Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Người Hùng Ý Tưởng

KHỞI NGHIỆP CÔNG NGHỆ – CẦN NHANH NHƯNG KHÔNG VỘI Thạc sĩ Thạch Lê Anh Nhà sáng lập, Chủ nhiệm đề án VietNam Silicon Valley (VSV) Thời gian gần đây, các start-up về công nghệ đang trở thành một phong trào đáng chú ý và thu hút được giới đầu tư trong và ngoài nước. Cộng đồng Khởi nghiệp công nghệ tại Việt Nam dồn dập đón nhận những thông tin đầy hứng khởi nhưng vẫn còn đó nhiều khó khăn cần phải vượt qua. Bài toán đặt ra cho họ là làm sao để hòa mình vào dòng chảy khởi nghiệp của thế giới đủ nhanh, để không bị tụt hậu đồng thời tạo những dấu ấn riêng mang tên Việt Nam trong khi có đến 90% doanh nghiệp Việt Nam là doanh nghiệp nhỏ và vừa. Bí quyết duy nhất là HỌC HỎI và KHÔNG NGỪNG RÚT KINH NGHIỆM. Nói về vấn đề này, chúng ta có thể học hỏi được gì từ Thung lũng Silicon – trung tâm công nghệ cao toàn cầu, cái nôi của đổi mới sáng tạo và truyền thông xã hội, từ lâu đã trở thành thánh địa đối với những người ôm mộng thay đổi thế giới, đồng thời là hình mẫu trung tâm khởi nghiệp để các quốc gia khác học tập theo? Với mong muốn mang đến cho độc giả trong nước một góc nhìn độc đáo, chân thực và thực tế nhất có thể về muôn mặt đời sống ở Thung lũng Silicon, để thấu hiểu và kêu gọi thành công vốn đầu tư từ Thung lũng cho start-up của mình, hay để rút ra những bài học hữu ích cho phát triển doanh nghiệp, Alpha Books và VSV đã tuyển chọn và xin trân trọng giới thiệu bộ sách “Khởi nghiệp Công nghệ” gồm ba cuốn: Giải mã bí ẩn Thung lũng Silicon: Cuốn sách cung cấp cái nhìn của người trong cuộc, vén tấm màn giải ảo những điều huyễn hoặc về Thung lũng Silicon, bao gồm cả những khía cạnh vi tế mà chỉ những người từng lăn lộn ở đây mới nhìn ra. Cuốn sách bao gồm hàng chục cuộc phỏng vấn với các doanh nhân, chuyên gia, nhà đầu tư mạo hiểm – giúp chúng ta hiểu rõ hơn về những cách làm tốt nhất nhằm xây dựng và phát triển doanh nghiệp, cùng những nguyên tắc cần xây dựng và/hoặc phá bỏ để tạo đà bứt phá, đưa doanh nghiệp vươn tầm quốc tế. Nếu không thể đến Thung lũng Silicon để mục sở thị không khí khởi nghiệp sôi sục ở đây, bạn hoàn toàn có thể đọc cuốn sách này, để có cái nhìn sơ qua về mảnh đất được mệnh danh là thánh địa khởi nghiệp này. Máu bẩn: Cuốn sách viết về ảo tưởng, tham vọng, bí mật và sự dối trá trong vụ lừa đảo lớn nhất Thung lũng Silicon: Lời cảnh tỉnh cho cả các doanh nhân đầy hoài bão và lý tưởng lẫn các nhà đầu tư lão làng. Cuốn sách viết về Theranos, một công ty khởi nghiệp từng được cả thế giới công nghệ ngưỡng mộ với công bố về một phát minh mang tính đột phá, hứa hẹn làm thay đổi cả bộ mặt ngành y tế. Elizabeth Holmes, nhà sáng lập tuổi trẻ tài cao của công ty này, từng được ví là Steve Jobs trong giới nữ doanh nhân, là người từng góp mặt trong danh sách các tỷ phú trẻ nhất nước Mỹ. Nhưng đằng sau tất cả ánh hào quang đó là tham vọng, ảo tưởng, và cả một lời nói dối vĩ đại. Máu bẩn kể lại hành trình của Theranos từ đỉnh cao danh vọng trở thành cú sốc điếng người cho Thung lũng Silicon nói riêng và giới công nghệ, đầu tư, khởi nghiệp thế giới nói chung. Paul Allen – Người hùng ý tưởng: Cuốn sách sẽ là động lực thúc đẩy những doanh nhân khởi nghiệp kiên trì với con đường mình đã chọn. Vẫn biết là chông gai và tỷ lệ thành công thấp, nhưng nếu đam mê, thành công sẽ luôn mỉm cười với họ như cuốn sách này chỉ ra. Cuốn sách chia sẻ về hành trình khởi nghiệp của Paul Allen, nhà đồng sáng lập đế chế Microsoft từ những năm 20 tuổi, một trong những người có tầm ảnh hưởng nhất thế giới do tạp chí Timebình chọn năm 2007 và 2008 dù phát hiện mình bị ung thư. Đây cũng là động lực để ông khẩn trương bắt tay vào viết cuốn hồi ký nhằm chia sẻ những chuyến phiêu lưu và hoài bão trong đời mình. Qua cuốn hồi ký, người đọc sẽ có được cái nhìn sâu sắc hơn về Bill Gates, người đồng sự, đối tác và cũng là người anh em thân thiết của Allen. Ông đã thể hiện tầm nhìn vượt thời đại trong lĩnh vực công nghệ, khát khao được cống hiến những điều tốt đẹp cho đời cũng như những trăn trở cùng lời khuyên dành cho thế hệ tương lai. Bộ sách xứng đáng là những ấn phẩm “nên đọc” dành cho giới start-up nói chung và những người đang có ý định khởi nghiệp, phần nào có thể giúp họ gia tăng tỷ lệ thành công hơn và quan trọng là có một hành trình khởi nghiệp bớt chông gai hơn. Trân trọng giới thiệu! *** Khi chương trình Saturday Night Live ăn mừng kỷ niệm 20 năm tại