Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Bút Ký Đường Tăng - Đại Đường Tây Vực Ký

Có lẽ hình ảnh Tam Tạng pháp sư Huyền Trang (600-664) đi thỉnh kinh là một trong những hình ảnh gây nhiều ấn tượng sâu sắc và in sâu vào tâm thức của đa số người Việt Nam chúng ta nhất. Con người ấy đã vì pháp quên mình, cô thân chích ảnh, trải bao hiểm nguy, băng ngàn vượt suối, đến tận đất Phật, trong thời buổi đường đi chỉ là những lối mòn hoang sơ đầy bấc trắc, để tìm thầy học đạo suốt 17 năm trời, rồi thỉnh về nước 657 bộ kinh Phật bằng tiếng Ấn Độ. Thế nhưng, ngoài công trình Tây hành cầu pháp, phiên dịch Kinh điển, Pháp sư còn để lại tập sử liệu rất đặc sắc, " Đại Đường Tây Vực Ký ". Trong tập bút ký này, Huyền Trang đã ghi chép về 138 nước, mà phần lớn Pháp sư đã từng đặt chân đến, rồi dùng ngòi bút của một sử gia chuyên nghiệp, ghi chép rất cẩn thận. Nội dung tổng hợp cả tính Lịch sử, Địa lý và đầy đủ các giá trị văn hoá của từng nước. Có thể nói đây là một tư liệu văn hiến rất trọng yếu dùng để nghiên cứu lịch sự Phật giáo, lịch sử giao lưu giữa các nước vùng Trung Á, Nam Á. ( Hoà thượng Thích Phước Sơn Phó viện trưởng Viện nghiên cứu Phật học Việt Nam )   Mục lục: Lời giới thiệu của hoà thượng Thích Phước Sơn Đôi nét về tác giả Trần Huyền Trang Nhà chú giải Nhuế Truyền Minh Giới thiệu những vấn đề xung quanh tác giả và tác phẩm " Đại Đường Tây Vực Ký " Đại Đường Tây Vực Ký (Quyển 1) Từ nước A Kỳ đến thuỷ thành Tô Diệp Nước A Kỳ Ni (AGNI) Nước Khuất Chi Nước Khuất Chi ( Tiếp 1) Nước Khuất Chi ( Tiếp 2) Nước Khuất Chi ( Tiếp 3) Nước Bạc Lộc Già Từ Lăng Sơn đến Đại Thanh Trì Thuỷ thành Tố Diệp Địa khu tốt lợi Tổng thuật Địa khu tốt lợi Thiên truyền Thánh Đát La Tư ............. Đại Đường Tây Vực Ký (Quyển 2) Tổng thuật nước Ấn Độ Danh xưng Ấn Độ Cương vực Đơn vị đo chiều dài Tuế thời Nhà ở, cung điện Y phục và trang sức Ăn uống Chữ viết Giáo dục ............ Đại Đường Tây Vực Ký (Quyển 3) Nước Điểu Trượng Na và nước Bát lộ la Nước Điểu Trượng Na Nước Điểu Trượng Na (Tiếp 1) Nước Điểu Trượng Na (Tiếp 2) Nước Điểu Trượng Na (Tiếp 3) Nước Điểu Trượng Na (Tiếp 4) Nước Điểu Trượng Na (Tiếp 5) ................ Đại Đường Tây Vực Ký (Quyển 12) Nước Tào Cự Thác nước Phất Lật Thị Tát Thảng Na Nước tảo Củ Thác Nước Phất Lật Thị Tát Thảng Na Nước Phất Lật Thị Tát Thảng Na ( Tiếp) Nước Đổ Hóa La Cổ Địa Nước An Đát La Phược Hoạt Quốc Năm nước: Mông Kiện, A Lợi Ni, Hạt La Hồ, Cật Lật Sắc Ma, Bát Lợi Hạt ............. Từ Đại Lưu sa trên đường đi về nước *** Quý vị đang cầm trên tay quyển “Đại Đường Tây Vức Ký” được chuyển dịch từ chữ Hán sang tiếng Việt là do kết quả của sự miệt mài dịch thuật của chúng tôi từ ngày 24 tháng 10 năm 2003 đến ngày 10 tháng 12 năm 2003 tại Tu Viện Đa Bảo, Úc Đại Lợi nhân mùa nhập thất lần đầu tại đây. Xin tạ ơn Tam Bảo đã chiếu soi cho chúng con để lần dò từng câu văn, từng ý chữ mà Ngài Huyền Trang, một bậc danh tăng đời Đường đã thể hiện trọn vẹn hết