổi. Đây là nguồn tiềm năng chưa được khai thác đúng mức. Chúng ta hiếm khi nhìn thấy ảnh hưởng của môi trường vật chất đối với bản thân, vì vậy, không thể áp dụng yếu tố môi trường như một nguồn tác động để tạo ra sự thay đổi. Nói cách khác, bạn cần sử dụng cả sáu nguồn tác động khi xây dựng chiến thuật xoay chuyển. Đừng coi các công cụ xoay chuyển giống như các công cụ lựa chọn món ăn trong tiệc búp phê, hãy coi chúng như một hướng tiếp cận toàn diện để tạo ra những thay đổi lớn có tính hệ thống và lâu dài. Hãy lưu tâm tới cả hai nguồn xoay chuyển: sử dụng động lực và năng lực. Sau đó, hãy khám phá kết quả đạt được bằng cách áp dụng sức mạnh cá nhân, xã hội và cấu trúc để giải quyết vấn đề. Lúc này, bạn có trong tay cả sáu nguồn lực xoay chuyển. Hãy tận dụng chúng tối đa! BIẾN THAY ĐỔI THÀNH TẤT YẾU Hãy tìm hiểu khái niệm hiện thực hóa những thay đổi. Khả năng này, hơn bất cứ yếu tố nào, giúp phân biệt tác nhân xoay chuyển bậc thầy với những người khác. Họ thường xác định các hành vi mang tính quyết định để hiện thực hóa những thay đổi. Điều này có nghĩa là họ thường xuyên xem xét cả sáu nguồn lực xoay chuyển, tìm kiếm phương pháp từ trong đó và tiếp tục bổ sung những chiến thuật xoay chuyển mới trong khi những người khác đã ngừng tìm kiếm đòn bẩy cho những thay đổi. Họ thực hiện công việc đó với những lý do tích cực. Điều thường thấy là những thay đổi họ mong muốn bao giờ cũng rất táo bạo, dường như vô vọng, đến mức họ cần sử dụng mọi nguồn lực xoay chuyển mạnh mẽ. TỔNG KẾT Hãy kiểm nghiệm xem các nguyên tắc chúng ta đã bàn có thể kết hợp với nhau như thế nào trong một ví dụ cụ thể. Chúng tôi từng làm việc với đội ngũ quản lý của một công ty để xử lý một vấn đề nghiêm trọng. Lãnh đạo công ty đã áp dụng phương thức xoay chuyển theo gợi ý của chúng tôi để giải quyết yếu kém trong việc thực hiện các cam kết của công ty. Trong công ty, các nhân viên rất giỏi đưa ra cam kết nhưng không thể thực hiện chúng. Với mỗi dự án mới, ban giám đốc đặt ra mục tiêu rõ ràng và trưởng các phòng ban đều tán thành triển vọng và tiến độ hoàn thành của dự án. Nhưng sau đó, một vài phòng ban không đảm bảo tiến độ công việc khiến toàn bộ dự án bị trì hoãn. Thói quen hoàn thành không đúng tiến độ khiến lãnh đạo công ty phải đau đầu với những lời phàn nàn của khách hàng. Chi phí cho sự chậm trễ và rắc rối tăng đến mức không kiểm soát được. Công ty bị mất uy tín và thiệt hại vì không hoàn thành cam kết. Khách hàng quen ít dần còn khách hàng mới lại vô cùng khó kiếm. Để xác định các hành vi “tự thua” và dẫn đến thất bại, một nhóm bao gồm một số thành viên ban giám đốc và chúng tôi đã tiến hành phỏng vấn các nhà quản lý và nhân viên dự án. Kết quả là mọi người đều biết rất rõ thất bại và cả nguyên nhân của thất bại. Một trong những điều phi lý mà chúng tôi biết là các giám đốc chỉ đưa ra kế hoạch mà không hề xem xét khả năng hoàn thành thực tế của nhân viên. Một nhà quản lý dự án giải thích: “Ngay từ đầu, chúng tôi đã biết không thể hoàn thành dự án vì không có đủ nguồn cần thiết. Nếu phơi bày ra, dự án của chúng tôi chẳng khác gì một con tàu đang bị phá hỏng dần. Chúng tôi biết rõ là dự án sẽ không thể hoàn thành nhưng chỉ có thể ngồi đó và nhìn nó đi vào ngõ cụt.” Một nhà quản lý dự án khác giải thích rằng toàn bộ đội ngũ tham gia dự án đang cùng “chơi” một trò chơi mạo hiểm. Trong mọi cuộc họp trù bị và triển khai, các nhà quản lý dự án đều khẳng định họ đang đầu tư đúng chỗ và đúng tiến độ. Thực tế lại khác, họ đang cầu mong ai đó không hoàn thành tiến độ và phải chịu toàn bộ trách nhiệm trong khi những người khác thoát tội. Đó là một trò chơi nguy hiểm; nó khiến các nhà quản lý đấu đá lẫn nhau và cuối cùng, khách hàng là người chịu thiệt. Chúng tôi phát hiện rằng các dự án của công ty thất bại vì trước tiên, người phụ trách dự án không hoàn thành nhiệm vụ. Với mỗi dự án, một lãnh đạo cấp cao sẽ được chỉ định phụ trách. Công việc của ông ta là chịu trách nhiệm về mọi việc liên quan đến dự án. Trên lý thuyết, người này sẽ phải giúp toàn bộ đội ngũ thực hiện hiểu về dự án sẽ triển khai vì chính họ sẽ phải cạnh tranh với các lãnh đạo khác để có được nguồn vốn cần thiết. Nếu có vấn đề gì xảy ra, ông ta cần tìm kiếm các nguồn vốn thay thế cần thiết, bổ sung nhân sự để mọi việc trở về đúng quỹ đạo. Vấn đề ở chỗ những người phụ trách dự án lại thường vắng mặt trong các cuộc họp, do vậy quan điểm giữa các phòng ban không thống nhất và không thể lôi kéo các lãnh đạo khác hỗ trợ cho dự án. Đội ngũ thực hiện dự án không nhận được sự chỉ đạo cần thiết và đương nhiên, toàn bộ dự án sẽ bị chững lại. Một dự án tiêu tốn hàng nghìn giờ của nhân viên và hơn một triệu đô-la vốn đầu tư mà không đạt được kết quả gì. Nhưng thất bại đau đớn nhất là chỉ sau nửa thời gian triển khai dự án, ai cũng biết nó sẽ thất bại bởi người phụ trách dự án không làm gì để thúc đẩy các cam kết, tìm kiếm trợ giúp từ các cổ đông hay thậm chí chỉ là thể hiện tinh thần trách nhiệm. Tất nhiên, mọi người vẫn có mặt đầy đủ trong các cuộc họp, nhưng chỉ để ngồi nghịch điện thoại di động vì rõ ràng, những cuộc họp đó không mang lại lợi ích gì. Tìm kiếm hành vi mang tính quyết định Để tìm hướng giải quyết và thay đổi lối tư duy sợ hãi và thất bại, chúng tôi đã tìm hiểu xem có nhà quản lý dự án hay trưởng phòng nào thường hoàn thành đúng tiến độ công việc không. Chúng tôi muốn xem cách họ làm việc. Và chúng tôi đã tìm ra. Cùng với ban giám đốc, chúng tôi đã nghiên cứu những hình mẫu tích cực này. Khi nghiên cứu các nhà quản lý thành công, chúng tôi hiểu vì sao họ thành công còn những người khác thất bại. Ví dụ, trong một cuộc họp quan trọng, chúng tôi quan sát một người xử lý việc lên kế hoạch phi thực tế. Một giám đốc cấp cao đã cam kết hoàn thành đúng hạn khi chưa xem xét khả năng thực hiện của công ty. Khi phải giải trình về quyết định sai lầm đó, vị giám đốc trở nên bảo thủ. Bà ta nói sẽ thuê người ngoài làm nếu đội ngũ nhân viên công ty không làm được. Điều kỳ diệu đã xảy ra. Chúng tôi quan sát nhà quản lý dự án đầy kinh nghiệm xử lý vấn đề. Chị tránh thái độ đối đầu và điềm tĩnh khẳng định mục đích chung của đội ngũ quản lý dự án và vị giám đốc kia. Khi rời phòng họp, chị đã có một dự án thực tế hơn nhiều, có được sự ủng hộ của bà giám đốc và hơn hết, có được sự đồng thuận về những cam kết cho các dự án trong tương lai. Quan sát người phụ nữ này và các tấm gương điển hình khác, chúng tôi đi đến kết luận là các hành vi mang tính quyết định đảm bảo cho thành công của dự án cần phải xử lý cái mà chúng tôi gọi là “cuộc đàm phán mang tính quyết định”. Trên thực tế, bản thân việc thực hiện thành công những cuộc đàm phán mang tính quyết định chính là một hành vi mang tính quyết định. Trong cuốn Crucial conversations (Những cuộc đàm phán quyết định), chúng tôi đã chỉ ra những hành vi mang tính quyết định phổ biến như khả năng nói, được lắng nghe và khích lệ người khác làm điều tương tự bất kể vấn đề đó gây tranh cãi hay quan điểm của người đó khác biệt như thế nào. Khi đã tìm ra những hành vi mang tính quyết định cần thiết (chính là khả năng xử lý kế hoạch phi thực tế và sự vắng mặt của những người phụ trách dự án), công việc của chúng tôi là sử dụng mọi phương thức có thể để đảm bảo đạt được kết quả mong muốn. Chắc hẳn bạn sẽ biết phải làm gì để giúp mọi người thực hiện những hành vi mang tính quyết định và thay đổi lối suy nghĩ cũ. Thay đổi cách gây ảnh hưởng Chúng tôi biết chắc chắn một điều: thuyết phục bằng lời nói ít khi đạt được hiệu quả. Nói với một ai đó là họ cần đưa ra ý kiến khi chính họ đang không đồng tình với cấp trên hay vừa nghe một tin xấu chẳng khác gì thuyết phục họ ngây thơ và mạo hiểm phô ra các vấn đề công việc của mình hay bị coi như một kẻ suốt ngày chỉ biết ca thán. Tất nhiên, bạn không thể thành công. Điều chúng tôi cần làm là tìm cách thay đổi hai quan điểm của họ. Thứ nhất, họ cần tin tưởng rằng mình có thể nói thẳng thắn mà không bị xem là nổi loạn hay bạc nhược. Thứ hai, họ cần tin tưởng rằng nếu mình có thể đưa ra ý kiến phản đối thì mình và đồng nghiệp sẽ có sự lựa chọn đúng đắn về thời hạn hoàn thành công việc, nguồn vốn và cuối cùng, có thể hoàn thành mục tiêu đề ra. BIẾN THAY ĐỔI THÀNH TẤT YẾU Để thay thế sự sợ hãi cố hữu bằng niềm tin đang lớn dần từng ngày, các