Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Kinh Doanh Trong Thời Đại 4.0

Nguyên tắc chung để "lột xác" doanh nghiệp "Gián đoạn” hay “chuyển đổi” đang là những chủ đề nóng trong giới kinh doanh, và quả đúng như vậy. Công nghệ kỹ thuật số đã mang lại thay đổi lớn, làm gián đoạn toàn bộ nhiều ngành công nghiệp đồng thời tạo thời cơ cho các công ty như Facebook hay Amazon tăng trưởng kỷ lục. Ai cũng thấy rằng các tập đoàn lâu đời đang phải chật vật, trong khi các công ty mới, nhỏ và linh hoạt hơn vì áp dụng những mô hình kinh doanh mới. Nhưng giữa những thay đổi này, còn một điều cần phải chỉ ra: dù thời đại kỹ thuật số đang và sẽ tiếp tục là thách thức với các ông lớn trong các ngành truyền thống, nhưng cơ hội dành cho họ vẫn rộng mở. Công ty dự báo thời tiết The Weather Company là một ví dụ điển hình. Người dùng đã chuyển từ TV sang di động, nhưng họ không dùng điện thoại đủ lâu để việc quảng cáo trên đó có lợi nhuận. Các lãnh đạo công ty này đã chuyển hướng và tạo ra dịch vụ WeatherFX, dùng dữ liệu giúp các nhà bán lẻ dự đoán thời tiết sẽ ảnh hưởng tới hành vi mua sắm như thế nào. Nhiều công ty khác cũng đang tìm ra giải pháp riêng. Đối mặt với lượng người đọc báo in cùng với doanh thu quảng cáo suy giảm, tờ báo New York Times đã xây dựng mô hình đọc báo trả tiền khá thành công với 2,5 triệu người đăng ký, và tờ nhật báo này dự kiến sẽ thu được 800 triệu đô-la doanh thu từ mảng trực tuyến vào năm 2020. Các công ty xe hơi như Cadillac đang thử nghiệm dịch vụ cho thuê xe hạng sang, còn Sephora và các nhà bán lẻ khác đang tạo ra ứng dụng để cải thiện trải nghiệm mua sắm trong cửa hàng. Ngân hàng đầu tư Goldman Sachs cũng tạo ra một nền tảng trực tuyến (và còn mời các đối thủ cạnh tranh cùng tham gia). Là một lãnh đạo doanh nghiệp, chắc bạn đã nghĩ về “kỹ thuật số” từ lâu, và chắc bạn đã thử các dự án để “số hóa” hoạt động kinh doanh của mình. Một số dự án có thể đã đơm hoa kết trái. Giống như các giám đốc mà tôi đã tiếp xúc, có lẽ bạn đang muốn chuyển đổi mạnh mẽ hơn nữa. Nhưng làm cách nào? Nếu công ty của bạn thiếu đi tố chất kỹ thuật số và sự linh hoạt vốn là lợi thế của các công ty khởi nghiệp, làm thế nào để bạn tận dụng tất cả những cơ hội của thời đại số? Trong hơn 10 năm, là một giáo sư ở Trường Kinh doanh Harvard, tôi đã nghiên cứu chiến lược kỹ thuật số và tư vấn hàng tá các công ty đang thực hiện chuyển đổi kỹ thuật số (digital transformation). Nhờ đó, tôi đã tận mắt chứng kiến những thành công và thất bại, và tôi nhận ra những lãnh đạo chuyển đổi thành công đã dồn toàn lực vào quyết tâm số hóa. Nói cách khác, họ không tách biệt chiến lược kỹ thuật trong chiến lược tổng quát, mà biến kỹ thuật số thành ưu tiên hàng đầu và làm sao để công nghệ số chạm đến mọi ngóc ngách của doanh nghiệp. Chuyển đổi kỹ thuật số yêu cầu gia cố nền móng nhưng đồng thời xây dựng những cấu trúc mới. Cuốn sách này, qua hàng loạt ví dụ, sẽ dẫn đường cho bạn. Trong sách có các nghiên cứu trường hợp (case study) và những phương pháp tốt nhất (best practices) từ những doanh nghiệp đã hoàn toàn “lột xác”, cùng với các nguyên tắc chung sẽ giúp bạn vạch ra chiến lược số bao trùm và dẫn dắt doanh nghiệp qua quá trình chuyển đổi. CÁC THỬ NGHIỆM SAI LẦM Để tránh khỏi làn sóng gián đoạn của thời đại kỹ thuật số, đồng thời tìm kiếm cơ hội mới, các công ty thường đi theo 3 chiến lược: tạo ra các đơn vị nhỏ, độc lập hoặc các công ty khởi nghiệp trong lòng doanh nghiệp lớn; tiến hành một loạt các thử nghiệm ứng dụng kỹ thuật số; và cuối cùng là áp dụng công nghệ để giảm giá thành và tăng tính hiệu quả. Tuy nhiên, các nỗ lực đó chỉ đạt kết quả hạn chế. Hầu hết các tập đoàn lớn đã mở các đơn vị kỹ thuật số độc lập hoặc có văn phòng ở Silicon Valley, gửi gắm hi vọng đổi mới sáng tạo vào các doanh nhân trẻ. Chẳng hạn, gã khổng lồ viễn thông của Tây Bay Nha Telefónica thành lập đơn vị độc lập như vậy vào tháng 9 năm 2011, mang tên Telefónica Digital. Với trụ sở công ty mẹ đặt ở Madrid, đơn vị kỹ thuật số mới đặt ở London với giám đốc điều hành (CEO) riêng và ngân sách độc lập. Giống phần lớn các công ty viễn thông, Telefónica đã không hưởng lợi từ cuộc cách mạng di động. Thay vào đó, những đối thủ mới như Skype và WhatsApp đang thách thức mọi dịch vụ của họ. Lãnh đạo Telefónica hi vọng đơn vị số này sẽ sáng tạo những ý tưởng mới cho sản phẩm và dịch vụ tương lai của công ty. Với sự mệnh đầy tham vọng, quyền tự do hoạt động độc lập và ngân sách dồi dào, Telefónica Digital bắt đầu sáng tạo. Họ đưa ra nhiều ý tưởng khá mới mẻ đối với một công ty viễn thông thời bấy giờ. Sau khi phát triển thử nghiệm, nhóm này gửi các ý tưởng triển vọng về trụ sở ở Madrid để thực hiện toàn cầu. Tuy nhiên, có nhiều sự phản đối từ lãnh đạo công ty con ở các nước, những người không cảm thấy thuyết phục và cũng không có nguồn lực để thực hiện ý tưởng. Sau 3 năm, Telefónica đóng cửa đơn vị kỹ thuật số ở London và chuyển nó về Madrid. Tạo ra đơn vị độc lập giống như dùng xuồng cao tốc để chuyển hướng con tàu lớn. Thường thì xuồng cao tốc vẫn sẽ chạy, nhưng không có mấy tác động tới con tàu mẹ. Chiến lược thứ hai là khi các công ty làm nhiều thí nghiệm nhỏ hơn – điều khá hợp lý trong bối cảnh kinh doanh thay đổi liên tục và bất trắc. Hành trình này thường bắt đầu với một vài thử nghiệm mang tính ngắn hạn, thường ở phòng marketing, nơi các nhân viên thường xuyên dùng thử các giải pháp mới trên mạng xã hội hoặc di động. Khi sự phấn khởi về kỹ thuật số lan rộng, các dự án nở rộ khắp nơi trong doanh nghiệp. Năm 2012, Kasper Rorsted, CEO của tập đoàn Henkel (Đức) thời đó, nhận ra điều này khi ông yêu cầu một nhóm lãnh đạo cao cấp lập danh sách các dự án kỹ thuật số. Ông khá bất ngờ khi có hơn 150 dự án số riêng rẽ trong tập đoàn. Nhiều dự án bắt đầu là các thí nghiệm nhỏ để giải quyết một bài toán cụ thể trong một phòng ban hay một công ty con. Chẳng lâu sau, có thêm nhiều dự án số mới mọc lên ở khắp nơi trong tập đoàn, mà Rorsted gọi là “hàng trăm bông hoa”.1 Nhận ra các dự án như vậy không tạo ra sự hiệp lực (synergy), các công ty bắt đầu hợp nhất chúng lại. Một nhóm lãnh đạo lên danh sách các dự án số ở các phòng ban, nhãn hàng, đơn vị và khu vực khác nhau, và tìm cách phân chia, hợp nhất. Thông thường, một hội đồng quản lý được lập ra để xét duyệt các dự án số trong tương lai. Ở giai đoạn này, các dự án trước đó chỉ trong khu vực giờ trở thành toàn cầu, và các dự án dành cho một nhãn hàng sẽ phục vụ nhiều thương hiệu. Mỗi giai đoạn trong hành trình này đều có ích, thậm chí rất quan trọng, vào thời điểm đó. Các thử nghiệm giúp công ty khẳng định các ý tưởng mới và khám phá các xu hướng tương lai. Sự nở rộ các ý tưởng, dự án ở các đơn vị kinh doanh là chỉ dấu cho sự hào hứng cùng nhau xây dựng. Sự hợp nhất các dự án cũng cần thiết để phân phối nguồn lực một cách hiệu quả. Tuy nhiên, làm nhiều thí nghiệm mà không có chiến lược và phương hướng sẽ tạo ảo tưởng thành công trong ngắn hạn mà không tạo được thay đổi lâu dài. Các ý tưởng nở rộ nhưng không được hiện thực hóa trên quy mô lớn sẽ gây lãng phí thời gian và nguồn lực. Quan trọng hơn, cách tiếp cận từ dưới lên (bottom-up) như vậy thường mang tính tình thế, ngắn hạn, và không phải là câu trả lời căn bản cho chiến lược mà các doanh nghiệp nên bàn luận. Cách tiếp cận thứ 3 là tận dụng công nghệ để cắt giảm chi phí và tăng tính hiệu quả trong hoạt động. Ví dụ, các ngân hàng đóng cửa phòng giao dịch khi càng nhiều khách hàng dùng dịch vụ trực tuyến và di động. Các cửa hàng bán lẻ giảm diện tích và đóng cửa những địa điểm vắng khách. Các quy trình được số hóa và điều chỉnh để giảm chồng chéo, tăng hiệu quả. Nhiều tác vụ được thiết kế lại để khách hàng tự phục vụ (self-serve), giúp giảm chi phí nhân công. Tăng năng suất và giảm chi phí nên là các mục tiêu trong mọi doanh nghiệp. Nhưng nếu bạn chỉ hướng tới mục tiêu đó, bạn đang chấp nhận sẽ không để công nghệ thay đổi tận gốc doanh nghiệp của mình. Chẳng hạn, nếu chấp nhận như vậy thì các ngân hàng vẫn nên hoạt động như cũ và sẽ không bị ảnh hưởng nhiều từ các công ty công nghệ tài chính (fintech). (Tuy nhiên, thực tế lại không phải vậy. Chẳng hạn, quỹ đầu từ Yu’e Bao do Alibaba sở hữu mới hoạt động 4 năm, là quỹ gom tiền thừa trong tài khoản của khách hàng. Đây đã trở thành quỹ thị trường tiền tệ (money-market fund) lớn nhất thế giới, với 165,6 tỷ đô-la, vượt qua quỹ thị trường tiền tệ 150 tỷ đô-la của JPMorgan). Tóm lại, những cách để hướng tới công nghệ số như trên chỉ mang tính chắp vá, chứ không giải quyết các vấn đề