Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Đứa Trẻ Thứ Sáu

“Cha hãy tha thứ cho con” là dòng chữ được tìm thấy viết trên những tấm bìa các tông gần xác các nạn nhân bị giết theo kiểu 4MK được phát hiện cách nhau vài chục phút ở cả Chicago và Nam Carolina, kết nối họ với cùng một kẻ giết Người. Các vụ giết người rõ ràng có liên quan chặt chẽ nhưng lại tách biệt bởi khoảng cách về không gian không thể nào hiểu nổi. Cùng lúc đó, khắp nước Mỹ rúng động vì thông tin Anson Bishop sẽ làm phát tán virus gây bệnh SARS. Sở Cảnh sát Chicago và FBI rơi vào tình trạng hỗn độn – một bệnh viện bị phong tỏa, dịch bệnh có nguy cơ bùng phát. Anson Bishop, nghi phạm chính trong các vụ giết người của 4MK, đã tiết lộ một câu chuyện hoàn toàn bất ngờ, một câu chuyện không chỉ làm đảo lộn những kết quả điều tra cũ mà sữ còn làm thay đổi cuộc sống của tất cả những người có liên quan đến nó. Với sự căng thẳng không ngớt và sự hồi hộp làm căng mạch đập, quá khứ được đưa ra ánh sáng và đi đến hồi kết ở tốc độ chóng mặt khi sự thật đằng sau động cơ của kẻ giết người 4MK cuối cùng cũng được làm rõ. “Phần ba của bộ truyện đã thắt lại tất cả những nút thắt còn lỏng lẻo một cách tuyệt hảo, đây quả thực là một bộ ba tuyệt vời với đủ những cú twist để làm hài lòng ngay cả Sherlock Holmes!” Bộ sách 4MK Thriller gồm có: 4MK Cái Chết Thứ Năm Đứa Trẻ Thứ Sáu *** J.D. Barker là một tác giả người Mỹ nổi tiếng quốc tế về phim kinh dị hồi hộp, thường kết hợp các yếu tố kinh dị, tội phạm, bí ẩn, khoa học viễn tưởng và siêu nhiên. Cuốn tiểu thuyết đầu tay của anh, Forsaken, là người vào chung kết cho Giải thưởng Bram Stoker năm 2014. *** Đứa Trẻ Thứ Sáu là phần ba và cũng là phần cuối trong series về tên sát nhân hàng loạt 4MK. Trong phần ba này Sam Porter bị phát hiện bắn chết một người phụ nữ, người anh đã giúp trốn khỏi nhà tù cùng một kẻ mà anh nghĩ là mẹ của Anson Bishop, tên là Sarah Werner. Sam Porter bị FBI tống giam. Anh bị cả Sở Cảnh sát Metro lẫn FBI nghi ngờ, các đồng nghiệp quay lưng lại với anh, khinh bỉ anh ngoại trừ Nash và Clair. Tình tiết truyện càng phát triển, những mối nghi ngờ dành cho Sam ngày càng tăng lên. Ai cũng cho rằng Sam chính là 4MK hoặc ít nhất hợp tác với 4MK giết hại những người khác. Con số nạn nhân trong tập ba này cũng không hề ít. Như thể chưa đủ kịch tính, khắp nước Mỹ lại rung động vì thông tin Anson Bishop sẽ làm phát tán virus gây bệnh SARS. Hai nạn nhân nữ trẻ tuổi sống sót dưới bàn tay 4MK được chuyển vào bệnh viện Stroger, trong tình trạng đã bị nhiễm cúm. Cả bệnh viện bị cách ly cùng với Nash và Klozowski. Cuộc truy tìm 4MK, truy tìm Sam và con virus diễn ra gay cấn, căng thẳng qua từng trang. Cùng với đó là những trang cuối cùng của cuốn nhật ký với đủ những gia vị êm đềm, xúc động, kịch tính và đau xót. Liệu Sam Porter có thể phá án liên hoàn 4MK mà anh đã theo đuổi suốt năm năm trời, đồng thời minh oan được cho bản thân không? Đứa Trẻ Thứ Sáu là một đoạn kết hoàn chỉnh cho cả ba phần. Những thắc mắc, những gì chưa được giải quyết ở hai phần trước đều có câu trả lời ở phần này. Ở phần ba vì còn liên quan đến cả dịch SARS nên dung lượng truyện dài hơn, tuy nhiên bù vào đó là những mâu thuẫn, những nghi ngờ, những sự thật và lời dối trá chồng chéo hơn, phức tạp hơn. Những án mạng cũng giống như phần một, các nạn nhân đều bị móc mắt, cắt tai và cắt lưỡi, với ba cái hộp màu trắng thắt dây đen ở bên cạnh. Mình chưa đọc phần hai nhưng ở phần ba này Sam Porter hoạt động phần lớn là một mình, anh vừa phải tự điều tra qua những mảnh ghép ít ỏi mình có, lại vừa phải trốn chạy cả FBI lẫn Sở Cảnh sát Chicago săn đuổi mình. Trong phần ba hầu như mọi bằng chứng FBI thu thập được đều chống lại Sam. Anh không thể minh oan, không thể phản biện lại một cách mạnh mẽ vì chứng mất trí nhớ do đạn