New York, Dan Aykroyd đã dẫn tôi xuống bên dưới sân khấu và hồi tưởng lại câu chuyện khởi đầu ngày ấy. “Tôi chỉ là một nhà văn,” ông nói, “nhưng rồi họ yêu cầu tôi diễn một trong những tiết mục hài đầu tiên,” trong vai một kỹ thuật viên hệ thống an ninh gia đình, gã này đột nhập vào một ngôi nhà để chứng minh với vợ chồng chủ nhà đang kinh hãi – John Belushi và Gilda Radner – rằng họ cần dịch vụ của gã. Dan thừa nhận lúc đó ông chần chừ, “nhưng tiết mục đó được ủng hộ nhiệt liệt. Khi rời sân khấu, tôi biết mình đã tìm được cái tôi muốn làm.” Tôi hiểu rõ cảm giác đó. Năm 1975, trong hai tháng ráo riết sáng tạo ra ngôn ngữ BASIC Altair, chính tôi cũng tìm được con đường của mình. Về sau, khi IBM tung ra máy PC với hệ điều hành của chúng tôi, tôi ngỡ ngàng nhận ra rằng những mã lệnh mà tôi giúp soạn thảo đã hoàn toàn thay đổi cách thức mọi người làm việc, giải trí và giao tiếp. Có được năng lực ảnh hưởng như thế sẽ mãi mãi thay đổi cảm nhận về mục tiêu sống của bạn. Đó là một cảm giác mà bạn luôn muốn tìm lại. Khi lâm trọng bệnh, tôi thấy hối hận vì đã sống quá hẹp. Nhưng chẳng bao lâu sau khi hồi phục và chu du khắp thế giới, tôi lại thấy bất an. Tôi nghiệm ra rằng điều khiến tôi hoài niệm nhất chính là sáng tạo. Thế là tôi quay lại công việc. Nếu đời tôi có điều gì trớ trêu, thì đó là thời gian ở Microsoft, cuộc sống của tôi lại tẻ nhạt đến lạ lùng. Lúc bé, tôi đắm chìm trong cơ man nào là hỏa tiễn, rô-bốt, âm nhạc và hóa học. Là người có gu đọc sách đa dạng, từ truyện phi công đến nhà thám hiểm đều khiến tôi thích thú. Tôi chịu nhiều ảnh hưởng từ Thomas Edison và Alexander Graham Bell. Trí tò mò của tôi là vô tận. Ấy vậy mà suốt chín năm ròng rã, tôi chỉ có một mục tiêu duy nhất là đưa Microsoft trở thành người dẫn đầu cuộc cách mạng máy tính cá nhân. Ước mơ này đã trở thành hiện thực, vượt xa điều tôi hy vọng hay mong đợi. Nhưng những đam mê ngày xưa vẫn canh cánh trong tôi, dẫu tạm phai mờ nhưng chưa từng bị lãng quên. Thỉnh thoảng, chúng len lỏi vào những lần chơi nhạc Hendrix lúc ba giờ sáng hay khi tôi trốn công việc lập trình cuối tuần để đi xem một vụ phóng tàu vũ trụ lịch sử. Sau khi rời khỏi Microsoft, của cải mà tôi đã tạo dựng – và sự phát triển vượt bậc của công ty sau này – cho phép tôi tiếp tục theo đuổi những đam mê còn dang dở. Thỉnh thoảng, tôi ôm đồm quá nhiều. Song, những lựa chọn đầu tư của tôi không phải tùy hứng. Hầu hết đều là những hạt giống được tôi ấp ủ đã lâu, từ ngày còn bé. Suốt 27 năm qua, tôi đã có thể thực hiện những điều mà ngày xưa chỉ dám ước ao mơ mộng. Giờ đây, tôi đang sống nửa đời còn lại thời kỳ hậu Microsoft. Thành tựu của chúng tôi ở đó sẽ mãi mãi là niềm kiêu hãnh. Song màn hai của tôi, về cả phạm vi và tính đa dạng, đều phù hợp hơn với bản chất của tôi. Ở ĐỜI, có người phấn đấu vì danh vọng, có người vì tiền tài, có người vì mục tiêu xã hội cao cả. Xuất phát điểm của tôi lại khác, nó đến từ tình yêu với những ý tưởng và niềm thôi thúc biến chúng thành hiện thực để xem chúng sẽ dẫn đến đâu. Con đường sáng tạo luôn đầy trắc trở, rủi ro thất bại luôn rình rập và không ai dám cam đoan điều gì. Dẫu quanh co và nhiều ngõ cụt, nhưng đó là con đường duy nhất đưa tôi tìm thấy ý nghĩa cuộc đời. Từ những ngày đầu của kỷ nguyên Microsoft, mọi người đều xem tôi là nguồn ý tưởng. Ngày nay, vai trò của tôi chủ yếu là lắng nghe những con người thông minh, và phát hiện điều gì đó đặc biệt. Rồi tôi cố gắng đặt sáng kiến đó vào ngữ cảnh mới hoặc mở rộng nó thành một thứ hiệu quả hơn, như điều chúng tôi đã thực hiện tại charrette về khoa học thần kinh. Ý tưởng về bản đồ gen não bộ đã nhen nhóm tại nhiều buổi gặp gỡ riêng tư, nhưng nó đã trở nên rõ ràng khi hơn 10 nhà khoa học hàng đầu hội tụ và tham gia vào hoạt động tìm kiếm ý tưởng. Bản đồ Não bộ Allen, một sản phẩm từ sự đồng lòng nhất trí của họ, đã trở thành phương hướng thuyết phục nhất để thúc đẩy lĩnh vực phát triển. Rất hiếm khi một người có thể đủ sức cáng đáng những công việc quan trọng. Để vượt qua giai đoạn khái niệm, ý tưởng cần trở thành một chiến dịch; bạn phải thuyết phục mọi người cùng tham gia. Ngay từ đầu, tôi đã có diễm phúc tìm thấy Bill Gates, niềm đam mê kinh doanh của cậu ấy chính là mảnh ghép hoàn hảo cho lòng nhiệt tình tìm hiểu công nghệ của tôi. Sau này, tôi may mắn gặp được Bert Rutan trong quá trình thực hiện SpaceShipOne, và tìm được Allen Jones lãnh đạo công trình não bộ của chúng