nhân viên không cần bất cứ bài giảng nào. Thứ họ cần là cải thiện kỹ năng thực tế của mình (Năng lực cá nhân). Để làm được điều đó, chúng tôi đã chọn ra những hành vi tương đối phức tạp mà những người có khả năng xử lý mọi việc và luôn cân nhắc hành động đã thực hiện. Chúng tôi chia các kỹ năng thành các phần dễ học và đưa vào các ví dụ thực tế, tích cực. Mọi người được luyện tập kỹ năng mới trong môi trường đào tạo mà họ cảm thấy an toàn. Người hướng dẫn luôn sẵn sàng giúp đỡ và đưa ra nhận xét. Cuối cùng, khi năng lực được cải thiện, họ bắt đầu tin rằng mình có thể nói lên suy nghĩ mà không bị phê phán. Nhưng không dừng lại ở đó, chúng tôi còn giúp các nhân viên tìm ra mối liên hệ giữa các kỹ năng mới với hình mẫu họ mong muốn trở thành và giá trị thực của họ (Động lực cá nhân). Họ được yêu cầu học các kỹ năng mới không phải vì đó là những kiến thức mới mẻ mà vì nhờ chúng, họ có cơ hội trở thành mẫu người mà mình mong muốn. Không ai muốn trở thành nạn nhân của một dự án thất bại, dối trá về thiện ý của mình, cầu mong điều tồi tệ xảy ra với đồng nghiệp. Vì thế, trong quá trình tập huấn, mọi người đã bàn luận cởi mở về văn hóa công ty và những ảnh hưởng xấu của nó đến giá trị và niềm tin. Họ bàn về điều cần thiết để trở thành một đội ngũ làm việc chuyên nghiệp thay vì một nhóm người lừa dối! Chúng tôi còn giúp các lãnh đạo nhóm thấy được hậu quả trực tiếp của việc không bám sát dự án hay lập những kế hoạch phi thực tế. Chúng tôi yêu cầu họ bỏ ra một buổi cuối tuần để xem xét vấn đề do việc gây áp lực buộc nhân viên cấp dưới hoàn thành công việc đúng tiến độ mà không suy xét thấu đáo. Đến lúc này, một Giám đốc điều hành đã phải thừa nhận cuộc hôn nhân của anh ta chút nữa đã đổ vỡ chỉ vì anh ta không thể về nhà thường xuyên vào cuối tuần trong hơn một năm. Đội ngũ lãnh đạo sau đó đã hoàn toàn thay đổi quan điểm về trách nhiệm trong công việc. Để tạo ra những động lực mới cho việc học tập và thực hiện những hành vi mang tính quyết định, chúng tôi đã tìm kiếm sự hỗ trợ từ xã hội (Động lực xã hội). Đầu tiên, chúng tôi tìm tới các nhà lãnh đạo về đường lối, đề nghị họ giúp đỡ và đi đầu trong nỗ lực thay đổi. Họ là những người đầu tiên được tập huấn. Sau khi học được những kỹ năng trực tiếp giúp họ xử lý những vấn đề nan giải mà họ phải đương đầu trong những năm qua, đồng thời nhìn thấy được lợi ích to lớn của việc học tập và áp dụng các kỹ năng này, các nhà lãnh đạo về đường lối đã khích lệ nhiệt tình cấp dưới và đồng nghiệp tham gia tập huấn sử dụng các kỹ năng đó. Để biến những câu chữ đơn thuần thành kinh nghiệm quý báu, một vài người đã kể lại những câu chuyện cảm động về lợi ích họ có được từ các kỹ năng này. Để giúp các nhân viên sử dụng các kỹ năng trên hàng ngày, họ được phân thành các nhóm nhỏ, mỗi nhóm được tập huấn riêng với sự trợ giúp của trưởng nhóm. Mỗi nhóm gồm ba người. Sau khi việc tập huấn kết thúc, nhóm đó sẽ gặp nhau và thảo luận về việc họ đã làm thế nào để nắm bắt và xử lý vấn đề trước đó. Họ thường gặp nhau vào buổi trưa và giúp nhau chuẩn bị cho những cuộc đàm phán quan trọng. Các giám đốc tạo thêm động lực để từng bước xây dựng và nắm bắt các hành vi mang tính quyết định bằng việc bổ sung các hành vi cần hướng tới trong các cuộc họp báo cáo công việc và quyết định mức thưởng hàng năm (Động lực tổ chức). Nhân viên được đánh giá theo các kỹ năng mà họ có được sau tập huấn. Thêm nữa, tùy theo mức độ cải thiện hành vi mang tính quyết định trong toàn công ty, đội ngũ quản lý cấp cao sẽ có được thêm 25% tiền thưởng. Tất cả các hành động này đã giúp cải thiện dần tình hình. Cuối cùng, để tận dụng tốt tác động của môi trường làm việc, mỗi phòng họp đều treo các biển báo hay hình ảnh về các kỹ năng cần dùng khi xử lý các vấn đề của dự án (Năng lực tổ chức). Các lãnh đạo cũng có một danh sách các kỹ năng cơ bản đặt bên trên lịch họp để nhắc nhở họ ôn lại một hoặc vài yếu tố trong mỗi buổi họp. Sau đó, để tăng cường sức mạnh tập thể, hai nhóm trước kia có xích mích trong công việc được chuyển đến làm cùng khu vực. Ở đó, việc tiếp xúc thường xuyên giúp họ hợp tác và hỗ trợ nhau nhiều hơn. Hãy xem xét cẩn thận những nguyên tắc chúng tôi trình bày trong cuốn sách này. Đội ngũ đổi mới đặc biệt này đã có thể vượt qua vấn đề nan giải nhất. Chúng tôi biết họ thành công bởi chính chúng tôi đã khảo sát kết quả mà họ đạt được. Bằng cách tính toán trước các hành vi mang tính quyết định, sau đó tìm mối liên quan giữa những cải biến về hành vi với các chỉ số cơ bản thể hiện thành tích làm việc, nhóm nghiên cứu đã phát hiện không chỉ những hành vi mang tính quyết định tăng nhanh mà đồng thời với mỗi phần trăm tăng lên của hành vi mang tính quyết định đó, năng suất cũng được cải thiện tới 1,5 triệu đô-la. Việc cải thiện hành vi mang tính quyết định còn có ảnh hưởng tương tự tới chỉ số chất lượng và sự hài lòng của khách hàng. Bằng cách áp dụng các nguyên tắc tác động và các chiến lược gây ảnh hưởng mà chúng tôi đã nghiên cứu – không phải chỉ một vài phương pháp – nhóm đổi mới đã giải quyết thành công vấn đề hóc búa và nan giải. Họ chính là những tác nhân gây ảnh hưởng chân chính. LỜI MỜI TỪ NHÓM TÁC GIẢ Những cá nhân có khả năng gây ảnh hưởng không chỉ quyết định được kết quả công việc của mình mà họ còn hiếm khi làm việc riêng lẻ. Những vấn đề nan giải đòi hỏi phải có sự hợp tác của nhiều người. Khi ngày càng có nhiều người áp dụng những công trình nghiên cứu và học theo cách làm việc của các tiến sĩ Bandura, Silbert, Hopkins, Berwick và những bậc thầy xoay chuyển khác, một cộng đồng mới của những con người có khả năng gây ảnh hưởng đã được hình thành và dần lớn mạnh mỗi ngày. Bằng cách cùng nhau làm việc và sử dụng mọi công cụ tác động có thể nhằm giải quyết vấn đề, nhóm chuyên gia này đã dạy cho chúng ta một bài học: Đừng vội tìm kiếm sự bình yên. Họ đã cho chúng ta thấy sức mạnh tập thể lớn hơn rất nhiều so với phép cộng cơ học khả năng của mỗi cá nhân. Họ đã dạy chúng ta một trong những bài học quan trọng nhất của cuộc đời khi cải tạo được những tên tội phạm, những con nghiện trở thành những công dân có ích, khôi phục các công ty, xóa bỏ bệnh dịch… Khi bạn nắm được các chiến thuật gây ảnh hưởng, bạn có thể thay đổi bất kỳ điều gì. Mời các bạn đón đọc Nghệ Thuật Xoay Chuyển Tình Thế của tác giả Nhiều Tác Giả.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Nền Tảng Và Ứng Dụng Của Bản Đồ Tư Duy
“Nền Tảng & Ứng Dụng Của Bản Đồ Tư Duy” là sự chỉ dẫn căn bản cho quá trình làm quen với Bản đồ Tư duy. Với công cụ Bản đồ Tư duy, Tony Buzan đã thay đổi cuộc sống của hàng triệu người trên thế giới - và hệ thống ghi chép mang tính đột phá của ông sẽ giúp bạn đạt được những thành tích xuất sắc trong mọi lĩnh vực của đời sống: • Tìm ra những ý tưởng tuyệt vời • Có giải pháp sáng tạo • Đặt mục tiêu và hoàn thành mục tiêu • Tạo động lực hành động cho bản thân và cho cả người khác • Tăng cường khả năng ghi nhớ Ngoài ra, những ví dụ sinh động được minh họa trong suốt nội dung sách, từ sự kỳ diệu của bộ não đến các công cụ tư duy thú vị, và những tình huống lập Bản đồ Tư duy cụ thể (như cách chủ trì một cuộc họp, chuẩn bị cho một buổi phỏng vấn xin việc, chuyện khởi nghiệp, lên kế hoạch cho hoạt động của cả nhà, kế hoạch “giữ dáng”,…) sẽ giúp bạn hiểu vì sao Bản đồ Tư duy lại là một công cụ tư duy vô cùng hiệu quả và có thể giúp bạn khơi dậy năng lực trí tuệ thiên phú của mình, đồng thời giúp bạn tỏa sáng trong mọi lĩnh vực bạn trải nghiệm. “Nền Tảng & Ứng Dụng Của Bản Đồ Tư Duy” sẽ cung cấp những chỉ dẫn đáng tin cậy để bạn có thể sử dụng được công cụ tuyệt vời ấy. Chương 1 - Bản đồ Tư duy là gì? - giới thiệu về Bản đồ Tư duy và những “quy luật” căn bản về Bản đồ Tư duy. Chương này cũng hướng dẫn từng bước để bạn biết cách lập nên Bản đồ Tư duy đầu tiên của mình. Chương 2 - Hiểu bộ não, giải phóng tiềm năng của bản thân - khám phá sâu hơn, để hiểu tại sao việc dùng Bản đồ Tư duy mang lại hiệu quả, cũng như cách thức mà công cụ này thực sự giúp bộ não học hỏi và tư duy sáng tạo. Chương 3 - Mô hình cải thiện kiểu tư duy lối mòn - giúp bạn tìm hiểu phương pháp học tập. Chương này cung cấp cho bạn một mô hình học tập và thành công vô cùng đơn giản và hiệu quả mà bạn có thể kếp hợp sử dụng với Bản đồ Tư duy. Với mô hình TEFCAS và Bản đồ Tư duy, bạn