bắn. Sam trúng đạn khi đang truy đuổi Weasel trong con ngõ từ phần một. Nên tất cả những gì anh nhớ được đều rất mơ hồ, anh không biết mình đã gặp ai, không nhớ mình đã làm gì, không nhớ mình đã từng đến đâu, không nhớ mình đã từng giết ai chưa. Sam buộc lòng phải hành động một mình, vận dụng toàn bộ kỹ năng thám tử của mình đã xóa lớp mây mù trong trí não anh và tìm ra sự thật, trong khi không có được sự hỗ trợ của đồng đội như phần một. Yếu tố hành động và suy luận được đẩy lên cao hơn, nên yếu tố kinh dị không được nhấn mạnh ở phần này nữa. Phần ba đánh dấu sự tham gia tích cực hơn của nhóm FBI, cụ thể là Đặc vụ Frank Poole. Thế nên tình tiết truyện vẫn đủ sức níu kéo mình đến cuối. Cả ba phần theo mình đều có liên quan chặt chẽ đến nhau, nên đọc lần lượt từ phần một để hiểu rõ toàn bộ cốt truyện. Còn nhiều điều nữa mình muốn nói cơ mà sẽ spoil hết nên đành dừng bút ở đây. Chúc mọi người có những phút giây vui vẻ khi đọc sách. Nguyen Quang Huy *** Tray Ngày 5 - 5:20 sáng “Này, thằng đầu đất, chỗ này là cái nhà trọ chó chết của mày đấy hả?” Giọng nói cộc cằn, như có sỏi trong mồm. Vào giờ này chắc là cảnh sát, bảo vệ hay có thể chỉ là một lão chủ nhà giận dữ. Không cần biết là ai, Tray Stouffer vẫn nằm bất động dưới những nếp gấp của chiếc chăn lông đã mốc. Thi thoảng khi bạn nằm bất động đủ lâu, họ sẽ bỏ đi. Đôi khi họ sẽ chán. Lại là tiếng giày đó - nhanh và mạnh. Cú đá thẳng vào dạ dày. Tray chỉ muốn thò đầu ra và gào lên, túm chặt lấy chân hắn và đánh trả. Nhưng nó chẳng làm gì. Vẫn nằm bất động hoàn toàn. “Mẹ kiếp, tao đang nói chuyện với mày đấy!” Thêm một cú đá nữa, mạnh hơn cú lúc nãy, trúng vào mạng sườn. Tray gầm gừ, không thể kiềm chế được. Siết cái chăn bông chặt hơn. “Mày có biết ảnh hưởng của mày và lũ bạn mày lên giá trị ở đây khi cắm trại ngoài này không? Tụi mày dọa bọn nhóc con sợ chết khiếp. Người già sẽ không rời khỏi tòa nhà này nữa. Thế họ cứ phải bước qua cái đống rác rưởi như mày để chạy đến cửa hàng đấy à?” À, vậy là lão chủ nhà. Tray đã từng nghe tất cả những chuyện này. “Mày có biết năm giờ sáng lúc mày đang ngủ thì tao làm gì ngoài này không? Trong khi cả lũ bọn mày nằm một đống trên hiên nhà chúng tao đấy. Khi đó tao vừa kết thúc ca làm việc mười tiếng đồng hồ tại Tiệm Bánh ngọt Delphine. Quần quật mười hai tiếng từ tối qua trong cái căn bếp chó đẻ đó. Rồi quay lại làm tiếp sau mười tiếng nữa. Tao khổ như thế là để trả tiền cho cái nơi này. Tao làm vậy là để góp công sức cho xã hội. Mày sẽ chẳng bao giờ thấy tao vất vưởng trên hè phố như lũ chó lười chúng mày. Cút đi mà tìm việc! Tự nuôi sống bản thân đi!” Ở tuổi mười bốn, làm gì có việc mà làm. Chẳng có việc gì hợp pháp hết. Chỉ hợp pháp nếu có sự cho phép của cha mẹ, và chuyện đó sẽ chẳng bao giờ xảy ra. Tray vòng tay quanh người chịu cú đá tiếp theo. Nhưng thay vì đá, người đàn ông túm lấy một góc tấm chăn và giật mạnh, quẳng nó sang một bên. Tấm chăn rơi xuống vũng nước do tuyết đã tan một nửa dưới chân các bậc thềm. Tray run rẩy, cuộn tròn người lại, sẵn sàng chịu cú đá nữa. “Ớ, con gái à. Mà chỉ bé con con nhỉ.” Người đàn ông nói, cơn giận đã nguôi đi trong giọng nói. “Anh rất xin lỗi. Tên em là gì?” “Tracy.” Nó đáp. “Hầu hết mọi người đều gọi cháu là Tray.” Ngay lúc những lời này vừa thốt ra khỏi miệng, nó đã hối hận. Nó biết chuyện gì sẽ xảy ra mỗi khi nó nói chuyện với một người trong số chúng. Lẽ ra tốt hơn nó nên ngậm miệng lại, tự biến mình thành kẻ vô hình. Người đàn ông quỳ xuống, một cái túi giấy lủng lẳng trên tay trái. Anh ta trông không già lắm, có thể chỉ tầm ngoài hai mươi. Mặc áo khoác dày. Mái tóc nâu nhét vào trong chiếc mũ len thủy quân màu xanh đậm. Đôi mắt màu hạt dẻ. Dù trong cái túi kia đang đựng cái gì thì mùi vị của nó cũng rất thơm ngon. Anh ta bắt gặp ánh mắt con bé. “Tray, tên anh là