tôi. Đồng thời, tôi cũng chứng kiến điều gì có thể xảy ra khi một đội ngũ tinh anh không thể phối hợp tốt, và vì đâu những ý tưởng tốt nhất lại thất bại. Khi theo đuổi ước mơ Liên kết Toàn cầu, tôi đã phạm phải vô số sai lầm, nhưng điều đầu tiên và tệ hại nhất chính là: Tôi thường không thể tìm được người phù hợp giúp tôi triển khai tầm nhìn. Có lẽ vì ảnh hưởng từ quá khứ, tôi thường mạo hiểm sử dụng những người ít kinh nghiệm và trao cho họ quá nhiều quyền lực từ quá sớm. Từ đó tôi học cách cẩn trọng hơn. Tài năng quả thực cần thiết, nhưng không nên xem nhẹ sự chín chắn và kinh nghiệm. Trên hết, tôi đã học được mặt trái của việc cứ mải mê nhìn về phía trước mà bỏ qua những “ổ gà” khiến bạn vấp ngã – hay tảng băng đánh chìm con tàu của bạn. Song, chiến dịch nào cũng cần tinh thần lạc quan và khát vọng vươn xa. Đã từ rất lâu, tôi luôn muốn tìm kiếm những thách thức cho riêng mình, chứng kiến quá trình đơm hoa kết quả của chúng, và – nếu mọi sự thuận lợi – giúp thay đổi thế giới trở nên tốt đẹp hơn. CÓ NGƯỜI HỎI sự giàu có đã thay đổi tôi như thế nào. Đó là một vấn đề khó trả lời. Đôi khi, tôi cảm thấy vẫn như trước kia, rồi tôi băn khoăn liệu có phải tôi đang lừa mình dối người. Những biểu hiện của sự giàu sang – nhà cửa, du thuyền, máy bay – quả thực đã thay đổi phong cách sống và đi lại của tôi. Nhưng quan trọng hơn, nó đã mở ra những cánh cửa cơ hội cho tôi, những thời cơ đáng trân trọng. Tuy nhiên, ngoài những thay đổi hiển nhiên này, những người quen biết tôi lâu nhất nói rằng tôi vẫn là tôi của ngày trước. Vẫn luôn cố gắng nhìn nhận con người dựa trên phẩm chất của họ. Vẫn là gã mơ mộng say mê những viễn cảnh khả dĩ hơn những thứ đã có sẵn. Đợt bệnh vừa qua khiến tôi nôn nóng hơn, nhưng cũng nhẫn nại hơn. Nó là một lời cảnh báo khắc nghiệt rằng tôi không có thời gian để lãng phí, nó khiến tôi càng thêm cấp bách và đòi hỏi nhiều hơn ở bản thân cùng cộng sự. Song, trước khi có kết quả chụp PET, bạn chỉ biết nhẫn nhịn ngồi chờ mà không thể nào làm cho đồng hồ quay nhanh hơn. Tôi nghiệm ra rằng nhiều việc diễn ra theo nhịp độ riêng của chúng, không nằm trong tầm kiểm soát của bạn, từ việc bồi dưỡng một hậu vệ dẫn bóng đến việc thử nghiệm một phương pháp chữa trị bệnh Azheimer tiềm năng. Tôi học cách bớt nóng vội và biết chấp nhận mỗi bước phát triển tăng dần tất yếu. Tôi cố hết sức để bắt kịp những tiến bộ trong khoa học, công nghệ và các vấn đề thời sự, hầu như bây giờ tôi chỉ đọc thông tin qua mạng Internet. Tôi muốn tiếp tục mở rộng giới hạn của những điều khả dĩ; tôi muốn tư duy của mình luôn hướng về tương lai và không bị gò bó. Tiếp theo là gì? Đối với tôi đó là một câu hỏi không bao giờ cũ. Tôi luôn săn lùng Ý tưởng Lớn kế tiếp. Thêm một điều nữa chưa bao giờ thay đổi. Tôi vẫn luôn kinh ngạc trước sự vận hành bên trong của tất cả các loại máy móc; tôi vẫn thích nghiên cứu kết cấu phức tạp của chúng. Ở cấp độ chi tiết rất nhỏ, tôi đang làm điều này thông qua hành trình của Viện Nghiên cứu Allen để tìm hiểu não bộ người, cỗ máy phức tạp nhất trong lịch sử của hành tinh này. Ngược lại ở quy mô siêu lớn, hiện tại tôi đang cân nhắc một dự án mới với thiết bị kỳ diệu mà lúc nhỏ tôi luôn miệt mài tô vẽ: tên lửa vũ trụ. Xét cho cùng, phải có ai đó đứng ra thực hiện dự án SpaceShipThree.   Mời các bạn đón đọc Người Hùng Ý Tưởng của tác giả Paul Allen.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Mạnh Tử - Tinh Hoa Trí Tuệ Qua Danh Ngôn - Giang Bội Trân
Trình Y Xuyên, một nhà Nho đời Tống, nói: “Kẻ đi học nên lấy hai quyển sách Luận ngữ và Mạnh Tử làm cốt. Đã học được hai bộ sách này rồi thì không cần học Ngũ Kinh cũng rõ thông được cái đạo của thánh hiền”. Kế thừa rất nhiều tư tưởng của Khổng Tử, đồng thời có những kiến giải rất riêng của chính mình, Mạnh Tử và các học trò đã biên soạn cuốn sách Mạnh Tử nhằm mục đích giáo dục cũng như giúp người đời sau hiểu rõ tư tưởng chủ yếu của ông. Quan niệm của Mạnh Tử về giáo dục, truyền thống hiếu học, con đường tự tu dưỡng, trí tuệ của con người, quan hệ giao tế và cách đối nhân xử thế… đến nay vẫn còn nguyên giá trị. Sách Mạnh Tử - tinh hoa trí tuệ qua danh ngôn chắt lọc những lời dạy khôn ngoan của Mạnh Tử trong cuốn sách trên, khai mở cho người đọc nhiều tư tưởng tiến bộ cũng như nhiều điều bổ ích để chúng ta biết cách đối nhân xử thế trong thời đại ngày nay. Mời các bạn đón đọc Mạnh Tử - Tinh Hoa Trí Tuệ Qua Danh Ngôn của tác giả Giang Bội Trân.
