Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Ba Bộ Mặt Của I-A-Nút

Xta-nhi-xlap Ga-ga-rin BA BỘ MẶT CỦA I-A-NÚT Truyện tình báo Liên Xô Người dịch: Nguyễn Thụy Láng NHÀ XUẤT BẢN THUẬN HÓA HUẾ - 1987 Số trang: 240 Dịch từ nguyên bản tiếng Nga BA BỘ MẶT CỦA I-A-NÚT Báo Tiểu thuyết - Tháng 6-1984 àu ngầm «Van-ki-ri-a» mất tích Vào tháng sáu năm 1944, chiếc tàu ngầm của hải quân Đức mang tên Van-ki-ri-a bị mất tích. Khi thời hạn thẩm tra kết thúc, thì ở căn cứ hải quân, nơi chiếc tàu ngầm Van-ki-ri-a có trong danh sách, các tàu khác đã treo cờ rủ và các sĩ quan đều mang băng tang. Ban tham mưu xếp nó vào danh sách các tàu ngầm và thủy thủ bị mất tích, còn người thân của các thủy thủ thì được biết là họ đã hy sinh anh dũng trong một trận chiến đấu với kẻ thù của nước Đức vĩ đại. Ít người được biết số mệnh thật sự của chiếc tàu ngầm này. Hành trình các chuyến đi kéo dài của nó người ta lại càng biết ít hơn. *** Một người dáng vóc vạm vỡ, bắp thịt nở nang, da rám nắng, từ biển bước lên bãi tắm óng ánh cát vàng, gạt những giọt nước đọng trên mình rồi thủng thẳng đi dọc theo mép nước. Giờ này trên bãi tắm Ca-pa-ca-ban ở Ri-ôđơ Gia-nê-rô chỉ có ít người. Từ Đại Tây Dương, từng luồng gió mát thổi vào sâu trong lục địa xô bạt luồng khí nóng oi bức đang bốc lên từ những con đường rải nhựa của thành phố. Hắn ta đứng lại, lấy chân hất chiếc vỏ ốc nửa chìm nửa nổi trong cát. - Chào Ghéc-man! Người đàn ông đứng tuổi có bộ râu hung hung kiểu thủy thủ với thân hình rắn chắc cất tiếng chào. Y đang nằm ngửa cách Ghéc-man chừng dăm bước và bây giờ lật sấp, chống khuỷu tay nhỏm dậy, đưa tay che mắt cho khỏi bị chói nắng. - Chào bác sĩ Dên-khốp! Ghéc-man đáp lại rồi ngồi xuống cát bên cạnh y. - Anh đến muộn 15 phút đấy. - Có một chuyện hoàn toàn tình cờ, thưa bác sĩ. Ghéc-man nói. - Khỏi cần chi tiết. Ta hãy nói vào việc đi. Mong sao anh tránh khỏi được mọi chuyện tình cờ, chàng trai ạ. - Thuyền đã đến vào đêm qua. Đội thủy thủ đã được bố trí ngay tức khắc, và bây giờ chắc là đang vung tiền vào tiệc rượu chè. Trên thuyền chỉ còn lại thuyền trưởng và một gã Mê-hi-cô tên là Pê-rết. - Thế gã Pê-rết này làm việc ra sao? - Một chàng trai đáng tin cẩn. Có thể trông cậy vào anh ta. - Bọn họ chỉ có hai người thì không thể đưa thuyền ra khỏi cảng được! - Vâng, tất nhiên, nhưng tôi đã chuẩn bị thêm hai người nữa. Ghéc-man trả lời. - Hãy thận trọng đấy ! Đừng quên rằng chính phủ nước này, về hình thức, đang theo con đường trung lập. - Tôi hiểu ngài. Thưa bác sĩ. Cuộc gặp gỡ sẽ diễn ra ở đâu ạ? - Ở vuông 27-15. Các anh cần phải có mặt ở đấy từ 23 giờ đến nửa đêm. Tín hiệu - pháo lửa đỏ để mọi góc độ nhìn thấy rõ và ở phía dưới là những đốm sáng xanh. Anh sẽ bắn pháo hiệu. Họ sẽ tự tìm đến chỗ anh. Mật khẩu của họ «Chào buổi sáng». Anh sẽ trả lời: «Địa bàn bị hỏng, bây giờ đêm nào cũng lạnh». - Tất cả đã rõ. Ngay đêm nay ạ? Ghéc-man hỏi. - Chính đêm nay. Hàng chở trên tàu là bao nhiêu? - Một trăm sáu mươi tấn - Ghéc-man trả lời. - Một trăm tấn ở dạng thỏi, còn lại là tiền đúc. Bác sĩ Dên-khốp cau mày. - Phải đúc lại tất cả. Với những số tiền đúc ấy thì nguy hiểm hơn đấy. Ghéc man nhún vai. - Đấy không phải là điều quan tâm của chúng ta, thưa bác sĩ. - Ghéc-man đáp... - Phải. - Dên-khốp xác nhận. - Thôi, đi đi, Ghéc-man! Trước tiên hãy xuống nước, sau đó lên bờ, ở đâu thì tùy ý. Ban ngày hãy nghỉ ngơi đi. Đêm nay anh phải đứng trước một công việc khó khăn nặng nề đấy. Hãy nhớ nhé: Ô vuông 27-15. *** Con cá Ma-rơ-lin to lớn lao nhanh vào tấn công. Đàn cá chuồn vọt lên, bay trên mặt nước, giương những cặp vây dài lướt sẹt trong màn đêm dày dặc để thoát nạn... Một lúc sau chúng lại hạ xuống nước. Chỉ còn một con vì bay cao hơn cả đàn nên không trở về với biển được. Bị mắc vào kính tiềm vọng, nó rơi xuống dưới chân những người đang đứng trên cầu tàu, chút nữa làm rơi chiếc mũ lưỡi trai của viên chỉ huy tàu. - Đồ dơ dáy! - Viên chỉ huy rủa rồi lấy chân hất con cá chuồn vào một góc. - Nửa giờ nữa là đến hẹn! - Tê-ô-đo Phôn Bết-man nhận định. - Anh tin rằng chúng ta đang ở đúng địa điểm đã định chứ? - Viên chỉ huy hỏi. - Hoàn toàn tin chắc. - Tốt. Chúng ta chờ đợi vậy. Chiếc tàu ngầm Van-ki-ri-a đã tắt đèn, đậu đúng ô vuông 27-15 trong tư thế chiến đấu: thân tàu dài và hẹp ẩn chìm dưới nước, chỉ có buồng chỉ huy, như một mỏm đá ngầm, nổi mập mờ trên mặt nước khó mà đoán nổi trong đêm tối. Địa điểm chúng ta đậu đúng trên chí tuyến Ma-kết. Viên thuyền phó thứ nhất phá tan sự im lặng. Trong khi đó chiếc thuyền «Ô-ri-nô-cô» đang tiến đến địa điểm hẹn. Vài giờ trước, dưới sự chỉ huy của Han-xơ Đrê-vít, một người Đức sinh ra ở Ác-hen-ti-na, con thuyền rời cảng Ri-ô đơ Gia-nê-rô ra khơi. Các nhà chức trách trên cảng theo thông báo của viên thuyền trưởng đã nhận xét trong các giấy tờ: cảng đến là Xan-tô Ca-ra-vê-lốc; hàng chuyên chở là máy khâu, đoàn thủy thủ gồm năm người. Đứng bên cạnh viên thuyền trưởng trên mạn tàu là người giúp việc có vẻ mặt rầu rĩ, đó là Pê-rết, mà trước đây theo lời đồn là một tên cướp sừng sỏ, gốc Mê-hi-cô. Ở đây còn có cả Ghéc-man và hai thủy thủ bỏ trốn từ chiếc tàu thủy Ác-hen-ti-na vì bị cám dỗ bởi viễn cảnh sẽ kiếm thêm chút đỉnh trong chuyến đi này. Tên chúng là Jô và Lu-ít. Trên thuyền gắn một máy nổ công suất lớn. Giờ đây, thuyền Ô-ri-nô-cô đang đi vào ô quy định, viên thuyền trưởng và Ghéc-man nhìn về phía trước. Pê-rết đứng bên tay trái, các thủy thủ đang chơi xúc xắc trong buồng của họ. - Có lẽ ta đã đến địa điểm - Viên thuyền trưởng nói và cho thuyền chạy chậm lại. - Dừng máy và chuẩn bị lửa hiệu. Mười lăm phút nữa chúng ta sẽ bắt đầu. Trên bầu trời, một phát pháo hiệu đỏ bùng lên như một ngôi sao và phía dưới nó nhấp nháy một đốm lửa xanh. *** - Lẽ ra đã đến lúc họ phải xuất hiện. Viên chỉ huy tàu ngầm Van-ki-ri-a vừa càu nhàu vừa đưa chiếc đồng hồ dạ quang lên tận mắt. - Mới quá có 10 phút. Phôn Bết-man trả lời - có thể họ đến muộn. - Thế anh tin chắc rằng chúng ta đang ở đúng vị trí ta phải có mặt chứ? - Viên chỉ huy hỏi lại. Tê-ô-đo Bết-man nói với vẻ bực mình: - Tôi đã đích thân kiểm tra lại những tính toán của hoa tiêu. Chính ông cũng có thể thấy rõ được điều đó. - Tôi đã thấy các đốm lửa rồi! - Tên nhận tín hiệu kêu lên. - Không thể nói khẽ hơn được à! - Viên chỉ huy càu nhàu - các anh không phải đang đi dạo chơi ở ngoại ô đâu nhé. Đứng bên bánh lái đi. Việc chuyển các hòm nặng từ thuyền lên tàu ngầm kéo dài đến tận lúc rạng đông. Tham gia vận chuyển có đoàn thủy thủ của cả hai chiếc tàu và thuyền. Pê-rết đã hai lần xuống tàu ngầm và trở về với một chai rượu vốt-ca chính phẩm trên tay. Trong một lần đi như vậy, chớp lấy thời cơ khi trong khoang không có ai. Pê-rết đã nhanh như cắt rút từ trong áo khoác ra một hộp kim loại dẹt to như hộp thuốc lá, cúi xuống nhét dưới một ống chạy dọc theo boong tàu Van-ki-ri-a. Đến sáng, tất cả các máy khâu đã nằm gọn trong chiếc bụng thép của tàu Van-ki-ri-a. Ghéc-man lên cầu tàu nói thầm vào tai viên chỉ huy khoảng 5 phút, sau đó trở về thuyền Ô-ri-nô-cô. Các thủy thủ tàu Va-ki-ri-a tháo dây buộc, và cả tàu lẫn thuyền đều tiến theo các hướng khác nhau. - Chúng ta đi lên phía bắc chứ, thuyền trưởng? - Ghéc-man nói - đến Rê-xi-phi, Pê-rết hãy đứng lên bánh lái đi. Ta muốn ứng tiền trước cho mấy anh bạn này. Ê! Jô, Lu-ít! Các thủy thủ đang ngồi trong khoang thuyền, buông thõng những cánh tay rã rời vì khuân vác từ đêm đến giờ, nặng nề đứng dậy đi về phía Ghéc-man đang đứng bên cửa buồng điều khiển. - Các chàng trai ơi, các anh giỏi lắm - Ghéc-man nói - các bạn nghĩ sao về một hớp rượu ngon và mấy đồng tạm ứng? Jô, một lên lai lực lưỡng, cười