Emmitt. Em đói chưa?” Nó gật đầu. Tự biết đó cũng là một sai lầm. Nhưng nó đang đói. Đói ngấu rồi. Anh ta thọc tay vào trong cái túi, rút ra một ổ bánh mì nhỏ. Hơi nước tỏa ra từ bề mặt gồ ghề xuyên qua bầu không khí Chicago lạnh giá, trong thoáng chốc Tray quên đi cơn gió buốt giá xuất phát từ phía hồ, hú lên từng hồi qua các con phố mỗi lần bốc lên. Dạ dày nó réo ùng ục, to đến nỗi cả hai đều nghe rõ. Emmitt bẻ một miếng bánh mì trao cho nó. Nó ăn ngấu nghiến chỉ sau hai lần cắn, thậm chí còn chẳng buồn nhai. Có lẽ đó là miếng bánh mì ngon nhất nó từng được ăn. “Muốn ăn thêm không?” Tray gật đầu, dù nó biết mình không nên thế. Emmitt thở hắt ra. Anh ta vươn tay ra vuốt ve má con bé bằng cạnh ngón tay trỏ. Di chuyển từ gương mặt xuống cổ con bé, trượt xuống dưới cổ áo len dài tay. “Sao em không vào trong này với anh? Có thể thoải mái ăn bao nhiêu bánh mì cũng được. Anh còn nhiều đồ ăn khác nữa cơ. Tắm nước nóng nữa. Giường ngủ thoải mái. Anh sẽ…” Dùng cả hai cánh tay, Tray xô mạnh hai vai người đàn ông. Vì đang ở tư thế quỳ một chân chênh vênh, anh ta không kịp tránh cú đánh. Lộn nhào về phía sau, chiếc túi lăn khỏi tay anh ta, đầu anh ta đập mạnh vào lan can cầu thang tòa nhà. “Con ranh khốn kiếp!” Anh ta quát lên. Anh ta còn chưa kịp ngồi dậy, Tray đã đứng lên. Quơ lấy chiếc túi giấy, nó nhấc ba lô lên, chạy như bay xuống năm bậc thềm, vơ vội cái chăn, chạy xuống phố Mercer. Anh ta sẽ không đuổi theo con bé; chúng hiếm khi làm thế, nhưng đôi khi… “Cút ngay khỏi chỗ này! Để tao bắt mày lại, tao sẽ báo cảnh sát!” Khi Tray thu hết can đảm ngoái đầu lại nhìn, Emmitt đã đứng dậy, đang nhặt nhạnh mấy thứ, xô mạnh cánh cửa đi vào tòa nhà. Kể cả từ khoảng cách xa như thế, nó hình dung mình cảm nhận được hơi ấm từ khu tiền sảnh đó. Nó vẫn không giảm tốc độ chạy tới khi đến trước cổng Nghĩa trang Rose Hill. Vào giờ này, cổng nghĩa trang đã khóa, nhưng con bé vốn gầy còm, nên một lúc sau nó đã lách qua được hàng chấn song bằng sắt rèn sang được bên kia cổng, sau lưng kéo theo ba lô và cái chăn. Chicago có mái ấm dành cho người vô gia cư, nhưng trước nó đã từng đi qua tuyến đường ấy. Vào giờ này chỗ đấy đã khóa cửa. Họ thường đóng cửa tất cả vào quãng từ bảy giờ tối đến nửa đêm, ngoài giờ ấy không nhận thêm bất kỳ ai nữa. Ngay cả nếu có, cũng chẳng thể tìm nổi một chỗ ngủ. Bên trong kín người hết rồi. Đôi khi người ta xếp hàng dài ngay từ trưa, không bao giờ có đủ chỗ. Hơn nữa, lang thang trên phố Tray cảm thấy an toàn hơn. Bọn “Emmitt” xuất hiện khắp nơi, đặc biệt là trong những mái ấm, điều duy nhất tồi tệ hơn việc đâm phải một tên Emmitt trên hiên tòa nhà, hay trong một con ngõ khuất gió nào đó, là bị mắc kẹt trong mái ấm cúng một tên như thế. Đôi khi không chỉ một tên. Bọn Emmitt có xu hướng lập nhóm săn mồi theo bầy. Tray không sợ nghĩa trang. Sau hai năm lang thang trên phố, nó từng ngủ ở mỗi nghĩa trang ít nhất một lần. Rose Hill là một trong những địa điểm ưa thích của nó, xét ở phương diện các khu nhà mồ. Không giống Oakwood hoặc Graceland, Rose Hill không khóa cửa các khu nhà mồ về đêm. Nhân viên bảo vệ dù vẫn có vài người, nhưng vào đêm lạnh lẽo như đêm nay, họ thà ngồi trong văn phòng chơi bài, xem ti vi hoặc ngủ vùi. Nó đã ngắm chán họ qua những ô cửa sổ. Con bé mạnh bước vào ngõ Tranquility qua lớp tuyết mới. Nó không lo lắng nếu có để lại dấu chân, vì biết gió sẽ lại xóa hết. Nhưng chẳng có lý do gì phải liều, nên sau khi lên tới đỉnh đồi, thay vì rẽ trái tại đường Bliss, nó đi cắt ngang qua Tranquility rồi ngoặt xuống con đường mòn nhỏ qua rừng chạy song song bên này đường Bliss. Cho dù không có đèn nhưng mặt trăng gần như tròn vành vạnh, và khi mặt hồ phản chiếu ánh trăng lọt vào tầm mắt, Tray không thể ngăn mình dừng chân nhìn ngắm. Bề mặt băng giá lấp lánh dưới lớp tuyết mỏng vừa rơi. Các bức tượng cẩm thạch lặng lẽ đứng dọc mép nước, ở giữa chúng là những chiếc ghế băng dài. Đúng là một chốn thanh bình. Rất tĩnh lặng. Ban đầu Tray không nhìn thấy cô ta, cô gái đang quỳ bên mép nước, ngoảnh mặt nhìn ra hướng khác. Mái tóc vàng buông xõa sau lưng. Trông cô ta như một trong các bức tượng, bất động, đang đối diện mặt hồ kia. Làn da cô ta nhợt nhạt, gần như trắng bệch, gần như không chút huyết sắc trong bộ đồ màu trắng. Đôi bàn chân cô ta để trần, không mang giày, không mặc áo khoác, chỉ mặc chiếc váy trắng được làm bằng thứ chất liệu mỏng đến nỗi như trong suốt. Đôi bàn tay cô ta siết chặt vào nhau gần ngực như thể đang cầu nguyện, đầu cô ta nghiêng sang một bên. Tray không nói gì, chỉ đến gần hơn. Đủ gần để nhận ra một lớp tuyết mỏng đã kịp phủ kín tất cả những gì đã khoác lên người cô gái. Và khi nó bước vòng sang phía bên kia cô gái, nó nhận ra đây không phải cô gái, mà là một người đàn bà. Sắc trắng tuyệt đối của cô ta, trên từng milimét trên cơ thể cô ta bị phá vỡ nhờ vệt máu đỏ tươi trải dài từ dưới tóc xuống một bên mặt. Thêm một vệt nữa từ con mắt trái của cô ta, một dòng lệ đỏ tươi, dòng thứ ba chảy xuống từ một bên khóe miệng - dòng máu này họa đôi môi cô ta thành đóa hồng rực rỡ nhất. Thứ gì đó được viết trên trán cô ta. Chờ đã, không phải là được viết. Trên hai đầu gối đang quỳ dưới tuyết của cô ta là một cái khay đựng đồ bằng bạc. Thứ bạn có thể thấy tại một bữa tiệc tối ngon miệng, một nhà hàng đắt tiền, đại loại những nơi mà cho dù đã mươi bốn tuổi, Tray cũng biết nó chỉ có thể thấy chúng trên ti vi hay trong những bộ phim. Trên khay là ba chiếc hộp nhỏ, màu trắng. Mỗi chiếc đều được buộc chặt bằng một mảnh vải đen. Phía sau những cái hộp, tựa vào ngực người đàn bà, là tấm biển bằng bìa các tông, giống những tấm biển Tray thường giơ lên để xin tiền mua đồ ăn. Có khác chăng con bé chưa bao giờ viết lên tấm biển những chữ như thế này. Trên tấm biển chỉ viết: CHA HÃY THA THỨ CHO CON Tray làm một việc duy nhất nó có thể làm: Bỏ chạy. Mời các bạn đón đọc Đứa Trẻ Thứ Sáu của tác giả J. D. Barker & Nguyễn Quang Huy (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Hợp Âm Thứ Bảy - Lý Trà
Mã Tu Hòa đã từng tiếp xúc với rất nhiều hồ sơ tội phạm hung ác. Duy chỉ có người phụ nữ hàng xóm là anh không thể nhìn thấu, cô là người cứu mạng anh nhưng đồng thời cũng là nghi phạm trong một vụ kỳ án....Càng tiếp cận anh lại càng để ý cô. Còn đối với Cố Thất Hải thì Mã Tu Hòa chính là người trong lòng. Giữa trời rực lửa, anh nhẹ nhàng cầm tay cô và nói: "Chúng ta sẽ cùng nhau chạy thoát cùng nhau sống xót" Ngay tại thời điểm đó cô đã biết trong tim mình có anh. Mã Tu Hòa không hoàn mỹ, tính tình hay ghen, lại vô cùng háo sắc...nhưng điều đó chỉ đối với mình cô. Cuộc sống của anh đầy rẫy những nguy hiểm và tội ác nhưng vì anh cô nguyện ý tất cả. *** Mùa hè năm nay dường như tới sớm hơn những năm trước, dưới nắng hè chói chang, một mình Cố Thất Hải mang hai chiếc vali hành lý chuyển đến dưới tầng nhà trọ mới, bước chân có chút không vững, tiếng chuông điện thoại trong túi vang lên. Cô lau mồ hôi trên trán, lấy ra điện thoại xem, quả nhiên là bà chủ nhà gọi đến. Lần này Cố Thất Hải thuê nhà của một người phụ nữ trung niên hay sốt ruột. Cuộc gọi này chắc chắn là giục cô nhanh chóng lên phòng gặp bà. Cô cắn môi, kéo nhanh đồ đạc vào thang máy, một phút sau liền có mặt ở tầng 11. Đúng như Cố Thất Hải đóan, bà chủ nhà lòng đã nóng như lửa đốt đứng đợi cô trước thang máy. “Nhanh lên nào, tí nữa thím còn có hẹn đi chơi mạt chược nữa.” Bà chủ nhà nhanh chóng kéo Cố Thất Hải vào phòng 1102, vội vàng nói cho cô về mấy điểm cần lưu ý khi thuê nhà. Cố Thất Hải ngoan ngoãn đứng một bên lắng nghe, dù sao người đang gấp là chủ nhà nên bà cũng chủ động nói ngắn gọn. Sau một hồi nói chuyện, bà