Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Chuyến Tàu Định Mệnh

Tình yêu và chiến tranh: một chủ đề kinh điển, bởi vì dường như trong chiến tranh, tình yêu có thể hé lộ hết chiều sâu của nó. Và với Chuyến tàu định mệnh Georges Simenon nổi bật bằng một chuyện tình trong chiến tranh chân thực hiếm có. Sự chân thực ấy, vốn dĩ gắn bó với cả cuộc đời viết văn đồ sộ của Simenon, đã hết sức tự nhiên mà chọn lấy một tông giọng đẹp và chuẩn xác để kể câu chuyện về Marcel và Anna trên chuyến tàu hỏa huyền ảo, vào thời điểm chiến sự bắt đầu bùng nổ tại châu Âu, mùa hè năm 1940. Và hơn thế nữa, không ít chi tiết thuộc tiểu sử của Simenon cũng đi vào Chuyến tàu định mệnh theo một cách tự nhiên như bản thân cuốn tiểu thuyết lớn với vẻ ngoài rất giản dị này. *** Nhà văn Georges Simenon sinh ngày 13.2.1903 mất ngày 4.9.1989. Năm 16 tuổi, Simenon là chàng phóng viên trẻ viết tin vắn cho tờ La Gazette de Liège. Mỗi ngày, ông đạp xe đến các bót cảnh sát, nhà băng, sở cứu hỏa, những cuộc thi thể thao để lấy tin cho báo. Năm 1922, ông tới Paris hoa lệ. Tiểu thuyết đầu tay Trên Chiếc Cầu Vòm Cung được xuất bản tại Liège (Bỉ) với bút danh Georges Sun. Nhưng sự thành công chưa vội đến với cây bút trẻ có hàng chục bút danh khác nhau này (Jean du Perry, Gom Gut, Christian Brull...). Mười năm miệt mài viết như người lao động khổ sai giúp ông thành thạo trong “tốc độ” sáng tác. Đây chính là thế mạnh của tác giả “bậc thầy trinh thám” sau này. “Suốt thời kỳ 1928-1931, ông chỉ viết những tác phẩm về Maigret, trung bình mỗi tháng một cuốn”, ông nổi tiếng như cồn khi tiểu thuyết trinh thám Con Chó Vàng (Le chien jaune, 1931) được xuất bản, với tên thật Georges Simenon. 11 tác phẩm in năm đó thì 10 cuốn là tiểu thuyết với nhân vật sáng tạo Thanh tra Maigret. Một đời văn với hơn 300 tác phẩm viết bằng tiếng Pháp đã được xuất bản, người ta không khỏi thán phục năng lực sáng tác bền bỉ và trí tưởng tượng phong phú của nhà văn Georges Simenon. Bậc thầy tiểu thuyết trình thám thật sự chinh phục hàng triệu người đọc tại nhiều nước trên thế giới. Hơn 80 tiểu thuyết Thanh tra Maigret không nằm trong thể loại truyện hình sự tầm thường. Giá trị văn học của tác phẩm đã được các nhà phê bình nhìn nhận. Sau ngày ông mất, Đại học Liège ở Bỉ đã thành lập Trung tâm nghiên cứu Georges Simenon và đã xuất bản các tác phẩm nghiên cứu về ông. *** Khi tôi thức giấc, lớp rèm bằng vải mộc để lọt vào phòng thứ ánh sáng vàng nhạt mà tôi vốn quen thuộc từ lâu. Những khuôn cửa sổ phòng chúng tôi, ở lầu một, không có cánh chớp. Không cửa sổ nhà nào trên phố có cánh chớp. Trên bàn đầu giường, tôi nghe thấy tiếng đồng hồ báo thức kêu tích tắc và, bên cạnh tôi, tiếng thở đều đặn của vợ tôi, to gần bằng tiếng thở của những bệnh nhân, trong một cuộc giải phẫu, trên phim ảnh. Vợ tôi lúc đó có mang được bảy tháng rưỡi. Cũng như lần mang thai Sophie trước, cái bụng vĩ đại của nàng buộc nàng phải nằm ngửa. Không nhìn đồng hồ báo thức, tôi thò một cẳng ra khỏi giường. Jeanne cựa quậy và nói ấp úng, giọng xa vắng: - Mấy giờ rồi anh? - Năm rưỡi. Cả đời tôi, tôi quen dậy sớm, nhất là sau những năm ở liệu dưỡng viện, nơi mùa hè người ta mang hàn thử biểu cho chúng tôi từ lúc sáu giờ sáng. Vợ tôi đã không còn để ý đến những gì xảy ra quanh nàng và một cánh tay nàng duỗi ra chỗ tôi vừa rời khỏi. Tôi lặng lẽ mặc quần áo, cử hành, theo thứ tự, nghi thức của mỗi buổi mai, thỉnh thoảng đưa mắt nhìn con gái, hồi đó, giường nó còn kê trong phòng chúng tôi. Tuy chúng tôi đã sắp đặt