sung sướng và nhảy cẫng lên ở trên boong. - Tốt quá, thưa ông chủ, tốt quá! - Hắn nói. Lu-ít, một tên Ấn Độ bán thuần chủng có thân hình dài ngoằng và gầy gò, mỉm cười rụt rè. - Các bạn, hãy cầm lấy rượu và tiền đây này! Và có thể nghỉ ngơi được! - Ghéc-man nói. Các thủy thủ xoay lưng lại, sánh vai nhau đi về buồng thủy thủ ở phía mui thuyền. Ghéc-man nhìn viên thuyền trưởng đang đứng bên chiếc cửa sổ mở của buồng điều khiển, hắn đưa mắt về phía tấm lưng to bè của Lu-ít và dùng tay trái lấy khẩu súng máy trong chiếc tủ con ra. Những tiếng nổ vang lên liên tiếp. Lu-ít khựng lại, ngã sấp mặt xuống boong, co giật rồi hết cựa quậy: chai rượu từ từ tuột khỏi tay hắn. Viên đạn làm cho Jô sững lại dường như có một bức tường bỗng hiện lên trước mặt hắn. Hắn đứng sững trong giây lát, không nhúc nhích và thế là Ghéc-man lại nâng khẩu súng máy lên một lần nữa. Chỉ có điều hắn chưa kịp bắn thì Jô đã đột ngột quay ngoắt lại, đôi mắt mất hết thần sắc, nhìn thẳng, tiến về phía Ghéc-man đang giương súng. Jô tiến lại gần, còn Ghéc-man thì giật lùi về buồng điều khiển. Cuối cùng, trong buổi sáng yên tĩnh của biển khơi vang lên những tiếng nổ chát chúa của loạt súng máy, những viên đạn từ nòng súng bay ra cắm ngập và xé nát tấm ngực nở nang của tên lai. Hắn bước thêm được một bước cuối cùng, rồi thở khè khè đứt đoạn: - Ông... chủ... sao... lại… *** Hành trình của chiếc tàu ngầm hải quân Đức Van-ki-ri-a trong một thời gian được thực hiện trên mặt nước. Sau đó, viên chỉ huy ra lệnh bắt đầu lặn, vì tàu đi ngang qua khu vực nhiều tàu bè và thủy thủ tàu ngầm Đức không muốn để một ai phát hiện ra mình. - Tê-ô-đo, tôi sẽ ngủ chừng hai tiếng - viên chỉ huy nói với Phôn Bết-man - hãy cho tàu chạy về phía đảo Mác-tin Vác, từ đó ta sẽ rẽ về hướng xích đạo. Hai giờ nữa tôi sẽ thay ca cho anh. Tê-ô-đo suy nghĩ về những điều ngang trái mà số phận đã ném hắn - một sĩ quan tàu ngầm xuất sắc - vào cái hộp thép nhét đầy những máy khâu để thay thế cho những quả thủy lôi khủng khiếp. Tê-ô-đo Phôn Bết-man, tất nhiên hiểu rằng món hàng này quan trọng đối với nước đại Đức biết chừng nào. Nhưng công việc của hắn là đánh chìm các tàu địch chứ không phải là lẩn tránh giữa đại dương trên chiếc tàu ngầm không có máy phóng ngư lôi. Hắn liếc nhìn đồng hồ, mắng nhiếc tên cầm lái đã làm tàu lệch hướng mất 3 độ và lom khom chui qua những chiếc cửa hình ô-van của các ngăn buồng đi đến ca-bin. Song, Tê-ô-đo Phôn Bét-man đã không kịp tới đó. Một luồng khí nén từ phía sau xô hẳn ngã chúi xuống, đập cằm vào khung cửa. Hắn thấy đau ở cằm. Sau đó, viên thuyền phó thứ nhất không còn cảm thấy được gì nữa. Tên cầm lái ở vị trí trung tâm thấy lớp vỏ bọc có một chỗ bị bung vào phía trong và một dòng nước đen ngòm cuồn cuộn chảy về phía hắn rồi cuốn lấy hắn, vò xé hắn và dìm hắn chết ngập. Viên chỉ huy cũng chết ngập trong nước không kịp dậy. Các thủy thủ trong khoang mũi của tàu thì còn sống sót được một ít vì tiếng nổ làm cho chiếc tàu đứt làm đôi, nhưng phần mũi vẫn còn đủ kín. Chiếc quan tài bằng sắt vừa nhào lộn vừa chìm sâu xuống đáy đại dương, và ở đây nó bị một lớp nước dày chừng 300 mét đè lên. Chừng nửa dặm về bên phải, chiếc tàu chở hàng đang chạy từ Ri-ô Grăng đi Môn-rô-via thấy một vòm nước nổi lên lóng lánh dưới ánh mặt trời. Cột nước chùng chình giây lát rồi sau đó vỡ tung ra, gây nên sự kinh hoàng cho đoàn thủy thủ của chiếc tàu Bra-xin mang tên «Xao-pao-lô». Khoảng đen lấp lánh các màu lan rộng ra ở ngay chỗ vòm nước đã biến đi. Con tàu quay mũi đến gần nó, hạ xuồng, bắt đầu lượm lặt những mảnh vỡ và xác chết bị tung lên cùng với những bóng nước bị vỡ ra trên mặt biển. Bấy giờ là thời chiến và thuyền trưởng tàu «Xao- pao-lô» cấm không được báo tin về sự kiện đã xảy ra. Viên thuyền trưởng cố xác minh quốc tịch của những xác người đã được thủy thủ mình vớt lên, nhưng việc đó không thể được. Chẳng có giấy tờ gì, chẳng một dấu hiệu nào ngoài những dấu hiệu về chủng tộc. Ông ta không tìm được gì hết. *** Chiếc tàu ngầm «Van-ki-ri-a» bị mất trong tình trạng bí ẩn đối với các nhà chỉ huy Đức, nó chở 160 tấn ni-ken dưới dạng thỏi cùng với tiền đúc của Mỹ và Ca-na-đa. Ni-ken - một kim loại ánh bạc có giá trị bậc nhất trong bảng tuần hoàn của Men-đê-lê-ép với ký hiệu 28, là kim loại khó nóng chảy, cứng và không bị biến đổi trong không khí. Ni-ken trở thành một vấn đề nan giải đối với nước Đức cũng như nhiên liệu và còn có thể nan giải hơn. Dầu sao thì dầu lửa còn có thể thay thế được. Còn ni-ken thì không. Thiếu ni-ken không thể có vỏ thép. Thiếu vỏ thép không thể có xe tăng. Thiếu xe tăng thì không chiến thắng nổi trên những chiến trường của đại chiến thế giới lần thứ II. Thiên nhiên đã bớt xén, không cho nước Đức đủ ni-ken. Ở thung lũng sông Ranh chỉ có một trữ lượng ni-ken không đáng kể. Phần lớn ni-ken nước Đức phải mua của Ca-na-đa. Chiến tranh bắt đầu và nước Đức bị mất đi nguồn ni-ken từ Ca-na-đa. Hít-le chiếm được Hy-lạp và cùng với nó là các mỏ ni-ken. Nước chư hầu Phần Lan mở rộng cửa các mỏ ni-ken ở miền Bắc tại vùng Pết-xa-mô cho người Đức. Ở đó có các tù nhân và tù binh làm việc. Cả một quân đoàn SS đảm nhận bảo vệ các hầm mỏ và đảm bảo khai thác, liên tục loại quặng pyrit đỏ có hàm lựợng ni-ken và gửi về các nhà máy luyện kim ở Đức. Khi xe tăng T-34 của Liên Xô xuất hiện trên các chiến trường, các chuyên viên Đức kinh ngạc bởi độ bền của vỏ thép các xe tăng dó. Theo mệnh lệnh từ Béc-lin, chiếc xe tăng T-34 đầu tiên chiếm được đã được đưa về Đức. Ở đây, các nhà khoa học đã phân tích vỏ thép của nó. Họ xác định rằng vỏ thép của xe tăng Nga có một tỷ lệ ni-ken cao và do đó vỏ thép này cực kỳ bền vững. Việc thiếu ni-ken trong vỏ thép đã dẫn đến tình trạng là cho đến năm 1944, các nhà máy quốc phòng của Đức quốc xã phải sản xuất xe tăng vỏ dày hơn bình thường. Nhưng ngay vỏ như vậy vẫn dễ bị phá vỡ và các xe tăng «con hổ» «con báo» «phéc-đi-năng» rõ ràng là nặng nề hơn và yếu thế hơn các xe tăng và xe tự hành của Liên Xô. Ni-ken và ni-ken! Cần nhiều ni-ken hơn nữa! Mời các bạn đón đọc Ba Bộ Mặt Của I-A-Nút của tác giả Xta-nhi-xlap Ga-ga-rin.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Tiếng Thét Trong Đêm
Jenni - một phụ nữ ly dị đang nuôi con với muôn vàn khó khăn. Cuộc gặp định mệnh với Erich Krueger - một họa sĩ thiên tài ở miền Midwest trong một cuộc triển lãm tranh ở New York đã thay đổi hoàn toàn cuộc đời của nàng. Sau một cuộc tình chớp nhoáng, Jenni và hai con chuyển từ New York đầy náo nhiệt về miền nông thôn ở Minnesota u tịch, yên tĩnh để kết hôn với Erich. Erich - một chàng trai hòa hoa, phong nhã, giàu có tưởng như là một kết thúc hoàn hảo cho cuộc đời đầy sóng gió của Jenni. Nhưng ngay trong ngày đêm động phòng Erich đã yêu cầu nàng mặc bộ đồ của mẹ chàng và Jenni phát hiện ra nàng quá giống mẹ Erich. Tính cách bị ám ảnh bởi sự ngăn nắp của chàng đã làm cho nàng cảm thấy quá ngột ngạt và những chuỗi ngày bất ổn bắt đầu từ đây. Liên tiếp những biến cố xảy ra với cái chết của Kevin - người chồng trước của Jenni gần nông trang của gia đình Erich, và đứa con đã đẩy nàng vào sự khủng hoảng nhưng sự việc không kết thúc tại đây. Và Jenni phải làm thế nào để giải thoát khỏi sự nguy hiểm đang rình rập và đồng thời bảo tồn mạng sống của mình và các con... *** Mary Higgins, sinh năm 1927 ở Mỹ, đã làm nhiều công việc khác nhau trước khi đến được với nghề viết văn. Cha mất sớm, hoàn cảnh khó khăn nên ngay khi học xong trung học, Mary phải lo giúp gia đình bằng cách nhanh chóng tìm một công việc. Bà đã làm thư ký rồi làm tiếp viên hàng không trước khi lập gia đình với Warren Clark. Lấy chồng một thời gian sau, Mary