ẩn sâu bên trong. Để thành công, bạn không thể chỉ tạo một đơn vị kỹ thuật số riêng, hoặc tiến hành các thử nghiệm, hoặc chỉ dự định dùng công nghệ để tăng năng suất. Thay vào đó, bạn phải biến kỹ thuật số thành chiến lược cốt lõi. Thay vì coi chiến lược số là nỗ lực riêng biệt, bạn phải để nó bao trùm lên mọi hoạt động, mọi bước đi trong doanh nghiệp của mình. TẦM NHÌN CHIẾN LƯỢC: NGUYÊN TẮC CHUNG ĐỂ ĐỔI MỚI DOANH NGHIỆP Dùng nhiều ví dụ ở nhiều ngành, cuốn sách này sẽ cho bạn các nguyên tắc chung để đổi mới doanh nghiệp, tận dụng các lợi thế sẵn có và nhìn ra những nguồn lực cần phải phát triển. Có 4 nguyên tắc căn bản: 1. Tái tư duy hướng kinh doanh 2. Tái đánh giá chuỗi giá trị 3. Tái kết nối với khách hàng 4. Tái cấu trúc doanh nghiệp Trong cuốn sách này, tôi sẽ bàn chi tiết các nguyên tắc trên. Bạn sẽ phải đối diện với chúng. Để thành công, bạn không thể bỏ qua nguyên tắc nào. Nhưng bạn sẽ nhận ra từ các nghiên cứu trường hợp rằng có nhiều hướng đi linh hoạt và rộng mở để chuyển đổi doanh nghiệp của mình. Vì biết rằng không có cây đũa thần duy nhất, cuốn sách này sẽ cố gắng đưa ra cách tiếp cận mang tính hệ thống cho việc chuyển đổi kỹ thuật số. Tái tư duy hướng kinh doanh Với những thay đổi chóng mặt của kỷ nguyên kỹ thuật số, bạn cần ngồi lại và suy ngẫm về bản chất của doanh nghiệp mình, tìm hiểu 3 yếu tố: phạm vi, mô hình kinh doanh và môi trường kinh doanh. Khi nghĩ về phạm vi, bạn sẽ phải tự hỏi: “Chúng ta sẽ hoạt động trong lĩnh vực nào?” Như Amazon, khởi đầu là một trang web bán hàng, nhưng giờ không giới hạn ở lĩnh vực bán lẻ. Năm 2017, Amazon dự kiến sẽ kiếm được 3,5 tỷ đô-la tiền quảng cáo, và đồ điện tử như Echo cũng đang tranh giành thị phần. Google cũng đang đầu tư vào xe tự lái, còn Apple, sau hàng thập kỷ là một công ty phần cứng, đang đầu tư mạnh mẽ vào mảng nội dung. Vậy bạn nên đầu tư vào đâu? Trong thời đại kỹ thuật số, các công ty thường rẽ ngang để cạnh tranh, và xác định lại phạm vi kinh doanh là chìa khóa của thành công. Cần phải cân bằng và thận trọng, vừa giữ vị trí sẵn có vừa mở rộng phạm vi kinh doanh. Chương 1 sẽ bàn về phạm vi kinh doanh và cho bạn thấy các quy luật của cuộc chơi đã thay đổi, và phải làm sao để tiếp tục cạnh tranh. Thay đổi công nghệ đòi hỏi xác định lại mô hình kinh doanh, cách bạn tạo ra giá trị và chiếm được vị trí trong chuỗi giá trị. Chẳng hạn, khi iTunes làm nghiêng ngả ngành công nghiệp đĩa hát, khiến doanh thu suy giảm, ngành này đã phải chuyển trọng tâm sang biểu diễn sân khấu làm nguồn thu chính. Ngành xuất bản và báo in, với doanh thu quảng cáo suy giảm, cũng buộc phải xem lại liệu có nên trông chờ một tương lai dựa vào quảng cáo hay không. Chương 2 bàn về các đổi mới sáng tạo mô hình kinh doanh và cách công ty của bạn có thể học hỏi. Khi các mô hình kinh doanh đều thay đổi và cạnh tranh càng gay gắt, có thể bạn sẽ nhận ra khó có thể thành công một mình. Có thể bạn sẽ phải biến thành một nền tảng (platform) nơi bạn phải hợp tác với một môi trường kinh doanh mới – cả đối tác lẫn đối thủ (frenemies). Nhiều công ty đã tạo ra các nền tảng và buộc phải thay đổi cách nhìn về cạnh tranh. Khi ngân hàng đầu tư Goldman Sachs khai trương mảng buôn bán trái phiếu cấu trúc (structured notes), còn có tên SIMON, họ đã làm mọi người kinh ngạc khi mời các đối thủ cùng lên nền tảng đó và bán sản phẩm. Chiến lược này đã khiến Goldman Sachs trở thành nhà phát hành trái phiếu cấu trúc lớn thứ 2 thế giới chỉ sau vài năm. Việc chuyển hướng từ bán sản phẩm sang quản lý một nền tảng cần chiến lược và suy nghĩ rất khác, như sẽ đề cập trong Chương 3. Đánh giá lại chuỗi giá trị Công nghệ kỹ thuật số có thể tăng hiệu quả và năng suất trong chuỗi giá trị của bạn, nhất là khi nhiều mô hình Nghiên cứu & Phát triển (R&D) và đổi mới được ứng dụng. Các công ty như GE, P&G và Siemens đã tận dụng khái niệm “sáng tạo mở” để tiếp cận R&D. Chương 4 sẽ phân tích tại sao và khi nào sáng tạo mở phát huy tác dụng, bạn nên thiết kế mô hình sáng tạo mở trong doanh nghiệp như thế nào, và làm sao để tránh các sai lầm. Công nghệ số đã mở ra kỷ nguyên Công nghiệp 4.0. Các đổi mới như sản xuất vận dụng kỹ thuật số, thực tế ảo và thực tế ảo tăng cường (virtual & augmented reality), công nghệ in 3-D, và chuỗi cung ứng kỹ thuật số đang tăng năng suất doanh nghiệp. Chương 5 sẽ bàn về cách các doanh nghiệp toàn thế giới đang vận dụng công nghệ để tạo lợi thế cạnh tranh. Những công ty mới đang áp dụng công nghệ số để làm gián đoạn chuỗi giá trị sẵn có, đặc biệt là mảng phân phối. Trong làn sóng Internet thời đầu, các công ty mới đã làm chao đảo nhiều lĩnh vực, chẳng hạn như các đại lý du lịch. Quá trình này vẫn tiếp tục, và giờ đến lượt các đại lý xe hơi và nhà bán lẻ chịu sức ép, khi các nhà sản xuất tự mở các kênh phân phối trực tuyến của riêng mình. Thách thức với các nhà sản xuất là làm sao để phối hợp cả 2 kênh phân phối truyền thống lẫn trực tuyến, làm sao để tạo sức mạnh cộng hưởng, như Chương 6 sẽ đề cập. Tái kết nối với khách hàng Công nghệ số cũng thay đổi cách tìm mua hàng, và tạo điều kiện để thu thập thông tin về toàn bộ quá trình chọn mua hàng, mở ra hàng loạt các hướng tìm kiếm khách hàng mới. Trước khi mua xe, khách hàng sẽ tìm kiếm thông tin trên Google, và đó là cơ hội để các nhà sản xuất xe hơi tìm hiểu thị hiếu đồng thời tác động đến quyết định của họ. Các cảm biến gắn vào máy giặt có thể giúp hãng máy giặt Whirlpool ghi lại cách thức sử dụng của khách hàng, và thậm chí có thể cung cấp thông tin về loại bột giặt cho hãng P&G. Vì người tiêu dùng ngày càng dựa vào đánh giá từ bạn bè trên mạng, bạn có thể theo dõi mạng xã hội xem có thể biến ai thành “người ảnh hưởng” (brand advocates) có khả năng thuyết phục người khác. Chương 7 sẽ thảo luận cách công nghệ số mở ra nhiều hướng tìm kiếm khách hàng mới. Dù marketing kỹ thuật số đã qua nhiều năm phát triển, tỷ lệ người dùng nhấn chuột vào quảng cáo trực tuyến chỉ dưới 1%. Nhãn hàng nào cũng muốn lôi cuốn người tiêu dùng, nhưng người tiêu dùng sẽ không tự nhiên mà tìm hiểu về một bánh xà phòng, một lon nước ngọt hay một chai bia. Giữa vô số thông tin ồn ào trên mạng, làm thế nào để bạn được họ chú ý? Chương 8 sẽ cho thấy câu trả lời không chỉ nằm ở công nghệ và dữ liệu, mà nằm ở việc đưa ra các giá trị độc nhất vô nhị cho khách hàng, như các ví dụ mà Tesco đã làm ở Hàn Quốc, Unilever ở Ấn Độ, và MasterCard ở Singapore. Công nghệ số lẽ ra phải khiến việc đánh giá chiến dịch quảng cáo dễ dàng hơn. Nhưng việc đó vẫn khó khăn do nhiều thách thức, như việc phân bổ kết quả của chiến dịch marketing (attribution). Làm sao để bạn phân tích và tối ưu hóa chi phí tiếp thị? Chương 9 sẽ nói về các nghiên cứu giúp các công ty trong công đoạn quan trọng này. Tái cấu trúc doanh nghiệp Đưa doanh nghiệp qua chặng đường chuyển đổi kỹ thuật số không phải chuyện nhỏ. Khi vừa củng cố thế mạnh hiện tại, vừa xây dựng cho tương lai, bạn sẽ phải quản lý đồng thời 2 doanh nghiệp. Vì vậy, doanh thu và lợi nhuận sẽ giảm trong giai đoạn chuyển đổi, trước khi có thể tăng lên, và điều đó có thể làm một CEO tự tin nhất phải nao núng. Chương 10 sẽ bàn về thách thức khi chuyển đổi kỹ thuật số và nêu những ví dụ các công ty như Adobe đã trải qua quá trình này thành công. Nếu vậy, làm sao để chuẩn bị doanh nghiệp của bạn cho việc đổi mới sáng tạo? Như tôi đã nói trong phần trước, tạo ra một nhóm khởi nghiệp riêng biệt bên trong một doanh nghiệp truyền thống giống như dùng xuồng cao tốc để chuyển hướng con tàu mẹ. Do vậy thay vì dùng xuồng cao tốc, bạn hãy tạo ra một nơi neo đậu cho các dự án mới mà chúng ta đang gọi là xuồng cao tốc này, để rồi tận dụng sức mạnh của con tàu mẹ mà dần dần lái nó theo hướng khác. Chương 11 sẽ giải thích thêm. Dữ liệu, trí tuệ nhân tạo, và máy học (machine learning) đã tự động hóa nhiều việc làm, thay đổi hoàn toàn các kỹ năng mà nhân lực của doanh nghiệp cần có. Công nghệ đã khiến việc quản lý nhân lực bớt tính chủ quan và phụ thuộc nhiều hơn vào dữ liệu. Các phương pháp mới để tuyển dụng, quản lý người tài đang được áp dụng. Chương 12 nói về các chủ đề này và mô tả cách mà Knack, một công ty ở San Francisco, Mỹ, dùng trò chơi trên di động để tuyển nhân tài. Mỗi trò chơi 10 phút cho Knack hàng ngàn kiểu dữ liệu về cách các ứng viên xử lý thông tin, đối phó với thử thách và học hỏi từ sai lầm. Sự sáng tạo này đã giúp Knack có được nhiều người ủng hộ và nhiều khách hàng lớn như AXA, BCG, Nestlé và Citigroup. Sau đây cuốn sách sẽ bàn về 4 nguyên tắc lớn của chuyển đổi kỹ thuật số được minh họa