cho nó căn phòng đẹp nhất trong nhà, phía mặt tiền, thông sang phòng chúng tôi. Nó không chịu ngủ ở đó. Tôi rời phòng, tay cầm giày đi trong nhà và chỉ xỏ vào khi xuống tới chân cầu thang. Chính lúc đó tôi nghe thấy những hồi còi thứ nhất của tàu bè, gần cửa cống Uf, cách gần hai cây số. Theo quy định, các cửa cống phải mở cho sà lan qua lại ngay từ lúc mặt trời mọc và sáng nào cũng có cuộc hòa nhạc đó. Trong bếp, tôi nhóm ga, đặt ấm đun nước. Ngày mới, thêm một lần nữa, lại báo hiệu nắng ấm. Trong suốt thời kỳ này, ngày nào cũng thắm tươi rực rỡ, và hẳn tôi vẫn còn có thể, mỗi giờ, chỉ chỗ các dấu mặt trời tại những gian phòng khác nhau trong nhà. Tôi mở cửa thông ra khoảng sân đã được chúng tôi lợp mái kính để vợ tôi có thể giặt giũ bất cứ lúc nào, mưa cũng như nắng, và con gái tôi có thể chơi đùa ở đó. Giờ, tôi vẫn nhìn thấy chiếc xe của búp bê và xa hơn chút nữa là con búp bê đang nằm lăn lóc trên những phiến gạch lát hình vuông màu vàng. Tôi tránh không vào xưởng ngay vì tôi đã nhất quyết theo đúng các nguyên tắc, như cách tôi gọi thời khóa biểu của tôi hồi ấy. Một cái thời khóa biểu tự nó thiết định lấy, dần dần từng chút một, do những thói quen tạo ra hơn là do nhu cầu. Trong khi chờ nước sôi, tôi đổ đầy bắp vào cái chậu cũ men xanh, lòng gỉ sét, chẳng dùng được cho việc gì khác và tôi băng qua sân đi cho gà ăn. Chúng tôi có sáu con gà mái trắng và một con gà trống. Sương lóng lánh trên những lá rau, trên cây tử đinh hương độc nhất của chúng tôi mà những bông hoa tím, năm nay nở sớm, đã bắt đầu úa héo, và tôi vẫn nghe thấy, không chỉ tiếng còi tàu bè trên sông Meuse, mà còn cả tiếng thở hổn hển của những tàu chạy dầu cặn. Tôi tha thiết muốn tuyên bố ngay rằng tôi không phải là một người đàn ông bất hạnh, cũng không phải một người buồn rầu. Ở tuổi ba mươi hai, tôi thấy mình thẳng tiến trong mọi kế hoạch mà tôi có thể lập ra, trong mọi niềm hy vọng của tôi. Tôi có một vợ, một nhà, một đứa con gái bốn tuổi hơi dễ kích động nhưng bác sĩ Wilhems cả quyết rằng nó sẽ hết thôi. Tôi đã tự tay dựng cơ nghiệp và khách hàng của tôi mỗi ngày mỗi đông thêm, nhất là mấy tháng gần đây, dĩ nhiên. Tất cả mọi người, vì nhiều biến cố, đều muốn có máy radio. Tôi không ngừng bán máy mới, sửa chữa máy cũ và, vì chúng tôi ở cách bến tàu có vài bước, tàu bè nghỉ đêm ở đó, tôi còn có cả khách hàng trong đám thủy thủ nữa. Tôi nhớ đã nghe thấy tiếng cửa mở tại nhà hàng xóm bên trái của chúng tôi, gia đình Matray, một cặp vợ chồng già rất lặng lẽ. Lão Matray, từng làm thủ quỹ ở Pháp quốc Ngân hàng trong suốt ba lăm hay bốn mươi năm gì đó, cũng là một người dậy sớm và bắt đầu mỗi ngày bằng cách đi lại thở hít không khí trong lành nơi vườn nhà. Mọi mảnh vườn trên phố đều y như nhau, mỗi mảnh rộng bằng bề ngang căn nhà, cách nhau bằng bức tường cao đúng tầm để người ta chỉ nhìn thấy chỏm đầu hàng xóm. Từ ít lâu nay, lão Marray có thói quen rình rập tôi, vì lẽ những chiếc máy của tôi cho phép bắt các loại sóng ngắn. - Sáng nay không có tin tức gì sao, ông Féron? Buổi sáng hôm đó, tôi trở vào nhà trước khi lão kịp hỏi tôi và chế nước sôi lên cà phê. Những đồ vật quen thuộc đều ở đúng chỗ của chúng, chỗ mà Jeanne và tôi đã định hoặc cuối cùng, theo thời gian, chúng đã tự chiếm lấy. Nếu vợ tôi không có bầu thì hẳn tôi đã bắt đầu nghe thấy tiếng bước chân nàng trên lầu một bởi vì, vào lúc bình thường, nàng vẫn dậy liền sau tôi. Tuy nhiên, theo thói quen, tôi thích tự sửa soạn cho mình ly cà phê đầu tiên trước khi vô xưởng. Cứ thế chúng tôi