mới có thể theo đuổi sự nghiệp văn chương bằng nghề viết báo. Cuộc sống tưởng chừng đang yên ổn thì người chồng đột ngột qua đời trong một cơn đau tim, để lại một mình Mary với năm đứa con nhỏ. Người phụ nữ này không hề nhụt chí mà còn nỗ lực làm việc hơn bao giờ hết. Bà lao vào viết sách và lấy tên là Mary Higgins Clark. Tác phẩm đầu tiên, Tiểu sử George Washington, ra đời khi bà đã 40 tuổi, không đem lại mấy thành công. Mary quyết định chuyển sang thể loại truyện trinh thám. Cuốn tiểu thuyết Where are the children (Con của chúng ta đâu) xuất bản năm 1975, lập tức trở thành sách best-seller. Sau thành công của tác phẩm này, Mary bắt đầu gặt hái những thắng lợi lớn. Những phụ nữ giàu có, quyến rũ, những tội ác bí hiểm và bầu không khí căng thẳng đáng sợ là những đặc điểm nổi bật khiến cho câu chuyện luôn tạo được một hấp lực mạnh mẽ. Một số độc giả sau khi đọc truyện của bà đã phát biểu: “Cảm ơn Mary đã khiến tôi nhiều lần toát mồ hôi trong những đêm thức trắng đọc truyện của bà. Một khi đã bước vào thế giới đó thì bạn không thể rời xa được, chừng nào bạn chưa đọc xong. A Cry in the night (Tiếng thét trong đêm), The cradle will fall (Lộ diện), No place like home (Không đâu bằng ở nhà mình) đều là những tiểu thuyết tuyệt vời”. Một độc giả khác nhận xét: “Điều mà tôi thích ở nhà văn này là bà biết cách tạo ra những tình tiết lôi cuốn gây cảm giác hồi hộp. Thêm vào đó là phong cách viết dễ đọc nên những câu chuyện của bà hết sức gần gũi với đời thường”. Một con người không mệt mỏi Ba mươi năm viết truyện với 40 tiểu thuyết, trong đó nhiều tác phẩm đã được dựng phim, Mary Higgins Clark đã tạo cho mình một sự nghiệp đáng tự hào với nhiều giải thưởng và vinh quang. Bà đã nhận được nhiều giải của các cơ quan văn hóa, lịch sử xã hội, giáo dục Mỹ, Pháp, Ireland; đã từng làm Chủ tịch Hội các nhà văn trinh thám Mỹ năm 1987; Chủ trì Hội nghị Tội ác quốc tế tại New York năm 1988 và vinh dự đón nhận tước hiệu Hiệp sĩ Văn học và Nghệ thuật của Pháp vào năm 2000. Nhưng giải thưởng có ý nghĩa hơn cả có lẽ vẫn là sự mến mộ mà độc giả dành cho bà. Hầu hết các tác phẩm của Mary đều trở thành sách best-seller. Đối với nhiều người, truyện trinh thám chỉ được đọc để giết thời gian tại các bến xe nên đa phần được in khổ nhỏ bỏ túi, nhưng tại Mỹ, trên 50 triệu cuốn sách khổ lớn của bà đã được bán ra. Còn tại Pháp, con số này trên 20 triệu. Ở VN, độc giả có thể dễ dàng tìm được các tác phẩm của bà tại bất kỳ nhà sách nào trên toàn quốc. Những cuốn sách Chiếc nhẫn oan gia, Xác chết ngoài biển khơi, Rình rập, Lộ diện, Tiếng thét trong đêm đều đã trở nên quen thuộc đối với những người thích thể loại trinh thám. Năm 1999, một cuộc thăm dò đã đưa Mary Higgins Clark lên vị trí thứ hai thế giới trong số các nhà văn được nhiều độc giả trên 18 tuổi ưa thích. Một tâm hồn trẻ trung, hiện đại Đã 77 tuổi nhưng Mary vẫn không ngừng tạo ra những món ăn tinh thần hợp khẩu vị bạn đọc trẻ và chúng vẫn luôn mới mẻ, cuốn hút. Cuốn tiểu thuyết mới đây nhất Two little girls in blue, 2006 (Hai cô bé trong đại dương) đã chứng tỏ điều đó. Câu chuyện kể về gia đình Frawley, trong buổi tối sinh nhật của hai con gái sinh đôi 3 tuổi là Kelly và Kathy, ông bà Frawley đã bị cảnh sát hỏi thăm, chị giữ trẻ bị ngất đi, còn hai cô bé mất tích. Sau khi giao 8 triệu USD tiền chuộc theo yêu cầu của bọn bắt cóc, ông bà Flawley chỉ nhận lại được Kelly trong một chiếc xe hơi bỏ không. Còn số phận Kathy thế nào? Mọi người dường như tuyệt vọng, nhưng Kelly bằng linh cảm vẫn biết người chị song sinh của mình còn sống. Tình huống gay cấn trong câu chuyện khiến người đọc bị cuốn vào số phận các nhân vật cho đến trang cuối cùng. Năm 2007, Mary sẽ cho ra đời tác phẩm mới mang tên Santa Cruise mà bà viết chung với con gái mình là Carol Higgins Clark. Với sự nghiệp thành công và con cái thành đạt, Mary tự nhận mình là người hạnh phúc. Hiện nay, bà đang sống cùng với người chồng thứ hai, John Coheeney, tại Manhattan, New York. Bất chấp tuổi tác, những ý tưởng trong bà vẫn rất dồi dào và bà vẫn tiếp tục viết những câu chuyện ly kỳ, bí hiểm, khiến người đọc luôn phải trông ngóng, mong đợi những điều bất ngờ bà mang tới. Với 200 triệu cuốn sách bán ra trên thị trường, bà là một trong những nhà văn có số lượng độc giả nhiều nhất hiện nay. Với một sự nghiệp sáng tác đồ sộ, bà đã chứng tỏ vị trí số một thế giới trong thể loại truyện trinh thám. Các tác phẩm đã được xuất bản ở Việt Nam:   1. Where Are The Children? (1975) có 3 bản dịch + Ngôi nhà cạm bẫy + Rình rập + Truy tìm nhân chứng 2. A Stranger Is Watching (1977) / Cáo sa mạc 3. The cradle will fall (1980) / Lộ diện 4. A Cry in the Night (1982) / Tiếng hét trong đêm khuya 5. All around the town (1992) có 3 bản dịch + Một quá khứ kinh hoàng + Thành phố buồn + Vĩnh biệt thơ ngây 6. Remember Me (1994) có 2 bản dịch + Bí ẩn trong tòa nhà cổ + Xác chết ngoài biển khơi 7. Let Me Call You Sweetheart (1995) / Xin cho tôi gọi cô là em yêu 8. The Lottery Winner (1996) / Chuộc chồng 9. Pretend You Don't See Her (1997) có 2 bản dịch + Trang nhật ký đẫm máu + Nhân chứng bị săn đuổi 10. You belong to me (1998) / Chiếc nhẫn oan gia 11. Where Are You Now? (2008) / Giờ này anh ở đâu? *** Lúc tờ mờ sáng, Jenni bắt đầu đi vào rừng để Jin tìm kiếm căn nhà gỗ. Suốt đêm qua, không hề chợp mắt, nàng nằm bất động, thao thức trên chiếc giường rộng, sang trọng, kiểu có tán che. Im vắng ngự trị trong ngôi nhà làm trĩu nặng tâm can nàng. Dẫu nhiều tuần lễ đã trôi qua mà đôi tai nàng vẫn rình nghe trong tuyệt vọng tiếng khóc đói sửa của đứa con nhỏ. Bầu vú căng sửa của nàng luôn chờ đợi cái miệng bé nhỏ háu ăn. Căn phòng sáng lên khi nàng bật ngọn đèn ngủ. Ánh đèn tỏa vào chiếc cốc pha lê chạm trổ trên tủ com mốt. Những bánh xà phòng nho nhỏ thơm mùi thông bày trong cốc hắt ánh sáng màu xanh vào chiếc hộp trang điểm bằng bạc. ***** Đối với nàng, có hệ trọng gì đâu. Dẫu phải chết rét đi nữa thì nàng cũng phải kiếm cho ra căn nhà gỗ đó. Nó ở đâu đó thôi, trong khu rùng thông đen, sồi và thích của xứ Na Uy này. Trong những đêm dài thao thức, nàng đã hoạch định một chương trình cho cuộc tìm kiếm. Theo nàng nghĩ, Erich không đi nhanh bằng nàng được, anh ta đi một bước thì nàng đã tiến xa ba bước rồi. Bước sải dài của nàng tự nhiên mang nàng đi nhanh hơn nàng tưởng. Như ngày kia, Erich đến căn nhà gỗ sực nhớ quên mang theo chìa khóa, chàng trở về để lấy, thì phải đi mất 40 phút. Theo anh ta, đoạn đường từ căn nhà gỗ đến bìa rừng phải đi khoảng 20 phút. Erich không bao giờ dẫn nàng đến đó. Chàng đã từng nói với nàng: ‘‘Jenni, em hãy hiểu cho anh, mọi nghệ sĩ đều cần có một thế giới riêng tư’’. Trước đây, nàng cũng không bao giờ tìm cách để đến nơi đó. Erich cũng đã tuyệt đối cấm mọi người trong nông trang vào rừng. Ngay cả Clyde, người quản lý nông trang từ ba mươi năm nay cũng xác nhận chưa hề biết căn nhà gỗ đó nằm ở đâu. Tuyết trắng xóa, từng mảng nặng nề, chất lớp, đã xóa tan đi dấu chân nàng. Nhưng trái lại nó cũng giúp nàng thực hiện cuộc tìm kiếm thấu đáo hơn bằng cách đi ski. Nàng cố thận trọng để tránh bị lạc hướng, với hằng hà bụi rậm nơi đây cùng với khả năng định hướng tồi tệ của nàng thì nguy cơ đi lòng vòng sẽ xảy ra ngay. Thận trọng, Jenny chủ định mang theo một cái la bàn, cái búa, đinh và ít mảnh vải nhỏ. Nàng dự tính sẽ đóng những mảnh vải này vào thân cây để đánh dấu. Suốt đêm qua, nàng suy nghĩ hẳn mình có nên đến gặp ông cảnh sát trưởng Gunderson. Hẳn nhiên ông ta sẽ nhìn nàng bằng ánh mắt dò hỏi, khinh khỉnh. Bộ áo liền quần đi ski móc ở tủ ngăn dưói nhà, cạnh nhà bếp. Nàng mặc nó vào trong khi chờ đợi nước cà-phê đun