trong hình 1-1. Mỗi chương sẽ đi sâu vào 3 chủ đề nhỏ, nêu ra các cách thức tối ưu, và giải đáp những câu hỏi đặt ra ở trên. *** Phạm vi kinh doanh Năm 1960, Theodore Levitt, giáo sư Trường Kinh doanh Harvard, đăng bài viết gây tranh cãi trên Harvard Business Review, trong đó ông tranh luận rằng các công ty quá chú trọng vào sản phẩm mà không phải vào nhu cầu của khách hàng. Để giúp các nhà quản lý tránh điều này, ông đặt câu hỏi “Các bạn thực sự đang trong ngành kinh doanh nào?”1 Năm thập kỷ sau, câu hỏi căn bản đó càng trở nên quan trọng, khi các công ty chuyển từ sản phẩm sang nền tảng và ranh giới giữa các lĩnh vực ngày càng mờ nhạt. Nhưng ngay cả khi đa số doanh nghiệp đang cố gắng lấy khách hàng làm gốc, vẫn có nhiều giám đốc cao cấp từ các tập đoàn như General Motors hay Walmart chỉ nhìn vào sản phẩm để xác định mục tiêu hay lĩnh vực kinh doanh. Hãy cùng tìm hiểu xem Amazon đã vận dụng lời khuyên của Levitt như thế nào. AMAZON KINH DOANH TRONG LĨNH VỰC NÀO? Khi Amazon mới khai trương website, vào tháng 7 năm 1995, nhà sáng lập Jeff Bezos muốn dùng Internet để bán sách với giá rẻ. Ông lập ra một hiệu sách ảo, với chi phí cố định thấp và nhiều đầu sách hơn so với một cửa hàng truyền thống. Khái niệm đó trở nên phổ biến, và Bezos nhận ra khách mua những mặt hàng khác cũng sẽ thích hình thức này. Ông bán thêm đĩa nhạc, đồ điện tử, đồ chơi, phần mềm, đồ gia dụng và nhiều mặt hàng khác. Giá cạnh tranh, chủng loại đa dạng và sự tiện dụng của Amazon thách thức các nhà bán lẻ truyền thống như Best Buy, Toys “R” Us, và Walmart. Năm năm sau, Amazon mở cửa trang web và mời các bên thứ 3 lên bán hàng, với điều kiện họ trả Amazon khoản phí nhỏ. Đôi bên cùng có lợi: hàng hóa trở nên đa dạng hơn mà Amazon không tốn một xu, còn các bên thứ 3 hưởng lợi từ lượng khách sẵn có trên Amazon. Việc mở cửa cho các bên thứ 3 biến Amazon từ nhà bán lẻ trực tuyến thành một nền tảng trực tuyến, buộc Amazon phải xây dựng những cái mới đồng thời phải mời gọi, hướng dẫn và quản trị mạng lưới người bán sao cho trải nghiệm của khách hàng vẫn được đảm bảo. Và phải cạnh tranh với một loạt đối thủ mới bao gồm eBay, Craigslist và các công ty khác. Các nhà bán lẻ trực tuyến khác, như Flipkart ở Ấn Độ, cũng đang chuyển đổi tương tự và nhận ra rằng chuyển từ mô hình bán lẻ sang mô hình chợ điện tử đòi hỏi thay đổi lớn về hoạt động cũng như nguồn lực.2 Sự ra đời của dịch vụ iTunes vào năm 2001 cho phép người dùng tải về nhạc kỹ thuật số thay vì mua đĩa CD từ cửa hàng. Nhận ra xu hướng này, Amazon ra mắt dịch vụ video theo yêu cầu, ban đầu với tên Unbox sau đổi thành Amazon Instant Video, gần một năm trước dịch vụ xem phim trực tuyến của Netflix. Amazon đã theo sát nhu cầu của người dùng và chuyển từ kinh doanh đĩa CD, DVD sang xem phim trực tuyến, và phải phát triển nguồn lực mới, cạnh tranh với các đối thủ mới như Apple hay Netflix. Năm 2011, hợp tác với công ty Warner Brothers, Amazon thành lập Amazon Studios chuyên sản xuất phim, và bỗng nhiên trở thành đối thủ của Hollywood. Vì lý do gì mà Amazon, ban đầu là nhà bán lẻ, lại đi theo hướng này? Bởi vì nội dung phim giúp Amazon biến người xem thành người mua hàng. Năm 2016 tại một hội thảo công nghệ gần Los Angeles, Jeff Bezos nói: “Nếu chúng tôi đạt giải Quả cầu vàng, chúng tôi sẽ bán được nhiều giày hơn”.3 Theo như Bezos, phim của Amazon Studios cũng khiến nhiều người đăng ký gói Prime gia hạn dịch vụ hơn, và “tỷ lệ dùng thử rồi đăng ký hẳn gói Prime cũng cao hơn ở những khách hàng có xem phim trực tuyến”.4 Ra mắt năm 2015, Prime miễn phí giao hàng trong vòng 2 ngày, với chi phí của gói ban đầu là 79 đô-la/năm sau tăng lên 99 đô-la/năm. Tới năm 2017, Amazon đã có gần 75 triệu người dùng Prime trên toàn thế giới.5 Phí đăng ký không chỉ mang về cho Amazon 7,5 tỷ đô-la mỗi năm, mà người dùng Prime còn là những người mua sắm nhiều gấp đôi.6 Các phim của Amazon vừa khiến người dùng trung thành hơn với Prime, vừa lôi cuốn khách hàng mới. Năm 2015, Giám đốc tài chính (CFO) của Amazon, Tom Szkutak, khen ngợi khoản đầu tư 1,3 tỷ đô-la của Amazon vào làm phim đã góp phần quan trọng trong việc thu hút khách hàng mới đến với dịch vụ của Amazon, bao gồm Prime.7 Năm 2017, Amazon chi 4,5 tỷ đô-la để làm phim mang thương hiệu riêng.8 Nhưng phạm vi kinh doanh của Amazon không dừng lại ở bán lẻ và làm phim. Năm 2007, Amazon tung ra thiết bị đọc sách Kindle, gần 3 năm trước iPad. Đến lúc này, Amazon, khởi đầu nhờ bán lẻ, đã xâm nhập lĩnh vực sản xuất thiết bị. Kindle được thiết kế để giúp bán sách điện tử (ebook) khi mà người đọc chuyển từ sách giấy sang sách kỹ thuật số. Phải nói rằng, chiến lược của Amazon cho Kindle khác so với chiến lược của Apple cho iPad. Apple nhận doanh thu hầu hết từ thiết bị, còn Amazon coi Kindle như “dao cạo”, bán với giá thấp (thậm chí không lãi) để kiếm nhiều tiền hơn nhờ bán sách điện tử, tức “lưỡi dao” (mô hình kinh doanh còn được gọi là “lưỡi và dao cạo”). Khi người dùng ngày càng dành nhiều thời gian trước màn hình di động, Amazon tung ra điện thoại Fire vào tháng 7 năm 2014. Fire không được ưa chuộng, nhưng liệu bước đi vào thị trường này có phải sai lầm? Cũng có thể. Nhưng kịch bản thành công nếu xảy ra sẽ đem lại lợi nhuận khổng lồ. Gần đây hơn, Amazon tung ra các thiết bị khác như nút bấm Amazon Dash, cho phép người dùng mua hàng từ hơn một trăm thương hiệu, và Echo, trợ lý ảo nhận biết giọng nói, có thể chơi nhạc trực tuyến, tìm kiếm thông tin, và tất nhiên đặt hàng từ trên Amazon một cách thuận tiện.9 Echo được tung ra vào tháng 11 năm 2014, và trong 2 năm đã bán được gần 11 triệu chiếc ở Mỹ, còn các lập trình viên đã tạo ra hơn 12.000 ứng dụng hay còn gọi là “kỹ năng” cho thiết bị này. Giọng nói ngày càng trở thành phương thức giao tiếp với thiết bị, và về mặt này, Amazon đã ở vị thế chắc chắn nhờ vào Echo. Amazon cũng thành lập mảng kinh doanh quảng cáo, cạnh tranh trực tiếp với Google. Với số lượng người dùng khổng lồ, Amazon biết thói quen tìm kiếm và mua hàng của họ, và dùng kho tàng dữ liệu phong phú đó để đặt quảng cáo có tác động nhiều nhất với người dùng. Trong khi Google chỉ biết người dùng có ý định mua hàng, Amazon biết được người đó có thực sự mua hay không, một thông tin hữu ích cho nhà sản xuất, những người đang chi ngày càng nhiều ngân sách quảng cáo trực tuyến trên Amazon. Sự thay đổi đó đã mang lại cho Amazon 3,5 tỷ đô-la doanh thu quảng cáo trong năm 2017.10Nhưng một mục tiêu lớn hơn với Amazon là thay thế Google làm cỗ máy tìm kiếm sản phẩm, sao cho người mua hàng sẽ bắt đầu tìm kiếm trên Amazon, chứ không phải trên Google. Như vậy, Amazon sẽ phải chi ít tiền hơn cho quảng cáo trên Google, và Amazon cũng sẽ kiểm soát thị trường nhiều hơn. Tháng 10 năm 2015, thăm dò 2.000 người tiêu dùng Mỹ cho thấy 44% trong số họ tìm trực tiếp trên Amazon, so với 34% dùng các trang tìm kiếm như Google hay Yahoo.11 Eric Schmidt, chủ tịch điều hành của Google, thừa nhận xu hướng này. “Mọi người không nghĩ Amazon là cỗ máy tìm kiếm”, Schmidt nói, “nhưng khi tìm mua thứ gì đó, thường là bạn lên tìm trên Amazon”.12 Có lẽ gây tranh cãi hơn cả là quyết định của Jeff Bezos tiến vào thị trường điện toán đám mây, với dịch vụ Amazon Web Services (AWS). Bỗng nhiên Amazon có hàng loạt đối thủ cạnh tranh khác, như IBM. Một nhà bán lẻ đang làm gì trong mảng điện toán đám mây? AWS giúp Amazon dễ dàng tăng quy mô hoạt động để đáp ứng tăng trưởng sau này, cho phép Amazon học hỏi từ các công ty thương mại điện tử khác cũng trên nền tảng AWS. Nó cũng cho phép Amazon biến các máy chủ web nhàn rỗi thành doanh thu. Như vậy , AWS vừa là cách để Amazon xây dựng tiềm lực công nghệ để trở thành gã khổng lồ trên Internet, đồng thời kiếm lời từ tiềm lực này.   Mời các bạn đón đọc Kinh Doanh Trong Thời Đại 4.0 của tác giả Sunil Gupta.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Lãnh Đạo Bằng Sự Khiêm Nhường