tuân thủ một số nghi thức nhất định và tôi cho rằng chắc gia đình nào cũng vậy. Lần mang bầu thứ nhất cực nhọc, sinh nở khó khăn. Jeanne đổ tính nóng nảy của Sophie cho cái gắp sắt mà người ta đã phải dùng đến và gây tổn hại cho đầu của đứa nhỏ. Từ khi có bầu trở lại, nàng sợ lại khó đẻ và bị ám ảnh sẽ cho ra đời một đứa trẻ bất thường. Bác sĩ Wilhems, người được nàng rất tin cậy, cũng không trấn an nổi nàng, giỏi lắm thì cũng chỉ được vài tiếng đồng hồ, và buổi tối, nàng thao thức không dỗ được giấc ngủ. Rất lâu sau khi chúng tôi vào giường, tôi còn nghe thấy nàng trăn trở tìm một thế nằm thoải mái và gần như bao giờ cuối cùng nàng cũng thì thào hỏi: - Anh ngủ chưa, Marcel? - Chưa. - Em tự hỏi không biết cơ thể em có thiếu chất sắt không. Em đã đọc thấy trong một bài báo... Nàng cố ngủ nhưng thường phải quá hai giờ sáng mới chợp mắt nổi và sau đó, cũng chẳng phải hiếm khi, nàng bỗng vùng dậy thét lên. - Em lại bị ác mộng nữa, Marcel. - Kể anh nghe. - Không. Em thích đừng nghĩ đến điều đó nữa thì hơn. Khủng khiếp lắm. Em xin lỗi đã làm anh mất giấc ngủ, anh phải làm việc nhiều biết bao nhiêu... Hồi gần đây, nàng thức dậy vào khoảng bảy giờ và sau đó xuống sửa soạn bữa sáng. Ly cà phê trên tay, tôi bước vào xưởng và mở cánh cửa lắp kiếng ngó xuống sân cùng mảnh vườn. Vào lúc này đây, tôi được tận hưởng tia nắng đầu tiên của ngày, xế bên trái cửa ra vào một chút, và tôi biết chính xác lúc nào nó sẽ lần tới cái bàn thợ của tôi. Thật ra đó không phải là một cái bàn thợ đúng nghĩa mà chỉ là cái bàn lớn rất nặng, từ một tu viện thải ra, tôi đã mua nó trong cuộc phát mãi. Luôn luôn trên bàn bao giờ cũng có dăm cái máy đang sửa. Dụng cụ của tôi được xếp vào giá treo trên tường, ngay trong tầm tay tôi. Khắp xung quanh phòng, hàng đống máy chồng chất ngổn ngang trên các tủ nhiều ngăn bằng gỗ trắng mà tôi đã kê, và được dán nhãn ghi tên khách hàng. Rốt cuộc tôi cũng vặn các nút, dĩ nhiên. Trì hoãn giây phút này hầu như là một trò chơi. Tôi thường tự nhủ, trái với mọi lý lẽ: “Nếu mình chờ một chút xíu nữa, có thể sẽ là ngày hôm nay.” Ngay sau đó, ngày hôm ấy, tôi hiểu cuối cùng có chuyện gì đó đã xảy ra. Tôi chưa hề thấy không khí bị bó rọ như thế bao giờ. Dù tôi chọn tần số nào thì các chương trình phát thanh cũng chằng chịt chồng lên nhau, những tiếng nói, những tiếng rít, những câu tiếng Đức, tiếng Hòa Lan, tiếng Anh, tiếng Pháp và người ta cảm thấy trong không gian như thể có một sự dao động đầy kịch tính. - Đêm nay, các toán quân Quốc xã đã tấn công quy mô lớn vào... Chưa đến lượt nước Pháp - dù sao người ta cũng không nhắc đến nó - mà là Hòa Lan, nó vừa bị xâm chiếm. Đài tôi vừa nghe, là một đài Bỉ. Tôi kiếm Ba Lê, nhưng Ba Lê vẫn nín lặng. Vệt nắng rung rinh chập chờn trên sàn nhà xám và ở cuối vườn, sáu con gà mái trắng của chúng tôi xao xác xung quanh con gà trống mà Sophie gọi là Nestor. Tại sao đột nhiên tôi lại tự hỏi cái chuồng gà bé nhỏ của chúng tôi sẽ ra sao? Lòng tôi hầu như se lại trước số phận của nó. Tôi vặn các nút khác, tìm kiếm trong dải tần số ngắn nơi mà dường như tất cả mọi người đều nói cùng một lúc. Và thế là tôi bắt được, trong giây lát ngắn ngủi, một điệu quân nhạc mà tôi mất dấu ngay lập tức, đến nỗi tôi không thể biết điệu nhạc đó thuộc quân đội nào. Một người Anh vừa đọc một bản tin vừa nhắc đi nhắc lại mỗi câu mà tôi không hiểu, như thể hắn đọc chính tả cho một thông tín viên chép lại, và ngay sau đó tôi lạc vào một máy phát mà tôi chưa hề nghe bao giờ, một máy phát dã chiến. Máy phát đó chắc phải ở gần lắm, thuộc về một trong các trung đoàn từ hồi tháng Mười, hồi đầu của cuộc chiến kỳ quặc*, đã đóng quân trong vùng. Mời các bạn đón đọc Chuyến Tàu Định Mệnh của tác giả Georges Simenon.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Buổi Hẹn Cuối Cùng - James H. Chase