sôi. Ngay khi uống tách cà-phê đầu tiên, nàng đã hình dung rõ ràng hơn vị trí của căn nhà. Nàng sẽ mang theo bình thủy cà-phê. Jenni không có chìa khóa của căn nhà gỗ nhưng khi vào nàng có thể dùng búa để đập vỡ cửa kính. Toàn bộ ngói nhà rộng lớn cũ kỹ mà nàng đang sống nơi đây, thật bóng loáng từ trên xuống dưới. Hẳn đó là thành tích sáng chói do những nguyên tắc khắc nghiệt về tính sạch sẽ của Elsa, chị người làm, ngay cả khi chị ta không đến đã hai tuần nay. Trước khi ra về, chị ta luôn bóc một tờ lịch treo ở tường, trên chiếc điện thoại. Jenni còn nhớ đã từng nói với Erich về chị ta, "Elsa khônq thể kềm chế được việc lau chùi mọi thứ dẫu không thấy dơ và chị ta cứ lặp lại mãi như vậy trong suốt tuần". Bảy giờ, đến lượt nàng bóc tờ lịch của ngày Thứ hai 14 tháng 2, nàng vò nát tờ lịch cũ và chăm chú nhìn vào hàng chữ lớn ghi trên tờ lịch mới: Thứ bảy 15 tháng 2. Nàng rùng mình. Đã gần mười bốn tháng trôi qua kể từ ngày nàng gặp gỡ Erich tại gallery. Không thể thế được. Đó phải là một thế kỷ. Nàng đăm chiêu suy nghĩ. Mái tóc màu hạt dẻ sẫm màu của nàng trong thời gian nàng mang thai giờ đây đã trở thành gần như màu đen. Mái tóc lộ ra sự buồn bả và không còn sức sống khi nàng ém nó dưới chiếc nón trùm đầu bằng len. Chiếc gương đóng khung bằng vỏ sò đặt bên phía trái cánh cửa bếp thật không phù hợp với cảnh bề thế của căn bếp với khung trần trang trí bởi những cây đà to lớn bằng gỗ sồi. Nàng đến đứng trước gương, đôi mắt nàng giờ đã quầng thâm, không còn là màu xanh ngọc bích; sáng hôm nay chúng phản chiếu nét nhìn chăm chú và sững sờ. Đôi má nàng lõm sâu. Nàng đã sụt cân từ khi ở cữ. Khi nàng cài lại cúc áo, thì thấy gân xanh đập nhẹ nơi cổ mình, mới có hai mươi bảy tuổi mà nàng có cảm tưởng như gấp mười lần hơn; và nàng cảm thấy mình già như một bà lão trăm tuổi. Ước gì sự đờ đẫn này biến mất đi. Ước gì ngôi nhà này không còn thinh lặng như thế này nữa, một sự thinh lặng khủng khiếp. Nàng hướng mắt nhìn lò sưởi bằng gang nằm sát tường phía đông của căn bếp. Cái nôi chất đầy củi đã được đặt lại chỗ cũ cùng những vật dụng cần thiết cạnh đó. Nàng nhìn chăm chú chiếc nôi. Như một cú sốc thường xuyên hiện diện. Dần dà nàng cảm thấy quen thuộc với sự có mặt của nó trong căn bếp. Đoạn, nàng quay sang rót cà phê vào bình thủy, thu gom lại các vật cần dùng như la bàn, cái búa, những cái dinh, những mảnh vải và dồn tất cả vào trong một túi đeo lưng, với khăn quàng trùm mặt, chân mang giày ski, Jenni nhanh nhẹn luồn đôi tay vào bao găng tay to tướng bằng lông thú. Nàng tạ ơn Trời đã cho mình học tốt môn trượt tuyết trong năm qua. Nàng mở cửa bước ra. Gió dữ dội quất mạnh vào người nàng. Tiếng rống khàn đục của đàn bò trong chuồng làm nàng liên tưởng đến tiếng nức nở của nỗi tuyệt vọng sâu xa. Mặt trời rực rỡ trên tuyết trắng, vẻ đẹp sáng ngời của vị chúa tể xa xôi dường như bất lực với nỗi khắc nghiệt của băng giá. Giờ này, hẳn Clyde đang đi kiểm tra chuồng súc vật. Đội ngũ nông dân ăn lương công nhật hẳn đang bận rộn chất đầy rơm cho đàn bò Black Angus; vì là mùa đông nên chúng không thể ăn cỏ trên đồng và chúng thường ẩn náu nơi đây để có thức ăn. Phân nửa tá điền đang làm việc trên phần đất khai khẩn rộng lớn và không một người nào đến gần ngôi nhà này. Chỉ thấy những chiếc bóng nhỏ bé của họ lố nhố phía chân trời..   Mời các bạn đón đọc Tiếng Thét Trong Đêm của tác giả Mary Higgins Clark & Lê Thành (dịch).
Rình Rập
Bằng ngòi bút sắc sảo, biết khai thác những tình  huống bí hiểm, kịch tính kích thích trí tò mò của độc giả, cách tạo dựng nhân vật hấp dẫn, lối hành văn lôi cuốn qua cốt truyện ly kỳ… là những nét tiêu biểu của cây bút nữ cự phách này; hay như lời bình phẩm của William Berker, ký giả kỳ cựu phụ trách mục "Điểm sách" của tuần báo Newsweek: "Công chúng mê đọc Mary ở chỗ, bà đã biết tạo ra những thủ pháp cuốn hút đan xen cảm giác hồi hộp”. *** Không khí lạnh giá len vào qua những khe hở của cửa sổ. Người đàn ông đứng dậy và nặng nề bước đến cầm lấy cái khăn tắm mà y luôn để gần tầm tay, bít lấy cái khung cửa đã xuống cấp. Tiếng rít nho nhỏ của gió len qua chiếc khăn tắm làm y cảm thấy mơ hồ thích thú. Y lặng lẽ nhìn bầu trời ảm đạm rồi nhìn những con sóng đang xô nhau vào bờ. Từ phía này của ngôi nhà, thường khi người ta có thể trông thấy Prince town, ở bờ bên kia Cape Cod. Y không ưa cái thị trấn Cape này. Y thù ghét cái u ám của nó vào những ngày tháng mười một như hôm nay; cái xám xịt của biển và những cư dân ở đây cứ nhìn ta bằng ánh mắt khó hiểu, không buồn nói năng. Y đã chán ngán cái thị trấn này ngay từ mùa hè đầu tiên, khi những đoàn khách du lịch đổ tràn ra biển, leo lên vùng đất bồi cho đến ngôi nhà, rồi một tay đưa cao để che nắng, họ liếc mắt nhìn vào những cửa sổ ở tầng trệt. Y cũng ghét cái tấm panô[1] ghi chữ “Nhà Bán” mà Ray Eldredge đã treo ở mặt tiền và phía sau ngôi nhà rộng lớn, ghét việc Ray và bà nhân viên của ông đã bắt đầu đưa khách vào xem ngôi nhà. Tháng trước, suýt nữa là họ đã đưa người vào xem căn hộ của y trong khi vắng nhà, nhưng may thay y đã kịp biết trước và che giấu cái ống viễn kính. Giờ đây, y chẳng còn bao nhiêu thời gian nữa. Ai đó sẽ mua ngôi nhà này và y không còn có thể thuê mướn nó nữa. Chính vì thế mà y đã gởi bài viết đến báo. Y không muốn ra đi trước khi được chứng kiến cảnh người đàn bà đó bị lột mặt nạ trước công chúng, khi nàng bắt đầu cảm thấy được yên ổn. Y cũng còn phải thực hiện một việc khác nữa, nhưng cơ hội chưa đến. Người đàn bà ấy không hề rời xa hai đứa trẻ và y thì không còn có thể chờ đợi nữa. Thôi, hãy để chuyện đó cho ngày mai vậy. Y bực dọc đi lui đi tới trong phòng. Căn phòng tầng trên này mênh mông vì nó chiếm cả bề rộng của ngôi nhà. Trước đây, chủ nhân ngôi nhà này là một thuyền trưởng biến chất. Ngôi nhà được xây vào thế kỷ 13 trên một mũi đá nhô ra biển, bao quát cả vịnh và thích hợp cho những ai thường xuyên sống trong tình trạng cảnh giác. Nhưng đời sống xem chừng là chuyện khác. Đời sống là khi này khi nọ, được tạo thành bởi những thứ tạp nham. Đời sống là những núi băng trôi mà ta chỉ trông thấy phần nổi. Y biết rõ điều đó. Y đưa tay xoa xoa mặt, cảm thấy bồn chồn, nóng ran mặc dầu căn phòng lạnh căm. Từ sáu năm nay y đã thuê mướn ngôi nhà này để sống trong những ngày cuối hè và suốt cả mùa thu. Ngôi nhà vẫn như thế, không gì thay đổi, kể từ ngày y bước chân đến đây. Và, nếu có chăng thì chỉ là một vài đóng góp nhỏ nhặt. Ống viễn kính đặt trước cửa sổ mặt tiền, mớ quần áo mà y mang theo để mặc trong những dịp đặc biệt, và cái mũ lưỡi trai dùng để che khuất phần lớn khuôn mặt của y. Nói tóm lại, chẳng có gì thay đổi ở đây. Vẫn là cái đi-văng cũ kỹ ngày ấy, những cái bàn bằng gỗ thông, tấm thảm trong phòng khách và những đồ đạc toàn bằng gỗ thích.