Trong một thời đại mà những người nổi bật, ăn to nói lớn luôn thu hút mọi sự chú ý, lối sống khiêm nhường có thể được xem như là một điểm yếu. Nhưng sức mạnh của Giáo hoàng Francis lại bắt nguồn từ chính đức khiêm nhường của ông. Đi lại chỉ bằng chiếc xe Ford Focus, từ chối sống tại căn hộ giáo hoàng xa hoa, quan tâm chăm sóc đến người nghèo ‒ những hành động này thể hiện một hình mẫu lãnh đạo mà từ lâu chúng ta không còn được trông thấy. Giáo hoàng đã trở thành một trong những người được bàn luận nhiều nhất trên thế giới, một nhân vật tôn giáo được tôn kính nhất, một nhà lãnh đạo giàu phẩm hạnh. Lãnh đạo bằng sự khiêm nhường sẽ chỉ cho bạn cách để có thể trở nên giàu lòng trắc ẩn, đáng tin cậy cũng như tăng tính hiệu quả trong công việc. Tác giả Jeffrey A. Krames đã diễn giải những quan điểm và hành động của Giáo hoàng thành những chiến lược thực tiễn mà bất kỳ ai cũng có thể áp dụng. - Phá bỏ bức tường ngăn cách giữa mọi người. - Chú trọng nâng cao thế mạnh của người khác. - Cân nhắc và tham khảo mọi ý kiến. - Giao tiếp với mọi người, bất kể vị trí của họ trong công ty. Và nhiều nguyên tắc nữa… Đây không chỉ là cẩm nang thiết thực đối với các nhà quản lý, lãnh đạo mà còn là cuốn sách hữu ích dành cho bất kỳ ai mong muốn kết nối với người khác bằng sự lịch thiệp và chân thành. *** Đây không chỉ là một cuốn sách nữa của tôi viết về nghệ thuật lãnh đạo, mà còn là một cuốn sách mang nhiều tính cá nhân. Tôi không phải là một tín đồ Công giáo, cũng không theo đạo Thiên chúa. Tôi là con cháu của những người sống sót qua nạn diệt chủng Holocaust. Cha tôi sinh ra tại Ba Lan và mất tất cả người thân dưới tay Đức Quốc xã. Câu chuyện kinh hoàng của ông đã được Tổ chức Shoah thu âm lại ‒ một tổ chức do đạo diễn lừng danh Steven Spielberg thành lập sau khi ông thực hiện bộ phim Danh sách của Schindler (Schindler’s List). Mẹ tôi sinh ra trong một gia đình Do Thái ở Frankfurt. Bà trở thành trẻ mồ côi khi chuyển tới Anh với hàng ngàn đứa trẻ khác trên chuyến tàu Kindertransport vào cuối năm 1938. Tôi chưa bao giờ đề cập đến những điều này trong các cuốn sách khác của mình vì nó không phù hợp. Nhưng lần này tôi cảm thấy cần nói ra, vì đó chính là động lực lớn thôi thúc tôi viết nên cuốn sách này. Cha mẹ tôi ‒ thành viên của những gia đình Do Thái sùng đạo ‒ đã bị cỗ máy giết người của Hilter gây tổn thương nghiêm trọng. Đối với họ, Thế chiến thứ hai chưa bao giờ kết thúc cả. Họ phải sống với những mất mát quá lớn cũng như từng chứng kiến và hứng chịu những hành động tàn bạo không có nhân tính. Đã có vô số nghiên cứu về hệ quả của Holocaust đến thế hệ sau của những người sống sót. Đối với tôi, đó là nỗi sợ hãi mỗi khi rời khỏi căn hộ nhỏ ở Bronx ‒ cảm giác bất an trước những hiểm họa rình rập xung quanh. Tôi bị nhiễm suy nghĩ đó từ cha mình, Baruch Krames. Ông không tin tưởng bất kỳ ai sau hai năm trốn chạy phát xít. Trong thời gian đó, ông đã phải sống như một con thú trong rừng, lấy trộm đồ ăn của nhà giàu để chia cho những người sắp chết đói tại khu Do Thái. Những gì cha tôi trải qua và chứng kiến đã ám ảnh ông suốt cả cuộc đời. Ông đã tận mắt nhìn thấy người em trai của mình bị bắn khi ông và các anh trai chạy trốn khỏi lũ phát xít. Ông cũng đã nhìn thấy không chỉ một lần hàng trăm xác người Do Thái chồng chất trên những chiếc xe của quân đội Đức như vật liệu xây dựng trên công trường. Tất nhiên, tôi không phải chứng kiến những cảnh tượng đó nhưng chúng cũng hằn sâu trong tâm trí tôi. Holocaust là chủ đề cho một cuốn sách khác nhưng tôi cảm thấy cần nói đến ở đây vì tôi luôn có thể cảm nhận sâu sắc nỗi đau của cha mẹ mình. Như thể tôi sinh ra trong một gia đình ma ‒ hồn ma những người thân đã mất của cha mẹ tôi dưới thời Hitler. Thế nên, tôi luôn trân trọng lòng tự tôn của người khác. Đó cũng là lý do tôi cực kỳ nhạy cảm khi ai đó xâm phạm những gì tôi coi là giá trị cốt lõi trong cá tính tạo nên con người mình. Vậy tất cả những điều này có liên quan gì đến một cuốn sách nói về nghệ thuật lãnh đạo của Giáo hoàng Francis? Một thời gian ngắn sau khi đảm nhận cương vị Giáo hoàng vào tháng 3 năm 2013, Francis nổi bật với hình tượng một người chống Hilter ‒ một người tôn trọng phẩm hạnh và đề cao con người bất kể màu da, tầng lớp, xuất thân. Ông là lời đáp trả của thế kỷ XXI đối với tội ác diệt chủng từ thế kỷ XX. Đoạn trích sau đây từ bài thuyết giảng nổi tiếng nhất của Giáo hoàng Francis đã nhấn mạnh điều này: “Điều răn ‘Chớ giết người’ đã khẳng định quan điểm bảo vệ giá trị cuộc sống con người. Ngày nay, chúng ta cũng phải ‘nói không’ với nền kinh tế đặc quyền đặc lợi và bất bình đẳng.” Con số có thể cho thấy sự trái ngược giữa hai nhà lãnh đạo thế giới này. Hầu hết mọi người đều biết rằng Hitler đã giết hại hơn sáu triệu người Do Thái. Điều ít người biết là trong năm 2013, năm đầu tiên của Giáo hoàng Francis tại Rome, các sự kiện và các buổi lễ mi-xa của ông thu hút hơn sáu triệu người đến dự, rất nhiều trong số họ là người mới gia nhập hoặc vừa trở lại Giáo hội. Có vô vàn bằng chứng về sự khiêm nhường và nhân văn của Giáo hoàng Francis. Trước khi trở thành Giáo hoàng, Tổng giám mục Jorge Mario Bergoglio(1) thường ra ngoài vào ban đêm ở Buenos Aires để giúp đỡ người nghèo. Giờ đây, ở vị trí Giáo hoàng, ông giao phó cho một Tổng giám mục khác làm việc đó. Trước thời điểm diễn ra Mật nghị Hồng y và được lựa chọn làm Giáo hoàng, Bergoglio đã ở tại một nhà tập thể đơn sơ trong vùng. Trong bài thuyết trình với tư cách là Giáo hoàng mới, Francis quyết định không đứng trên bục phát biểu như những người tiền nhiệm. Thay vào đó, theo như Hồng y Timothy Dolan, ông đã nói, “Tôi đứng ở dưới này”. Trong buổi tiệc sinh nhật 77 tuổi vào tháng 12 năm 2013, Giáo hoàng Francis đã mời bốn người vô gia cư đến dự sinh nhật. Đó không phải là cách để quảng bá hình ảnh như các chính trị gia thường làm mà bởi ông cảm thấy thoải mái nhất khi ở bên cạnh những người này. Trong năm đầu tiên làm Giáo hoàng cũng như thời gian tại Argentina, Francis luôn thể hiện là một người khiêm nhường. Tuy nhiên, khiêm nhường không có nghĩa ông là một nhà lãnh đạo hời hợt. Giống như tất cả những nhà lãnh đạo nổi bật, ông có vô số công việc cần giải quyết. Trên thực tế, theo những phóng viên đã theo dõi Bergoglio nhiều năm, ông là một người luôn quan tâm đến các vấn đề xã hội và chính trị. Ông cũng là một người có trí tuệ lớn nhưng ít được chú ý bởi lối sống khiêm nhường của mình. “Ông không phải là một thiếu nữ ngây thơ bước vào thế giới”, Elisabetta Pique, một nhà báo Argentina quen biết Bergoglio từ những năm 1990 và là tác giả cuốnsách Francisco: Vida y Revolucion (Francis: Cuộc đời và cách mạng) đã miêu tả vấn đề ông phải đối mặt tại Rome, “Ông gần như đã phải chiến đấu với một bộ phận của Giáo triều Rome.(2)” Một nhà báo khác đã sử dụng từ “không thương xót” để miêu tả cách điều hành của Francis. Nhà báo Mark Binelli của tạp chí Rolling Stone viết rằng, “Bergoglio đã thể hiện mình là một người thi hành pháp luật có khả năng ra lệnh đầy uy lực để phục vụ mục đích cao cả hơn.” Giáo hoàng Francis rõ ràng là một nhà điều hành sắc sảo. Ông đã loại bỏ một loạt lãnh đạo bảo thủ ra khỏi Giáo triều, những người có thể ảnh hưởng đến kế hoạch hành động của Giáo hoàng trong quá trình biến Giáo hội trở nên cởi mở và tập trung hơn vào việc đáp ứng nhu cầu của tất cả mọi người. Không phải ngẫu nhiên mà một trong những cuốn sách nổi tiếng nhất của Giáo hoàng Francis, Về thiên đường và trái đất, lại được chấp bút cùng Abraham Skorka, một giáo sĩ Do Thái nổi tiếng người Argentina và cũng là một người bạn của ông. Cũng chẳng ngẫu nhiên mà cuốn sách đó miêu tả việc Bergoglio và Skorka đã dành nhiều năm để “xây dựng cầu nối giữa Thiên chúa giáo, Do Thái giáo và thế giới nói chung.” Với tư cách là Giáo hoàng, Francis thách thức những người bảo thủ cực đoan trong Giáo hội bằng cách mở lòng với những người mà các Giáo hoàng khác không bao giờ lưu tâm: Ông rửa chân cho tù nhân (bao gồm hai nữ tù nhân, việc này đã gây tranh cãi không nhỏ với những bậc trưởng lão trong Giáo hội; chưa từng có Giáo hoàng nào rửa chân cho phụ nữ); ông cũng đã ôm một người nhiễm trùng da, điều mà nhiều người không dám làm. Việc Giáo hoàng ghét thói lãng phí và khoe khoang tài sản không có gì đáng ngạc nhiên, đặc biệt là đối với các giám mục, và ông thể hiện quan điểm của mình bằng hành động. Cuối năm 2013, Giáo hoàng Francis (tạm thời) “trục xuất” một giám mục người Đức bởi ông này đã trơ tráo sử dụng số tiền khổng lồ 31 triệu euro để xây dựng một ngôi nhà riêng bề thế. Một cuộc điều tra đã được thực hiện để quyết định tương lai của “vị giám mục treo” này. Cuối tháng 3 năm 2014, “vị giám mục treo” người Đức đã bị trục xuất khỏi giáo phận của mình vĩnh viễn. Giáo hoàng Francis nhận thấy trong Giáo hội không có chỗ cho kẻ tiêu xài lãng phí, nhất là khi trên thế giới còn quá nhiều người nghèo đói. Giáo hoàng đã thể hiện cái nhìn của ông đối với vấn đề này: Tại sao một người vô gia cư già cả chết đi thì chẳng ai bận tâm, nhưng thị trường chứng khoán mất hai điểm lại là tin tức thời sự cơ chứ? Hình ảnh con người ông được gói gọn trong một câu nói. Giáo hoàng Francis cho chúng ta thấy thế giới đang đi chệch hướng và các giá trị bị đảo lộn. Kể cả cách lựa chọn tông hiệu ‒ lấy cảm hứng từ Thánh Francis thành Assisi ‒ cũng thể hiện với thế giới rằng ông sẽ tập trung vào tầng lớp người nghèo, cũng như những người bệnh tật và yếu đuối nhất trong xã hội chúng ta. Thánh Francis thành Assisi sống vào đầu thế kỷ XIII và trở thành vị thánh bảo trợ của động vật và hệ sinh thái. Dù sinh ra trong gia đình giàu có, Thánh Francis đã từ bỏ tất cả những gì mình sở hữu kể cả quần áo để làm theo lời dạy của Chúa Jesus, “Không sở hữu vàng bạc hoặc đồng xu nào trong ví, không túi hành lý, không giày dép, không người tùy tùng.” Thánh Francis thành Assisi hẳn sẽ bằng lòng với Giáo hoàng Francis đương thời. Tuy nhiên, lời nhận xét của Giáo hoàng về người vô gia cư và chỉ số chứng khoán Dow Jones là một thanh kiếm hai lưỡi: Ngoài việc tiết lộ đáng kể về Francis, nó cũng bộc lộ thách thức lớn nhất trong việc viết một cuốn sách về nghệ thuật lãnh đạo xoay quanh nhân vật đặc biệt này. Francis thường bị chỉ trích do khuynh hướng chống chủ nghĩa tư bản của mình. Tuy nhiên, ông không phải là người chống công nghiệp hoá. Ông chỉ có cái nhìn phê phán đối với các tập đoàn lớn khi hàng nghìn người lao động bị sa thải, ông viết rằng: “Nền kinh tế không còn là một biện pháp cứu trợ mà là một loại chất độc mới. Điều này thể hiện qua mưu toan tăng lợi nhuận bằng cách cắt giảm nhân công và gia tăng số lượng người thất nghiệp.” Tại sao không nên coi đây là lời phản đối giới kinh doanh? Trong cùng một bài tông huấn mà ông có viết về “những người thất nghiệp”, ông cũng đã viết về tính cao quý của thương nghiệp và đặc biệt là các hoạt động kinh doanh tạo điều kiện cho thế giới trở nên tốt đẹp hơn: “Kinh doanh cũng là một nghề, và là một nghề cao quý nếu những người dấn thân vào nghề này hiểu rằng họ có cơ hội để làm những điều ý nghĩa lớn lao hơn trong cuộc sống. Từ đó, họ có thể phục vụ lợi ích chung bằng cách nỗ lực gia tăng của cải trên thế giới và đưa tất cả mọi người thoát khỏi đói nghèo... Tôi tin chắc một điều rằng: những thay đổi vĩ đại của lịch sử xảy ra khi hiện thực được nhìn nhận từ những người được coi là ngoài rìa xã hội hơn là những người ở trung tâm.” Vì vậy, mặc dù các chuyên gia vẫn luôn chỉ trích khuynh hướng bài trừ doanh nghiệp của Giáo hoàng Francis, nhưng những lời chỉ trích đó hoặc quá đơn giản hoặc chưa đầy đủ, và một số trường hợp là hoàn toàn sai lầm. Tuy nhiên, không còn nghi ngờ gì nữa, Francis là người bài trừ thói tham lam, cụ thể là bất bình đẳng thu nhập. Giáo hoàng Francis đã hùng hồn nói về nguyên nhân cơ bản của sự bất bình đẳng thu nhập đang không ngừng gia tăng. “Từ đó, sinh ra một chế độ chuyên chế mới, vô hình nhưng đơn phương và không ngừng nghỉ áp đặt những quy tắc và luật lệ của riêng nó. Cơn khát quyền lực và vật chất là không có giới hạn. Ở hệ thống này, có một nguyên tắc duy nhất là nó có xu hướng hủy hoại tất cả những gì cản trở sự gia tăng lợi nhuận, kể cả những thứ mỏng manh như môi trường chẳng hạn, cũng không được bảo vệ trước lợi ích thị trường.” Nhằm ngăn chặn thói tham quyền và ham vật chất, Giáo hoàng Francis đã khiển trách những thành viên Giáo hội mua xe đắt tiền, yêu cầu họ mua ô tô đã qua sử dụng, và ủng hộ số tiền chênh lệch cho trẻ em nghèo đói, vô gia cư. Đầu năm 2014, Oxfam, một tổ chức chống đói nghèo tại hơn chín chục quốc gia công bố: 85 người giàu nhất thế giới sở hữu nhiều tiền hơn 3,5 tỷ người nghèo nhất trên thế giới cộng lại. Điều này có nghĩa là 1% người giàu nhất thế giới kiểm soát 46% (gần một nửa) tài sản của cả thế giới. Với con số này, ai có thể chỉ trích Giáo hoàng khi ông yêu cầu những người giàu nhất phải cho đi nhiều hơn? Tuy nhiên, điều này không thể giảm bớt khó khăn trong việc viết một cuốn sách xoay quanh một nhân vật với mục tiêu lớn nhất là tạo ra sân chơi bình đẳng về kinh tế. Nhưng đây không chỉ là một cuốn sách về nghệ thuật kinh doanh, mà còn là một cuốn sách về nghệ thuật lãnh đạo. Để tránh nhầm lẫn sau này, đây là định nghĩa về lãnh đạo sẽ được sử dụng xuyên suốt trong cuốn sách này: Lãnh đạo là khả năng chia sẻ một tầm nhìn và kêu gọi người khác cùng thực hiện. Có một sự mỉa mai là khái niệm này được đưa ra bởi vị lãnh đạo của một trong những tập đoàn lớn mạnh và lâu đời nhất, người đã sa thải hơn 125.000 người lao động: Jack Welch, nguyên CEO của General Electric (được Tạp chí Fortune bình chọn là Nhà lãnh đạo của thế kỷ và là đối tượng của một vài cuốn sách tôi từng viết). Jack Welch và Giáo hoàng Francis tuy có thể bất đồng trong nhiều vấn đề nhưng họ có chung một số quan điểm chính về lãnh đạo. Ví dụ, Welch hay so sánh công ty 100 tỷ đôla với một cửa hàng tiện ích tại góc đường. Điều đó có nghĩa là ông yêu cầu tất cả nhân viên nắm rõ từng sản phẩm trên kệ hàng cũng như các khách hàng thân thiết. Welch và Giáo hoàng Francis cũng đồng tình với nguyên tắc kinh doanh sau: Điểm nổi bật của bất kỳ lãnh đạo nào là cách họ dẫn đầu làm gương. Đây là điểm nổi trội của Giáo hoàng Francis. Ông có lối sống giản dị hơn tất cả những người tiền nhiệm. Trước khi trở thành Giáo hoàng, Francis từng được biết tới với hình ảnh ông sử dụng phương tiện công cộng và sống tại căn hộ nhỏ ở Buenos Aires. Sau khi trở thành Giáo hoàng, ông đã rời bỏ tòa nhà của Giáo hoàng tại Vatican để sống tại một lưu xá với hai phòng ngủ đơn giản. Francis sống với nguyên tắc đặt người khác lên trước mình và coi bản thân là người đầy tớ: “Đừng quên quyền lực đích thực là phụng sự”, Giáo hoàng Francis đã tuyên bố trong lễ nhậm chức như vậy. Phụng sự là chủ để xuyên suốt trong cuốn sách này. *** Trước khi tiếp tục, tôi muốn khẳng định bản thân không phải là tác giả đầu tiên so sánh nghệ thuật lãnh đạo trong Giáo hội với các tổ chức như doanh nghiệp, tổ chức phi chính phủ, và các loại hình khác. Một trong những người đầu tiên làm điều này là Peter Drucker, “cha đẻ của mô hình quản lý hiện đại”. Tôi coi cuốn sách năm 1946 của ông, Khái niệm về công ty (Concept of the Corporation), dựa trên nghiên cứu quy mô đầu tiên về một doanh nghiệp lớn (General Motors), là cuốn sách nền tảng của các sách kinh doanh hiện đại, và rất nhiều ý tưởng trong cuốn sách này vẫn phù hợp cho đến tận bây giờ. Drucker viết rằng: “Mọi xã hội đều cần những tổ chức mà bản chất không liên quan đến mục tiêu xã hội. Ví dụ, bản chất của gia đình là tồn tại sinh học nhưng đây không phải là mục tiêu tồn tại của xã hội. Điều này tương tự với một nhà thờ mà vương quốc của nó không nằm trong thế giới này mà thuộc về một nơi vượt khỏi xã hội.” Drucker sau đó đã bổ sung: “Khi tổ chức xã hội gặp khó khăn hoặc không thể thực hiện được giá trị đạo đức cơ bản, khi đó chúng ta sẽ có một cuộc khủng hoảng chính trị nghiêm trọng… Điều thường bị bỏ qua là sự bình đẳng về cơ hội và địa vị của mỗi cá nhân trong mối quan hệ tương quan với nhau.” Điều này được Giáo hoàng Francis lặp lại: “Các lãnh đạo chính phủ và tổ chức tài chính cần lưu ý mở rộng tầm nhìn, đảm bảo tất cả các thành viên đều có công ăn việc làm, được giáo dục và chăm sóc sức khoẻ đàng hoàng.” Giáo hoàng Francis cũng bình luận về sự chuyển dịch của cấu trúc xã hội: “Cấu trúc xã hội thay đổi mà không tạo ra niềm tin và thái độ mới thì sớm muộn gì cũng sẽ trở nên mục ruỗng, ngột ngạt và vô tác dụng”. Trong cuốn sách Quản lý trong thời điểm chuyển đổi lớn (Managing in a Time of great Change), Drucker cũng đã viết về cấu trúc mới: “Việc đấu tranh với xu hướng chuyển đổi cấu trúc là khó khăn trong thời gian ngắn và vô vọng về lâu về dài. Xu hướng này sẽ tự giảm dần hoặc tự đổi chiều… một số sẽ không đổi và có thể hoàn toàn biến mất.” Ông tiếp tục, “Thay đổi lớn trong năng lực kiến tạo tài sản đã được sử dụng cho việc giải trí, chăm sóc sức khỏe và giáo dục.” Giáo hoàng Francis cũng từng nói: “Sự thay đổi về mặt cấu trúc yêu cầu từng linh mục cũng phải thay đổi theo chiều hướng sao cho công tác của Giáo hội cởi mở và tiếp cận đến từng người.” Đầu năm 2014, Francis kêu gọi các nhà lãnh đạo thế giới họp bàn tại Davos, Thụy Sĩ để xem xét vai trò to lớn của họ đối với trật tự thế giới: “Tôi yêu cầu các bạn hãy đảm bảo rằng tài sản phục vụ con người, chứ không chi phối con người.” Điều đáng chú ý là nhiều bài viết của Drucker có cùng quan điểm và suy nghĩ như Giáo hoàng Francis. Họ chia sẻ nhiều điểm tương đồng khác, trong đó có đức tính khiêm nhường, cả hai đều sống khiêm tốn so với năng lực của bản thân. Họ đều là người có tư tưởng sáng suốt. Kể cả cách diễn đạt của họ cũng tương đồng. Thực tế, sau khi nghiên cứu hầu hết các CEO vĩ đại cuối