James Hadley Chase là bút danh của tác giả người Anh – Rene Brabazon Raymond (24/12/1906 – 6/2/1985), người cũng đã viết dưới tên James L. Docherty, Ambrose Grant và Raymond Marshall. Ông được sinh ra ở Luân Đôn, là con của một đại tá người Anh phục vụ trong quân đội thuộc địa Ấn Độ, người dự định cho con trai mình có một sự nghiệp khoa học, bước đầu đã cho học tại trường học Hoàng gia, Rochester, Kent và sau đó học ở Calcutta. Ông rời gia đình ở tuổi 18 và làm nhiều công việc khác nhau, một nhà môi giới trong nhà sách, nhân viên bán sách bách khoa toàn thư của trẻ em, người bán sách sỉ trước tập trung vào sự nghiệp viết lách, đã sản xuất hơn 80 cuốn sách bí ẩn. Năm 1933, ông đã cưới Chase Sylvia Ray và có một con trai. Trong sự nghiệp sáng tác của mình, với khoảng 90 tiểu thuyết, hầu như câu chuyện nào của James Hadley Chase cũng có một nhân vật chính muốn làm giàu nhanh bằng cách phạm tội ác - lừa gạt, cướp bóc hay ăn trộm. Nhưng kế hoạch của họ luôn thất bại, phải giết người để gỡ bí, và càng bí thêm. *** Các tác phẩm của James H. Chase đã được xuất bản tại Việt Nam: Cái Chết Từ Trên Trời Cả Thế Gian Trong Túi Ôi Đàn Bà Cạm Bẫy Gã Hippi Trên Đường (Frank Terrell #5) Thằng Khùng Cạm Bẫy Bản Đồng Ca Chết Người (Frank Terrell #1) Tỉa Dần Hứng Trọn 12 Viên Đam Mê và Thu Hận Tệ Đến Thế Là Cùng Mười Hai Người Hoa và Một Cô Gái Buổi Hẹn Cuối Cùng Trở Về Từ Cõi Chết Không Nơi Ẩn Nấp Đồng Tiền và Cạm Bẫy Lại Thêm Một Cú Đấm Đặt Nàng Lên Tấm Thảm Hoa Cành Lan Trong Gió Bão Những Xác Chết Chiếc Áo Khoác Ghê Tởm Món Quà Bí Ẩn Âm Mưu Hoàn Hảo Cướp Sòng Bạc Cạm Bẫy Dành Cho Johnny Những Xác Chết Câm Lặng Em Không Thể Sống Cô Đơn Thà Anh Sống Cô Đơn Buổi Hẹn Cuối Cùng Mùi Vàng Phu Nhân Tỉ Phú Giêm Tình Nhân Gã Vệ Sĩ Dấu Vết Kẻ Sát Nhân Trong Bàn Tay Mafia Này Cô Em Vòng Tay Ác Quỷ Thiên Đường của Vũ Nữ Châu Dã Tràng Xe Cát .... *** Các ông Johnsten, Whitlr, Peacock hân hạnh báo cho tôi biết tờ chúc thư của bác sĩ Cole quá cố đã được hợp thức hoá, và theo ý nguyện cuối cùng của người chết, một số tiền năm nghìn đô la trở thành của tôi. Tờ séc gửi kèm theo tờ biên nhận mà các luật sư đề nghị tôi vui lòng trả lại cho họ sau khi đã ký tên vào đó. Tôi đặt tờ séc và biên nhận lên mặt bàn. Tôi có quyền yêu cầu họ trả thêm một số tiền khác cũng là năm nghìn đô la, nhưng tôi không nghĩ đến điều đó, vì lẽ ra tôi phải giao cho cảnh sát chính người đã giết bác sĩ Cole thì trái lại tôi lại tạo điều kiện để người đó không bị trừng trị. Trong thâm tâm, tôi hài lòng về vụ việc đã được kết thúc theo cung cách như vậy. Kẻ chịu trách nhiệm thực sự là Lucius. Tên này đã bị cảnh sát bắt giữ đúng lúc hắn định dùng máy bay chuồn đi California. Hắn sẽ bị đưa ra toà xét xử và chắc chắn bản án tử hình đã dành sẵn cho hắn. Những người khác chẳng qua là những nạn nhân: Cole, lột tên hèn nhát, Agnès, một cô gái bị ruồng bỏ. Chỉ một chút xíu nữa là tôi đã tìm lý lẽ bào chữa cho Miriam Cole. Chắc chắn bà ta cố tên cách bám riết tôi. Tôi cầm hai phong thư đến cùng với các loại giấy tờ khác. Một lá gửi từ Topeka, tiểu bang Kansas. Trong phong bì chỉ có mỗi một tờ giấy trắng trên đó có những dòng chữ viết tay và không ký tên người gửi: “Bởi vì anh đã biết việc em làm cũng