chủ nhà liền giao chìa khóa nhà cho Cố Thất Hải, thuận miệng hỏi: “Hình như cháu vẫn còn là sinh viên phải không? Tiền thuê nhà là do cha mẹ hỗ trợ sao?” Cố Thất Hải ậm ừ: “Cháu… Cháu đi làm thêm kiếm tiền.” Bà vỗ vỗ vai cô: “Người do A Diễn giới thiệu thím rất tin tưởng. Nhớ đúng thời hạn trả tiền cho thím, những chuyện khác cháu liền tùy ý.” Nói xong bà chủ nhà liền nhìn thời gian rồi vội vàng chạy vào thang máy rời đi. Cố Thất Hải nhớ ra, vừa rồi khi đi theo bà chủ nhà cô liền để lại hai vali đồ đạc ở trước cửa thang máy. Khi nãy vừa nghe bà chủ nói chuyện cô vừa chú ý động tĩnh ngoài hành lang. Trừ bỏ tiếng người về ở gian phòng bên cạnh cô đều không nghe thấy gì khác, nên cũng không lo lắng việc có người lấy trộm mất đồ. Cô định đi ra ngoài mang đồ vào, nào ngờ vừa mở cửa ra liền thấy hai chiếc vali đang nằm yên lặng trước cửa. Cô ngó ra bên ngoài, nơi này chỉ có ba căn hộ. Nhà cô ở là 1102, bên cạnh là số nhà 1101 và đối diện là 1103. Như vậy tiếng bước chân cô vừa nghe được là của chủ nhà 1101, có lẽ người đó vừa giúp cô chuyển hành lý đến trước cửa. Khi nào đó nhất định phải tìm cơ hội cảm ơn người ta mới được. Cố Thất Hải yên lặng nhớ kĩ chuyện này rồi bắt đầu chuyển đồ đạc vào nhà mới, bắt đầu sắp xếp mọi thứ. Một lúc sau, người cô nhễ nhại mồ hôi, vừa trải xong ga giường đột nhiên nghe thấy chuông báo tin nhắn vang lên. Là của người giới thiệu phòng. Hà Diễn hỏi cô: “Cảm thấy nhà mới thế nào?” ... Mời các bạn đón đọc Hợp Âm Thứ Bảy của tác giả Lý Trà.
Huyễn Hoặc Của Tội Lỗi - Alexandra Marinina
Nữ thám tử Nastya Kamenskaya đối mặt với một vụ án giết người với nạn nhân là một phụ nữ lớn tuổi sống cô đơn một mình. Trong nhà có nhiều của quí nhưng kẻ gian đã không đúng đến. Từ cái chết của bà lão, Nastya tiếp tục đối đầu với nhiều cái chết khác, và dấu vết dẫn cô đến tận Ucraina với một tổ chức tội phạm và những âm mưu tưởng như không tưởng.. Huyễn hoặc của tội lỗi được đánh giá là một trong những tác phẩm hay của Alexandra Marinina, nếu bạn vượt qua được lối kể chuyện rề rà, những tình huống rối rắm đan xen để đi đến cái kết, bạn sẽ thấy mình không bỏ thời gian uổng phí. *** Nhìn vào căn phòng ấy, với cái xác người phụ nữ có tuổi nằm sóng sượt, có cái gì đó khơi dậy các câu chuyện của Dostoievsky. Án mạng người đàn bà làm nghề cho vay nặng lãi. Tuy vậy, theo các chứng liệu ban đầu, bà ta không làm chuyện cầm cố và không biến nhà mình thành hiệu cầm đồ. Hơn nữa, quang cảnh trong căn hộ xây từ thời Xtalin chứng tỏ sự dư dật và nguồn gốc quí tộc của chủ nhân. Nơi đây nhà bác học nổi tiếng, viện sĩ Smagorin đã từng sống, nhưng đó là lâu lắm rồi. Người đã khuất, Ekaterina Venediktovna Aniskovets, là con gái của ông. Đã ba lần kết hôn và ngần ấy lần đổi họ, nhưng chỗ ở thì không. Ở trong tòa nhà này, có lẽ bà sống lâu hơn tất cả các cư dân khác. Có điều căn hộ của bà vẫn còn là riêng, những căn khác đã từ lâu biến thành các căn hộ chung cư bị đổi chủ xoành xoạch. Họ hoặc được cấp hoặc mua nhà ở mới và chuyển đi, những người khác dọn đến nhờ sang đổi với người thân hoặc vợ hay chồng mình. Các cánh cửa căn hộ đều bị đục nham nhở để lắp chuông và giá gác danh thiếp, và chỉ có cửa căn hộ của Ekaterina Venediktovna có một cái chuông duy nhất và một bảng kim loại có đề Viện sĩ N.V. Smagorin. Viên giám định pháp y xem xét tử thi, chuyên viên chấp pháp hình sự thì bói toán trên các dấu vết. Án mạng hẳn là vụ lợi, được thực hiện với mục đích cướp của, vì căn hộ rất sang trọng bị xáo trộn đến dễ sợ. Thấy ngay là người ta muốn tìm kiếm cái gì đó. - Nạn nhân có bà con gì không ? - Dự thẩm viên Olshansky hỏi người hàng xóm được mời sang chứng kiến. - Tôi không biết, - người thiếu phụ mặc đồ thể thao đáp một cách thiếu quả quyết - Tôi mới ở đây không lâu, trọn nửa năm. Nhưng tôi được nghe rằng bà ấy không