sẽ luôn thành công. Chương 4 - Mối liên hệ giữa sức khỏe thể chất và sức mạnh trí tuệ - nhấn mạnh tầm quan trọng của nền tảng thể chất đối với sức mạnh trí tuệ. Chương này sẽ chỉ cho bạn thấy những cách thức tối ưu giúp bạn đạt được sự cân bằng trong các hoạt động rèn luyện, ngủ nghỉ, trong chế độ dinh dưỡng chất lượng của bạn, và làm thế nào mà Bản đồ Tư duy có thể giúp bạn đạt được sự cân bằng này. Chương 5 - Chương cuối cùng, về Bản đồ Tư duy và những thành công trong cuộc sống hàng ngày. Chương này sẽ giới thiệu với bạn một vài cách (trong vô vàn cách) sử dụng Bản đồ Tư duy để lập kế hoạch trong môi trường công sở, trong đời sống xã hội và trong mọi khía cạnh của cuộc sống thường ngày. Bạn có thể dùng các Bản đồ Tư duy ví dụ ở chương này để tự mình tìm kiếm cảm hứng và khả năng tưởng tượng tuyệt vời của bản thân, và bạn có thể an tâm vì bạn sẽ thể hiện tài năng và giá trị của mình trong mọi việc, mọi tình huống. Bản đồ Tư duy đã thay đổi cuộc sống của tôi theo hướng tốt đẹp hơn, một cách tuyệt vời và đáng kinh ngạc. Tôi biết chúng cũng sẽ có tác dụng tương tự với bạn. Hãy sẵn sàng đón nhận những điều lý thú! *** Bây giờ, bạn đã sở hữu công cụ tư duy tuyệt vời này, nó có thể thay đổi vĩnh viễn cách tư duy của bạn. Khi sử dụng Bản đồ Tư duy làm cơ sở cho cuộc sống hàng ngày, bạn sẽ thấy rằng cuộc sống bạn dần trở nên hữu ích hơn, trọn vẹn hơn và thành công hơn, dù ở bất kỳ cấp độ nào: * Bạn có thể đạt được những gì mình muốn. * Bạn có thể trở thành một người luôn dồi dào những ý tưởng. * Bạn có thể trở thành một người hoạt động hiệu quả hơn, năng động hơn. * Bạn có thể hiện thực hóa những ước mơ của mình. Cũng như một bản đồ đường đi thông thường, Bản đồ Tư duy sẽ giúp bạn đi từ địa điểm hiện tại đến nơi bạn muốn đến. Như những gì bạn đã tìm hiểu suốt quyển sách này, Bản đồ Tư duy vô cùng hiệu quả bởi chúng phối hợp với hoạt động của bộ não bạn, cũng như cách vận hành tự nhiên của chúng: tự nhận biết những mối liên hệ đáng ngạc nhiên và những Bản đồ Tư duy của ý nghĩ đang trải khắp trong não bạn. Nói tóm lại, chúng hoạt động dựa trên khao khát, tưởng tượng và liên hệ vô cùng quan trọng của bộ não. Vì lẽ này, việc lập Bản đồ Tư duy là hoạt động kết dẫn và phối hợp những gì diễn ra trong đầu bạn với những gì bạn viết lên giấy. Như đã biết, không có một giới hạn về số lượng đối với những suy nghĩ, ý tưởng và các liên kết synapse mà não bạn có thể thực hiện. Điều này có nghĩa là không có giới hạn nào về những lợi ích mà Bản đồ Tư duy có thể mang đến cho bạn. Tôi chúc bạn thành công và tận hưởng mọi điều trong chuyến hành trình khám phá Bản đồ Tư duy với những khả năng tuyệt vời của bộ não.   Mời các bạn đón đọc Nền Tảng Và Ứng Dụng Của Bản Đồ Tư Duy của tác giả Tony Buzan.
The Inevitable: Làm Chủ Công Nghệ Làm Chủ Tương Lai
Khi tôi 13 tuổi, bố dẫn tôi đến thăm quan triển lãm thương mại máy vi tính tại thành phố Atlantic, New Jersey. Đó là năm 1965 và bố tôi đã vô cùng phấn khích khi nhìn thấy những cỗ máy to bằng cả căn phòng được sản xuất bởi những công ty hàng đầu của Mỹ như IBM. Bố tôi tin tưởng vào bước tiến này, và ông cho rằng những chiếc máy tính đầu tiên ấy sẽ mở ra cánh cửa hướng đến tương lai. Tuy nhiên, là một thiếu niên bình thường, tôi chẳng có chút ấn tượng gì về mấy cái máy tính đó. Trông chúng thật tẻ nhạt khi nằm trong sảnh trưng bày rộng lớn. Chẳng có gì để xem ngoại trừ hàng dãy hộp máy kim loại hình chữ nhật bất động. Chẳng có màn hình nhấp nháy, cũng không có thiết bị âm thanh đầu vào, đầu ra. Việc duy nhất những chiếc máy có thể làm là in ra từng hàng chữ số màu xám trên những tờ giấy đã được gấp gọn. Vốn đã biết về máy tính thông qua những cuốn sách viễn tưởng sống động, tôi chẳng thể tin những cái máy này là máy tính thực sự. Năm 1981, tôi được đặt tay lên chiếc máy tính Apple II tại phòng thí nghiệm của trường Đại học Georgia nơi tôi làm việc. Mặc dù chiếc máy này có một màn hình màu đen và xanh để hiển thị văn bản, tôi vẫn chẳng mấy ấn tượng với nó. Apple II có thể gõ văn bản tốt hơn một cái máy đánh chữ, và nó thực sự là một chuyên gia về số đồ thị và ghi chép dữ liệu, nhưng đối với tôi, đó vẫn chưa phải một chiếc máy tính thực sự. Nó chẳng làm cuộc đời tôi thay đổi chút nào. Thế nhưng chỉ một vài tháng sau, tôi đã thay đổi quan điểm hoàn toàn khi thử cắm chính chiếc Apple II đó vào đường dây điện thoại với một cái modem1. Lúc ấy, mọi thứ đột ngột thay đổi. Có cả một vũ trụ rộng lớn và gần như vô tận xuất hiện ở đầu kia của giác cắm điện thoại. Ở đó có các bản tin trực tuyến2, các hội nghị trực tuyến thử nghiệm, và thế giới đó được gọi là Internet (mạng). Cổng thông tin qua đường dây điện thoại đã mở ra một thế giới rộng lớn mà vẫn ở quy mô vừa đủ với loài người. Nó có tổ chức, kết cấu và rất tuyệt vời. Nó kết nối con người và máy móc theo một cách cá nhân. Tôi có thể thấy cuộc đời mình đã đi lên một tầm cao mới. Khi nhìn lại dòng lịch sử, tôi cho rằng thời đại của máy vi tính chỉ mới thực sự bắt đầu ở khoảnh khắc ấy, khi máy tính được kết nối với điện thoại. Chỉ riêng máy tính thôi thì không đủ. Những tính năng có giá trị của máy tính đến những năm 1980 mới xuất hiện, khi máy tính được kết hợp với điện thoại để làm nên một thiết bị hỗn hợp. 1 Thiết bị điện tử cho phép một máy tính truyền tin đến một máy tính khác ở khoảng cách xa thông qua đường dây điện thoại tiêu chuẩn. 2 Diễn đàn trực tuyến nơi người tham gia có thể đăng nhập để chia sẻ thông tin và ý tưởng. Hệ thống bản tin trực tuyến đã trở thành một cộng đồng trực tuyến chủ đạo để trao đổi giữa người dùng những năm 1980 và đầu những năm 1990, trước khi hệ thống mạng lưới toàn cầu (world wide web) ra đời. Trong ba thập kỷ sau đó, sự kết hợp công nghệ giữa truyền thông và tính toán ngày một nở rộ và phát triển. Hệ thống Internet (mạng kết nối máy tính), web (mạng kết nối người dùng) và di động từ chỗ chỉ được một bộ phận trong xã hội biết đến (năm 1981) nay đã tiến vào vũ đài trung tâm của xã hội hiện đại toàn cầu. Trong vòng 30 năm, nền kinh tế xã hội dựa trên công nghệ đã có những lúc thăng trầm, với những nhà kinh doanh phất lên rồi lại chìm xuống. Nhưng rõ ràng là đã có một xu hướng ở quy mô lớn chi phối những gì đã diễn ra suốt 30 năm qua. Những xu hướng có tính lịch sử này đóng vai trò quan trọng bởi những điều kiện thúc đẩy nền tảng của chúng vẫn còn có giá trị và đang tiếp tục phát triển. Và một khi điều kiện còn, thì những xu hướng ấy vẫn sẽ tiếp diễn trong vài thập kỷ tới mà không thứ gì có thể ngăn lại được. Thậm chí những thế lực có thể gây cản trở như tội phạm, chiến tranh hay những hành động vượt quá giới hạn của con người cũng sẽ đi theo xu hướng này. Trong cuốn sách này, tôi sẽ mô tả 12 sức mạnh công nghệ định hình tương lai của chúng ta trong 30 năm tới. “Tất yếu” là một tính từ mạnh. Đối với một số người, đây có thể là lời tuyên chiến, bởi họ luôn phản đối rằng chẳng có gì là tất yếu. Họ cho rằng loài người với khả năng cung cấp năng lượng và có mục đích rõ ràng có thể và nên chuyển hướng, khống chế cũng như kiểm soát mọi xu hướng cơ khí. Theo họ, “điều tất yếu” chỉ xảy ra khi chúng ta đầu hàng ý chí. Khi ý niệm về sự tất yếu được gắn với những công nghệ hào nhoáng, như tôi đang làm trong cuốn sách này, sự phản đối một định mệnh được định sẵn lại càng dữ dội và quyết liệt hơn. Đã có người định nghĩa về “điều tất yếu” là kết quả cuối cùng của thí nghiệm tư duy kinh điển. Theo đó, nếu chúng ta lội ngược dòng lịch sử và sống lại thời kỳ khai hóa văn minh hết lần này đến lần khác, thì dù chúng ta có “tua lại” bao nhiêu lần, loài người vẫn luôn đi đến thời điểm năm 2016, khi các thiếu niên cứ năm phút một lại đăng một tweet. Nhưng đó không phải điều tôi muốn nói đến. Tôi muốn nói về sự tất yếu theo một cách khác. Luôn có một định kiến trong bản chất của công nghệ khiến nó nghiêng về một vài đường hướng nhất định. Trong khi mọi thứ đều ngang bằng, hai yếu tố đưa công nghệ đi lên là vật lý và toán học lại có xu hướng thiên vị một số hành vi. Những xu hướng này tồn tại chủ yếu trong những nhân tố tổng hợp định hình sự phát triển chung của các loại hình công nghệ chứ không điều chỉnh những trường hợp chi tiết và cụ thể. Chẳng hạn, sự hình thành Internet, một mạng lưới của các mạng lưới trải rộng toàn cầu, là điều không thể tránh