[2] Cho đến mùa thu này thì đây quả là nơi lý tưởng để thực hiện những ý đồ của y. Nhưng rồi mọi việc đã không ổn nữa. Khi Ray cho biết vợ chồng anh đang rao bán ngôi nhà cho những ai muốn mở nhà hàng và Ray chỉ gia hạn thời gian thuê mướn với điều kiện là người thuê phải cho khách đến xem nhà ngay khi được thông báo qua điện thoại. Raynor Eldredge. Y mỉm cười khi nghĩ đến người đàn ông còn trai trẻ đó. Ngày mai, liệu anh ta sẽ phản ứng ra sao khi đọc bài báo? Liệu Nancy đã nói thật cho chồng biết nàng là người như thế nào? Rất có thể là không. Đàn bà thường khéo giả dối. Vả lại, tốt hơn là Ray chưa hay biết gì. À! Được trông thấy diện mạo của Ray khi anh ta mở tờ báo ra xem thì thích biết bao! Báo được phát vào mười giờ sáng. Vào giờ đó, Ray còn ở văn phòng và hẳn anh ta sẽ chờ một lúc trước khi mở tờ báo ra xem. Bằng một động tác cáu kỉnh, y quay lưng về phía cửa sổ. Hai cẳng chân to lớn của y xem chừng quá bó sát bởi chiếc quần đen bóng láng. Y nôn nóng từng ngày để được xuống cân và không còn to béo như thế này nữa, và y đang trả giá cho điều đó bằng những buổi nhịn ăn đến độ kiệt sức. Nhưng y biết y sẽ đạt được mục tiêu và y có đủ khả năng để làm điều đó. Trước đây, y đã từng nhịn ăn vào những lúc y thấy là cần thiết. Y cáu kỉnh đưa tay gãi lớp da đầu và thầm nghĩ rồi đây tóc y sẽ mọc trở lại và lúc đó hẳn lớp tóc ở hai bên thái dương sẽ là màu muối tiêu. Y chậm rãi đặt tay lên ống quần rồi bồn chồn đi lui tới trong phòng, trước khi dừng lại bên ống viễn kính. Đây là ống viễn kính cực mạnh, thứ mà người ta không thể tìm thấy ngoài thị trường. Ngay cả cảnh sát cũng được trang bị rất ít. Nhưng y thì có phương cách để đạt được cái mà y muốn. Y khom người và nhìn vào ống ngắm, mắt kia nhắm lại. Ở bên ngoài, trời quá âm u đến nỗi đèn trong căn bếp phải thắp sáng vì thế, qua ống viễn kính, hình ảnh Nancy hiện rõ. Nàng đang đứng ở cửa sổ, phía trên bồn rửa bát. Có thể nàng đang chuẩn bị cho bữa ăn tối. Nhưng cũng có thể là nàng sắp ra ngoài, nếu đoán qua chiếc áo veste mà nàng đang mặc. Nàng đứng bất động, mắt hướng về phía biển. Nàng đang nghĩ gì? Đang nhớ ai? Đến các con, đến Peter, đến Lisa? Y muốn biết điều đó. Y bỗng dưng cảm thấy miệng khô khốc và đưa lưỡi lên liếm môi. Hôm nay, nàng trông rất trẻ với mái tóc buộc ra sau, mái tóc được nhuộm màu nâu. Hẳn người ta sẽ nhận ra nàng ngay nếu nàng vẫn giữ cái mái tóc màu vàng óng tự nhiên của nàng. Ngày mai sẽ là sinh nhật lần thứ ba mươi hai của nàng. So với tuổi thì nàng còn rất trẻ, quá trẻ, quá dịu dàng, quá mượt mà và xinh tươi. Y cáu kỉnh nuốt nước bọt. Môi y khô ran nóng sốt; hai bàn tay và nách y ướt đẫm mồ hôi. Họng y thắt lại và một lần nữa y phải đằng hắng một tiếng như tiếng cục cục của gà. Rồi toàn thân y run lên vì một tiếng cười không cưỡng nổi; y va vào ống viễn kính. Hình ảnh của Nancy nhòa đi, nhưng y chẳng buồn điều chỉnh ống ngắm. Hôm nay, y chẳng còn muốn nhìn nàng nữa. Ngày mai vậy! Y mường tượng đến vẻ mặt của nàng ngày mai, cũng vào giờ này. Lúc đó, nàng sẽ bị phơi bày trước mọi người, sững sờ vì sợ hãi và khiếp đảm, cố tìm cách trả lời những câu hỏi mà nàng đã bị cảnh sát tra vấn từ bảy năm trước. Lúc đó, hẳn các nhân viên cảnh sát sẽ hỏi: “Nào Nancy, đừng có giở trò ma giáo với chúng tôi. Hãy thật tình khai báo. Cô không thể chối cãi gì nữa. Hãy cho chúng tôi biết, những đứa trẻ đâu rồi?” *** Mary Higgins, sinh năm 1927 ở Mỹ, đã làm nhiều công việc khác nhau trước khi đến được với nghề viết văn. Cha mất sớm, hoàn cảnh khó khăn nên ngay khi học xong trung học, Mary phải lo giúp gia đình bằng cách nhanh chóng tìm một công việc. Bà đã làm thư ký rồi làm tiếp viên hàng không trước khi lập gia đình với Warren Clark. Lấy chồng một thời gian sau, Mary mới có thể theo đuổi sự nghiệp văn chương bằng nghề viết báo. Cuộc sống tưởng chừng đang yên ổn thì người chồng đột ngột qua đời trong một cơn đau tim, để lại một mình Mary với năm đứa con nhỏ. Người phụ nữ này không hề nhụt chí mà còn nỗ lực làm việc hơn bao giờ hết. Bà lao vào viết sách và lấy tên là Mary Higgins Clark. Tác phẩm đầu tiên, Tiểu sử George Washington, ra đời khi bà đã 40 tuổi, không đem lại mấy thành công. Mary quyết định chuyển sang thể loại truyện trinh thám. Cuốn tiểu thuyết Where are the children (Con của chúng ta đâu) xuất bản năm 1975, lập tức trở thành sách best-seller. Sau thành công của tác phẩm này, Mary bắt đầu gặt hái những thắng lợi lớn. Những phụ nữ giàu có, quyến rũ, những tội ác bí hiểm và bầu không khí căng thẳng đáng sợ là những đặc điểm nổi bật khiến cho câu chuyện luôn tạo được một hấp lực mạnh mẽ. Một số độc giả sau khi đọc truyện của bà đã phát biểu: “Cảm ơn Mary đã khiến tôi nhiều lần toát mồ hôi trong những đêm thức trắng đọc truyện của bà. Một khi đã bước vào thế giới đó thì bạn không thể rời xa được, chừng nào bạn chưa đọc xong. A Cry in the night (Tiếng thét trong đêm), The cradle will fall (Lộ diện), No place like home (Không đâu bằng ở nhà mình) đều là những tiểu thuyết tuyệt vời”. Một độc giả khác nhận xét: “Điều mà tôi thích ở nhà văn này là bà biết cách tạo ra những tình tiết lôi cuốn gây cảm giác hồi hộp. Thêm vào đó là phong cách viết dễ đọc nên những câu chuyện của bà hết sức gần gũi với đời thường”. Một con người không mệt mỏi Ba mươi năm viết truyện với 40 tiểu thuyết, trong đó nhiều tác phẩm đã được dựng phim, Mary Higgins Clark đã tạo cho mình một sự nghiệp đáng tự hào với nhiều giải thưởng và vinh quang. Bà đã nhận được nhiều giải của các cơ quan văn hóa, lịch sử xã hội, giáo dục Mỹ, Pháp, Ireland; đã từng làm Chủ tịch Hội các nhà văn trinh thám Mỹ năm 1987; Chủ trì Hội nghị Tội ác quốc tế tại New York năm 1988 và vinh dự đón nhận tước hiệu Hiệp sĩ Văn học và Nghệ thuật của Pháp vào năm 2000. Nhưng giải thưởng có ý nghĩa hơn cả có lẽ vẫn là sự mến mộ mà độc giả dành cho bà. Hầu hết các tác phẩm của Mary đều trở thành sách best-seller. Đối với nhiều người, truyện trinh thám chỉ được đọc để giết thời gian tại các bến xe nên đa phần được in khổ nhỏ bỏ túi, nhưng tại Mỹ, trên 50 triệu cuốn sách khổ lớn của bà đã được bán ra. Còn tại Pháp, con số này trên 20 triệu. Ở VN, độc giả có thể dễ dàng tìm được các tác phẩm của bà tại bất kỳ nhà sách nào trên toàn quốc. Những cuốn sách Chiếc nhẫn oan gia, Xác chết ngoài biển khơi, Rình rập, Lộ diện, Tiếng thét trong đêm đều đã trở nên quen thuộc đối với những người thích thể loại trinh thám. Năm 1999, một cuộc thăm dò đã đưa Mary Higgins Clark lên vị trí thứ hai thế giới trong số các nhà văn được nhiều độc giả trên 18 tuổi ưa thích. Một tâm hồn trẻ trung, hiện đại Đã 77 tuổi nhưng Mary vẫn không ngừng tạo ra những món ăn tinh thần hợp khẩu vị bạn đọc trẻ và chúng vẫn luôn mới mẻ, cuốn hút. Cuốn tiểu thuyết mới đây nhất Two little girls in blue, 2006 (Hai cô bé trong đại dương) đã chứng tỏ điều đó. Câu chuyện kể về gia đình Frawley, trong buổi tối sinh nhật của hai con gái sinh đôi 3 tuổi là Kelly và Kathy, ông bà Frawley đã bị cảnh sát hỏi thăm, chị giữ trẻ bị ngất đi, còn hai cô bé mất tích. Sau khi giao 8 triệu USD tiền chuộc theo yêu cầu của bọn bắt cóc, ông bà Flawley chỉ nhận lại được Kelly trong một chiếc xe hơi bỏ không. Còn số phận Kathy thế nào? Mọi người dường như tuyệt vọng, nhưng Kelly bằng linh cảm vẫn biết người chị song sinh của mình còn sống. Tình huống gay cấn trong câu chuyện khiến người đọc bị cuốn vào số phận các nhân vật cho đến trang cuối cùng. Năm 2007, Mary sẽ cho ra đời tác phẩm mới mang tên Santa Cruise mà bà viết chung với con gái mình là Carol Higgins Clark. Với sự nghiệp thành công và con cái thành đạt, Mary tự nhận mình là người hạnh phúc. Hiện nay, bà đang sống cùng với người chồng thứ hai, John Coheeney, tại Manhattan, New York. Bất chấp tuổi tác, những ý tưởng trong bà vẫn rất dồi dào và bà vẫn tiếp tục viết những câu chuyện ly kỳ, bí hiểm, khiến người đọc luôn phải trông ngóng, mong đợi những điều bất ngờ bà mang tới. Với 200 triệu cuốn sách bán ra trên thị trường, bà là một trong những nhà văn có số lượng độc giả nhiều nhất hiện nay. Với một sự nghiệp sáng tác đồ sộ, bà đã chứng tỏ vị trí số một thế giới trong thể loại truyện trinh thám. Các tác phẩm đã được xuất bản ở Việt Nam:   1. Where Are The Children? (1975) có 3 bản dịch + Ngôi nhà cạm bẫy + Rình rập + Truy tìm nhân chứng 2. A Stranger Is Watching (1977) / Cáo sa mạc 3. The cradle will fall (1980) / Lộ diện 4. A Cry in the Night (1982) / Tiếng hét trong đêm khuya 5. All around the town (1992) có 3 bản dịch + Một quá khứ kinh hoàng + Thành phố buồn + Vĩnh biệt thơ ngây 6. Remember Me (1994) có 2 bản dịch + Bí ẩn trong tòa nhà cổ + Xác chết ngoài biển khơi 7. Let Me Call You Sweetheart (1995) / Xin cho tôi gọi cô là em yêu 8. The Lottery Winner (1996) / Chuộc chồng 9. Pretend You Don't See Her (1997) có 2 bản dịch + Trang nhật ký đẫm máu + Nhân chứng bị săn đuổi 10. You belong to me (1998) / Chiếc nhẫn oan gia 11. Where Are You Now? (2008) / Giờ này anh ở đâu? Mời các bạn đón đọc Rình Rập của tác giả Mary Higgins Clark & Lệ Thanh (dịch)