con cái gì. - Ai ở tòa nhà này có thể kể điều gì đó về bà Aniskôvets ? Ai đã sống lâu ở đây ? - Ôi, tôi chịu thôi - người hàng xóm lắc đầu. Ở đây tôi ít tiếp xúc với mọi người, tôi chỉ là người thuê phòng. Bà chủ mua căn hộ rồi cho thuê từng phòng. Tôi là dân tị nạn - bà này tiếp lời. - từ Tadjikistan. Ở đây mọi người tránh né tụi tôi như dịch bệnh, tuồng như chúng tôi có thể truyền nhiễm. Bởi vậy họ có chuyện trò gì lắm với chúng tôi đâu. Quả là vị hàng xóm này không được tích sự gì. Giờ thì phải đi lòng vòng từng căn hộ để gom góp đôi chút chứng liệu về người đàn bà có tuổi đã bị sát hại dã man bằng một vật nặng đập vào gáy. Với cư dân tòa nhà này, người quá cố Ekaterina quả thật đã hầu như không tiếp xúc , tuy vậy cháu chắt và người quen của bà không phải là ít. Là dân Matxcơva gạo cội, bà lớn lên ở đây. Tốt nghiệp phổ thông và đại học tổng hợp, rồi làm ở Bảo tàng Lịch sử. Và đã kết giao bè bạn ở mọi nơi. Tất nhiên đến hôm nay không phải tất cả họ đều còn sống. Nhưng dù sao số người còn có thể kể về nạn nhân vẫn khá nhiều. ... Mời các bạn đón đọc ​Huyễn Hoặc Của Tội Lỗi của tác giả Alexandra Marinina.
Vụ Ám Sát Ông Roger Ackroyd - Agatha Christie
Ở làng King’s Abbot, vụ tự sát của bà góa Ferrars làm dấy lên đồn đoán rằng bà đã giết chồng, bị tống tiền và có quan hệ mờ ám với ông Roger Ackroyd, một người giàu có trong làng. Tối hôm sau, ông Ackroyd bị giết trong phòng làm việc trước khi phát hiện được ai là kẻ tống tiền người đàn bà góa. Thám tử lừng danh Hercule Poirot ra tay phá án, với sự trợ giúp của bác sĩ James Sheppard. Xuất bản lần đầu năm 1926, Vụ ám sát ông Roger Ackroyd nhanh chóng trở thành hiện tượng xuất bản và sau này được coi là tác phẩm kinh điển của dòng văn học trinh thám phổ thông, mở ra một kỷ nguyên mới cho văn chương thể loại này *** Cách đây không lâu Agatha Christie, nữ nhà văn Anh nổi tiếng, chuyên viết truyện trinh thám, đã qua đời, hưởng thọ trên chín mươi tuổi. Truyện đầu tay của bà xuất hiện năm 1920. Suốt trên sáu mươi năm cầm bút, bà đã viết hàng mấy trăm truyện về tiểu thuyết trinh thám. Nhiều nước trên thế giới đã dịch in tuyển tập của bà, hoặc dựng thành phim. Agatha Christie khác với một số khá đông các nhà văn viết truyện trinh thám phương Tây. Bà không lạm dụng những sự việc rắc rối bí ẩn hoặc bất ngờ để làm chốt dẫn truyện. Bà chú ý đi sâu vào tâm lý con người. Nhân vật các truyện của bà bao giờ cũng được đặt vào những tình huống tâm lý xã hội phức tạp. Câu chuyện phát triển theo sự diễn biến của tâm cảnh các nhân vật và được giải quyết qua cách nhìn nhận thấu đáo cơ sở tâm lý xã hội của những hành động phạm pháp. Ngôn từ các nhân vật trong các truyện của bà rất phong phú thể hiện được tính cách nguồn gốc xã hội của họ, từ giới thượng lưu đến bọn lưu manh đao búa, đồng thời vẫn giữ vẻ độc đáo, gọn gàng, chính xác của tiếng Anh hiện đại. Do đó, như nhà nữ phê bình người Mỹ Ruth Penison đã viết: "Những truyện của Agatha Christie đã phác họa cho các thế hệ mai sau một bức tranh sinh động và chính xác về xã hội nước Anh hiện tại mà bà am hiểu rất tường tận." *** Bà Ferrars chết vào đêm hôm thứ năm, giữa hai ngày 16 và 17 tháng 9. Người ta gọi tôi đến vào lúc 8 giờ sáng ngày thứ sáu, song tôi không thể làm gì hơn được nữa. Bà ta đã chết được mấy tiếng đồng hồ rồi. Vào khoảng 9 giờ hơn, tôi về đến nhà. Cửa đóng kín. Tôi lặng lẽ mở bằng chiếc chìa khóa riêng, treo áo và mũ ở phòng ngoài. Tôi đứng yên một lúc; một cảm giác nặng nề và lo lắng đè nặng lên tôi. Không biết cái gì sẽ xảy ra sau đây, chắc chắn là tôi không thể đoán được. Nhưng trong đầu tôi cứ quay cuồng một ý nghĩ rằng trong thời gian tới đây, sẽ có nhiều điều bất ngờ nữa xảy ra như cái chết của bà Ferrars. Như người ta thường nói: Những gì con người không hy vọng thì luôn luôn xảy đến. Trong bếp có