khỏi, nhưng loại hình Internet cụ thể chúng ta lựa chọn thì chưa chắc đã xuất hiện. Bởi chúng có thể mang tính thương mại thay vì phi thương mại, mang tính quốc gia hơn là quốc tế hay mang tính cá nhân hơn là công khai. Tương tự, điện thoại, thiết bị liên lạc đường dài, là tất yếu, nhưng iPhone thì không. Phương tiện di chuyển bốn bánh là tất yếu, nhưng một chiếc ô tô SUV thì không. Và tin nhắn là tất yếu, nhưng đăng tin cứ năm phút một trên twitter thì không. Theo một cách hiểu khác, năm phút một lần đăng tweet không phải là điều chắc chắn xảy ra. Chúng ta đang tiến lên hối hả đến nỗi những sáng chế mới chúng ta tạo ra còn nhanh hơn tốc độ truyền bá và sử dụng thành thạo chúng. Ngày nay, chúng ta mất cả thập kỷ sau khi một công nghệ mới ra đời để đạt được đồng thuận trong xã hội về tính năng và cách sử dụng nó. Trong năm năm nữa chúng ta sẽ tìm được một cách sử dụng twitter lịch sự và thích đáng, giống như khi chúng ta phát hiện ra cần phải làm gì để giải quyết vấn đề điện thoại réo lên mọi nơi (đơn giản là tắt chuông và bật chế độ rung). Và như thế, bởi tốc độ ra đời của công nghệ quá nhanh, phản ứng đầu tiên của con người khi đón nhận một công nghệ mới sẽ sớm mất đi và chúng ta sẽ thấy nó chẳng còn cần thiết hay tất yếu nữa. “Điều tất yếu” mà tôi đang nói đến trong lĩnh vực kỹ thuật số chính là kết quả của động lực, một động lực của sự dịch chuyển công nghệ đang tiếp diễn. Làn sóng mạnh mẽ định hình công nghệ số trong 30 năm qua sẽ tiếp tục được mở rộng và củng cố trong 30 năm tới. Điều này không chỉ đúng với Bắc Mỹ, mà còn được áp dụng cho toàn thế giới. Trong cuốn sách này, tôi sử dụng những ví dụ quen thuộc ở Mỹ để độc giả dễ hiểu hơn, nhưng đối với mỗi ví dụ, tôi đều có thể dễ dàng lấy một trường hợp tương ứng ở Ấn Độ, Mali, Peru hay Estonia. Chẳng hạn, những người đi đầu thực sự của hệ thống thanh toán điện tử lại ở châu Phi và Afghanistan, nơi tiền kỹ thuật số đôi khi trở thành loại tiền tệ duy nhất được lưu hành. Trung Quốc hiện đang là nước dẫn đầu về phát triển các ứng dụng trên điện thoại di động. Trong khi yếu tố văn hóa có thể thúc đẩy hoặc cản trở các biểu hiện của công nghệ, những nhân tố nền tảng vẫn tồn tại ở mọi nơi. Sau khi sống trong thời đại công nghệ trực tuyến (online) suốt 30 năm, từ khi là người tiên phong trong một lĩnh vực tương đối hoang sơ và sau đó trở thành một phần đóng góp vào miền đất mới mẻ ấy, sự tự tin của tôi về tính tất yếu của công nghệ được dựa trên những thay đổi công nghệ sâu sắc mà tôi từng chứng kiến. Sự hấp dẫn của những công nghệ mới lạ vẫn xuất hiện mỗi ngày trong dòng chảy chậm chạp của cuộc sống. Gốc rễ của một thế giới số hóa nằm ở các nhu cầu vật chất và xu hướng tự nhiên của bit (đơn vị thông tin nhị phân), thông tin và mạng lưới. Bất kể ở điều kiện địa lý nào, trong công ty nào, hay nền chính trị nào, những đầu vào cơ bản của bit và mạng lưới sẽ mang đến những kết quả tương tự hết lần này đến lần khác. Tính tất yếu của công nghệ bắt nguồn từ tình trạng vật lý cơ bản của chúng. Trong cuốn sách này, tôi đã nỗ lực tìm đến nguồn gốc của công nghệ số để từ đó, tôi có thể đưa ra dự đoán về những xu hướng công nghệ bền vững trong ba thập kỷ tới. Tuy nhiên, không phải mọi sự dịch chuyển công nghệ sẽ đều được đón nhận. Những nền công nghiệp lâu đời sẽ bị lật đổ vì phương thức làm ăn lạc hậu của họ không còn hiệu quả. Toàn bộ ngành nghề sẽ biến mất, cùng với đó, đời sống của một bộ phận dân cư cũng bị ảnh hưởng. Những nghề nghiệp mới ra đời và sẽ phát triển một cách không đồng đều, từ đó gây ra sự ganh tị và bất công. Sự tiếp diễn và mở rộng của những xu hướng mà tôi chỉ ra sẽ thách thức các niềm tin pháp lý hiện hành và chạm đến phần rìa ngoài của vòng pháp luật, trở thành một rào cản cho các công dân tuân thủ luật pháp. Về bản chất, công nghệ mạng lưới kỹ thuật số sẽ làm ảnh hưởng đến biên giới quốc tế vì nó vốn không có giới hạn. Sẽ có những vụ việc đáng tiếc, những xung đột, những mập mờ lộn xộn và cả những lợi ích đáng kinh ngạc. Phản ứng đầu tiên của chúng ta khi đối mặt với sự thay đổi công nghệ mạnh mẽ trong lĩnh vực kỹ thuật số có lẽ sẽ là sự chối bỏ. Ban đầu, chúng ta sẽ tìm cách chấm dứt nó, ngăn cản, phủ nhận nó hay ít nhất là làm nó khó sử dụng hơn. Ví dụ, khi Internet khiến việc sao chép nhạc và phim ảnh dễ dàng hơn, Hollywood và nền công nghiệp âm nhạc tìm mọi cách để ngăn chặn việc sao chép, nhưng không có kết quả, các nhà sản xuất nhạc và phim chỉ càng làm cho các khách hàng đối đầu với họ. Ngăn cấm những điều tất yếu thường chỉ đem đến kết quả ngược lại. Cấm đoán là biện pháp tạm thời tốt nhất, nhưng vẫn gây phản tác dụng về lâu dài. Một đường lối thận trọng và cởi mở sẽ đem lại hiệu quả hơn nhiều. Mục đích của tôi khi viết cuốn sách này là tìm ra nguyên nhân của những thay đổi kỹ thuật số để chúng ta có thể nhiệt tình chấp nhận chúng. Khi tìm được nguyên nhân ấy, chúng ta có thể hợp tác với bản chất của chúng thay vì ra sức chống lại chúng. Việc sao chép hàng loạt đã và đang diễn ra, cũng như việc lần theo dấu vết và giám sát toàn phần. Quyền sở hữu đang dần mất đi. Còn thực tế ảo lại trở nên chân thực hơn bao giờ hết. Chúng ta không thể ngăn cản trí tuệ nhân tạo (AI)1 hay robot phát triển, làm việc và cướp đi việc làm của chúng ta. Đó có thể là phản ứng bước đầu của chúng ta, nhưng dần dần chúng ta nên chấp nhận sự tiến hóa không ngừng của những công nghệ này. Chỉ bằng cách làm việc cùng chúng thay vì ngăn chặn chúng, chúng ta mới có thể đạt được những lợi ích tốt nhất mà công nghệ mang đến. Điều này không có nghĩa là ta nên phó mặc mọi thứ cho công nghệ, mà vẫn cần kiểm soát và quản lý những phát minh mới để ngăn ngừa những mối nguy hại thực tế (so với những tác hại giả định) bằng biện pháp công nghệ và pháp lý. Chúng ta cần phải phổ biến rộng rãi và làm quen với việc sử dụng các phát minh mới tùy vào từng đặc tính cụ thể của chúng. Nhưng chúng ta chỉ có thể làm được như vậy nếu chúng ta tìm hiểu sâu, trải nghiệm thực tế và chấp nhận một cách thận trọng những công nghệ mới này. Chẳng hạn, chúng ta có thể và nên quản lý các dịch vụ taxi như Uber, nhưng chúng ta không thể và không nên hạn chế sự nhân rộng của các dịch vụ. Những công nghệ này sẽ không bao giờ biến mất. 1 Artificial intelligent. Thay đổi là tất yếu. Cho đến nay, chúng ta đã chấp nhận rằng mọi thứ có thể và đang được thay đổi, dù rằng có nhiều sự thay đổi không thể nhận thấy. Những ngọn núi cao nhất cũng đang mòn dần, trong khi mọi động vật và thực vật trên hành tinh cũng đang thay đổi vô cùng chậm chạp. Kể cả ánh dương vĩnh cửu cũng đang mờ dần đi trên lịch thiên văn, dù đến khi điều này dễ nhận thấy hơn thì chúng ta cũng lìa đời rồi. Sinh học và văn hóa cũng là một phần của sự chuyển biến gần như vô hình này. Trung tâm của những biến đổi này có lẽ chính là công nghệ. Công nghệ là nhân tố gia tốc của loài người. Nhờ có công nghệ, mọi thứ chúng ta làm ra đều nằm trong quá trình “trở thành”. Mọi thứ đều đang được cải tiến để trở thành một thứ khác, khi ta nói nó “có thể là” và dần chuyển thành nó “đích thực là” cái gì mới. Mọi thứ đều vận động. Không có gì đã kết thúc, cũng không có gì đã hoàn thành. Sự biến đổi không hồi kết này chính là trục xoay then chốt của thế giới hiện đại. Sự vận động không ngừng có nhiều ý nghĩa hơn chỉ đơn giản là “mọi thứ sẽ khác”. Nó có nghĩa rằng quy trình, cũng chính là động cơ của sự vận động, còn quan trọng hơn sản phẩm. Phát minh vĩ đại nhất của chúng ta trong suốt 200 năm qua không phải một vật dụng hay công cụ cụ thể mà là bản thân quy trình nghiên cứu khoa học. Khi phát minh ra một phương pháp khoa học, ngay lập tức chúng ta có thể tạo ra hàng nghìn thiết bị tuyệt vời mà chúng ta đã có thể không bao giờ khám phá ra. Quá trình tạo ra phương pháp làm nên thay đổi và cải tiến còn đáng giá hơn một triệu lần so với việc phát minh ra bất kỳ sản phẩm cụ thể nào, bởi kể từ khi được tạo ra, quá trình này đã làm ra một triệu sản phẩm mới trong hàng thế kỷ. Khi ta nắm bắt quá trình này một cách chính xác, nó sẽ không ngừng mang lại lợi ích. Trong kỷ nguyên mới của chúng ta, quy trình sẽ chiến thắng sản phẩm. Xu hướng chú trọng đến quy trình này đồng nghĩa với việc những thay đổi không ngừng sẽ là vận mệnh cho mọi thứ chúng ta tạo ra. Chúng ta đang dịch chuyển từ một thế giới của những danh từ cố định sang thế giới của những những động từ thể hiện chuyển động. Trong 30 năm tới, chúng ta sẽ tiếp tục biến những vật chất rắn như ô tô hay giày thành những động từ trừu tượng. Các sản phẩm sẽ trở thành các dịch vụ và các quy trình. Trong lĩnh vực số hóa phi vật chất, không có gì là bất động và cố định. Mọi thứ đều đang cải tiến để “trở thành” cái gì mới. Mọi gián đoạn của sự hiện đại đều bao trùm lên những thay đổi không ngừng này. Cho đến nay, tôi đã được chứng kiến sự bùng nổ của nhiều nguồn sức mạnh của công nghệ để có thể phân chia chúng thành 12 động từ, như truy cập, theo dấu và chia sẻ. Nói một cách chính xác, chúng không chỉ là động từ, mà còn là “hiện tại phân từ”, một thể ngữ pháp diễn tả hành động đang diễn ra. Và nguồn sức mạnh này là những hành động đang không ngừng tăng tốc. Trong đó mỗi hành động lại là một xu hướng đang tiếp diễn và có đầy đủ bằng chứng cho sự tồn tại của nó trong ít nhất ba thập kỷ tới. Tôi gọi những xu hướng biến đổi này là “tất yếu” vì chúng bắt rễ từ bản chất của công nghệ, chứ không phải từ bản chất của xã hội. Đặc tính của 12 động từ này đi liền với những định kiến của các công nghệ mới, một định kiến mà mọi công nghệ đều có. Trong khi những nhà chế tạo như chúng ta có thể đánh giá và đưa ra quyết định trong việc kiểm soát công nghệ, thì bản thân công nghệ cũng có những phần chúng ta không thể chi phối. Những quy trình công nghệ cụ thể tất yếu sẽ “thiên vị” và hướng đến những điều kiện cụ thể. Ví dụ, các quy trình công nghiệp (như động cơ hơi nước, nhà máy hóa chất, đập) thì cần nhiệt độ và áp suất ngoài sức chịu đựng của con người, còn các công nghệ số (như máy tính, Internet hay ứng dụng trực tuyến) thì cần được nhân rộng với giá rẻ và phổ biến ở mọi nơi. Sự thiên vị dành cho nhiệt độ và áp suất cao trong quá trình công nghiệp đã đẩy các khu chế tạo xa khỏi khu dân cư để đến những nhà máy tập trung quy mô lớn, bất kể đó là nền văn hóa, chính trị hay nền tảng xã hội nào. Cũng như vậy, sự thiên vị dành cho những bản sao tràn lan với giá rẻ của công nghệ số luôn xuất hiện mà không cần xét đến điều kiện về quốc tịch, kinh tế hay nhu cầu của con người, và do đó khiến công nghệ trở nên phổ biến trong xã hội. Những định kiến này đã được gắn vào bản chất của các bit kỹ thuật số. Trong cả hai ví dụ này, chúng ta hoàn toàn có thể tận dụng tối đa công nghệ khi “lắng nghe” điều nó cần và điều chỉnh các kỳ vọng, quy tắc cũng như các sản phẩm theo những xu hướng cơ bản của công nghệ. Nếu việc sử dụng công nghệ thuận theo xu hướng phát triển mang tính thiên vị, chúng ta sẽ dễ dàng kiểm soát những phức tạp, tối ưu hóa lợi ích và giảm thiểu những tác động xấu của các công nghệ cụ thể. Chính vì thế, mục đích của cuốn sách này là tập hợp lại và phơi bày ra trước mắt chúng ta những xu hướng đang vận động trong các công nghệ mới nhất này. Mười hai động từ tôi sắp xếp và chỉ ra trong cuốn sách này đại diện cho những thay đổi trong nền văn hóa của chúng ta trong tương lai gần. Những bước tiến lớn này đã và đang diễn ra trong thế giới ngày hôm nay. Còn những chi tiết cụ thể như việc công ty nào sẽ dẫn đầu thì được quyết định bởi xu hướng sở thích, phương thức và thương mại, những nhân tố hoàn toàn không thể dự đoán. Nhưng xu hướng chung của sản phẩm và dịch vụ trong 30 năm tới thì có thể nắm bắt được. Bởi về cơ bản, chúng bắt nguồn từ những công nghệ đang nổi lên và ngày càng trở nên phổ biến. Hệ thống công nghệ rộng lớn và phát triển nhanh chóng này sẽ làm thay đổi xã hội một cách khó nhận biết nhưng từ từ và chắc chắn. Nó sẽ mở rộng các nguồn sức mạnh sau: Trở thành, Cải tiến, Dòng chảy, Trình chiếu, Truy cập, Chia sẻ, Sàng lọc, Remix, Tương tác, Theo dấu, Đặt câu hỏi và Bắt đầu. Mặc dù tôi chia mỗi sự vận động kể trên thành một chương, nhưng chúng không phải là các động từ rời rạc hay những quá trình hoạt động độc lập. Trên thực tế, chúng là những nguồn sức mạnh có sự giao thoa, phụ thuộc và thúc đẩy nhau. Khó có thể nói về một nhân tố mà không đồng thời liên hệ đến các nhân tố khác. Sự chia sẻ gia tăng sẽ thúc đẩy và cùng lúc phụ thuộc vào dòng chảy. Cải tiến đòi hỏi sự theo dấu. Trình chiếu không thể tách rời với tương tác. Bản thân mỗi từ đã là một sự tháo và ráp lại (remix), và tất cả các sự vận động này là những biến chuyển đang trong quá trình trở thành. Chúng là một dòng chuyển động thống nhất. Những nguồn sức mạnh này là con đường, chứ không phải đích đến. Chúng không cho biết trước ta sẽ dừng lại ở đâu. Chúng chỉ cho ta biết rằng trong tương lai gần chúng ta tất yếu sẽ đi theo hướng nào. Mời các bạn đón đọc The Inevitable: Làm Chủ Công Nghệ Làm Chủ Tương Lai của tác giả Kevin Kelly.
Big Data - Dữ Liệu Lớn
Hiện nay, thế giới đang trở nên thông minh hơn. Chúng ta đang theo dõi và lưu trữ dữ liệu về mọi thứ, nên chúng ta có khả năng tiếp cận với nhiều khối dữ liệu lớn. Tuy nhiên, có rất nhiều vấn đề xoay quanh các khối dữ liệu lớn này. Tất cả chúng ta đều cần phải biết nó là gì và hoạt động như thế nào. Nhưng sự hiểu biết cơ bản về lý thuyết liệu có đủ cho bạn để tổ chức một cuộc họp chiến lược không? Điều khiến bạn trở nên khác với phần còn lại là biết cách sử dụng dữ liệu lớn để cải thiện hiệu suất và có được kết quả kinh doanh vững chắc. Cuốn sách Big Data – Dữ liệu lớn sẽ cung cấp cho bạn một sự hiểu biết rõ ràng, kế hoạch chi tiết và từng bước tiếp cận thông qua mô hình SMART: Khởi dầu với chiến lược, Đo lường các chỉ số và dữ liệu, Áp dụng các phương pháp phân tích, Báo cáo kết quả, Biến đổi doanh nghiệp. *** Đây là bản tóm tắt của sách Big Data - Dữ liệu lớn. Các nội dung trong sách đã được Alpha Books giản lược một cách ngắn gọn và cô đọng nhất song tổng thể vẫn đầy đủ so với bản gốc. Hiện nay, thế giới đang trở nên thông minh hơn. Chúng ta đang theo dõi và lưu trữ dữ liệu về mọi thứ, nên chúng ta có khả năng tiếp cận với nhiều khối dữ liệu lớn. Tuy nhiên, có rất nhiều vấn đề xoay quanh các khối dữ liệu lớn này. Tất cả chúng ta đều cần phải biết nó là gì và hoạt động như thế nào. Nhưng sự hiểu biết cơ bản về lý thuyết liệu có đủ cho bạn để tổ chức một cuộc họp chiến lược không? Điều khiến bạn trở nên khác với phần còn lại là biết cách sử dụng dữ liệu lớn để cải thiện hiệu suất và có được kết quả kinh doanh vững chắc. Cuốn sách Big Data – Dữ liệu lớn sẽ cung cấp cho bạn một sự hiểu biết rõ ràng, kế hoạch chi tiết và từng bước tiếp cận thông qua mô hình SMART: Khởi đầu với chiến lược, Đo lường các chỉ số và dữ liệu, Áp dụng các phương pháp phân tích, Báo cáo kết quả, Biến đổi doanh nghiệp. Cuốn sách sẽ: - Thảo luận về việc các công ty cần phải xác định rõ ràng những gì họ cần biết. - Chỉ ra cách thức công ty có thể thu thập dữ liệu liên quan và việc đo lường các số liệu sẽ giúp họ trả lời những câu hỏi kinh doanh quan trọng nhật. - Giải thích cách thức các kết quả phân tích dữ liệu lớn có thể được hình dung và truyền đạt để đảm bảo những người ra quyết định chính hiểu được chúng. Cuốn sách còn bao gồm nhiều nghiên cứu trong các trường hợp nổi tiếng của tác giả đối với một số thương hiệu nổi tiếng nhất thế giới. *** Chào mừng đến với một thế giới thông minh hơn Thế giới đang ngày càng trở nên thông minh hơn. Chúng ta có thể nhận thấy sự tiến hóa ở khắp mọi nơi, không ngoại trừ bất kỳ ngành nghề hay lĩnh vực nào. Hãy xem xét một ngành nghề cổ xưa và lâu đời, chẳng hạn như đánh bắt cá. Tuy loài người đã bắt đầu câu cá từ thuở sơ khai, nhưng mãi đến thế kỷ XVI, các ngư dân mới sở hữu những con thuyền đủ sức băng qua biển lớn. Sự tiến bộ này đã lập tức thay đổi vận mệnh của nghề đánh bắt cá, đồng thời lần đầu tiên mang lại những mẻ cá lớn và có thể sinh lời. Đoàn thuyền cứ thế tiến ra ngư trường, chỉ với một chiếc la bàn, kính lục phân cùng “bí quyết gia truyền” được truyền lại qua nhiều thế hệ. Nếu ra khơi vào ban đêm, họ sẽ vận dụng các kỹ thuật định hướng và dựa theo các chòm sao để xác định lộ trình đến đúng vùng lân cận. Khi các ngư dân đến ngư trường, họ sẽ thả lưới và hy vọng điều tốt đẹp nhất. Đến cuối thế kỷ XIX, ngành đánh bắt cá được thương mại hóa. Những con thuyền nhỏ nhường chỗ cho các con tàu lớn với khả năng xử lý thành phẩm ngay trên boong; việc phát hiện ra kinh độ và vĩ độ giúp cho việc định hướng trên biển trở nên dễ dàng hơn nhiều; và trong vài thập niên vừa