Lộ Diện
Nếu bạn cần một quyển sách trinh thám, hình sự có thêm chút kinh dị, ở mức độ vừa phải, xem giải trí, hấp dẫn mà không quá hại não thì có lẽ Lộ diện (The cradle will fall) của M.H. Clark sẽ đáp ứng được và không làm bạn thất vọng. Mary Higgins, sinh năm 1929 ở Mỹ, đã làm nhiều công việc khác nhau trước khi đến được với nghề viết văn. Cha mất sớm, hoàn cảnh khó khăn nên ngay khi học xong trung học, Mary phải lo giúp gia đình bằng cách nhanh chóng tìm một công việc. Bà đã làm thư ký rồi làm tiếp viên hàng không trước khi lập gia đình với Warren Clark. Lấy chồng một thời gian sau, Mary mới có thể theo đuổi sự nghiệp văn chương bằng nghề viết báo. Cuộc sống tưởng chừng đang yên ổn thì người chồng đột ngột qua đời trong một cơn đau tim, để lại một mình Mary với năm đứa con nhỏ. Người phụ nữ này không hề nhụt chí mà còn nỗ lực làm việc hơn bao giờ hết. Bà lao vào viết sách và lấy tên là Mary Higgins Clark. Tác phẩm đầu tiên, Tiểu sử George Washington, ra đời khi bà đã 40 tuổi, không đem lại mấy thành công. Mary quyết định chuyển sang thể loại truyện trinh thám. Cuốn tiểu thuyết Where are the children (Con của chúng ta đâu) xuất bản năm 1975, lập tức trở thành sách best-seller. Sau thành công của tác phẩm này, Mary bắt đầu gặt hái những thắng lợi lớn. Những phụ nữ giàu có, quyến rũ, những tội ác bí hiểm và bầu không khí căng thẳng đáng sợ là những đặc điểm nổi bật khiến cho câu chuyện luôn tạo được một hấp lực mạnh mẽ. Một số độc giả sau khi đọc truyện của bà đã phát biểu: “Cảm ơn Mary đã khiến tôi nhiều lần toát mồ hôi trong những đêm thức trắng đọc truyện của bà. Một khi đã bước vào thế giới đó thì bạn không thể rời xa được, chừng nào bạn chưa đọc xong. A Cry in the night (Tiếng thét trong đêm), The cradle will fall (Lộ diện), No place like home (Không đâu bằng ở nhà mình) đều là những tiểu thuyết tuyệt vời”. Một độc giả khác nhận xét: “Điều mà tôi thích ở nhà văn này là bà biết cách tạo ra những tình tiết lôi cuốn gây cảm giác hồi hộp. Thêm vào đó là phong cách viết dễ đọc nên những câu chuyện của bà hết sức gần gũi với đời thường”.   *** Mary Higgins, sinh năm 1927 ở Mỹ, đã làm nhiều công việc khác nhau trước khi đến được với nghề viết văn. Cha mất sớm, hoàn cảnh khó khăn nên ngay khi học xong trung học, Mary phải lo giúp gia đình bằng cách nhanh chóng tìm một công việc. Bà đã làm thư ký rồi làm tiếp viên hàng không trước khi lập gia đình với Warren Clark. Lấy chồng một thời gian sau, Mary mới có thể theo đuổi sự nghiệp văn chương bằng nghề viết báo. Cuộc sống tưởng chừng đang yên ổn thì người chồng đột ngột qua đời trong một cơn đau tim, để lại một mình Mary với năm đứa con nhỏ. Người phụ nữ này không hề nhụt chí mà còn nỗ lực làm việc hơn bao giờ hết. Bà lao vào viết sách và lấy tên là Mary Higgins Clark. Tác phẩm đầu tiên, Tiểu sử George Washington, ra đời khi bà đã 40 tuổi, không đem lại mấy thành công. Mary quyết định chuyển sang thể loại truyện trinh thám. Cuốn tiểu thuyết Where are the children (Con của chúng ta đâu) xuất bản năm 1975, lập tức trở thành sách best-seller. Sau thành công của tác phẩm này, Mary bắt đầu gặt hái những thắng lợi lớn. Những phụ nữ giàu có, quyến rũ, những tội ác bí hiểm và bầu không khí căng thẳng đáng sợ là những đặc điểm nổi bật khiến cho câu chuyện luôn tạo được một hấp lực mạnh mẽ. Một số độc giả sau khi đọc truyện của bà đã phát biểu: “Cảm ơn Mary đã khiến tôi nhiều lần toát mồ hôi trong những đêm thức trắng đọc truyện của bà. Một khi đã bước vào thế giới đó thì bạn không thể rời xa được, chừng nào bạn chưa đọc xong. A Cry in the night (Tiếng thét trong đêm), The cradle will fall (Lộ diện), No place like home (Không đâu bằng ở nhà mình) đều là những tiểu thuyết tuyệt vời”. Một độc giả khác nhận xét: “Điều mà tôi thích ở nhà văn này là bà biết cách tạo ra những tình tiết lôi cuốn gây cảm giác hồi hộp. Thêm vào đó là phong cách viết dễ đọc nên những câu chuyện của bà hết sức gần gũi với đời thường”. Một con người không mệt mỏi Ba mươi năm viết truyện với 40 tiểu thuyết, trong đó nhiều tác phẩm đã được dựng phim, Mary Higgins Clark đã tạo cho mình một sự nghiệp đáng tự hào với nhiều giải thưởng và vinh quang. Bà đã nhận được nhiều giải của các cơ quan văn hóa, lịch sử xã hội, giáo dục Mỹ, Pháp, Ireland; đã từng làm Chủ tịch Hội các nhà văn trinh thám Mỹ năm 1987; Chủ trì Hội nghị Tội ác quốc tế tại New York năm 1988 và vinh dự đón nhận tước hiệu Hiệp sĩ Văn học và Nghệ thuật của Pháp vào năm 2000. Nhưng giải thưởng có ý nghĩa hơn cả có lẽ vẫn là sự mến mộ mà độc giả dành cho bà. Hầu hết các tác phẩm của Mary đều trở thành sách best-seller. Đối với nhiều người, truyện trinh thám chỉ được đọc để giết thời gian tại các bến xe nên đa phần được in khổ nhỏ bỏ túi, nhưng tại Mỹ, trên 50 triệu cuốn sách khổ lớn của bà đã được bán ra. Còn tại Pháp, con số này trên 20 triệu. Ở VN, độc giả có thể dễ dàng tìm được các tác phẩm của bà tại bất kỳ nhà sách nào trên toàn quốc. Những cuốn sách Chiếc nhẫn oan gia, Xác chết ngoài biển khơi, Rình rập, Lộ diện, Tiếng thét trong đêm đều đã trở nên quen thuộc đối với những người thích thể loại trinh thám. Năm 1999, một cuộc thăm dò đã đưa Mary Higgins Clark lên vị trí thứ hai thế giới trong số các nhà văn được nhiều độc giả trên 18 tuổi ưa thích. Một tâm hồn trẻ trung, hiện đại Đã 77 tuổi nhưng Mary vẫn không ngừng tạo ra những món ăn tinh thần hợp khẩu vị bạn đọc trẻ và chúng vẫn luôn mới mẻ, cuốn hút. Cuốn tiểu thuyết mới đây nhất Two little girls in blue, 2006 (Hai cô bé trong đại dương) đã chứng tỏ điều đó. Câu chuyện kể về gia đình Frawley, trong buổi tối sinh nhật của hai con gái sinh đôi 3 tuổi là Kelly và Kathy, ông bà Frawley đã bị cảnh sát hỏi thăm, chị giữ trẻ bị ngất đi, còn hai cô bé mất tích. Sau khi giao 8 triệu USD tiền chuộc theo yêu cầu của bọn bắt cóc, ông bà Flawley chỉ nhận lại được Kelly trong một chiếc xe hơi bỏ không. Còn số phận Kathy thế nào? Mọi người dường như tuyệt vọng, nhưng Kelly bằng linh cảm vẫn biết người chị song sinh của mình còn sống. Tình huống gay cấn trong câu chuyện khiến người đọc bị cuốn vào số phận các nhân vật cho đến trang cuối cùng. Năm 2007, Mary sẽ cho ra đời tác phẩm mới mang tên Santa Cruise mà bà viết chung với con gái mình là Carol Higgins Clark. Với sự nghiệp thành công và con cái thành đạt, Mary tự nhận mình là người hạnh phúc. Hiện nay, bà đang sống cùng với người chồng thứ hai, John Coheeney, tại Manhattan, New York. Bất chấp tuổi tác, những ý tưởng trong bà vẫn rất dồi dào và bà vẫn tiếp tục viết những câu chuyện ly kỳ, bí hiểm, khiến người đọc luôn phải trông ngóng, mong đợi những điều bất ngờ bà mang tới. Với 200 triệu cuốn sách bán ra trên thị trường, bà là một trong những nhà văn có số lượng độc giả nhiều nhất hiện nay. Với một sự nghiệp sáng tác đồ sộ, bà đã chứng tỏ vị trí số một thế giới trong thể loại truyện trinh thám. Các tác phẩm đã được xuất bản ở Việt Nam:   1. Where Are The Children? (1975) có 3 bản dịch + Ngôi nhà cạm bẫy + Rình rập + Truy tìm nhân chứng 2. A Stranger Is Watching (1977) / Cáo sa mạc 3. The cradle will fall (1980) / Lộ diện 4. A Cry in the Night (1982) / Tiếng hét trong đêm khuya 5. All around the town (1992) có 3 bản dịch + Một quá khứ kinh hoàng + Thành phố buồn + Vĩnh biệt thơ ngây 6. Remember Me (1994) có 2 bản dịch + Bí ẩn trong tòa nhà cổ + Xác chết ngoài biển khơi 7. Let Me Call You Sweetheart (1995) / Xin cho tôi gọi cô là em yêu 8. The Lottery Winner (1996) / Chuộc chồng 9. Pretend You Don't See Her (1997) có 2 bản dịch + Trang nhật ký đẫm máu + Nhân chứng bị săn đuổi 10. You belong to me (1998) / Chiếc nhẫn oan gia 11. Where Are You Now? (2008) / Giờ này anh ở đâu? *** Nếu tâm trí không bị cuốn hút bởi vụ kiện mà nàng vừa thắng thì hẳn Katie không ôm cua nhanh đến thế. Nhưng lúc đó, nàng đang trong tâm trạng thích thú với phán quyết của tòa. Phải gay go lắm nàng mới thắng kiện. Điều đó càng khẳng định Roy O’Connor là một trong những luật sư sáng giá nhất của New Jersey. Trong khi xét xử, tòa đã không kể đến những lời thú tội của bị cáo và điều đó khiến sự buộc tội càng trở nên khó khăn. Nhưng cuối cùng Katie đã thành công trong việc làm cho ban hội thẩm hiểu rằng Teddy Cppeland là người đã sát hại đã man cô Abigail Rawling trong một vụ cướp có vũ trang. Có mặt tại phiên tòa, Margaret - chị của Rawling, đã bước đến bên Katie - sau khi tòa tuyên án và nói: "Thưa cô Katie De Maio, thật không thể ngờ nổi. Trông cô có dáng vẻ của một sinh viên, tôi đã nghĩ rằng cô chẳng thể làm gì được, vậy mà mỗi lần lên tiếng là cô mang lại cho phiên tòa những chứng cứ hữu ích. Cô đã giải thích cho mọi người biết về những gì mà người đàn ông đó đã làm hại Abby. Nhưng cuối cùng sự việc sẽ ra sao ?" Katie đáp: "Với tư pháp lý lịch đó, hẳn hắn ta sẽ phải sống phần đời còn lại trong tù thôi". "Cầu Trời lắng nghe lời cô" - Mrgaret Rawling nói. Bà kín đáo thấm những giọt lệ trên đôi mắt nhạt màu vì tuổi tác rồi nói tiếp: "Tôi rất buồn khi phải mất Abby. Chúng tôi chỉ có hai chị em. Tôi bị dằn vặt bởi cái ý nghĩ rằng, hẳn em tôi đã phải khiếp sợ lắm. Thật là tồi tệ nếu thủ phạm thoát khỏi bị trừng phạt". "Và hắn đã không thoát khỏi", - Katie thầm nghĩ. Mãi nhớ lại những lời nói của người chị nạn nhân nên nàng không để ý đến con đường phía trước và nhấn thêm ga. Chiếc xe đột nhiên lao nhanh khi rẽ ở khúc quanh. Và trượt dài trên mặt đường đóng băng. "Ồ !... không". - Katie thốt lên và bám lấy vô lăng. Con đường nhỏ thật âm u. Chiếc xe trượt nhanh ra khỏi lộ và quay ngược đầu. Katie trông thấy những ánh đèn xe từ xa đang tiến đến. Nàng cố hướng xe theo chiều trượt, nhưng không thể làm chủ được chiếc xe đang lao lên lề đường phủ băng, tựa một vận động viên trượt tuyết chuẩn bị nhảy. Bốn bánh chỏng chơ, chiếc xe nằm trên lề đường một lúc mới rơi xuống sườn dốc, về phía cánh đồng có trồng nhiều cây. Có cái bóng âm u sừng sững phía trước, đó là một cây xanh cổ thụ. Chiếc xe va chạm vào thân cây cùng với sự rung chuyển thật mạnh. Katie bị đẩy mạnh vào vô lăng rồi hất ngược ra sau. Nàng đưa hai cánh tay ra phía trước, cố che khuôn mặt khỏi những mảnh kính xe đang tung tóe. Nàng thấy đau buốt nơi hai cổ tay và đầu gối. Đèn xe và những đèn hiệu nơi biển kiểm soát đều tắt ngúm. Tất cả tăm tối tựa như những tấm màn nhung phủ xuống. Nàng nghe có tiếng còi hụ vọng đến từ nơi xa. Rồi có tiếng cửa xe mở ra, một làn không khí lạnh ập vào, và nàng nghe có tiếng: "Chúa tôi, Katie De Maio đây mà !" Nàng thấy cái giọng nói đó khá quen. Chắc là Tom Goughlin, một nhân viên hình sự còn trẻ. Tuần qua, anh đã tham dự phiên tòa với tư cách là nhân chứng. Cũng lại giọng nói đó: "Cô Katie đã bất tỉnh". Katie muốn phủ nhận điều đó, nhưng nàng không thốt được nên lời. Nàng cũng không thể mở mắt. Lại giọng nói cất lên: "Cánh tay cô ấy đẫm máu. Hình như một động mạch đã bị đứt". Có ai đó nắm lấy cánh tay nàng và dùng một cái gì đó để siết chặt nó. Một giọng nói khác cất lên: "Tom à, có lẽ cô ấy bị chấn thương. Bệnh viện Westlake gần đây. Cậu hãy ở đó với cô ấy, để tôi đi gọi xe cứu thương". Katie thấy mình bềnh bồng, bềnh bồng. Nàng thầm nghĩ, "Tôi vẫn khỏe, chỉ có điều tôi không thể đến bên các bạn được". Có những bàn tay nâng nàng lên và đặt xuống trên cái cáng. Rồi một cái chăn được phủ lên mình nàng. Tuyết tan làm cho nàng cảm thấy ran rát ở mặt. Nàng được khiêng đi. Có tiếng xe khởi động. Xe cứu thương. Những cánh cửa xe mở ra, đóng lại. Katie thầm nghĩ, phải chi mình có thể nói cho họ hiểu. Nàng muốn nói, "Tôi đang nghe các bạn nói đây. Tôi nào có bất tỉnh". Tom đọc lớn tên nàng: "Kathleen De Maio, trú tại Abbington. Cô ấy là phó biện lý. Không, cô ấy chưa tái giá. Cô là vợ của cố thẩm phán Demaio". "Vợ của cố thẩm phán John De Maio". Katie cảm thấy cô đơn tột cùng. Nàng mở to mắt và sau đó là tiếng nói: "Cô Katie đã hồi tỉnh. Thưa cô Katie, cô bao nhiêu tuổi ?" Một câu hỏi khá bài bản. Cuối cùng, nàng có thể nói: "Hai mươi tám tuổi" Một ai đó tháo cái garô mà Tom đã buộc quanh cánh tay nàng. Nàng cố nén cơn đau để khỏi cau mặt khi nhân viên cấp cứu khâu vết thương. "Phải chụp X quang". - Bác sĩ trực phòng cấp cứu nói "Cô may mắn đấy, cô Katie à. Chỉ bị bầm một vài nơi chứ không gãy xương. Cô không nên lo sợ. Mọi việc sẽ ổn thôi". "Chỉ là..." Katie cắn môi. Nàng từ từ định thần và cố trấn tỉnh để không bị rơi vào nỗi sợ hãi vì phải nhập viện. Tom hỏi: "'Cô có muốn tôi báo tin cho chị cô không ? Như vậy tối nay sẽ có người trực bên cô". "Thôi, đừng. Molly vừa bị cảm cúm. Cả nhà đều bị cả". - Giọng nàng thật nhỏ khiến Tom phải cúi người để có thể nghe được. Tom nói: "Cô hãy yên tâm, mọi chuyện rồi sẽ qua. Tôi sẽ đưa xe cô vào trạm sửa chữa". Chiếc giường lăn được đẩy vào góc phòng, ngăn cách bởi một tấm màn. Máu nhỏ từng giọt theo cái ống nhỏ gắn nơi cánh tay phải của nàng. Đầu óc nàng dịu dần. Nàng thấy đau buốt ở cánh tay trái và hai đầu gối. Nàng thấy đau toàn thân. Nàng đang trong bệnh viện chỉ một mình thôi. Cô y tá vuốt tóc và sờ trán nàng rồi nói: "Thưa cô Katie, mọi việc đều ổn cả rồi. Rồi cô sẽ chóng bình phục thôi. Tại sao cô khóc chứ ?" "Tôi đâu có khóc". - Tuy nói vậy nhưng Katie không thể ngăn được nước mắt. Giường của nàng được đẩy vào một căn phòng. Cô y tá trao cho nàng một viên thuốc và cốc nước rồi nói: "Thuốc này sẽ giúp cô được yên ổn". Katie biết chắc đó là thuốc ngủ. Nàng chẳng muốn uống chút nào bởi thứ thuốc đó luôn làm nàng gặp phải cũng chỉ những cơn ác mộng đó. Nhưng nàng thấy tốt hơn là không nên nói ra làm gì. Cô y tá tắt đèn. Đôi chân cô di động thật êm khi cô rời phòng. Căn phòng lạnh ngắt. Khăn trải giường lạnh và ráp. Katie thầm nghĩ, phải chăng những khăn trải giường ở bệnh viện đều lạnh như thế này ? Rồi nàng chìm vào giấc ngủ dẫu biết rằng mình sẽ không thoát khỏi mộng dữ. Nhưng lần này cơn ác mộng lại có một vẻ khác hẳn. Katie thấy mình đang chơi trò tụt dốc. Xe trượt càng lúc càng lên cao và sườn dốc càng lúc càng thẳng đứng. Rồi nàng không còn điều khiển được nữa. Nàng cố lèo lái nhưng xe vẫn cứ lệch hướng, trật bánh và rơi xuống. Trước khi thấy mình bị bẹp dí trên mặt đất, Katie đã giật mình thức giấc, run lẩy bẩy. Tuyết tan rơi lã chã trên ô kính. Katie mệt mỏi gượng dậy. Cánh cửa sổ chưa được kéo xuống hẳn nên tấm sáo lay động và gió lùa vào phòng. Katie quyết định sập hẳn cửa và kéo tấm sáo lên như thế có thể nàng sẽ dễ ngủ hơn. Sáng mai, nàng sẽ về nhà. Nàng quá sợ bệnh viện rồi. Nàng lảo đảo đi về phía cửa sổ. Bộ áo ngủ của bệnh viện ngắn củn cởn khiến đôi chân nàng lạnh run. Đã vậy, tuyết tan càng làm cho cái lạnh dữ dội hơn. Giờ đây, chẳng còn tuyết nữa mà là mưa. Katie tựa người vào mép cửa và nhìn ra ngoài. Mời các bạn đón đọc Lộ Diện của tác giả Mary Higgins Clark & Lê Thành (dịch).