Tuổi Già Tập 2 - Simone de Beauvoir
Simone de Beauvoir (1908 - 1986) là nhà văn, nhà triết học và một nhà đấu tranh cho nữ quyền người Pháp. Là một nhà văn từng được giải Goncourt nhưng cũng là một học giả uyên bác, các tác phẩm của bà được lấy cảm hứng từ chính cuộc đời mình đồng thời đầy ắp các dữ kiện khoa học, lịch sử, thống kê… Hai tác phẩm non-fiction được biết ở Việt Nam nhiều nhất của bà là Giới tính thứ nhì và Tuổi già. Giới tính thứ nhì (xuất bản năm 1949), được xem là một trong những quyển sách hay nhất của thế kỷ 20, là một cuốn bách khoa toàn thư về các giai đoạn của cuộc đời phụ nữ từ lúc sinh ra, dậy thì, lấy chồng, làm mẹ; đồng thời vạch ra con đường giành quyền lợi cho nữ giới. Với tác phẩm này, bà được xem là “Bà mẹ của phong trào nữ quyền". Tuổi già được viết lúc Beauvoir hơn 50 tuổi, mô tả chi tiết cuộc sống của người già và đấu tranh giành quyền cho họ. Người ta chỉ có thể hiểu được thân phận người già khi ở tuổi đó. “50 tuổi, tôi giật nảy mình khi một nữ sinh viên Mỹ kể lại với mình câu nói của một cô bạn: "Nhưng Simone de Beauvoir là một bà già chứ sao!" Cả một truyền thống dồn cho từ ngữ này một cái nghĩa xấu; nó vang lên như một lời thoá mạ. Vì vậy, người ta phản ứng, thường bằng giận dữ, khi nghe người khác bảo mình già. Tôi có biết nhiều người phụ nữ được biết tuổi tác của mình một cách khó chịu qua một kinh nghiệm giống như kinh nghiệm Marie Dormoy: một người đàn ông, bị vẻ trẻ trung của hình bóng bà đánh lừa, đi theo bà trên đường phố; đến khi đi vượt qua bà và trông thấy gương mặt bà, thì thay vì bắt chuyện, ông ta rảo bước.” "Bạn có biết khuyết tật nào lớn nhất trong các khuyết tật không? Đó là tuổi trên 55" – Tourgueniev. Vào tuổi 55, Trotsky phàn nàn người mệt mỏi, mất ngủ, hay quên; ông có cảm giác sức lực sút kém; và lo lắng. Ông gợi lại quá khứ: "Anh buồn bã nhớ lại tấm ảnh của em, tấm ảnh của chúng ta, trong đó chúng ta trẻ trung biết chừng nào”. Già đi – đó là một điều không thể tránh khỏi và cũng là một quá trình chấp nhận đầy đau đớn. "Wagner kinh hãi thấy mình già đi, 80 tuổi, ông viết: “Hình hài tôi làm người ta khiếp sợ và khiến tôi u sầu một cách xót xa”. Sự suy sụp về thể chất khiến người già không còn có thể tham gia sản xuất hay xây dựng, do đó họ bị xem như gánh nặng, phải phụ thuộc vào người khác. Beauvoir viết về những trại dưỡng lão ở ngoại ô Paris với những người già như bị xã hội bỏ quên, sống mòn mỏi chờ đợi những cuộc viếng thăm của con cháu. Theo Beauvoir, đối đãi công bằng với người già là cách ứng xử có trước có sau mà nếu khác đi là làm lung lay gốc rễ của xã hội hiện đại. Mời các bạn đón đọc Tuổi Già Tập 2 của tác giả Simone de Beauvoir.
Tuổi Già Tập 1 - Simone de Beauvoir
Simone de Beauvoir (1908 - 1986) là nhà văn, nhà triết học và một nhà đấu tranh cho nữ quyền người Pháp. Là một nhà văn từng được giải Goncourt nhưng cũng là một học giả uyên bác, các tác phẩm của bà được lấy cảm hứng từ chính cuộc đời mình đồng thời đầy ắp các dữ kiện khoa học, lịch sử, thống kê… Hai tác phẩm non-fiction được biết ở Việt Nam nhiều nhất của bà là Giới tính thứ nhì và Tuổi già. Giới tính thứ nhì (xuất bản năm 1949), được xem là một trong những quyển sách hay nhất của thế kỷ 20, là một cuốn bách khoa toàn thư về các giai đoạn của cuộc đời phụ nữ từ lúc sinh ra, dậy thì, lấy chồng, làm mẹ; đồng thời vạch ra con đường giành quyền lợi cho nữ giới. Với tác phẩm này, bà được xem là “Bà mẹ của phong trào nữ quyền". Tuổi già được viết lúc Beauvoir hơn 50 tuổi, mô tả chi tiết cuộc sống của người già và đấu tranh giành quyền cho họ. Người ta chỉ có thể hiểu được thân phận người già khi ở tuổi đó. “50 tuổi, tôi giật nảy mình khi một nữ sinh viên Mỹ kể lại với mình câu nói của một cô bạn: "Nhưng Simone de Beauvoir là một bà già chứ sao!" Cả một truyền thống dồn cho từ ngữ này một cái nghĩa xấu; nó vang lên như một lời thoá mạ. Vì vậy, người ta phản ứng, thường bằng giận dữ, khi nghe người khác bảo mình già. Tôi có biết nhiều người phụ nữ được biết tuổi tác của mình một cách khó chịu qua một kinh nghiệm giống như kinh nghiệm Marie Dormoy: một người đàn ông, bị vẻ trẻ trung của hình bóng bà đánh lừa, đi theo bà trên đường phố; đến khi đi vượt qua bà và trông thấy gương mặt bà, thì thay vì bắt chuyện, ông ta rảo bước.” "Bạn có biết khuyết tật nào lớn nhất trong các khuyết tật không? Đó là tuổi trên 55" – Tourgueniev. Vào tuổi 55, Trotsky phàn nàn người mệt mỏi, mất ngủ, hay quên; ông có cảm giác sức lực sút kém; và lo lắng. Ông gợi lại quá khứ: "Anh buồn bã nhớ lại tấm ảnh của em, tấm ảnh của chúng ta, trong đó chúng ta trẻ trung biết chừng nào”. Già đi – đó là một điều không thể tránh khỏi và cũng là một quá trình chấp nhận đầy đau đớn. "Wagner kinh hãi thấy mình già đi, 80 tuổi, ông viết: “Hình hài tôi làm người ta khiếp sợ và khiến tôi u sầu một cách xót xa”. Sự suy sụp về thể chất khiến người già không còn có thể tham gia sản xuất hay xây dựng, do đó họ bị xem như gánh nặng, phải phụ thuộc vào người khác. Beauvoir viết về những trại dưỡng lão ở ngoại ô Paris với những người già như bị xã hội bỏ quên, sống mòn mỏi chờ đợi những cuộc viếng thăm của con cháu. Theo Beauvoir, đối đãi công bằng với người già là cách ứng xử có trước có sau mà nếu khác đi là làm lung lay gốc rễ của xã hội hiện đại. *** Khi còn là thái tử Siddharta, bị vua cha nhốt trong một tòa lâu đài tráng lệ, nhiều lần Thích Ca trốn đi dạo chơi bằng xe ngựa trong vùng. Trong lần dạo chơi đầu tiên, thái tử gặp một người tàn tật, tóc bạc, răng rụng, da nhăn nheo, cúi gập người trên một cây gậy, miệng lập cập, hai tay run rẩy. Chàng lấy làm ngạc nhiên và người xà ích giải thích đó là một ông già. Thái tử liền thốt: “Những kẻ hèn yếu và dốt nát, chuếnh choáng vì niềm kiêu hãnh của tuổi trẻ, không thấy được tuổi già. Khốn khổ biết chừng nào! Hãy trở nhanh về nhà thôi. Các trò chơi và niềm vui mà làm gì, vì ta là nơi ẩn náu của tuổi già mai sau”. Qua một ông già Thích Ca nhận ra số phận của chính mình, sinh ra để cứu vớt loài người, Thích Ca muốn chia sẻ hoàn toàn với số phận của họ. Và về điểm này, Người khác họ: họ lẩn tránh những gì không làm họ vui lòng. Và đặc biệt là tuổi già. Châu Mỹ đã loại trừ ra khỏi từ vựng của họ từ: người chết: mà chỉ nói người khuất bóng thân yêu; cũng giống như vậy, họ tránh liên hệ tới tuổi già. Ở nước Pháp ngày nay, đó là một đề tài cấm kỵ. Khi bắt buộc phải vi phạm điều cấm kỵ ấy, tôi đã bị người ta la ó! Chấp nhận mình đã bước vào ngưỡng cửa của tuổi già, tức là cho rằng nó rình rập tất cả mọi người phụ nữ, rằng nó đã tóm cổ nhiều người. Với thái độ dễ thương hay giận dữ, nhiều người, nhất là người già, không ngớt nhắc đi nhắc lại với tôi rằng làm gì có tuổi già! Có những người không trẻ bằng những người khác, chỉ thế thôi! Đối với xã hội, tuổi già xuất hiện như một điều bí ẩn đáng xấu hổ, mà nói tới là điều khiếm nhã. Trong mọi lĩnh vực, văn học viết rất nhiều về phụ nữ, về trẻ em, về thiếu niên; ngoài các công trình chuyên môn, người ta rất ít ám chỉ tới tuổi già. Một tác giả băng hoạt hình đã phải làm lại cả một loạt tác phẩm vì trước đó ông ta đã đưa vào trong số các nhân vật một cặp vợ chồng đáng tuổi làm ông làm bà: “Hãy loại bỏ người già đi!” - người ta hạ lệnh cho ông ta[1]. Khi tôi nói mình viết một cuốn tiểu luận về tuổi già, người ta thường thốt lên: “Sao lại kỳ thế!... Bà đâu có già!... Đề tài ấy, ngán lắm...” Chính vì lý do ấy mà tôi viết cuốn sách này: để phá tan sự đồng tình im lặng. Theo Marcuse, xã hội tiêu thụ đem một ý thức tốt đẹp thay thế cho ý thức xấu xa và bài xích mọi ý nghĩ tội phạm. Cần khuấy động sự yên ổn của nó. Đối với người có tuổi, nó chẳng những là phạm tội, mà còn là một tội ác. Ẩn náu phía sau các huyền thoại bành trướng và phong túc, nó cho người già là những kẻ khốn cùng. Ở Pháp, nơi tỷ lệ người già cao nhất thế giới - 12% dân số trên 65 tuổi - họ bị dồn vào cảnh khốn cùng, cô đơn, tàn tật, thất vọng. Ở Mỹ, số phận của họ cũng không sung sướng hơn. Nhằm dung hòa sự man rợ này với thứ đạo lý nhân văn chủ nghĩa mà họ thuyết giáo, giai cấp thống trị có cách đơn giản là không xem họ là những con người; nếu nghe tiếng nói của họ, người ta bắt buộc phải thừa nhận đó là một tiếng nói của con người; tôi sẽ buộc độc giả của mình nghe tiếng nói ấy. Tôi sẽ miêu tả hoàn cảnh của họ và cách họ sống; tôi sẽ nói những gì diễn ra thực sự trong đầu óc và trong con tim họ - những thứ bị dối trá, huyền thoại và những lời sáo rỗng của nền văn hóa tư sản xuyên tạc. Vả lại, thái độ của xã hội đối với họ mang tính chất đồng lõa sâu sắc. Nói chung, xã hội không coi tuổi già là một lớp tuổi rõ rệt. Cuộc khủng hoảng về tuổi dậy thì cho phép vạch ra giữa một thiếu niên và người trưởng thành một đường ranh giới chỉ mang tính võ đoán trong những giới hạn chật hẹp; ở tuổi 18, 21, thanh niên được chấp nhận vào xã hội con người. Hầu như bao giờ xung quanh sự thăng tiến ấy cũng có những “nghi thức chuyển giai đoạn”. Còn thời điểm bắt đầu tuổi già thì không được xác định rõ rệt, nó thay đổi theo từng lúc, từng nơi. Không ở đâu, người ta bắt gặp “nghi thức chuyển giai đoạn” thiết lập một quy chế mới[2], về chính trị, suốt đời, cá nhân giữ nguyên những quyền lợi và nghĩa vụ giống nhau. Luật Dân sự không mảy may phân biệt giữa một cụ già trăm tuổi và một người tuổi bốn mươi. Các nhà làm luật cho rằng ngoài những trường hợp bệnh lý ra, trách nhiệm hình sự của người có tuổi cũng hoàn toàn đầy đủ như của thanh niên[3]. Trong thực tiễn, người ta không coi họ là một lớp người riêng, vả lại, họ cũng không muốn như vậy; có sách, báo, sân khấu, những buổi truyền hình và truyền thanh dành cho trẻ em và thiêu niên: còn đối với người già thì không[4]. Trên tất cả những bình diện này, người ta đồng hóa họ với lớp người lớn tuổi trẻ hơn. Nhưng khi quyết định quy chế kinh tế của họ, hình như người ta cho là họ thuộc một lớp người xa lạ: họ không có những nhu cầu cũng như những tình cảm giống như những người khác, nếu chỉ cần ban cho họ một chút bố thí khốn khổ là cảm thấy hết nợ đối với họ. Các nhà kinh tế học, các nhà làm luật tin vào cái ảo ảnh thuận tiện ấy khi phàn nàn cái gánh nặng những người không hoạt động gây nên cho những người hoạt động: như thể những người này không phải là những người không hoạt động trong tương lai và không bảo đảm chính ngày mai của mình trong lúc xây dựng việc nhận lấy trách nhiệm đối với những người có tuổi. Còn các nhà hoạt động công đoàn thì không nhầm lẫn: khi đưa ra những đòi hòi, bao giờ họ cũng coi trọng vấn đề hưu trí. Những người già không tạo nên một lực lượng kinh tế nào thì không có cách gì để đòi hỏi quyền lợi của mình: lợi ích của những kẻ bóc lột, là tiêu diệt tình đoàn kết giữa người lao động và người không sản xuất, sao cho không một ai bênh vực những người này. Những huyền thoại và lời sáo rỗng theo tư duy tư sản tìm cách chỉ ra một con người khác trong người già. “Chính với những thiếu niên sống khá nhiều năm mà cuộc đời tạo nên lớp người già” - Proust từng nhận định như vậy - họ giữ lại những nết tốt và những tật xấu của con người trong họ. Điều đó, dư luận không muốn biết tới. Nếu biểu thị những ham muốn, những tình cảm, những đòi hỏi giống như những người trẻ tuổi, thì người già làm người ta công phẫn; ở họ, tình yêu nam nữ, lòng ghen tuông hình như là bỉ ổi hay lố bịch, còn tình dục thì đáng ghê tởm và bạo lực thì chẳng có nghĩa lý gì. Họ phải là tấm gương về mọi đức tính. Trước hết, người ta đòi hỏi ở họ sự thanh thản; người ta khẳng định họ có lòng thanh thản ấy, nên cho phép người ta không quan tâm tới nỗi bất hạnh của họ. Cái hình ảnh người ta tô vẽ về họ là hình ảnh một nhà Hiền triết trong ánh hào quang của một mái tóc bạc trắng, giàu kinh nghiệm và khả kính, vượt lên rất xa thân phận con người; nếu rời khỏi hình ảnh ấy, là họ rơi xuống phía dưới; cái hình ảnh đối lập với hình ảnh trên đây, là hình ảnh một lão già điên lẩm cẩm, lố lăng, bị trẻ em chế giễu. Dẫu sao, do đức độ hay do sự đê tiện của họ, họ ở ngoài nhân loại. Vì vậy, người ta có thể không ngại ngần khước từ đối với họ những gì tối thiểu được coi là cần thiết cho một cuộc sống con người. Người ta đẩy xa sự loại thải này tới mức làm cho nó quay trở lại chống chính bản thân mình; người ta sẽ không công nhận bản thân mình trong hình ảnh ông già mà chính mình là ông già đó. Proust nhận xét một cách xác đáng: “Trong mọi hiện thực, (tuổi già) có lẽ là hiện thực mà chúng ta giữ lại một khái niệm thuần túy trừu tượng lâu bền nhất trong đời”. Tất thảy mọi người đều khả tử: họ nghĩ tới điều đó. Nhiều người trong số họ trở thành người già: hầu như không một ai hình dung trước sự biến đổi ấy. Người ta không chờ đón, không dự kiến một cái gì khác ngoài tuổi già. Khi được hỏi về tương lai của họ, thanh niên, nhất là nữ thanh niên, cho đời mình kéo dài nhiều nhất đến tuổi 60. Một số cô gái bảo: “Em không chờ đến ngày ấy, em sẽ ra đi trước đó”. Và thậm chí, một vài cô nói: “Em sẽ tự sát trước ngày ấy”. Người trưởng thành hành động như thế không bao giờ phải trở thành người già. Thông thường, người lao động kinh hoàng khi điểm giờ nghỉ hưu: thời hạn nghỉ hưu vốn đã được ấn định trước, người đó biết thời hạn ấy, nhẽ ra họ phải chuẩn bị sẵn. Sự thật là sự hiểu biết ấy vẫn xa lạ đối với họ cho tới giây phút cuối cùng - trừ phi nó thực sự mang tính chất chính trị. Đến ngày đó, và khi đã bước tới gần, thông thường, người ta thích tuổi già hơn là cái chết. Tuy vậy, đứng cách xa, người ta xem xét cái chết sáng suốt hơn cả. Cái chết nằm trong phạm vi những khả năng trực tiếp của chúng ta, uy hiếp chúng ta ở mọi lứa tuổi; có lúc chúng ta suýt chết; thông thường, chúng ta sợ chết. Con người ta không trở nên già nua trong chốc lát; ở tuổi thanh niên hay lúc tráng niên, chúng ta không nghĩ là tuổi già tương lai đã tiềm ẩn trong con người mình