qua, công nghệ đã biến đổi ngành đánh bắt cá từ nghệ thuật trở thành một môn khoa học. Những con thuyền đánh cá hiện đại được trang bị công nghệ phong phú, sử dụng các hệ thống định vị công nghệ cao và cả GPS. Các bộ cảm biến nhỏ thường được gắn vào thân cá để dò theo vị trí của đàn cá vào bất kỳ thời điểm nào, còn hệ thống định vị dưới nước được dùng để xác định mật độ, địa điểm và thời điểm giăng lưới. Những ngư dân hiện đại biết nơi nào có cá; họ biết nơi họ sẽ đến vào ngày mai và khi nào cần thả lưới để thu về mẻ cá nhiều nhất có thể. Nghề đánh cá đã “tiến hóa” để trở nên thông minh hơn. Và đây mới chỉ là một ví dụ. Ngày nay, thế giới đang thông minh hơn trong mọi thứ, từ thành tích thi đấu thể thao cho đến việc chăm sóc sức khỏe tại nhà. Ngay cả chuyện yêu đương và việc làm cha mẹ cũng thông minh hơn. THỂ THAO THÔNG MINH HƠN Hiện nay, công nghệ thông minh đang được sử dụng rộng rãi trong thể thao để tìm kiếm và chiêu mộ nhân tài – cũng như giám sát và cải thiện thành tích – cả trong giới nghiệp dư lẫn chuyên nghiệp. Giờ đây, chúng ta có thể sản xuất một quả bóng rổ với hơn 200 bộ cảm biến bên trong để cung cấp phản hồi chi tiết về thành tích cho cầu thủ và huấn luyện viên. Trong môn quần vợt, một hệ thống tên là SlamTracker có thể ghi nhận thành tích của tay vợt, thông qua cung cấp thông số về thời gian thực và phân tích tổng hợp về trận đấu. Nếu đã từng xem môn bóng bầu dục (hiệp hội hoặc liên đoàn), bạn có lẽ sẽ thắc mắc không biết tiếng gì va chạm giữa các lớp giáp vai trên người cầu thủ – đó chính là hệ thống theo dõi GPS, cho phép ban huấn luyện viên đánh giá thành tích theo thời gian thực. Thiết bị này sẽ đo tốc độ trung bình của cầu thủ, bất kể cầu thủ đó đang thi đấu trên hay dưới phong độ bình thường; cũng như nhịp tim, để nhận diện các vấn đề tiềm ẩn trước khi chúng xảy ra. Toàn bộ những dữ liệu trên có thể giúp huấn luyện viên tránh chấn thương và đưa ra các quyết định thay người phù hợp. Công nghệ tương tự cũng xuất hiện ở Giải bóng đá Ngoại hạng Anh và được sử dụng trong nhiều bộ môn Olympic, chẳng hạn như đua xe đạp. Nhưng công nghệ không chỉ dành cho dân chuyên nghiệp. Có rất nhiều thiết bị mang theo người có thể theo dõi tình trạng sức khỏe và thể trạng khi chúng ta di chuyển. Ví dụ như tôi đang đeo một chiếc vòng đeo tay theo dõi sức khỏe “Up”; nó cho tôi biết mình đã đi được bao nhiêu bước mỗi ngày, đốt cháy được bao nhiêu calo và hằng đêm có ngủ ngon không. Nó được đồng bộ với cân sức khỏe, để mỗi khi tôi tăng cân, nó sẽ nhắc tôi hoạt động nhiều hơn hoặc ăn ít đi. SỨC KHỎE THÔNG MINH HƠN Việc chăm sóc sức khỏe cũng đang trở nên thông minh hơn, và điều đó đã cách mạng hóa cuộc sống của chúng ta. Giáo sư Larry Smarr, một trong những nhà khoa học máy tính có ảnh hưởng nhất tại Mỹ, cũng là người được giám sát nghiêm ngặt nhất trên thế giới, đã tự chẩn đoán được bệnh Crohn1 – rất lâu trước khi bất kỳ triệu chứng nào xuất hiện và vừa kịp để ông kiểm soát tình trạng của mình hiệu quả. Smarr khẳng định: “Trong một thế giới mà bạn có thể chứng kiến điều mình đang làm với bản thân trong khi đang chuyển động, chúng ta có thể hy vọng rằng mọi người sẽ có trách nhiệm hơn với chính họ, để giữ cho bản thân khỏe mạnh. Cứ như thể chúng ta đang sống trong khởi nguyên của một thế giới y học hoàn toàn mới, và kết quả sẽ là một xã hội khỏe mạnh hơn rất nhiều, tập trung duy trì cơ thể tráng kiện hơn là chữa bệnh khi đã quá muộn2” Khả năng tự theo dõi sức khỏe của bản thân này đang báo hiệu một ranh giới mới đầy thú vị về y học phòng bệnh dựa trên dữ liệu. Từ lâu, chúng ta đã hiểu rằng: Trên lý thuyết, phòng bệnh hơn chữa bệnh. Nhưng chính sự phối hợp giữa công nghệ và sức khỏe mới biến lý thuyết đó thành thực hành. Trong năm nay, dự kiến sẽ có 42 triệu thiết bị đeo thông minh theo dõi sức khỏe trao đến tay người dùng trên khắp thế giới. Theo hãng phân tích thị trường ABI Research: “Cho tới năm 2019, tổng số tiền chi cho các thiết bị hoạt động tiêu dùng không dây này sẽ tăng trưởng thành một thị trường trị giá 52 triệu đô-la.” Các dịch vụ dựa trên công nghệ điện toán đám mây như Ginger.io đã cho phép bên cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe theo dõi bệnh nhân của họ thông qua những ứng dụng cảm ứng trên điện thoại thông minh 3. Proteus cũng phát minh ra máy quét “có thể nuốt được” với kích thước chỉ bằng hạt cát, dùng để thăm dò xem bệnh nhân uống thuốc khi nào và ra sao. Thứ này cũng mang lại cho bên cung cấp thông tin về “tỷ lệ tuân thủ” – tức mức độ thường xuyên mà bệnh nhân tuân theo chỉ thị của bác sĩ – và thậm chí có thể báo cho người nhà nhắc nhở họ. Nhưng không chỉ có khả năng giám sát và kiểm soát sức khỏe của chúng ta tốt hơn; Dữ Liệu Lớn, các phân tích và cuộc cách mạng thông minh hiện đang thay đổi ngành y tế, với những phát minh như máy quét tình trạng chấn thương sọ não tiên tiến nhất, các hệ thống phát hiện và chẩn đoán sinh non cũng như ung thư. Khả năng là vô tận. NHỮNG NGÔI NHÀ THÔNG MINH HƠN Mọi thứ trong nhà cũng đang trở nên thông minh hơn, từ những chiếc xe hơi mà chúng ta lái cho đến hệ thống sưởi, thiết bị điện tử, đồ gia dụng và thậm chí là thảm trải sàn. Sự phát triển từ cơ bản đến thông minh đặc biệt nổi bật đối với xe hơi. Ban đầu, mẫu xe Model T của Ford chỉ có màu đen, bộ sang số bằng cần với vài nút bấm và không có đai an toàn. Nhưng ngày nay, chúng ta đã có những chiếc xe với cả một bảng điều khiển giống buồng lái máy bay, với các máy quay và cảm biến giúp đỗ xe dễ dàng, báo hiệu cho tài xế biết họ đang chạy quá sát lề đường hoặc xe khác. Một số xe có thể tự động đỗ song song và tự động phanh. Số khác lại tích hợp thông tin giao thông và tự điều chỉnh lại lộ trình tốt hơn để tránh các điểm mù giao thông hoặc tai nạn. Các bộ cảm biến trong động cơ sẽ theo dõi cách bạn lái xe, từ đó sẽ giảm (hoặc tăng) mức bảo hiểm và chủ động điều chỉnh các khoảng thời gian chăm sóc, bảo trì dựa trên phong cách lái của bạn. Còn có các bộ điều chỉnh nhiệt thông minh trong nhà, chỉ sưởi ấm các khu vực có người sử dụng. Nhiệt độ trong nhà có thể thay đổi khi bạn đang đi làm, do đó ngôi nhà vẫn ấm cúng khi bạn trở về vào một tối mùa đông. Khả năng theo dõi và chủ động điều chỉnh nhiệt độ này có thể tiết kiệm tiền và năng lượng. Hiển nhiên, việc giải quyết khủng hoảng năng lượng không chỉ trông chờ vào việc chúng ta tìm ra những nguồn năng lượng mới như gió và mặt trời, mà còn phụ thuộc vào việc chúng ta tiết kiệm năng lượng đang có và sử dụng nó hiệu quả hơn. Tivi thông minh sử dụng chức năng nhận diện khuôn mặt để đảm bảo con bạn không bao giờ xem thứ gì không phù hợp với độ tuổi; và thảm thông minh có thể nhắc bạn không nên để bố mẹ già yếu của mình pha cà phê vào mỗi buổi sáng như thường ngày. Xét đến tất cả những thứ như đồ chơi, thiết bị điện tử và các vật dụng nhỏ thông minh, ngày nay chúng đều kết nối với Internet nhiều hơn là với con người. Và tất cả những món đồ thông minh đó đều đang thu thập dữ liệu, cũng như “giao tiếp” với nhau. YÊU THÔNG MINH HƠN Ngay cả một thứ mang tính cá nhân và nhiệm màu như tình yêu cũng đang trở nên thông minh hơn. Mọi người đều hy vọng tìm thấy tri kỷ của mình, nhưng công cuộc tìm kiếm ấy lại được thực hiện một cách gián tiếp. Trang hẹn hò trực tuyến eHarmony kết nối mọi người dựa trên 29 biến số khác nhau như đặc điểm tính cách, hành vi, tín ngưỡng, giá trị và kỹ năng xã hội. Mỗi người tham gia eHarmony phải hoàn thành một bảng điều tra lý lịch toàn diện, qua đó cung cấp dữ liệu để mô hình phân tích tìm ứng viên tiềm năng. Amy Webb, một chuyên gia kỹ thuật số người Mỹ, thậm chí còn tiến xa hơn một bước với các thuật toán dữ liệu trực tuyến. Sau một cuộc hẹn cực kỳ tồi tệ, khi “Bạch mã Hoàng tử” của cô gọi những món đắt tiền nhất trong thực đơn, thưởng thức chúng và biến mất sau khi đi vệ sinh, Webb đã tự tạo ra hệ thống tính điểm của riêng cô, dựa trên những điều mà cô xem trọng ở người bạn đời tiềm năng. Thêm vào đó, cô phân tích các hồ sơ khác để xem có điều gì hấp dẫn không; thử nghiệm những thay đổi trong chính hồ sơ của cô để xem có thay đổi gì về số lượng, chất lượng của những lời hỏi thăm không. Cô sẽ chỉ nhận lời hẹn hò với một người đạt một điểm số nhất định. Và cách đó đã hiệu quả… Giờ đây, Amy đã có một cuộc hôn nhân hạnh phúc và một cô con