như em đã biết việc anh làm; chúng ta có nên xa nhau không? Và anh có nghĩ chúng ta có thể bắt đầu đi tiếp trên mối quan hệ mới không?” Trong một thoáng tôi định gửi ngay bức điện tín với tiếng "Có" và không thêm lời nào khác. Nhưng ý muốn đó kéo dài không lâu. Tôi xé phong bì thứ hai. Đó là một tấm thiếp in và chỉ có mỗi tên là được viết bằng tay nằm ở giữa: “Bà Miriam Cole thông báo với ông Bowman biết hàng tuần bà tiếp khách vào ngày thứ sáu từ ba đến năm giờ chiều. Bà sẽ rất vui sướng có sự hiện diện của ông làm vinh dự cho bà". Hai tay tôi cầm hai lá thư, đầu óc suy nghĩ. Dù tôi chọn theo hướng nào thì trên con đường đi cũng đều gặp những chuyện phiền toái, rắc rối. Tôi biết mình không thể nào làm một người chồng tốt, hay một gã điếm đực ngon lành. Vậy là… Tiếng chuông điện thoại vang lên cắt đứt dòng suy nghĩ của tôi. - Thưa ông Bowman, đây là Hãng hàng không Pan American, - một giọng nói thánh thót trẻ trung trong ống nói. - Tôi gọi tới ông về lời yêu cầu của ông muốn biết tin tức của chuyến bay đến Florida. - Tôi xin nghe lời cô nói. - Vâng, thưa ông Bowman, một hành khách đã xin huỷ chỗ giữ trước vào chiều nay. Nếu ông muốn đi chuyến này xin vui lòng cho chúng tôi được biết… - Tốt quá! - Tôi nói to. - Tôi xin cam đoan với cô hai lần chứ không phải là một! Giữ cho tôi chỗ đó. Tôi sẽ có mặt tại phi trường một tiếng đồng hồ trước khi máy bay cất cánh. Cám ơn cô nhiều! Tôi cúp máy vầ khoan khoái hát khe khẽ trong miệng. Thượng đế đã thay tôi trong việc quyết định. Thế là tôi không có gì phải hối hận, tiếc nuối. Tôi chỉ có việc lên đường, tấm nắng, bơi lội trong làn nước xanh của Vịnh Mexique. Và sau một hay hai tháng rong chơi ở đó, tôi quên hết mọi nỗi buồn về mặt tình cảm cũng như những thứ khác. Đời vẫn đẹp sao! Tôi xé vụn bức thư của Agnès và tấm thiếp của Miriam rồi vứt vào sọt giấy. Sau đó tôi khoá cửa văn phòng, xuống dưới nhà, tuồn người vào trong chiếc Dodge và khởi động máy. Tối đã chuẩn bị hành lý từ trước rồi… Mời các bạn đón đọc Buổi Hẹn Cuối Cùng của tác giả James H. Chase.
Xác Chết Dưới Gốc Sồi - Fred Vargas
Câu chuyện mở đầu bằng việc cựu danh ca opera Sophia Simeonidis phát hiện trong vườn mình đột nhiên xuất hiện một cây sồi non, không phải là cây mầm, mà là cây có cành lá hẳn hoi, xung quanh gốc cây có dấu vết đào đất. Ai trồng cái cây này, khi mà người làm vườn đã nghỉ phép cả tuần trước đó? Ông chồng của Sophia tỏ thái độ hoàn toàn bàng quan trước vụ việc, và cho rằng đó chỉ đơn thuần là tác phẩm của một kẻ hâm mộ rảnh chuyện nào đó. Chỉ có Sophia là cảm thấy lo lắng. Quyết tâm tìm hiểu vụ việc, bà sang nhờ ba anh hàng xóm sang đào hộ xem bên dưới cái cây ấy có gì lạ hay không. Thật trùng hợp, cả ba anh chàng này đều là những chuyện gia trong lĩnh vực "đào bới", hiểu theo nghĩa rộng : Matthias là nhà tiền sử học, Marc thì nghiên cứu về trung cổ, còn lịch sử cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất là chuyên môn của Lucien. Ở cùng với ba nhà sử học còn có ông già Vandoosler, một cảnh sát đã về hưu. Những người hàng xóm, bị thúc đẩy bởi óc hiếu kỳ và máu thám tử , liền sốt sắng nhận lời giúp đỡ Sophia. Họ không tìm thấy gì bất thường dưới gốc cây sồi. Mọi chuyện tưởng sẽ êm xuôi thì mười sáu ngày sau đó cựu danh ca opera đột ngột biến mất. Mấy hôm sau, xảy ra một vụ cháy ở khu nhà bỏ hoang bên bờ sông. Cảnh sát tìm thấy một thi thể cháy thành than. Pierre, người chồng của nữ danh ca ngay lập tức nhận ra viên đá lửa, vật bất ly thân của vợ mình từ hai mươi tám năm qua…    *** Fred Vargas sinh năm 1957 tại Paris, bà là nhà khảo cổ học, chuyên gia về thời kỳ Trung đại. Bà là gương mặt khá tiêu biểu của văn học trinh thám Pháp. Nhiều cuốn tiểu thuyết trinh thám của Fred Vargas được liệt vào danh sách những cuốn bán chạy nhất như: CON NGƯỜI ĐỐI DIỆN, ĐỨA CON NGOÀI GIÁ THÚ, XÁC CHẾT DƯỚI GỐC SỒI v.v... o O o Sophia là diễn viên ca kịch nổi tiếng một thời, sau một đêm ngủ dậy bỗng phát hiện trong vườn nhà mình có cây sồi không rõ ai đã đem trồng. Sophia lo lắng thuê người đào bới xung quanh nhưng không có gì lạ. Đột nhiên Sophia mất tích. Dư luận xung quanh cho rằng cô đã nhận được điện hẹn của người yêu cũ và bỏ đi cùng ông ta. Đó là Stelyos - Người yêu trung thành - một người say mê cô cuồng nhiệt, quyến rũ. Tình cờ Sophia đã gặp Pierre nên bỏ rơi người yêu cũ. Stelyos tức tối tìm cách tung hê tất cả, anh ta định nhảy xuống biển tự tử nhưng không thành. Stelyos điên cuồng gào thét đe dọa... Từ đó, Sophia cũng không bao giờ biết tin về Stelyos nữa. Cuộc hôn nhân của Sophia với Pierre, tính đến thời điểm bà mất tích là hai mươi năm - và cũng là khoảng thời gian Sophia chia tay với Stelyos. Nghi vấn kẻ tình địch sau hai mươi năm quay trở lại trả thù món nợ tình. Rồi người ta lại phát hiện xác một người phụ nữ bị thiêu cháy. Mọi nghi vấn đều hướng về Pierre Relivaux - người chồng vô tình và cô cháu gái Alexandra đột nhiên xuất hiện... Mời các bạn đón đọc Xác Chết Dưới Gốc Sồi của tác giả Fred Vargas.
Con Tằm - Robert Galbraith
Khi tiểu thuyết gia Owen Quine, mất tích, vợ ông tìm đến thám tự tư Cormoran Strike. Thoạt đầu, bà ngỡ chồng mình chỉ đi đâu đó vài ngày, nên nhờ Strike tìm ông về. Nhưng khi bắt tay vào điều tra, Strike phát hiện đằng sau vụ mất tích của Quine còn nhiều điều hé lộ. Nhà văn này vừa hoàn thành một bản thảo châm chọc sâu cay hầu như tất cả mọi người ông quen. Nếu tiểu thuyết này được xuất bản, nó sẽ hủy hoại cuộc sống rất nhiều người - thế nên không ít kẻ muốn nhà văn phải im lặng. Khi phát hiện xác Quine bị giết trong một hoàn cảnh cực kỳ quái gở, thám tử Strike bắt đầu cuộc chạy đua với thời gian để tìm hiểu động cơ của kẻ giết người… Một tiểu thuyết tội phạm với liên tiếp những nút thắt và chuyển ngoặt bất ngờ. Con Tằm là cuốn thứ hai trong bộ tiểu thuyết lừng danh về chàng thám tử Cormoran Strike và cô trợ lý trẻ trung Robin Ellacott của tác giả Robert Galbraith, bút danh khác của nữ nhà văn J.K.Rowling. *** Với cuốn 2 trong series truyện trinh thám xoay quanh chàng thám tử Cormoran Strike, đại phù thủy ngôn từ có vẻ quyết không trở về thế giới huyễn ảo mà dấn hẳn vào giới Muggles – Người thực (Bộ Harry Potter phiên bản có tranh minh họa đã ra tập 1 và hứa hẹn là một dự án dài hơi thành công, nhưng dù sao cũng chỉ là một sản phẩm giá-trị-gia-tăng) Nếu như The Casual Vacancy (Bản Việt: Khoảng trống) xuất bản năm 2012 có thể xem là lời chấp nhận thách thức công khai và và quyết liệt của J.K.Rowling khi lao từ đỉnh cao chót vót sang một lãnh địa hoàn toàn mới; thì tập đầu của series trinh thám – The Cuckoo’s calling (Bản Việt: Con chim khát tổ) – ra mắt lặng lẽ hơn nhiều vì Rowling dùng bút danh khác và kiểm soát ngặt nghèo mọi khả năng tiết lộ thông tin Robert Galbraith chính là mình. Ngay cả khi Con Tằm xuất bản và ai cũng rõ tác giả là người-ai-cũng-biết-là-ai-đấy, thì trong các bản quy định về truyền thông sách ở các nước cũng ghi rõ phải marketing bộ trinh thám này riêng biệt, càng ít dính dáng tới bút danh cũ và Harry Potter càng tốt. Có thể thực sự bà ẩn