như Thích Ca: tuổi già ấy cách xa chúng ta tới mức khoảng cách ấy lẫn lộn trước mắt mình với sự vĩnh hằng: tương lai đối với chúng ta như thể phi hiện thực. Vả lại, cái chết không là gì cả; người ta có thể cảm thấy một nỗi bàng hoàng siêu hình trước cái hư vô ấy, nhưng bằng một cách nào đó, nó làm người ta yên lòng, nó không đặt thành vấn đề. “Ta sẽ không còn nữa”. : ta giữ hình tích của mình trong sự tiêu vong ấy[5]. Ở tuổi 20, hay 40, tôi nghĩ mình già, tức là nghĩ mình là người khác. Trong mọi sự biến đổi, đều có một cái gì đó khủng khiếp. Ở tuổi ấu thơ, tôi bàng hoàng, và thậm chí kinh hoàng khi hiểu ra sẽ có ngày mình sẽ trở thành người lớn. Nhưng ý muốn mình vẫn là bản thân mình, thường được bù đắp ở buổi thiếu thời bởi những lợi thế của quy chế người trưởng thành. Còn tuổi già thì xuất hiện như một nỗi bất hạnh: ngay cả ở những người mà người ta cho là vẫn giữ được vẻ quắc thước, sự suy sụp về thể chất mà tuổi già kéo theo cũng vẫn lồ lộ trước mắt. Vì ở loài người, sự đổi thay do năm tháng là nổi bật nhất. Loài vật thì gầy đi, yếu đi, nhưng không biến đổi. Còn con người thì có. Người ta se lòng khi nhìn thấy bên cạnh một thiếu phụ trẻ, phảng phất trong gương hình ảnh chính mình những năm tháng sau này: tức là mẹ mình. Theo Lévi-Strauss, người Da đỏ Namblikwara chỉ có một từ để nói “trẻ và đẹp” và một từ để nói “già và xấu”. Trước hình ảnh người già gợi ý với chúng ta về tương lai của mình, chúng ta không tin; một tiếng nói nội tâm thầm thì một cách phi lý với chúng ta rằng điều đó sẽ không đến với mình: sẽ không còn là chúng ta nữa khi điều đó xảy tới. Trước khi nó ập xuống chúng ta, tuổi già là cái chỉ liên quan tới ngườl khác. Vì vậy, có thể hiểu vì sao xã hội có thể khiến chúng ta không coi người già là đồng loại của mình. Thôi, chúng ta đừng tự lừa dối mình nữa; ý nghĩa cuộc sống chúng ta nằm trong tương lai đang đón đợi mình; chúng ta không biết mình là ai, nếu không muốn biết mình sẽ là người thế nào: chúng ta hãy tự nhận biết mình ở ông lão kia, ở bà già nọ. Cần phải như vậy nếu chúng ta muốn đảm nhận thân phận con người của mình một cách trọn vẹn. Chỉ có như vậy, chúng ta mới không còn chấp nhận một cách thờ ơ nỗi bất hạnh của lứa tuổi cuối cùng, chúng ta sẽ cảm thấy mình ở trong cuộc: và quả chúng ta ở trong cuộc. Nỗi bất hạnh ấy tố cáo một cách vang dội chế độ bóc lột chúng ta đang sống. Người ta không thể tự mình thỏa mãn nhu cầu của mình, bao giờ cũng bị coi là một gánh nặng. Nhưng trong những tập thể có một sự bình đẳng nào đó - trong lòng một cộng đồng nông thôn, ở một số dân tộc nguyên thủy - người đứng tuổi, tuy không muốn biết, vẫn biết ngày mai thân phận của mình sẽ là thân phận mà ngày hôm nay người đó quy cho người già. Đấy là ý nghĩa truyện cổ tích của Grim, được thuật lại ở mọi miền thôn dã. Một gã nông dân bắt người cha già ăn riêng, trong một cái máng gỗ nhỏ; hắn bất chợt thấy đứa con trai đang ghép những miếng ván. Nó bảo ông bố: “Cho bố đấy, khi bố về già”. Thế là ông già lại ngồi vào bàn ăn cùng cả nhà. Trước lợi ích lâu dài và lợi ích trước mắt, các thành viên còn hoạt động trong tập thể sáng tạo nên những sự thỏa hiệp. Tình trạng cấp bách của nhu cầu buộc một số người nguyên thủy giết chết bố mẹ, dù về sau, có phải chịu một số phận như thế. Trong những trường hợp ít căng thẳng hơn, sự phòng xa và tình cảm gia đình chế ngự tính ích kỷ. Trong thế giới tư bản, lợi ích dài hơn không còn tác dụng: những kẻ có đặc quyền và quyết định số phận của đám đông không sợ phải nếm trải số phận ấy. Còn những tình cảm nhân văn chủ nghĩa thì không bao giờ can thiệp tới, mặc dù những lời huyênh hoang dối trá. Cơ sở của nền kinh tế là lợi nhuận; trên thực tiễn, toàn bộ nền văn minh phụ thuộc vào nó: người ta chỉ quan tâm tới tập thể người trong một doanh nghiệp trong chừng mực tập thể ấy có lợi. Sau đó, họ bị vứt bỏ. Tại một hội nghị gần đây, tiến sĩ Leach, nhà nhân chủng học ở Cambritgiơ tuyên bố: “Trong một thế giới đang chuyển động, trong đó máy móc có những cuộc đời rất ngắn ngủi, con người không nên phục vụ quá lâu. Tất cả những gì vượt qua 55 năm tuổi đều phải loại bỏ”[6]. Cái từ “đồ bỏ đi” nói đúng điều nó muốn nói. Người ta kể lể với chúng ta rằng nghỉ hưu là thời gian của tự do và giải trí; có những nhà thơ ca ngợi “lạc thú nghỉ ngơi”. Đó là những lời dối trá vô liêm sỉ. Xã hội áp đặt cho số đông người già mức sống khốn khổ tới mức từ ngữ “già nua và đói nghèo” trở thành hầu như một từ thừa (pléonasme); ngược lại, số đông người bần cùng là người già. Nhàn rỗi không mở ra cho người nghỉ hưu những khả năng mới; vào lúc cá nhân, đến