thế kỷ XX, tôi không nghĩ có một lãnh đạo doanh nghiệp nào có thể viết đầy đủ về bản chất toàn cầu của doanh nghiệp và tài sản như Giáo hoàng Francis. Đó là lý do vì sao lời nói và hành động của ông lại có trọng lượng đến vậy. Ví dụ, khi nói về cuộc khủng hoàng năm 2008 – 2009, trong bối cảnh khủng hoảng toàn cầu và bất bình đẳng thu nhập, thật khó để tranh cãi với tuyên bố này của Giáo hoàng: “Vậy mà một số người vẫn tiếp tục bảo vệ cho lý thuyết ‘thẩm thấu’(3), cho rằng kinh tế phát triển hỗ trợ thị trường tự do, mang lại bình đẳng, và cơ hội được tiếp cận thế giới.” Francis có thể tự mô tả mình là một “tội nhân” ‒ ông từng nói: “Một người theo đạo tự coi mình yếu đuối và có tội không phải để giảm ánh mắt soi xét anh ta màlà để phát triển bản thân. Điều này đem lại lợi ích cho tất cả mọi người.” ‒ nhưng không thể phủ nhận Francis là một lựa chọn phù hợp, với công việc phù hợp, vào thời điểm phù hợp. Tôi xin lưu ý về cách giả định và tiếp cận của mình trước khi viết cuốn sách: Cho dù Giáo hoàng Francis đặt ra mục tiêu phá bỏ hiện trạng bất bình đẳng thu nhập, bài giảng và hành động của ông là ví dụ phù hợp cho lãnh đạo của bất kỳ tổ chức nào. Một vấn đề quan trọng khác đó là cách tiếp cận cuốn sách. Đây là cuốn sách viết về Giáo hoàng Francis, không phải là cuốn sách của Giáo hoàng. Vì vậy, tôi chịu trách nhiệm về nội dung của cuốn sách này. Đây là cách nhìn của tôi về lời nói và hành động của Giáo hoàng. Hơn nữa, tôi không phải là một nhà thần học cũng chẳng là một chuyên gia trong lĩnh vực Công giáo. Chuyên môn của tôi là về quản trị lãnh đạo. Tôi đã từng phỏng vấn và nghiên cứu rất nhiều nhà lãnh đạo doanh nghiệp xuất sắc nhất thế kỷ XX và một vài người thế kỷ XXI. Quan điểm của tôi về Giáo hoàng Francis sẽ khác so với quan điểm của Giáo hội Công giáo hoặc một nhà thần học. Tôi nhìn ông qua một lăng kích thế tục hơn, từ đó phân tích các nguyên tắc lãnh đạo mà ông đã thực hiện và giảng dạy. Tôi ngạc nhiên bởi con đường khác biệt mà Giáo hoàng lựa chọn để biến Giáo hội trở nêncởi mở và thu hút quần chúng hơn. Cuối tháng 5 năm 2014, Giáo hoàng Francis đã nói với các phóng viên trên chuyến bay trở lại Rome (sau chuyến công du Trung Đông) về vấn đề cho phép linh mục kết hôn: “Cánh cửa luôn mở”. Trong suốt cuốn sách này, bạn sẽ thấy Giáo hoàng đã “mở cửa” rất nhiều vấn đề, chẳng hạn như vấn đề ly hôn và hôn nhân đồng tính. Những tuyên bố gây choáng váng này đã giáng mạnh vào các thành viên cánh hữu cực đoan của Giáo hội nhưng cũng đồng thời biến Giám mục Bergoglio thành Giáo hoàng Francis, một hành trình đầy khiêm nhường, phẩm hạnh và can trường. Mời các bạn đón đọc Lãnh Đạo Bằng Sự Khiêm Nhường của tác giả Jeffrey A. Krames.
Thuật Quản Lý Bán Hàng
Nếu xem nguồn nhân lực của một công ty là đội quân chiến đấu trên thương trường thì lực lượng bán hàng có thể nói chính là đạo quân tiên phong. Họ là những người trực tiếp tìm kiếm khách hàng và tạo ra doanh số. Vì lẽ đó, vai trò của người quản lý bán hàng là cực kỳ quan trọng. Dưới trướng họ là những con người năng động nhất, nhiệt tình nhất trong công ty – những nhân viên thừa sức tạo cho bản thân mức doanh số cao tuyệt đối, nhưng vẫn cần một người lãnh đạo phối hợp những nỗ lực của họ và đem lại thành quả chung lớn nhất. Tiếp nối thành công của cuốn Thuật bán hàng, tác giả Brian Tracy đã mở rộng thêm những nguyên lý và kỹ năng cần thiết trong lĩnh vực này. Trong Thuật quản lý bán hàng, độc giả không chỉ được hướng dẫn các phương pháp làm nên thành công của người bán hàng, mà còn học được cách quản lý và duy trì một đội ngũ bán hàng ổn định, luôn đạt thành tích cao. Là người quản lý, bạn phải quan tâm đến doanh số của cả một đội ngũ, vốn là thành quả đóng góp của từng cá nhân. Bạn còn phải lập kế hoạch bán hàng, xây dựng tiêu chí, duy trì tiến độ, kiểm soát chi phí nhân lực, thưởng phạt tương xứng và chịu trách nhiệm trước công ty về hiệu quả của đội ngũ bán hàng dưới trướng. Và do mỗi nhân viên đều là một cá thể riêng biệt, nên sẽ không có nguyên lý chung nào để bạn áp dụng cho trăm người như một. “Quản lý bán hàng là một trong những vị trí điều hành giá trị nhất, nhưng cũng là một trong những vị trí ít được trân trọng nhất trong công ty”. Quả đúng như thế. Nhân viên bán hàng là đối tượng dễ tạo ấn tượng nhất với cả công ty nếu họ thành công vượt bậc, đến nỗi át đi hào quang của người quản lý trực tiếp. Nhưng “lính giỏi không có tướng tồi”, đến khi mọi người nhìn lại thành quả chung, họ sẽ cảm thấy may mắn vì doanh nghiệp có một người quản lý như bạn. Chúc bạn thành công! Tháng 3/2016 Alpha Books trân trọng giới thiệu *** Khi hãng IBM sa vào rắc rối tài chính trong thập niên 1990, công ty này đã chọn ra một tổng giám đốc mới, Lou Gerstner. Ông đã lập tức kêu gọi sự giúp đỡ từ bạn bè của mình ở hãng McKinsey & Company, một trong những công ty tư vấn quản trị lớn nhất và uy tín nhất thế giới. Ông yêu cầu họ sử dụng kỹ năng điều tra của mình để xác định lý do tại sao doanh số bán hàng, thị phần và lợi nhuận của IBM lại suy giảm. Họ lập tức bắt tay vào việc. Chưa đầy sáu tháng sau, các chuyên gia tư vấn trở lại. Họ tập hợp các giám đốc điều hành cấp cao và nói: “Chúng tôi đã tìm ra vấn đề của các bạn”. Các giám đốc liền hỏi: “Là gì vậy?” Các chuyên gia tư vấn của McKinsey trả lời: “Doanh số bán hàng thấp”. Các giám đốc đều đồng ý rằng đây chính là vấn đề và hỏi: “Vậy giải pháp là gì?” Các chuyên gia tư vấn McKinsey nói đơn giản: “Nâng cao doanh số bán hàng”. Một lần nữa, hai câu trả lời này quá hiển nhiên đối với dàn giám đốc điều hành cấp cao của IBM. Nhưng làm thế nào để họ đạt được doanh số bán hàng cao? Quy tắc 75% Câu trả lời được gọi là “quy tắc 75%”. Trong quá trình nghiên cứu , họ nhận thấy do một số chính sách nhất định của công ty, nên nhân viên và quản lý bán hàng tốn quá nhiều thời gian ngồi trong văn phòng để điền các biểu mẫu và dành quá ít thời gian tiếp xúc trực tiếp với khách hàng. Họ yêu cầu tình trạng này phải được đảo ngược ngay lập tức. Quy tắc 75% đã chỉ ra rằng: từ nay về sau, nhân viên bán hàng nên dành 75% thời gian của họ để tiếp xúc với khách hàng và giới thiệu về sản phẩm, dịch vụ của IBM. Ngoài ra, quản lý bán hàng, những người mắc kẹt trong văn phòng gần như cả ngày để xử lý đống giấy tờ do các nhân viên bán hàng tạo ra, nên dành 75% thời gian của họ ngoài thực địa cùng với nhân viên bán hàng để chăm sóc những khách hàng then chốt. Trong vòng một năm, doanh số bán hàng của IBM đã đảo ngược hoàn toàn. Tổn thất lớn trở thành lợi nhuận khổng lồ. Công ty này đã khởi sắc và một lần nữa trở thành gã khổng lồ trong ngành công nghiệp Mỹ. Các kỹ năng then chốt Vào cuối nghiên cứu này, các chuyên gia McKinsey giải thích về phát hiện quan trọng nhất của họ: Trong một tổ chức hướng đến doanh số bán hàng, việc sử dụng vai trò của người quản lý bán hàng là kỹ năng then chốt. Không gì có thể mang lại mức tăng trưởng doanh thu nhanh chóng hơn và dễ dự đoán hơn trong hoạt động và kết quả bán hàng ngoài việc đào tạo các quản lý bán hàng để họ đạt hiệu quả cao hơn trong công việc. Là người quản lý bán hàng, bạn chính là nhân tố quan trọng nhất của các tổ chức hướng đến doanh số bán hàng. Bạn có tầm ảnh hưởng đến mức doanh số và cuối cùng là mức lợi nhuận của công ty lớn hơn bất kỳ cá nhân nào khác. Bạn là nhân tố sống còn đối với thành công của công ty. Quản lý bán hàng là một trong những vị trí điều hành giá trị nhất, nhưng cũng là một trong những vị trí ít được trân trọng nhất trong công ty. Quản lý bán hàng là người đặt ra tiêu chuẩn và chỉ tiêu cho các nhân viên bán hàng và đảm bảo họ đạt yêu cầu đề ra. Sự tiến bộ của các quản lý bán hàng xuất sắc là một yêu cầu thiết yếu của tất cả các doanh nghiệp kinh doanh thành công. Bắt đầu hành trình Chào mừng bạn đến với Thuật quản lý bán hàng. Cuốn sách này được viết dựa trên nhiều năm kinh nghiệm và các nghiên cứu về thái độ, hành vi của những nhà quản lý bán hàng thành công. Trong những trang sắp tới, bạn sẽ được tìm hiểu về một loạt các ý tưởng, phương pháp, nguyên tắc và kỹ thuật cốt lõi mà bạn có thể sử dụng ngay lập tức để giúp đội ngũ bán hàng của bạn đạt hiệu quả cao hơn, tăng doanh thu, làm việc chan hòa với nhau hơn và để thúc đẩy sự nghiệp cá nhân và uy tín của bạn càng nhanh càng tốt. Quản lý bán hàng là một môn khoa học không chính xác vì nhân viên bán hàng rất khác so với hầu hết các nhân viên khác. Một người quản lý bán hàng phải trở thành một người bạn, một cố vấn, một người tâm tình, một đốc công nghiêm khắc và một giám đốc kinh doanh hiệu quả – cùng một lúc. Nhân viên bán hàng cũng có lúc vui lúc buồn, lúc doanh thu bùng nổ hay sụt giảm cùng một loạt những tình huống khác thường, đòi hỏi sự kiên nhẫn cực lớn cũng như các kỹ năng quan hệ con người siêu hạng từ người quản lý và kiểm soát họ. Nhà quản lý bán hàng siêu hạng là người có thể hợp nhất những cá tính khác nhau thành một đội ngũ bán hàng hiệu quả, có khả năng đạt được kết quả bán hàng như dự đoán và ổn định từ tháng này sang tháng khác. Việc áp dụng liên tục các nguyên tắc trong cuốn sách này sẽ giúp một nhà quản lý bán hàng như bạn đạt kết quả bán hàng tốt hơn ngay lập tức. Tuy nhiên, hãy nhớ rằng không có giải pháp chung cuộc nào trong cách ứng xử với nhân viên bán hàng. Bất cứ quy tắc nào cũng có ngoại lệ. Do sự phức tạp trong tính cách con người, nên một người quản lý bán hàng tốt phải luôn ý thức rằng người đối diện với mình có thể là một ngoại lệ, dù theo nghĩa tích cực hay tiêu cực. Với những ý tưởng bao hàm trong cuốn sách này, các nhà quản lý bán hàng tham vọng sẽ nhận ra họ đang có nhiều nhân viên có thái độ tích cực hơn và đạt năng suất cao hơn làm việc cho mình, cũng như bớt đi những nhân viên tiêu cực, kém năng suất. Hãy bắt đầu nào!   *** Brian Tracy là một nhà hùng biện, diễn thuyết, tư vấn chuyên nghiệp và là Chủ tịch Tập đoàn quản lý nguồn nhân lực Brian Tracy International, có trụ sở tại Solana Beach, San Diego. Ông đại diện cho hình ảnh những con người biết vượt qua những khắc nghiệt của cuộc sống để đạt đến thành công đỉnh cao. Để có thể đúc kết được những bài học kinh nghiệm cho mình và cho người khác, Brian đã phải trải qua vô vàn khó khăn. Vì mưu sinh, ông phải rời trường trung học khi chưa tốt nghiệp và bắt đầu bươn chải với những công việc lao động phổ thông trong nhiều năm liền. Ông rửa chén bát, bốc xếp gỗ, đào giếng khoan, làm công nhân trong nhà máy và phụ khuân vác cỏ khô đến các nông trường và trang trại chăn nuôi gia súc. Vài năm sau, ông bước chân vào nghề bán hàng và dần thành danh trong giới kinh doanh. Ba mươi tuổi, ông mới bắt kịp nền học vấn đã phải bỏ dở trước kia khi theo học chương trình MBA tại một trường đại học lớn. Với kinh nghiệm nhiều năm trong nghề, cộng với kiến thức từ quá trình học tập và ý thức nỗ lực phấn đấu không ngừng, ông đã thăng tiến qua nhiều vị trí khác nhau ở 22 công ty thuộc nhiều lĩnh vực. Năm 1981, ông bắt đầu nói chuyện và truyền đạt những nguyên tắc thành công của mình tại các cuộc hội thảo chuyên đề trên khắp nước Mỹ. Đến nay, các chương trình này đã được đưa vào giáo trình giảng dạy cho các doanh nghiệp toàn Hoa Kỳ và trên thế giới, với 20 ngôn ngữ và tại 38 quốc gia. Ông còn là nhà tư vấn và giảng viên cho hơn 500 tập đoàn trên thế giới. Ông cũng là tác giả của nhiều cuốn sách bán chạy nhất như The 100 Absolutely Unbreakable Laws of Business Success (100 quy luật bất biến để thành công), Eat That Frog! (Để hiệu quả trong công việc), Hire and Keep The Best People (Tuyển dụng và đãi ngộ người tài), Getting Rich Your Own Way, Create Your Own Future, Be a Sales Superstar, Advanced Selling Strategies, The 21 Success Secrets of Self-Made Millionaires,... Brian cho rằng bất cứ cá nhân nào cũng có những năng lực tiềm ẩn to lớn chưa được khám phá. Do đó, ông tin tưởng mọi người đều có thể tiến xa hơn nữa và nhanh chóng tiếp cận mục tiêu của mình, chỉ cần họ biết học hỏi và rèn luyện những phương pháp, kỹ năng và chiến lược mà những người thành đạt đi trước đã từng áp dụng. Qua những buổi diễn thuyết, thảo luận, ông luôn tập trung vào việc xóa bỏ trạng thái thất vọng, bi quan và cảm giác kém tự tin ẩn sâu trong mọi người để hướng đến một tương lai tươi sáng với nhiều thành công rực rỡ. Brian Tracy thường xem mình là một "độc giả chiết trung", nghĩa là không bị bó hẹp vào một tín ngưỡng, một dòng tư tưởng đặc biệt nào cả. Ông không nghĩ bản thân mình là một nhà nghiên cứu khoa học, mà chỉ là một người đi thu thập thông tin từ nhiều nguồn khác nhau sau đó tổng hợp đúc kết chúng lại thành những bí quyết, kinh nghiệm hữu ích dành cho thế hệ theo sau ông. Brian hiện đang sống hạnh phúc cùng với vợ và 4 người con tại thành phố San Diego, California. Mỗi năm, ông tổ chức thuyết trình khoảng hơn 100 lần cho hơn 300 ngàn thính giả đồng thời tham gia hoạt động kinh doanh tại 17 nước. Tác phẩm: 100 Quy Luật Bất Biến Để Thành Công Trong Kinh Doanh 21 Nguyên Tắc Tự Do Tài Chính Tự Tạo Tương Lai Của Chính Mình Thuật Tuyển Dụng Và Sa Thải Để được trọng dụng & đãi ngộ Thuật hùng biện Thuật tổ chức hội họp Tư Duy Tích Cực Đánh Thức Tiềm Năng Làm Giàu Theo Cách Của Bạn Chinh Phục Mục Tiêu Bí Quyết Tuyển Dụng và Đãi Ngộ Người Tài 12 Tuyệt Kỹ Bán Hàng Điểm Khủng Hoảng Thuật Quản Lý Bán Hàng Thuật Đàm Phán Thuật Quản Trị Thuật Marketing Thuật Lãnh Đạo Thành Công Tột Đỉnh Thuật Ủy Quyền và Giám Sát Thuật Thúc Đẩy Nhân Viên Thuật Quản Lý Thời Gian Thuật Bán Hàng Kết Thúc Bán Hàng: Đòn Quyết Định Kinh doanh bằng Tâm lý ... Mời các bạn đón đọc Thuật Quản Lý Bán Hàng của tác giả Brian Tracy.
The Story Engine - Nghệ Thuật Kể Chuyện Thương Hiệu
Lời tựa bởi Tom Morkes Tiếp thị nội dung là công cụ bị đánh giá thấp nhất và chưa được tận dụng hiệu quả nhất trong bộ công cụ của các nhà tiếp thị trực tuyến truyền thống. Thật đáng tiếc thay, bởi tiếp thị nội dung ẩn chứa tiềm năng trở thành loại hình tiếp thị lôi cuốn và linh hoạt nhất mà một doanh nghiệp có thể áp dụng. Tôi sẽ giải thích lí do ngay đây, nhưng trước nhất, tôi nghĩ chúng ta nên tìm hiểu tại sao người ta cứ lũ lượt lảng tránh tiếp thị nội dung. TÔI ĐÃ PHÁT HIỆN RA HAI NGUYÊN NHÂN KHIẾN HẦU HẾT MỌI NGƯỜI KHÔNG MUỐN ĐẦU TƯ VÀO TIẾP THỊ NỘI DUNG: #1. Việc tạo ra nội dung đủ lôi cuốn và thuyết phục để biến lưu lượng truy cập trở thành khách hàng không hề dễ dàng. Bạn chẳng thể sản xuất ra nội dung xuất sắc để tô vẽ cho doanh nghiệp của mình cứ mỗi năm phút một ngày (và bất kỳ ai hứa hẹn khả năng này với bạn đều đang bốc phét). Từ chiến lược đến khâu thực hiện, bạn phải sản xuất nội dung đứng đầu trong các công cụ tìm kiếm lớn, thôi thúc người đọc chia sẻ và đăng ký vào danh sách của bạn, và rồi dần dà họ sẽ chi tiền cho sản phẩm hay dịch vụ của bạn. Cả quá trình này tiêu tốn không chỉ thời gian, mà còn tiền bạc và năng lượng. #2. Thông thường, bạn sẽ không nhận thấy lợi tức đầu tư có lợi nào trong suốt tháng đầu tiên triển khai nội dung. Trong hầu hết các trường hợp, một bài báo cuốn hút hay một bài đăng hay trên blog mất từ 6 đến 12 tháng để thu thập đủ lưu lượng truy cập nhằm bù lại chi phí tạo ra nó. Đây quả là một bài toán khó, đặc biệt khi phần đông các nhà tiếp thị sẽ bám vào lợi tức đầu tư ngay tức thì, mà theo giả thiết, bạn có thể hưởng từ quảng cáo trả phí trên các nền tảng như Facebook hay Google. Nói cách khác: tiếp thị nội dung chỉ dành cho những chiến binh chịu đi đường dài. Hầu hết mọi người đơn giản chỉ không muốn đầu tư hằng tháng hoặc hàng năm trời vào một thứ mà có lẽ sẽ chẳng sinh lời trong nhiều tháng hoặc nhiều năm ở đoạn đường phía trước. Và cũng chính ở đoạn đường này, nếu tôi và bạn năng nhặt, ắt có ngày chặt bị. Theo kinh nghiệm xương máu của tôi, tiếp thị nội dung chính là lý do tôi có thể đi từ 0 đô la/năm tới 6 con số một năm trong chưa đầy 3 năm. Và sự phát triển này dường như vẫn chưa dừng lại. Tại sao ư? Bởi nội dung hay sẽ gia tăng giá trị theo thời gian. Đương nhiên, tới đây chúng ta phải đặt ra câu hỏi: Làm cách nào để tạo ra nội dung hay? THE STORY ENGINE: NGHỆ THUẬT KỂ CHUYỆN THƯƠNG HIỆU BỞI KYLE GRAY Tôi gặp Kyle Gray tại một hòn đảo biệt lập thuộc Thái Lan khi Kyle bắt đầu làm việc cho Dan Norris. Khi đó, chúng tôi đều cùng làm công việc của một “dân du mục công nghệ”, và may mắn thế nào, chúng tôi đều bắt đầu làm việc cho Dan trong khoảng thời gian tương đương nhau. Phần việc của tôi chú trọng vào khâu định vị và tiếp thị cho cuốn sách đầu tiên của Dan, The 7 day startup (tạm dịch: Startup 7 ngày). Như lời Kyle nhấn mạnh trong The story engine: Nghệ thuật kể chuyện thương hiệu, cuốn sách đó, vốn bắt nguồn từ một chuỗi bài đăng trên blog WP Curve, đã gặt hái thành công to lớn và trở thành tác phẩm bán chạy nhất. WP Curve thu hút thêm được nhiều sự quan tâm, còn Dan cũng từ đó phát triển doanh nghiệp mang thương hiệu cá nhân của mình. Đây chỉ là một trong nhiều câu chuyện được Kyle chia sẻ trong The story engine: Nghệ thuật kể chuyện thương hiệu. Chúng không chỉ chứng minh sức mạnh của tiếp thị nội dung, thậm chí vượt lên cả việc đánh bóng doanh nghiệp; mà còn thể hiện sự tồn tại của một hệ thống có thể lặp lại – một