danh để “viết cho thoải mái, không đặt nặng doanh số” (theo trả lời phỏng vấn The Guardian). Có thể sau nhiều vinh quang không thiếu phần hư ảo, bà muốn lắng nghe những nhận xét thật lòng không thành kiến. Mà cũng có thể, theo nhận xét riêng của người viết, Rowling cẩn thận vì thể loại trinh thám – tội phạm bà đang nhảy vào là một vùng biển tiềm năng nhưng đồng thời số cá lớn cũng “quá đông, quá nguy hiểm”. Các fan dòng trinh thám – tội phạm hẳn đã quá quen thuộc với chàng điệp viên James Bond, con đẻ của nhà văn Anh Ian Flaming. Một cái tên nữa không xa lạ: nữ hoàng trinh thám Agatha Christie, người giữ kỷ lục Guiness về sách trinh thám bán chạy nhất mọi thời đại, cũng là người Anh. Các báo lớn của Anh không thiếu những bài review, thống kê sách thể loại này; các kênh truyền hình đầy thể loại phim phá án dài tập làm mê mẩn bà con xứ sương mù, nhất là series Sherlock Homes, nhân vật huyền thoại của Sir Conan Doyle (dân Scotland, mất ở Anh!). Vai chính thôi thì đủ cả: thám tử của cảnh sát, thám tử tư, cặp đôi phá án hoàn hảo, nhóm thám tử đủ loại tính cách và tài năng, luật sư, nhà tâm lý đại tài….khai thác đủ mọi khía cạnh của quá trình phá án, từ tìm thủ phạm cho tới xét xử. *** Strike thả người xuống sofa ở phòng ngoài. Chiếc sofa gần như mới nguyên, một khoản chi cần thiết sau khi hắn làm hỏng món đồ si đa mua hồi mới mở văn phòng. Chiếc sofa này bọc da giả, lúc ở phòng trưng bày hắn thấy cũng có vẻ tươm tất. Mua về mới biết mỗi khi ngồi lên mà loay hoay không khéo thì nó lại phát ra tiếng... đánh rắm nghe rất kỳ. Cô trợ lý của hắn - cao, gợi cảm, nước da sáng, đôi mắt xanh trong, vừa uống cà phê vừa chăm chăm nhìn hắn. “Trông anh khiếp quá.” “Thức suốt đêm để moi chuyện giường chiếu và tiền bạc bẩn thỉu của một ông quý tộc, từ một bà đang loạn trí,” Strike nói, ngáp sái cả quai hàm. “Ngài Parker hả?” Robin há hốc. “Chính y,” Strike đáp. “Ổng làm gì kia...?” “Cùng lúc cặp ba nhân tình, rồi tuồn hàng triệu bảng ra nước ngoài cất kỹ.” Strike đáp. “Nếu bụng dạ ngon lành không sợ ói ngược thì cô thử đọc tờ News of the World số Chủ Nhật này.” “Làm sao anh biết mấy chuyện đó?” “Người quen của người quen của người quen,” Strike ngâm nga. Hắn lại ngáp tiếp, miệng ngoạc ra trông đến khổ. “Anh đi ngủ đi,” Robin khuyên. “Ừ chắc vậy,” Strike đáp, vẫn ngồi im. “Anh đâu có khách nào khác trừ Gunfrey lúc hai giờ chiều nay.” “Gunfrey,” Strike thở dài, giơ tay mát xa mí mắt. “Tại sao khách của tôi toàn thứ ất ơ?” “Bà Quine kia đâu có vậy.” Hắn nhìn Robin qua kẽ mấy ngón tay thô tháp. “Sao cô biết tôi nhận làm?” “Tôi biết mà,” Robin nói, không nhịn cười được. “Bà đó đúng kiểu anh thích.” “Máy bay bà già đời thập kỷ tám mươi?” “Không phải, ý tôi là kiểu khách hàng anh thích ấy. Với lại anh cũng muốn chọc tức Baker.” “Có tác dụng đó chứ?” Điện thoại đổ chuông. Robin nhấc máy, vẫn còn cười khoái chí. “Văn phòng Cormoran Strike,” cô nói, “A, anh hả.” Là Matthew, chồng chưa cưới của cô. Robin liếc nhìn ông sếp. Strike đã nhắm mắt lại, đầu nghẹo qua một bên, hai tay bệ vệ vòng trước ngực. “Nè,” Matthew nói trong điện thoại. Khi nào gọi từ cơ quan giọng Matthew cũng có vẻ lạnh lùng. “Đổi lại vụ đi uống bia từ thứ Sáu qua thứ Năm đi.” “Sao vậy Matt,” cô nói, cố gắng không tỏ ra thất vọng hay bực tức. Như vậy là đã năm lần thay đổi tới lui. Trong ba người chỉ có mỗi Robin là chưa bao giờ đòi đổi giờ giấc hay địa điểm, lúc nào cũng sẵn sàng đi. “Tại sao vậy?” cô hạ giọng hỏi. ... Mời các bạn đón đọc Con Tằm của tác giả Robert Galbraith.