phút cuối cùng, được giải thoát khỏi những sự ràng buộc, người ta tước đoạt của họ mọi phương tiện sử dụng quyền tự do. Họ buộc phải sống lay lắt trong cô đơn và phiền muộn, như một vật phế thải không hơn không kém. Khi trong mười lăm hay hai mươi năm cuối đời, một con người chỉ còn là một vật chẳng ai đoái hoài, thì đó là sự thất bại của nền văn minh chúng ta: sự thật hiển nhiên ấy khiến chúng ta nghẹn ngào nếu chúng ta coi người già là những con người từng có một cuộc sống con người phía sau họ, chứ không phải là những xác chết dật dờ. Những ai tố cáo cái chế độ đọa đày vốn là chế độ chúng ta, phải đưa điều điếm nhục ấy ra ánh sáng. Chính bằng cách tập trung nỗ lực của mình vào thân phận những người xấu số nhất, người ta có thể làm lay chuyển một xã hội. Để phá hủy hệ thống đẳng cấp, Gandhi tìm cách giải quyết thân phận tầng lớp Tiện dân (parias); nhằm tiêu hủy gia đình phong kiến, nước Trung Hoa cộng sản giải phóng phụ nữ. Đòi hỏi con người cứ phải là con người ở lứa tuổi cuối cùng của họ bao hàm một sự đảo lộn triệt dể. Không thể thu được kết quả ấy với một vài cải cách hạn hẹp không đụng chạm tới hệ thống: chính nạn bóc lột người lao động, chính quá trình phân hủy xã hội và sự khốn cùng của một nền văn hóa chỉ dành riêng cho tầng lớp quan lại, dẫn tới những cảnh già nua phi-nhân văn ấy. Chúng chỉ ra rằng cần làm lại tất cả, từ đầu. Chính vì vậy, vấn đề này bị nhấn chìm trong im lặng hết sức kỹ lưỡng; và chính vì vậy, cần phá tan sự im lặng ấy: tôi mong đợi độc giả giúp đỡ tôi trong công việc này.   Mời các bạn đón đọc Tuổi Già Tập 1 của tác giả Simone de Beauvoir.
Tuyệt Mật Trong Buồng Lái - Patrick Smith
Hơn bao giờ hết, đi máy bay là tâm điểm của sự tò mò, thích thú, lo lắng, và tức giận. Trong các chương sau đây, tôi sẽ cố gắng hết sức để đưa ra câu trả lời cho những ai tò mò, làm yên lòng những ai lo lắng, và những sự thật không ngờ dành cho những ai bị đánh lừa. Có lẽ các bạn khi cầm trên tay cuốn sách này đều nhận biết rõ đây là một tác phẩm kiến thức phổ thông, bình thường như mọi cuốn sách giáo khoa hay cẩm nang khoa học thường thức. Nhưng tôi tin là cuốn sách này phi thường hơn thế. Để làm được điều vĩ đại trên, cần nhiều hơn những năm miệt mài thực tập căng thẳng trong buồng lái và những chuyến bay thực nghiệm nguy hiểm, nhiều hơn những tố chất cần có của một phi công, nhiều hơn cả một cái đầu lạnh và một trái tim gan dạ, và thật nhiều hơn những may mắn không tên. Không thể hiểu rõ được những điều trên nếu ta chưa từng đọc qua cuốn sách này. *** “Tuyệt mật trong buồng lái là tài liệu nên nằm trong túi lưới đằng sau mỗi ghế ngồi.” —David Pogue, thông tín viên tờ The New York Times và tổng biên tập chương trình PBS “Là một cây viết xuất sắc, Patrick Smith mang đến một chuyến du lịch đầy tiếng cười trong một ngành vốn bị hiểu lầm—một chuyến đi vào thế giới hàng không, chẳng hề có những thuật ngữ rắc rối mà đầy ắp sự hài hước và hiểu biết sâu sắc.” —Christine Negroni, nhà văn chuyên viết về hàng không và tác giả của cuốn sách Flying Lessons “Đặc sắc và cung cấp kiến thức tuyệt vời. Một thành tựu cao xa, một cuốn sách không thể thiếu được dành cho bất kỳ ai di chuyển bằng đường hàng không, nghĩa là tất cả mọi người. —James Kaplan “Patrick Smith cực kỳ thông hiểu về ngành hàng không hiện đại và truyền tải thông tin xuất sắc bằng tiếng Anh, chứ không bằng tiếng phi công. Smith là người bạn cùng buồng lái, bạn đồng hành, cây viết, và người giải thích lý tưởng.” —Alex Beam, Boston Globe “Thật vui thích làm sao khi được đọc những lời giải thích và bình luận tao nhã đến ngạc nhiên của Patrick Smith. Thế giới cần có một người viết thật đơn giản và hợp lý kiểu E. B. White về chủ đề mà tất cả mọi người đều thắc mắc.” —Berke Breathed “Thực tế một cách xuất sắc và thật khiến người ta vững tâm.” —Cath Urquhart, The Times (London) “Giá mà tôi có thể gấp gọn Patrick Smith rồi cất anh ta vào vali của mình. Dường như anh ta biết mọi điều đáng để biết về ngành hàng không.” —Stephen J. Dubner, đồng tác giả cuốn Kinh tế học hài hước “Sắc sảo và sâu sắc.” —Joe Sharkey, The New York Times “Tuyệt vời.” —Rudy Maxa, the Savvy Traveler “Ask the Pilot thực sự khiến cho việc đi máy bay trở nên vui vẻ. Patrict Smith làm sáng tỏ được trải nghiệm này và nhắc chúng ta nhớ đến sự kỳ diệu của hàng không. Anh cũng có óc hài hước tuyệt vời—đây là điều rất quan trọng khi mà bạn bị nhồi nhét vào ghế 14D trên một chiếc máy bay tầm khu vực.” —Chris Bohjalian, tác giả cuốn sách The Night Strangers và Midwives Mời các bạn đón đọc Tuyệt Mật Trong Buồng Lái của tác giả Patrick Smith.