tiếng cốc va chạm nhau lách cách và một giọng nói khô khan vọng ra, đó là giọng của chị gái tôi: Caroline. - Cậu đã về đấy à, James? Một câu hỏi vô nghĩa, nếu không phải là tôi thì còn là ai khác nữa cơ chứ? Tôi vẫn im lặng không muốn trả lời, chính bà chị tôi là nguyên nhân của sự im lặng này. Caroline là một người đàn bà rất thóc mách và thậm chí còn hơn thế nữa, nếu người ta đề cập đến một vấn đề hay câu chuyện nào đó ở ngoài cái nhà này, Caroline có thể tìm mọi cách để biết cho bằng được những câu chuyện không đâu ra đâu của thiên hạ, mặc dù bà ta vẫn chỉ ngồi ở nhà. Tôi không biết bà chị tôi làm việc đó như thế nào, chỉ biết là bà ấy làm được thôi. Đó cũng chính là nguyên nhân tại sao tôi phải câm miệng. Tất cả những điều tôi sắp phải kể cho Caroline nghe bây giờ, xung quanh cái chết của bà Ferrars, có thể là những điều mà toàn thị trấn này đã được biết cách đây một giờ đồng hồ rồi. Song, bà chị tôi lại luôn luôn muốn biết những cái gì mà những người khác không biết cơ, đó đâu phải là lỗi của tôi. Chồng bà Ferrars bị chết cách đây đã được hơn một năm. Mỗi khi nói về cái chết của ông Ferrars, Caroline vẫn hay khẳng định rằng: Ông Ferrars chết là do bị bà vợ đầu độc. Caroline khẳng định như vậy không dựa trên một chứng cứ hoặc lý lẽ nào và thường xuyên cãi lại khi tôi nói rằng ông Ferrars chết vì bệnh dạ dày quá nặng, thêm vào đó, ông ta còn có thói quen uống rượu mạnh nhiều một cách kinh khủng. Đây là một bằng chứng đúng đắn vì hậu quả của nó đối với bệnh này của ông Ferrars cũng giống như kết quả của một vụ đầu độc. Nhưng Caroline không bao giờ dựa trên cơ sở này để đánh giá lại về bà Ferrars cả, mà vẫn buộc tội bà ấy là một kẻ giết người. - Cậu chỉ cần quan sát kỹ là hiểu ngay bà ta là một người như thế nào - Caroline vẫn thường nói với tôi như vậy. Tôi vẫn do dự đứng ngoài phòng khách không muốn vào và đang suy nghĩ về tất cả những điều đó thì giọng nói gắt gỏng của bà chị tôi lại vọng ra: - Cậu đang làm gì ngoài ấy thế hả, James? Sao không vào đây mà ăn sáng đi? ... Mời các bạn đón đọc Vụ Ám Sát Ông Roger Ackroyd của tác giả Agatha Christie.
Con Mồi Táo Bạo - Erle Stanley Gardner
Mason bảo vệ một người dính vào cuộc chiến cổ phiếu, bị cáo buộc giết hại thư ký của đối thủ. *** Theo GUINNESS, quyển sách ghi các kỷ lực thế giới, Erle Stanley Gardner được ghi nhận là tác giả sách bán chạy nhất của mọi thời đại. - Erle Stanley Gardner có trên 150 tác phẩm trinh thám tin cậy, đáng giá và hợp thời đại. - Erle Stanley Gardner, người đã tạo nên nhân vặt truyền kỳ luật sư Perry Mason, cô thư ký tinh ý Della Street, và viên thám tử tài ba Paul Drake. - Erle Stanley Gardner, tác giả duy nhất có sách bán chạy hơn cả bốn tác giả nổi tiếng khác cộng lại gồm: Agathe Chistie, Harold Robbins, Barbara Cartland và Louis L’amour   *** Một số tác phẩm đã được xuất bản tại Việt Nam:   1. Móng vuốt bọc nhung (Đôi tất nhung) [Perry Mason #1 - The Case of the Velvet Claws] (1933) 2. Cháu gái người mộng du [Perry Mason #8 - The Case of the Sleepwalker's Niece] (1936) 3. Vị giám mục nói lắp [Perry Mason #9 - The Case of the Stuttering Bishop] (1936) 4. Kẻ hùn vốn [Perry Mason #17 - The Case of the Silent Partner] (1940) 5. Con vịt chết chìm (Mười tám năm sau) [Perry Mason #20 - The Case of the Drowning Duck (Le Canard Qui Se Noie)] (1942) 6. Cô gái có vết bầm trên mặt [Perry Mason #25 - The Case of the Black-Eyed Blonde (La Blonde au Coquard)] (1944) 7. Lá thư buộc tội [Perry Mason # 44 - The Case of the Runaway Corpse] (1954) 8. Viên đạn thứ hai [Perry Mason #45 - The Case of the Restless Redhead] (1954) 9. Con mồi táo bạo [Perry Mason #54 - The Case of the Daring Decoy] (1957) 10. Kẻ mạo danh [Perry Mason #64 - The Case of the Spurious Spinster] (1961) 11. Người đàn bà đáng ngờ [Perry Mason #69 - The Case of the