Ma Sói - Fred Vargas
Thứ Ba, bốn con cừu bị cắn đứt họng trên đỉnh Ventebrune, dãy núi Alpes. Thứ Năm, chín con tại vùng Pierrefort. Một con sói đơn lẻ? Xảo quyệt, tàn bạo, mông kéo lê trên cặp chân xám. Con Vật vùng Mercantour. Nhưng tại làng Saint-Victor-du-Mont, không ai tin là do một Con Vật cả. Đó không phải là một Con Vật. Đó là một con người. Một con ma sói. Suzanne nằm thẳng trên lớp rơm vấy phân, mặt ngửa lên, hai tay dang rộng, váy ngủ tốc lên đến đầu gối. Một vết thương kinh khủng trên cuống họng làm một dòng máu trào ra. Tại Paris, trước máy thu hình, Jean-Baptiste Adamsberg dõi theo tin tức về con thú vùng Mercantour. Anh nhắm mắt lại. Kỉ niệm tuổi thơ tại Pyrenees, giọng nói thì thầm của những người già...  Như những đốm lửa, con trai ơi, những cặp mắt sói trong đêm đen, chúng hệt những đốm lửa. *** Sinh năm 1957 tại Paris, có mẹ là nhà hóa học và bố là một nhà trí thức không bao giờ xuất bản tác phẩm của mình, cô bé Fred (thu gọn từ cái tên Frédérique) nhanh chóng thể hiện rõ những gì được thừa hưởng: đầu óc toán học của mẹ và khiếu nghệ thuật của cha.   Tất cả những phẩm chất này giúp Fred trở thành một nhà khảo cổ học xuất sắc tại Trung tâm Nghiên cứu Khoa học Quốc gia CNRS. Tuy nhiên, bà vẫn cảm thấy nhu cầu thể hiện khuynh hướng nghệ thuật thừa hưởng từ cha và bắt đầu sáng tác truyện tranh, chơi accordeon.  Vì cảm thấy mình không đủ tài năng để trở thành nhạc công, Fred Vargas tìm thấy “niềm vui” khi viết tiểu thuyết trinh thám. Bà bắt tay vào viết với bút danh Fred Vargas - lấy ý tưởng từ bút danh Jo Vargas của cô em gái sinh đôi. Tiểu thuyết đầu tay của Fred Vargas được nhận giải thưởng cho Tiểu thuyết trinh thám tại Festival Cognac. Tiểu thuyết thứ hai đánh dấu một bước quan trọng trong sự nghiệp của Vargas. Đây là cuốn tiểu thuyết đầu tiên được xuất bản tại Viviane Hamy, một nhà xuất bản trẻ mà cho tới giờ Vargas vẫn chung thủy gắn bó. Đây cũng là lần đầu nhân vật cảnh sát trưởng Jean-Baptiste Adamsberg – “nhân vật hộ mệnh” của Fred Vargas, xuất hiện. Bà còn tiếp tục theo đuổi các cuộc điều tra của Adamsberg trong nhiều tác phẩm sau đó.  Để dung hòa giữa công việc của nhà khảo cổ học và nhà văn, Fred Vargas có cách làm việc riêng của mình. Những ý tưởng chính hình thành trong tâm trí bà trong vòng một năm, sau đó trí nhớ lựa chọn những ý tưởng tốt nhất, và ngay khi câu chuyện đã khá ăn sâu vào ký ức, bà tái hiện nó dưới ngòi bút của mình liền một mạch trong vòng ba tuần, vào kỳ nghỉ. Sau đó đến giai đoạn sửa chữa. Một câu, một từ, một đoạn không ổn và thế là cả một trang giấy có thể được thay đổi. Sự nhạy cảm với các chi tiết, phẩm chất của một nhà khảo cổ học cùng với lần đọc lại của người em gái sinh đôi Jo Vargas đã giúp cho bản thảo của Fred Vargas có thể được đem thẳng tới nhà in, theo lời của biên tập viên NXB Viviane Hamy. Các tiểu thuyết của bà tiếp nối nhau và lượng sách bán ra ngày một tăng (đã vượt con số 4,5 triệu bản). Trước thành công rực rỡ của mình (báo chí gọi bà là Nữ hoàng tiểu thuyết trinh thám của Pháp), nữ tác giả lại ngày càng ít xuất hiện trước công chúng, bà không thích những gì thuộc xã hội thượng lưu. Fred Vargas tiếp tục lối sống giản dị và dành khoảng thời gian rảnh rỗi ít ỏi cho gia đình: cậu con trai và người em gái sinh đôi mà bà coi là một nửa của mình. Điều khiến Fred Vargas lo lắng nhất đó là, hoàn cảnh sẽ biến một nhà nghiên cứu trầm lặng thành người lãnh đạo và biến một tác giả tiểu thuyết trinh thám thành người nổi tiếng. Giải thưởng văn học, doanh thu bán sách khổng lồ - tất cả đều không khiến bà quan tâm.  Một số tác phẩm được xuất bản tại Việt Nam: Dans les bois éternels (Trong những cánh rừng vĩnh cửu); L'Homme à l'envers (Ma sói);  Sous les vents de Neptune (Dưới những ngọn gió biển). Mời các bạn đón đọc Ma Sói của tác giả Fred Vargas.