khoa học – đằng sau quá trình tạo ra nội dung hấp dẫn. Cuốn sách này sẽ cho bạn thấy nó là gì, hoạt động ra sao, và làm thế nào để áp dụng nó vào chính doanh nghiệp của bạn (hoặc những tham vọng cá nhân của bạn). QUÁ DÀI, KHÔNG THỂ ĐỌC HẾT: Điều tôi đang cố biểu đạt là: 1. Tất cả những ai muốn kinh doanh dài hạn đều nên thường xuyên tạo ra nội dung. 2. Những người có kế hoạch thường xuyên tạo ra nội dung nên đọc và làm theo cuốn sách này. The story engine: Nghệ thuật kể chuyện thương hiệu sẽ cung cấp cho bạn chiến lược, khung sườn, và quá trình chuyển đổi tiếp thị nội dung từ công việc mơ hồ, khó khăn nào đó thành một quá trình trong tầm với, giúp bạn phát triển doanh nghiệp. Tôi cực kỳ khuyến khích bạn mua một ấn phẩm cho bản thân mình và cho mọi người trong đội nhóm của bạn, bất cứ ai có tham gia vào công cuộc tạo ra nội dung. Bạn sẽ không thất vọng đâu. *** Xin chúc mừng! Bạn đã cán đích rồi. Giờ đây, bạn đã có trong tay công cụ và kiến thức cần thiết để xây dựng “động cơ nội dung” của chính mình. Hãy nhớ rằng tiếp thị nội dung là chiến lược dài hơi. Bạn sẽ phải đối mặt với một số áp lực, đừng nên kỳ vọng mọi thứ sẽ hoàn hảo ngay lần đầu tiên. Hãy cho bản thân thật nhiều cơ hội để thử nghiệm những chiến lược này, hãy tìm thứ phù hợp với bạn và điều chỉnh nếu cần thiết. Bạn vẫn còn nhiều giá trị nữa để cung cấp cho người đọc và khách hàng, vượt ngoài phạm vi sản phẩm và dịch vụ đơn thuần. Câu chuyện của bạn có thể tác động đến người khác theo cách bạn chẳng thể tiên liệu nổi. Tôi mong cuốn sách này sẽ giúp bạn chia sẻ câu chuyện của mình với những người có nhu cầu. Tôi cũng mong rằng những món quà từ câu chuyện của bạn không chỉ mang lại lợi ích cho bản thân bạn, mà còn cho hàng triệu cá nhân đồng cảm với nội dung đó. Tôi hoan nghênh bạn và nỗ lực của bạn nhằm chia sẻ bản thân cùng thế giới thông qua tiếp thị nội dung. Hãy giữ liên lạc nhé! Tôi rất mong được theo sát quá trình phát triển của bạn. Tôi luôn sẵn lòng đưa ra gợi ý – Hãy cho tôi biết nếu có bất cứ chia sẻ nào cần được cải thiện. Bạn có thể liên hệ với tôi thông qua thestoryengine.co. Thân ái, Kyle *** Bạn có quen nhà khởi nghiệp tương lai trẻ tuổi nào vẫn đang phân vân về giáo dục đại học không? 18 Sau khi tốt nghiệp, rất nhiều sinh viên phải vật lộn để tìm công việc thú vị và xứng đáng. Bạn không thể cứ đi theo lối mòn “đạt điểm tốt và lấy tấm bằng”, rồi kỳ vọng những kết quả khác. Trên thực tế, hầu hết giá trị và cơ hội mà trường đại học trao cho bạn lại nằm ngoài phạm vi lớp học. Cuốn College Entrepreneur (tạm dịch: Ngôi trường Khởi nghiệp) tập trung phát hiện đam mê của bạn, kết hợp với những người hướng dẫn và tận dụng triệt để tài nguyên từ trường đại học để xây dựng một doanh nghiệp thịnh vượng hoặc thương hiệu cá nhân trước khi tốt nghiệp. Bằng việc khởi động một doanh nghiệp ngay khi còn trên ghế nhà trường, bạn sẽ học được các kĩ năng mấu chốt và phát triển mối quan hệ giúp dẫn tới cơ hội làm công việc bạn yêu thích. Cuốn sách này cung cấp các chiến lược đơn giản mà bạn có thể áp dụng để tiếp cận những tài nguyên bị bỏ quên ở trường đại học, giúp bạn phá bỏ rào cản và kiểm soát quá trình giáo dục của bản thân để đạt được kết quả mong muốn. Hiện đang có sẵn trên Amazon! “Sau khi hoàn thành cuốn sách này, tôi phải công nhận bản thân đã đánh giá quá thấp tầm ảnh hưởng lớn lao của trường đại học lên sự phát triển của các bộ kĩ năng, sự hình thành các liên hệ, và khả năng thu thập lượng kinh nghiệm phong phú để sẵn sàng cho thế giới thực bên ngoài; bất kể bạn sắp trở thành một nhà khởi nghiệp và vận hành doanh nghiệp của riêng mình, hay chuẩn bị dấn thân vào sự nghiệp bản thân hằng hướng tới”. - Một độc giả và sinh viên đại học.   Mời các bạn đón đọc The Story Engine - Nghệ Thuật Kể Chuyện Thương Hiệu của tác giả Kyle Gray.
Soup - Công Thức Giúp Nuôi Dưỡng Và Xây Dựng Văn Hóa Cho Đội Ngũ Của Bạn
Mỗi lần nghĩ đến món súp, tôi nghĩ ngay tới bà mình. Bà yêu công việc nấu ăn; đối với bà, thức ăn và tình yêu là một. Mỗi khi bà nấu ăn, đó không chỉ đơn giản là một bữa cơm. Bà dồn vào đó tất cả tình yêu và sẻ chia nó với gia đình. Khi thưởng thức những món ăn bà nấu, chúng tôi cảm thấy yêu bà hơn. Dù là ai nấu đi chăng nữa, cũng không có loại súp nào có thể ngon sánh bằng món súp bà nấu. Tôi phát hiện ra rằng người nấu đóng một vai trò cực kì quan trọng với một món ăn. Ví dụ, bạn có biết rằng một số chuyên gia rượu có thể đánh giá tính cách của người làm rượu chỉ bằng cách nếm vài ngụm rượu? Trong giới đầu bếp, có một thách thức rất phổ biến mà tôi thường gọi là “hiện tượng đầu bếp”. Cho dù những đầu bếp tuân thủ cùng một công thức một cách nghiêm ngặt, sản phẩm cuối cùng của mỗi người lại luôn có đôi chút khác nhau bởi chúng ta thường không thể phân biệt rạch ròi vai trò của người làm nên món ăn cũng như thành phần món ăn. Điều này cũng đúng trong công việc kinh doanh và trong mọi khía cạnh của cuộc sống. Hàng ngày bạn khuấy chiếc nồi cuộc sống, và nguyên liệu quan trọng nhất trong món ăn đó chính là bạn. Tình yêu, sự lạc quan, niềm tin, tầm nhìn, phong cách giao tiếp, lòng trung thực, những đánh giá cùng đam mê chính là những nguyên liệu làm cuộc đời bạn trở nên đậm đà; còn những mối quan hệ bạn tạo ra tại nơi làm việc và ở nhà lại quyết định thành phần và chất lượng món súp của bạn. Khi làm việc và có cơ hội tiếp xúc với vô số doanh nghiệp, các đội chơi thể thao nhà nghề cùng bệnh viện và trường học, tôi đã chứng kiến tận mắt những thay đổi mà một cá nhân có thể tạo ra khi họ lấy chiếc muôi và quyết tâm nấu lên một món súp ngon lành. Khi ai đó chọn cách chia sẻ những ưu thế của mình nhằm khai phá những ưu thế ở người khác, người ấy sẽ tạo nên đổi thay trong đội ngũ và tổ chức của họ. Món súp chỉ ngon khi chúng ta chia sẻ cùng nhau. Vì vậy chúng ta hãy đọc cùng nhau, học hỏi cùng nhau, thưởng thức cùng nhau, lãnh đạo cùng nhau và cùng nhau tạo ra thành công. Chúc bạn có những giây phút vui vẻ cùng “Soup”! *** Những lời khen ngợi dành tặng “Soup” Chúng ta vẫn thường nói “Gieo gì gặt nấy”. Chân lí này vẫn đúng khi chúng ta chỉ huy một nhóm người (dù là khi làm việc, ở nhà hay tại trường học). Trong cuốn “Soup”, Jon Gordon đã minh họa rất thành công tính tất yếu của điều này cho bất cứ ai mong muốn tăng sức ảnh hưởng bản thân, xây dựng đội ngũ vững mạnh hơn, hoặc tăng cường tính hiệu quả trong công việc lãnh đạo của mình. Nếu khi nấu súp, người nấu là nhân tố gây ảnh hưởng lớn nhất tới hương vị của món súp thì trong một tập thể, người lãnh đạo chính là người đặt nền tảng cho văn hóa của tập thể ấy. Cuốn sách này sẽ nêm thêm gia vị vào cuộc sống của bạn, vào cuộc sống của nhiều người khác và đội ngũ của bạn.” - Carl Liebert CEO, 24 Hour Fitness “Một lần nữa, Jon đã tạo ra một công thức đạt đẳng cấp thế giới dùng cho kinh doanh. Công thức ấy nhấn mạnh rằng chìa khóa dẫn tới thành công trong lãnh đạo chính là tạo cơ hội cho nhân viên của bạn thể hiện sở trường của họ.” - Ryan Magnon Phó Chủ tịch Kiểm định Chất lượng Tập đoàn Khách sạn West Paces “Nếu bạn đã sẵn sàng nấu súp, sẵn sàng lãnh đạo đội ngũ của bạn với tinh thần lạc quan, đam mê cùng niềm tin, chắc chắn bạn sẽ yêu cuốn sách này.” - Deborah Gilmore Chủ tịch Hội đồng Phụ nữ REALTORS® Dành tặng ông bà tôi, Martin và Janice Gordon. Tình yêu của ông bà đã tạo nên sự khác biệt. Jon thuở bé bên ông bà của mình và nồi SÚP lớn. *** Tôi muốn gửi lời cảm ơn tới tất cả những người đã giúp đỡ tôi chuẩn bị và nấu món “Súp” này. Cảm ơn Kathryn, vợ tôi, vì những lời động viên, tình yêu, sự hỗ trợ không ngừng nghỉ của em. Cảm ơn em vì đã tạo ra một văn hóa gia đình tuyệt vời. Cảm ơn Matt Holt, nhà xuất bản của tôi, biên tập viên Shannon Vargo, và Beth Zipko, Kim Day- man, Larry Olson, cùng những nhân viên còn lại tại Wiley; đối với tôi, các bạn còn hơn cả một nhà xuất bản bình thường. Các bạn là gia đình của tôi. Cảm ơn người đại diện kiêm thiên tài marketing, Daniel Decker, vì nỗ lực, tài năng và sự hỗ trợ của anh. Chúng ta đã làm nên một đội tuyệt vời. Cảm ơn tất cả những người nấu súp ngoài kia, những người luôn khuấy nồi súp với tất cả tình yêu thương. Tôi hy vọng các bạn thích cuốn sách này. Trên hết, xin tạ ơn Chúa đã ban tặng cho con mối liên hệ quan trọng nhất cuộc đời này. Tạ ơn Ngài ban cho con miếng ăn hàng ngày. Ngài đã nuôi dưỡng và truyền sức mạnh cho con. Con luôn ở đây để nhớ đến sự hiện diện của ngài, yêu kính và phục vụ Ngài.   Mời các bạn đón đọc Soup - Công Thức Giúp Nuôi Dưỡng Và Xây Dựng Văn Hóa Cho Đội Ngũ Của Bạn của tác giả Jon Gordon.