Mischievous Doll] (1963) 12. Vụ Án Hoa Hậu Áo Tắm [The Case of the Queenly Contestant] 13. Kẻ Giết Người Đội Lốt [Perry Mason #40 - The Case of the Grinning Gorilla] (1952)   *** Jerry Conway lật tờ báo đến trang sáu. Cùng một đề tài như vậy cả tuần nay rồi. Đó là bài báo quảng cáo chiếm hết nửa trang với tựa đề: “HỘI ĐỒNG CỔ ĐÔNG ỦY NHIỆM”. Bài báo được viết một cách khôn khéo với lời lẽ chứng tỏ bề ngoài đầy sự thực: Quý vị cổ đông của hãng “Tìm kiếm và khai thác dầu mỏ California - Texas” đã đầu tư cho hãng bởi vì quý vị muốn có lợi túc. Quý vị muốn có lợi tức để sử dụng cho chính quý vị, cho con cháu cũng như cho những người thừa kế. Nhưng quý vị đã nhận được gì? Ngoài sự hoàn toàn trông cậy vào may rủi, ông Giám đốc Jerry Conway đã làm được gì cho quý vị? Ông ta nói nào là phát triển, nào là xây dựng và nào là ông ta đang đặt một nền tảng vững chắc cho Công ty. Nhưng đó không phải là con đường của những chuyên viên thượng thặng bậc nhất lựa chọn. Các chuyên viên này đã nhận định rằng Jerry Conway chỉ đang đặt nền tảng trên bãi cát. Quý vị muốn có lợi tức, quý vị muốn có hành động. Quý vị muốn có lợi tức ngay bây giờ, năm tới hoặc trong năm tới nữa chứ không phải là mười hay hai mươi năm sau. Vậy xin quý vị hãy gửi phiếu ủy nhiệm cho Gifford Farrell. Gifford Farrell sẽ đảm nhận trọng trách giao phó và công việc sẽ phát triển tốt đẹp. Farrell chỉ bảo đảm bằng kết quả chứ không phải bằng lời hứa. Farrell chỉ bảo đảm bằng hành động chứ không phải tà tà, bằng quyết định chứ không phải bằng mơ hồ và bằng thành tích chứ không phải bằng hy vọng. Conway gấp tờ báo lại. Ông thấy rằng bài báo quảng cáo đó sẽ có kết quả và ông thấy mình bị tổn thương. Theo Hội đồng Cổ đông ủy nhiệm thì thật ra hoàn toàn do may mắn nên Công ty tìm kiếm và khai thác dầu mỏ California - Texas đã được nằm trong tổ hợp Turkey Ridge. Và do đó Jerry Conway đã tạo được một lợi tức lớn cho công ty và nâng giá trị của chứng khoán. Đúng ra thì Jerry Conway đã có dự trù đầu tư Công ty vào một tổ hợp khác cũng có tiềm lực mạnh tương đương với tổ hộp Turkey Ridge, nhưng lại không thành công. Gifford Farrell đã từng bị mất ảnh hưởng trong Công ty ngay từ đầu và đã bị Ban giám đốc cách chức, và bây giờ ông ta khởi sự lại cuộc chiến dành quyền ủy nhiệm. Ông ta quyết dành giật lấy quyền điều khiển Công ty từ tay Conway. Ai đã hậu thuẫn cho Farrell? Nguồn tài chính nào đã yểm trợ cho các quảng cáo trên báo chí? Conway rất muốn biết và cần phải biết để tìm cách đối phó. Kế hoạch đầu tư tổng quát chính yếu của Conway phải được thi hành một cách âm thầm. Giờ phút nào Conway để lộ ra kế hoạch, giờ phút đó coi như thất bại. Giá của các tài sản mà Conway hy vọng thu mua được sẽ tự động tăng vọt lên liền. Conway không thể giải thích trên báo chí được. Conway có ý định sẽ báo cáo trước đại hội đồng cổ đông và hy vọng rằng hầu hết các cổ đông lớn sẽ tham dự và sẵn sàng hậu thuẫn cho mình. Nhưng còn các cổ đông nhỏ hơn? Những cổ đông mà họ đầu tư đây một chút, kia một chút, những cổ đông mà họ chỉ muốn thấy hành động và lợi nhuận trước mắt? Liệu những người này sẽ đứng trong hàng ngũ Conway hay họ sẽ bỏ phiếu ủy nhiệm cho Farrell? Theo nghiên cứu các tài liệu cho biết, có khá nhiều các cổ đông nhỏ đã từng nắm được quyền điều khiển Công ty, với điều kiện là họ đoàn kết thành một khối. Nếu Farrell nắm được cái phiếu ủy nhiệm của họ có nghĩa là họ đã đoàn kết thành một khối. Tuy nhiên, nếu Gifford Farrell không thu thập được tối thiểu 60 phần trăm các cổ đông nhỏ này, và “nếu” Conway có khả năng nắm được các cổ đông lớn trong đại hội cổ đông thì mọi chuyện sẽ ổn thỏa. Tuy nhiên đó chỉ là hai chữ “Nếu” to tướng và hiện tại Jerry Conway chưa tìm được giải pháp. ... Mời các bạn đón đọc Perry Mason #54: Con Mồi Táo Bạo của tác giả Erle Stanley Gardner.