gái4. LÀM CHA MẸ THÔNG MINH HƠN Nghệ thuật làm cha mẹ vốn phức tạp cũng trở nên thông minh hơn. Để xác định và giảm thiểu các nguy cơ trước và sau khi sinh, nhiều đứa trẻ trên khắp thế giới đang được theo dõi liên tục thông qua vô số chỉ số và điểm dữ liệu gồm nhịp tim và tình trạng hô hấp. Những chỉ số quan trọng trên có thể dự báo nhiễm trùng đến 24 giờ trước khi đứa trẻ cho thấy bất kỳ triệu chứng rõ ràng nào, đồng thời cho phép bác sĩ sớm can thiệp và thường là cứu được tính mạng. Khi đứa bé đã chào đời bình an, nó cũng có thể ngủ trên một tấm đệm đầy các cảm biến để theo dõi tiến trình thở, nhịp tim và báo cho các bậc phụ huynh nếu có điều gì không ổn. Hãy hình dung xem ta có thể tránh được bao nhiêu ca đột tử bi thương ở trẻ sơ sinh với công nghệ thông minh này. Thậm chí, chúng ta có thể mua tã lót kỹ thuật số, chúng sẽ gửi thông báo đến điện thoại thông minh khi đứa bé cần thay tã. Hiển nhiên, người cha người mẹ tốt thực sự chẳng cần tới thông báo đó, nhưng các loại tã thế hệ mới nhất này sẽ tự động phân tích nước tiểu của trẻ và cảnh báo cho bậc cha mẹ về lượng na-tri tăng cao, có thể là do mất nước, cũng như khi trẻ bắt đầu bị nhiễm khuẩn – và tất cả những điều trên thậm chí sẽ diễn ra trước cả khi triệu chứng xuất hiện. Sự kết hợp giữa dữ liệu và công nghệ đang nhanh chóng thay đổi thế giới của chúng ta, khiến nó thông minh hơn. Và việc kinh doanh cũng phải trở nên thông minh hơn. Hãy quay lại phép so sánh với nghề đánh bắt cá một chút… Ban đầu, tính cạnh tranh của nghề đánh cá còn khá thấp và lượng cá cũng còn nhiều, nên ngư dân không cần phải đến chính xác một địa điểm mới được tận hưởng một ngày bội thu. Với kinh nghiệm, công cụ và số lượng cá biển, họ sẽ thành công, trừ khi gặp phải thời tiết cực kỳ xấu. Nhưng ngày nay, với tình hình cạnh tranh gay gắt và lượng cá có hạn, cần được kiểm soát một cách có trách nhiệm – các ngư dân phải “tiến hóa” và trở nên thông minh hơn. Và đó cũng là yêu cầu đối với mọi doanh nghiệp trên mọi lĩnh vực. Hiện nay, các doanh nghiệp thực sự thành công hiểu rõ khách hàng của họ ở đâu, và quan trọng hơn là họ đang làm gì và tiến tới đâu. Họ biết điều gì đang thực sự diễn ra, và họ cho phép thông tin đó dẫn đường cho chiến lược, cũng như thông báo cho họ khi cần ra quyết định. Những doanh nghiệp nào không đi theo cuộc cách mạng THÔNG MINH sẽ bị bỏ lại phía sau. CHÚ THÍCH 1. Bệnh Crohn là một bệnh viêm đường ruột. Nó gây ra chứng viêm màng đường tiêu hóa, có thể dẫn đến đau bụng, tiêu chảy và thậm chí cả suy dinh dưỡng trầm trọng. 2. BBC Two (2013) Horizon Monitor Me (tạm dịch: Chân trời quan sát tôi), do Tiến sĩ Kevin Fong tường thuật (2013). 3. Palmer, S., White, E., Romanski, P., Bendict, K. và Gardner, D. (2014) Intergrating Consumer Wearable Health Devices Will Drive Healthcare Big Data Adoption (tạm dịch: Các thiết bị sức khỏe tiêu dùng tích hợp mang theo người sẽ kéo theo sự thích nghi với y tế kiểu Dữ Liệu Lớn), ABI Research. http://bigdata.ulitzer.com/node/3058905. 4. http://www.ted.com/talks/amy_webb_how_i_hacked_online_dating.html. Mời các bạn đón đọc Big Data - Dữ Liệu Lớn của tác giả Bernard Marr.
Thương Lượng Không Nhân Nhượng
Cho dù thích hay không, bạn vẫn là một nhà đàm phán. Đàm phán là thực tế của cuộc sống. Bạn đàm phán việc tăng lương với sếp. Bạn cố gắng thỏa thuận với một người về giá cả ngôi nhà của anh ấy. Hai vị luật sư đã nỗ lực giải quyết vụ án phát sinh từ vụ tai nạn ô tô. Một nhóm các công ty dầu lửa lên kế hoạch thành lập công ty liên doanh khai thác dầu ngoài khơi. Một quan chức thành phố họp với lãnh đạo nghiệp đoàn để ngăn chặn cuộc bãi công. Ngoại trưởng Hoa Kỳ cùng ngồi với người đồng cấp Liên Xô để tìm cách thỏa thuận về hạn chế vũ khí hạt nhân. Tất cả những việc này đều là đàm phán. Hằng ngày, ai cũng đàm phán điều gì đó. Cũng giống như ngài Jourdain của Molière, người sung sướng nhận ra mình đã nói văn xuôi suốt cả cuộc đời, mọi người đàm phán ngay cả khi họ không nghĩ là mình đang làm vậy. Bạn đàm phán với vợ/chồng về việc đi đâu để ăn tối và thỏa thuận với con cái lúc nào thì tắt đèn đi ngủ. Đàm phán là phương tiện cơ bản để đạt được điều bạn muốn từ người khác. Đây là quá trình trao đổi qua lại nhằm tiến tới thỏa thuận khi bạn và đối phương có cùng lợi ích hay mâu thuẫn quyền lợi với nhau. Ngày càng có nhiều trường hợp đòi hỏi phải tiến hành đàm phán và tránh được xung đột là một kỹ nghệ phát triển. Mọi người đều muốn tham gia vào những quyết định có ảnh hưởng đến họ; chẳng mấy ai chịu chấp nhận quyết định do người khác đưa ra. Không ai giống ai và con người dùng đàm phán để giải quyết sự bất đồng. Dù trong doanh nghiệp, chính phủ hay gia đình thì hầu hết mọi người đều ra quyết định thông qua đàm phán. Ngay cả khi ở tòa án, gần như người ta luôn đàm phán cách giải quyết trước khi xét xử. Mặc dù đàm phán diễn ra hằng ngày, nhưng để làm tốt việc này thì lại thật không dễ. Các chiến lược đàm phán thường khiến mọi người thấy không hài lòng, kiệt sức, bị xa lánh – hoặc thường xuyên có cả ba cảm giác này. Con người thường thấy bản thân rơi vào những tình thế khó xử. Họ có hai cách để đàm phán: Mềm dẻo hoặc cứng rắn. Những nhà đàm phán mềm dẻo thường muốn tránh xung đột cá nhân, vì vậy, họ sẵn sàng nhân nhượng để đạt được thỏa thuận. Những người này muốn tiến tới hòa giải; tuy vậy, rốt cuộc họ thường bị lợi dụng nên cảm thấy rất cay đắng. Những nhà đàm phán cứng rắn lại cho rằng mọi tình huống là sự thử thách ý chí, ở đó, bên nào có lập trường cực đoan hơn và giữ miếng lâu hơn sẽ có chiếm ưu thế. Họ muốn giành thắng lợi; tuy vậy, họ thường kết thúc cuộc đàm phán bằng việc tạo ra sự phản ứng không kém phần cứng rắn, gây cạn kiệt sức lực và phương hại tới mối quan hệ với phía bên kia. Các chiến lược đàm phán phổ biến khác nằm giữa loại chiến lược mềm dẻo và loại cứng rắn, nhưng mỗi chiến lược này thường hướng tới sự thỏa hiệp giữa việc đạt được điều bạn muốn và giữ hòa khí với mọi người. Cách đàm phán thứ ba, không thiên về cứng rắn hay mềm dẻo, mà là vừa cứng rắn vừa mềm dẻo. Phương pháp đàm phán trên nguyên tắc được xây dựng trong Dự án Kỹ năng đàm phán của Harvard nhằm giải quyết vấn đề trên cơ sở giá trị chứ không thông qua việc tập trung vào những gì mỗi bên nói sẽ làm hay không làm. Phương pháp này khuyên bạn nên tìm kiếm lợi ích chung bất cứ lúc nào có thể và khi có xung đột về lợi ích thì bạn nên yêu cầu kết quả phải dựa trên cơ sở một số tiêu chuẩn bình đẳng nhất định độc lập với ý chí của hai bên. Phương pháp đàm phán trên nguyên tắc cứng rắn về giá trị nhưng mềm dẻo về vấn đề con người. Phương pháp này không dùng thủ đoạn và điệu bộ. Nó cho bạn biết cách đạt được điều bạn đáng được hưởng mà vẫn tỏ ra lịch thiệp. Nó cho phép bạn cư xử công bằng và bảo vệ bạn chống lại những kẻ nhăm nhe lợi dụng sự ngay thẳng của bạn. Cuốn sách này bàn về phương pháp đàm phán trên nguyên tắc. Chương thứ nhất mô tả những vấn đề phát sinh trong việc áp dụng các chiến lược tiêu chuẩn của kiểu đàm phán quan điểm lập trường. Bốn chương tiếp theo trình bày bốn nguyên tắc của phương pháp đàm phán theo nguyên tắc. Ba chương cuối giải đáp những câu hỏi thường được nêu lên: Điều gì sẽ xảy ra nếu phía bên kia mạnh hơn? Điều gì sẽ xảy ra nếu họ không tuân thủ luật chơi? Điều gì sẽ xảy ra nếu họ gian dối. Phương pháp đàm phán trên nguyên tắc có thể được nhà ngoại giao Hoa Kỳ sử dụng ở trong các cuộc đàm phán về kiểm soát vũ khí với Liên Xô, khi các luật sư Phố Wall đại diện cho 500 công ty trên Tạp chí Fortune tranh tụng trong các vụ kiện chống độc quyền; và được các cặp vợ chồng dùng để quyết định mọi việc, từ việc đi nghỉ ở đâu cho đến phân chia tài sản như thế nào nếu họ ly dị. Bất cứ ai cũng có thể sử dụng phương pháp này. Không có cuộc đàm phán nào giống nhau, nhưng những yếu tố cơ bản của nó thì không thay đổi. Phương pháp đàm phán trên nguyên tắc có thể được sử dụng để giải quyết một hay nhiều vấn đề; có hai hay nhiều bên tham gia; dù có trình tự được quy định như trường hợp đàm phán tập thể hay không được chuẩn bị trước trong đàm phán với không tặc. Phương pháp này được áp dụng cho dù phía bên kia có nhiều kinh nghiệm hơn hay ngược lại, dù họ là kẻ không khoan nhượng hay là người ôn hòa. Phương pháp đàm phán trên nguyên tắc là một chiến lược áp dụng được cho mọi mục