Xác Chết Ngoài Biển Khơi
Vào khoảng chín giờ tối, cơn bão bắt đầu hoành hành, một cơn cuồng phong xô đẩy các ngọn sóng tấn công vào bờ biển phía đông Cap Cod. "Lần này có vẻ nghiêm trọng đây" - Menley tự nhủ khi khom nguời ra để đóng cửa sổ lại. "Chuyện này có thể hấp dẫn lắm" — chị nghĩ để tự trấn an mình. Tất cả phi trường vùng Cap đều bị đóng cửa nên Adam phải mướn một chiếc xe để trở về từ Boston. Có lẽ anh ấy sắp về tới! Chị đã chuẩn bị khá nhiều thức ăn.Chị mua đèn cầy để phòng hờ cúp điện, nếu quả thật chuyện này xảy ra, nội việc phải ở một mình trong ngôi nhà được thắp sáng chỉ với ngọn đèn cầy cũng đã khủng khiếp lắm rồi. Chị mở radio, xoay nút và dò được đài Chatham đang phát các bản nhạc của thập niên 40. Chị nhướng đôi mày vì ngạc nhiên khi nghe ban nhạc Benny Goodman bắt đầu hòa tấu bản "Tưởng Nhớ". "Thật là một bản nhạc rất phù hợp với hoàn cảnh nếu bạn đang ở trong ngôi nhà mang tên "Tưởng Nhớ"" - chị nghĩ. Cố nén ý muốn xoay nút tìm đài khác, chị cầm lấy dao xắt mấy trái cà chua thành lát để trộn xà lách. Qua điện thoại, Adam có nói là anh không có thời giờ để ăn tối. Tiếng gầm thét dữ dội của các cơn gió đập vào ngôi nhà đã bắt đầu trở lại. Nằm chơi vơi trên ngọn đồi trước đại dương đang cuồng nộ, ngôi nhà đột nhiên như đã biến thành một máy thổi gió phát ra lời than dài vô tận như tiếng từ một nơi rất xa đang gào thét "Tưởng Nhớ, Tưởng Nhớ." Menley cứng người. Chị cố trấn tĩnh lại. Adam sẽ về trong giây lát nữa thôi, rồi họ sẽ uống một ly rượu trong khi chị chuẩn bị món bột. Một tiếng động làm chị giật mình. "Cái gì thế? Một ngọn gió lùa đã mở tung cánh cửa rồi phải không? Đang xảy ra một việc gì đó không bình thường thì phải." Chị liền tắt radio. Con bé con! Có phải Hannah đang khóc không? Nghe như là một tiếng hét hay một tiếng động bị tắt nghẽn. Menley bỏ chạy về phía bàn vẽ, chụp lấy máy liên lạc nội bộ và đưa lên tai mình. Một tiếng nấc nhỏ vang lên rồi im bặt. Con bé con đang nghẹt thở! Chị phóng ra khỏi nhà bếp, chạy về phía cầu thang. Đế vòm hình rẽ quạt ngay trên cánh cửa ra vào, chiếu rọi nhiều vết mờ xám và tím trên các miếng lati rộng bản của sàn nhà. Chân của chị gần như không chạm đất khi chị chạy lên tầng một và dọc theo hành lang. Trong nháy mắt chị đã tới phòng của con bé nhưng trong đó không một tiếng động nào được phát ra từ chiếc giường nhỏ. "Hannah! Hannah!" - chị hét to. Hannah đang nằm mặt úp xuống, hai tay dang thẳng ra, bất động. Run rẩy, Menley cúi xuống, lật ngửa con bé lên và ôm nó vào lòng, mở to đôi mắt vì kinh hãi. Cái đầu của con búp bên cũ bằng sứ đang nằm trong bàn tay chị. Cái khuôn mặt sơn của nó đang nhìn chị. Menley hét thật lớn nhưng không một âm nào được phát ra. Ngay lúc đó, một giọng nói thì thầm từ phía sau lưng chị "Tôi rất tiếc Menley ạ, mọi việc đã kết thúc rồi". *** Mary Higgins, sinh năm 1927 ở Mỹ, đã làm nhiều công việc khác nhau trước khi đến được với nghề viết văn. Cha mất sớm, hoàn cảnh khó khăn nên ngay khi học xong trung học, Mary phải lo giúp gia đình bằng cách nhanh chóng tìm một công việc. Bà đã làm thư ký rồi làm tiếp viên hàng không trước khi lập gia đình với Warren Clark. Lấy chồng một thời gian sau, Mary mới có thể theo đuổi sự nghiệp văn chương bằng nghề viết báo. Cuộc sống tưởng chừng đang yên ổn thì người chồng đột ngột qua đời trong một cơn đau tim, để lại một mình Mary với năm đứa con nhỏ. Người phụ nữ này không hề nhụt chí mà còn nỗ lực làm việc hơn bao giờ hết. Bà lao vào viết sách và lấy tên là Mary Higgins Clark. Tác phẩm đầu tiên, Tiểu sử George Washington, ra đời khi bà đã 40 tuổi, không đem lại mấy thành công. Mary quyết định chuyển sang thể loại truyện trinh thám. Cuốn tiểu thuyết Where are the children (Con của chúng ta đâu) xuất bản năm 1975, lập tức trở thành sách best-seller. Sau thành công của tác phẩm này, Mary bắt đầu gặt hái những thắng lợi lớn. Những phụ nữ giàu có, quyến rũ, những tội ác bí hiểm và bầu không khí căng thẳng đáng sợ là những đặc điểm nổi bật khiến cho câu chuyện luôn tạo được một hấp lực mạnh mẽ. Một số độc giả sau khi đọc truyện của bà đã phát biểu: “Cảm ơn Mary đã khiến tôi nhiều lần toát mồ hôi trong những đêm thức trắng đọc truyện của bà. Một khi đã bước vào thế giới đó thì bạn không thể rời xa được, chừng nào bạn chưa đọc xong. A Cry in the night (Tiếng thét trong đêm), The cradle will fall (Lộ diện), No place like home (Không đâu bằng ở nhà mình) đều là những tiểu thuyết tuyệt vời”. Một độc giả khác nhận xét: “Điều mà tôi thích ở nhà văn này là bà biết cách tạo ra những tình tiết lôi cuốn gây cảm giác hồi hộp. Thêm vào đó là phong cách viết dễ đọc nên những câu chuyện của bà hết sức gần gũi với đời thường”. Một con người không mệt mỏi Ba mươi năm viết truyện với 40 tiểu thuyết, trong đó nhiều tác phẩm đã được dựng phim, Mary Higgins Clark đã tạo cho mình một sự nghiệp đáng tự hào với nhiều giải thưởng và vinh quang. Bà đã nhận được nhiều giải của các cơ quan văn hóa, lịch sử xã hội, giáo dục Mỹ, Pháp, Ireland; đã từng làm Chủ tịch Hội các nhà văn trinh thám Mỹ năm 1987; Chủ trì Hội nghị Tội ác quốc tế tại New York năm 1988 và vinh dự đón nhận tước hiệu Hiệp sĩ Văn học và Nghệ thuật của Pháp vào năm 2000. Nhưng giải thưởng có ý nghĩa hơn cả có lẽ vẫn là sự mến mộ mà độc giả dành cho bà. Hầu hết các tác phẩm của Mary đều trở thành sách best-seller. Đối với nhiều người, truyện trinh thám chỉ được đọc để giết thời gian tại các bến xe nên đa phần được in khổ nhỏ bỏ túi, nhưng tại Mỹ, trên 50 triệu cuốn sách khổ lớn của bà đã được bán ra. Còn tại Pháp, con số này trên 20 triệu. Ở VN, độc giả có thể dễ dàng tìm được các tác phẩm của bà tại bất kỳ nhà sách nào trên toàn quốc. Những cuốn sách Chiếc nhẫn oan gia, Xác chết ngoài biển khơi, Rình rập, Lộ diện, Tiếng thét trong đêm đều đã trở nên quen thuộc đối với những người thích thể loại trinh thám. Năm 1999, một cuộc thăm dò đã đưa Mary Higgins Clark lên vị trí thứ hai thế giới trong số các nhà văn được nhiều độc giả trên 18 tuổi ưa thích. Một tâm hồn trẻ trung, hiện đại Đã 77 tuổi nhưng Mary vẫn không ngừng tạo ra những món ăn tinh thần hợp khẩu vị bạn đọc trẻ và chúng vẫn luôn mới mẻ, cuốn hút. Cuốn tiểu thuyết mới đây nhất Two little girls in blue, 2006 (Hai cô bé trong đại dương) đã chứng tỏ điều đó. Câu chuyện kể về gia đình Frawley, trong buổi tối sinh nhật của hai con gái sinh đôi 3 tuổi là Kelly và Kathy, ông bà Frawley đã bị cảnh sát hỏi thăm, chị giữ trẻ bị ngất đi, còn hai cô bé mất tích. Sau khi giao 8 triệu USD tiền chuộc theo yêu cầu của bọn bắt cóc, ông bà Flawley chỉ nhận lại được Kelly trong một chiếc xe hơi bỏ không. Còn số phận Kathy thế nào? Mọi người dường như tuyệt vọng, nhưng Kelly bằng linh cảm vẫn biết người chị song sinh của mình còn sống. Tình huống gay cấn trong câu chuyện khiến người đọc bị cuốn vào số phận các nhân vật cho đến trang cuối cùng. Năm 2007, Mary sẽ cho ra đời tác phẩm mới mang tên Santa Cruise mà bà viết chung với con gái mình là Carol Higgins Clark. Với sự nghiệp thành công và con cái thành đạt, Mary tự nhận mình là người hạnh phúc. Hiện nay, bà đang sống cùng với người chồng thứ hai, John Coheeney, tại Manhattan, New York. Bất chấp tuổi tác, những ý tưởng trong bà vẫn rất dồi dào và bà vẫn tiếp tục viết những câu chuyện ly kỳ, bí hiểm, khiến người đọc luôn phải trông ngóng, mong đợi những điều bất ngờ bà mang tới. Với 200 triệu cuốn sách bán ra trên thị trường, bà là một trong những nhà văn có số lượng độc giả nhiều nhất hiện nay. Với một sự nghiệp sáng tác đồ sộ, bà đã chứng tỏ vị trí số một thế giới trong thể loại truyện trinh thám. Các tác phẩm đã được xuất bản ở Việt Nam:   1. Where Are The Children? (1975) có 3 bản dịch + Ngôi nhà cạm bẫy + Rình rập + Truy tìm nhân chứng 2. A Stranger Is Watching (1977) / Cáo sa mạc 3. The cradle will fall (1980) / Lộ diện 4. A Cry in the Night (1982) / Tiếng hét trong đêm khuya 5. All around the town (1992) có 3 bản dịch + Một quá khứ kinh hoàng + Thành phố buồn + Vĩnh biệt thơ ngây 6. Remember Me (1994) có 2 bản dịch + Bí ẩn trong tòa nhà cổ + Xác chết ngoài biển khơi 7. Let Me Call You Sweetheart (1995) / Xin cho tôi gọi cô là em yêu 8. The Lottery Winner (1996) / Chuộc chồng 9. Pretend You Don't See Her (1997) có 2 bản dịch + Trang nhật ký đẫm máu + Nhân chứng bị săn đuổi 10. You belong to me (1998) / Chiếc nhẫn oan gia 11. Where Are You Now? (2008) / Giờ này anh ở đâu? Mời các bạn đón đọc Xác Chết Ngoài Biển Khơi của tác giả Mary Higgins Clark & Võ Liên Phương (dịch).