đích. Không giống với phần lớn các chiến lược khác, nếu phía bên kia cũng lĩnh hội được phương pháp này, nó sẽ trở nên dễ sử dụng hơn. Và nếu họ cũng đọc cuốn sách này thì tất cả đều có lợi. *** Đừng bàn cãi về quan điểm Dù là cuộc đàm phán về hợp đồng, cuộc tranh cãi trong gia đình hay thỏa thuận hòa bình giữa các quốc gia, thông thường người ta vẫn hay bàn cãi về vấn đề quan điểm. Mỗi bên đều có lập trường riêng, lập luận để bảo vệ nó và nhân nhượng nhằm đạt được thỏa hiệp. Ví dụ cổ điển về kiểu đàm phán này là cuộc mặc cả diễn ra giữa khách hàng và chủ cửa hàng đồ cũ: Và cuộc mặc cả cứ thế tiếp tục. Có thể họ sẽ đạt được thỏa thuận nhưng cũng có thể không. Mọi phương pháp đàm phán đều có thể được đánh giá công bằng qua ba tiêu chí: Phương pháp này phải mang lại thỏa thuận khôn ngoan nếu có thể, nó phải hiệu quả và cải thiện được hay chí ít thì cũng không làm phương hại đến mối quan hệ giữa hai bên. (Thỏa thuận khôn ngoan được định nghĩa là thỏa thuận đáp ứng quyền lợi hợp pháp của mỗi bên tới mức có thể, giải quyết được xung đột lợi ích hợp lý, lâu bền và có cân nhắc đến lợi ích cộng đồng.) Hình thức đàm phán phổ biến nhất được minh họa bằng ví dụ trên, phụ thuộc vào việc thay phiên nhau đưa ra các lập trường – và sau đó lại từ bỏ các lập trường này. Việc đưa ra các quan điểm, như người khách và chủ cửa hiệu trên, có tác dụng phục vụ cho một số mục đích hữu ích nhất định trong đàm phán. Nó cho phía bên kia biết bạn muốn gì; tạo ra điểm bấu víu trong tình huống không chắc chắn và căng thẳng; và cuối cùng đi đến các điều khoản trong một thỏa thuận có thể chấp nhận được. Nhưng có nhiều cách khác để đạt được. Việc mặc cả về lập trường không thỏa mãn các tiêu chí cơ bản để mang lại thỏa thuận khôn ngoan, hiệu quả và thân thiện. TRANH CÃI VỀ QUAN ĐIỂM CHỈ MANG LẠI NHỮNG THỎA THUẬN THIẾU KHÔN NGOAN Khi các nhà đàm phán mặc cả về quan điểm, họ thường tự giam mình trong những quan điểm này. Bạn càng làm rõ quan điểm của mình và bảo vệ nó khỏi bị tấn công thì bạn càng dính chặt vào nó. Bạn càng cố gắng thuyết phục phía bên kia rằng quan điểm ban đầu của bạn không thể thay đổi thì việc này càng khó có thể thực hiện được. Cái tôi của bạn trở nên đồng nhất với quan điểm của bạn. Bạn hiện có mối quan tâm mới về việc “giữ thể diện” – trong việc thống nhất giữa hành động ở tương lai với lập trường trong quá khứ – khiến khả năng đạt được thỏa thuận nào đó hòa hợp với lợi ích ban đầu của các bên một cách khôn ngoan ngày càng khó thực hiện. Nguy cơ tranh cãi về vấn đề lập trường sẽ cản trở tiến trình đàm phán. Ví dụ điển hình là sự đổ vỡ cuộc đàm phán về việc cấm thử vũ khí hạt nhân toàn diện dưới thời Tổng thống John F. Kennedy. Vấn đề then chốt nảy sinh: Liên Xô và Hoa Kỳ nên được phép thực hiện bao nhiêu cuộc thanh tra tại hiện trường mỗi năm trên phạm vi lãnh thổ nước kia để điều tra những sự kiện chấn động đáng ngờ? Cuối cùng, Liên Xô đồng ý tiến hành ba cuộc điều tra. Hoa Kỳ lại khăng khăng yêu cầu không dưới mười cuộc. Do vậy, các cuộc đàm phán này đã thất bại – do tranh cãi về quan điểm – mặc dù không bên nào hiểu liệu một “cuộc điều tra” sẽ chỉ gồm có một người đi xem xét lòng vòng trong một ngày hay có một trăm người soi mói bừa bãi trong một tháng. Các bên hầu như không nỗ lực xây dựng quy trình điều tra có thể dung hòa được sự quan tâm thẩm tra của Hoa Kỳ với mong muốn của cả hai bên về sự xâm phạm tối thiểu. Khi càng chú ý nhiều đến quan điểm thì người ta lại càng ít quan tâm đến việc đáp ứng những lo ngại cơ bản của các bên. Vì vậy, khó có thể tiến tới thỏa thuận dễ dàng. Các thỏa thuận đạt được lúc này chỉ phản ánh sự phân chia máy móc khoảng chênh lệch giữa những lập trường cuối cùng được đưa ra, chứ chưa phải là giải pháp được tính toán kỹ càng nhằm đáp ứng lợi ích hợp pháp của các bên. Kết quả đạt được thường là thỏa thuận ở mức thấp hơn so với mong muốn của hai bên. TRANH CÃI VỀ QUAN ĐIỂM LÀ KHÔNG HIỆU QUẢ Phương pháp đàm phán thông thường có thể mang lại thỏa thuận, như với trường hợp trả giá cho chiếc đĩa bằng đồng thau hoặc đi đến thất bại, như với trường hợp thống nhất số lượng cuộc điều tra tại hiện trường. Trong cả hai trường hợp, quá trình này đều mất nhiều thời gian. Thương thuyết theo lập trường tạo ra động cơ trì hoãn giải quyết vấn đề. Trong khi tranh cãi về vấn đề quan điểm, bạn cố gắng cải thiện cơ hội đạt được thỏa thuận nào đó có lợi cho mình bằng việc bắt đầu đàm phán với lập trường cực đoan, giữ khư khư quan điểm này, lừa gạt đối phương rằng đó chính là quan điểm thực sự của bạn và chỉ nhân bộ chút ít để giữ cuộc đàm phán tiếp tục diễn ra. Và đối phương cũng làm điều tương tự. Mỗi yếu tố này đều có xu hướng cản trở việc nhanh chóng đạt được cách giải quyết. Các quan điểm ban đầu càng cực đoan và sự nhân nhượng càng ít đi thì mất càng nhiều thời gian và công sức để nhận ra thỏa thuận có thể đạt được hay không. Phương pháp đàm phán trên nguyên tắc cũng đòi hỏi phải có rất nhiều các quyết định riêng lẻ của từng cá nhân vì mỗi nhà thương thuyết quyết định đề nghị gì, bác bỏ gì và có thể nhân nhượng đến mức nào. Việc ra quyết định rất khó khăn và mất thời gian. Khi một quyết định không chỉ là việc phải nhượng bộ đối phương mà còn là sức ép buộc phải nhân nhượng hơn nữa, thì nhà thương thuyết hầu như không có động cơ để tiến nhanh hơn. Chậm chạp lề mề, đe dọa bỏ ra ngoài, cản trở và những chiến thuật khác tương tự đã trở nên cũ rích. Tất cả những chiến thuật này chỉ làm mất thêm thời gian và tiền bạc để tiến tới thỏa thuận cũng như tăng nguy cơ không đạt được thỏa thuận nào cả. TRANH CÃI VỀ QUAN ĐIỂM LÀM HỎNG MỐI QUAN HỆ ĐANG TỐT ĐẸP Việc tranh cãi về quan điểm sẽ trở thành cuộc đấu trí. Mỗi nhà thương thuyết xác nhận những gì anh ta sẽ làm và sẽ không làm. Nhiệm vụ cùng xây dựng giải pháp chung có xu hướng trở thành trận chiến. Mỗi bên đều cố gắng qua sức mạnh ý chí tuyệt đối để gây sức ép buộc phía bên kia phải thay đổi lập trường. “Tôi sẽ không chịu nhượng bộ đâu. Nếu anh muốn đi xem phim với tôi, thì đó phải là phim The Maltese Falcon (tạm dịch: Chim ưng Malta) hoặc chúng ta không xem gì hết.” Hậu quả thường là sự giận dữ và bực tức vì mỗi bên thấy mình phải thuận theo ý muốn cứng nhắc của đối phương trong khi mối quan tâm thích đáng của mình lại bị bỏ qua. Do vậy, việc tranh cãi về quan điểm gây căng thẳng và có khi còn làm tan vỡ mối quan hệ giữa các bên. Các doanh nghiệp thương mại đã từng làm việc với nhau trong nhiều năm có thể cắt đứt quan hệ. Hàng xóm láng giềng có thể không qua lại với nhau. Cảm giác cay đắng từ sự việc này gây ra có thể kéo dài cả đời người. TRONG ĐÀM PHÁN ĐA PHƯƠNG, TRANH CÃI VỀ QUAN ĐIỂM ĐEM LẠI KẾT QUẢ XẤU Nếu xét một cuộc đàm phán chỉ có hai bên, chỉ có bạn và “phía bên kia”, thì dễ thảo luận hơn, nhưng thực tế, hầu hết mọi cuộc đàm phán đều liên quan đến nhiều bên. Các bên có thể cùng ngồi vào bàn, hoặc mỗi bên ủy quyền cho một người như chóp bu, ban giám đốc hay các ủy ban liên quan. Càng đông người tham gia vào đàm phán, những trở lực do thương thuyết theo lập trường lại càng nghiêm trọng. Nếu khoảng 150 quốc gia cùng đàm phán trong các hội nghị của Liên Hiệp Quốc, thương thuyết theo lập trường gần như không thể thực hiện được. Kiểu thương thuyết có thể làm cho tất cả đều nói “đồng ý”, nhưng chỉ một bên nói “không” thì sự nhượng bộ có đi có lại khó có thể thực hiện: Bạn nhượng bộ ai? Kể cả hàng nghìn cuộc đàm phán song phương cũng không phức tạp bằng một thỏa thuận đa phương. Trong những tình huống như vậy, thương thuyết theo lập trường thường dẫn tới việc hình thành liên minh giữa các bên mà lợi ích chung của họ mang tính tượng trưng hơn là thực chất. Tại Liên Hiệp Quốc, những liên minh này thường tạo ra các cuộc đàm phán giữa “Bắc” và “Nam” hay giữa “Đông” và “Tây”. Do có nhiều thành viên trong một nhóm nên việc xây dựng quan điểm chung lại càng trở nên khó khăn hơn. Tồi tệ hơn, khi họ đã vất vả thiết lập và nhất trí một lập trường thì việc thay đổi lập trường đó lại càng trở nên gian nan hơn nhiều. Việc thay đổi một quan điểm cũng không dễ dàng gì khi các thành viên mới tham gia có quyền hạn cao hơn. Ngay cả khi họ không có mặt tại bàn đàm phán thì những người khác vẫn cần phải có sự chấp thuận của họ.   Mời các bạn đón đọc Thương Lượng Không Nhân Nhượng của tác giả William Ury.