tâm ý khi đi chiêm bái, học hỏi và ghi lại nơi Thánh Địa ròng rã trong 17 năm trời. Để rồi về lại kinh đô Tràng An với 657 bộ kinh bằng chữ Phạn. Ngài trải qua 110 nước và về sau cùng 100 vị Cao Tăng Học giả đương thời, dưới quyền chủ tọa của Ngài, phiên dịch suốt trong vòng 19 năm, kể từ khi Ngài về lại Tràng An Trung Quốc, vào ngày 24 tháng giêng năm 645 (năm Trinh Quán thứ 19 đời nhà Đường). Ngài lên đường ra đi khỏi Trung Quốc vào năm Trinh Quán thứ 3 đời nhà Đường tức năm 628, lúc ấy Ngài đã 33 tuổi. Như vậy Ngài sinh vào năm 595 và Ngài thị tịch vào ngày mồng 5 tháng 2 năm 664, tại Ngọc Hoa Cung, hưởng thọ 69 tuổi. Ngài về lại Kinh Đô đúng 50 tuổi và chủ trì phiên dịch trong 19 năm ròng rã như thế và ngày nay Ngài đã để lại cho hậu thế một gia tài Pháp Bảo vô giá mà đông tây kim cổ khó có người thứ hai sánh kịp. Đây là một tập sách gồm 12 quyển và hai lời tựa được đăng trong Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, quyển thứ 51 thuộc Sử Truyện, bộ thứ 3 từ trang 867 đến trang 948, theo thứ tự kinh văn số 2087. Chỉ có 81 trang kinh mà chúng tôi phải dịch ròng rã gần 2 tháng dài. Mỗi ngày từ 5 đến 6 tiếng đồng hồ và kết quả là hơn 460 trang sách khổ A5 và gồm 127.264 chữ, như quý vị đang đọc. Đại Tạng Kinh không chỉ có một quyển mà cả một trăm quyển như thế. Mỗi quyển dày từ 1000 đến 2000 trang. Nếu một người để cả một đời ra đọc chưa chắc gì đã hết, đừng nói đến vấn đề phiên dịch.   Bây giờ Phật Giáo Việt Nam đã bắt đầu cho phiên dịch nhiều phần từ Kinh, Luật, Luận trong Đại Tạng Kinh ra tiếng Việt. Trong đó phải nói rằng về phần Kinh Văn, Hòa Thượng Thích Trí Tịnh, Cố Đại Lão Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm, Cố Hòa Thượng Thích Thiện Siêu, Cố Hòa Thượng Thích Huệ Hưng đã đóng góp dịch thuật phần chính. Về Luật Tạng có Cố Hòa Thượng Thích Hành Trụ, Cố Hòa Thượng Thích Thiện Hòa, Cố Hòa Thượng Thích Trí Thủ, Cố Hòa Thượng Thích Trí Minh, Hòa Thượng Thích Đổng Minh v.v..... Về Luận Tạng có Cố Hòa Thượng Thích Khánh Anh, Cố Hòa Thượng Thích Thiện Hoa, Cố Hòa Thượng Quý vị đang cầm trên tay quyển “Đại Đường Tây Vức Ký” được chuyển dịch từ chữ Hán sang tiếng Việt là do kết quả của sự miệt mài dịch thuật của chúng tôi từ ngày 24 tháng 10 năm 2003 đến ngày 10 tháng 12 năm 2003 tại Tu Viện Đa Bảo, Úc Đại Lợi nhân mùa nhập thất lần đầu tại đây. Xin tạ ơn Tam Bảo đã chiếu soi cho chúng con để lần dò từng câu văn, từng ý chữ mà Ngài Huyền Trang, một bậc danh tăng đời Đường đã thể hiện trọn vẹn hết tâm ý khi đi chiêm bái, học hỏi và ghi lại nơi Thánh Địa ròng rã trong 17 năm trời. Để rồi về lại kinh đô Tràng An với 657 bộ kinh bằng chữ Phạn. Ngài trải qua 110 nước và về sau cùng 100 vị Cao Tăng Học giả đương thời, dưới quyền chủ tọa của Ngài, phiên dịch suốt trong vòng 19 năm, kể từ khi Ngài về lại Tràng An Trung Quốc, vào ngày 24 tháng giêng năm 645 (năm Trinh Quán thứ 19 đời nhà Đường). Ngài lên đường ra đi khỏi Trung Quốc vào năm Trinh Quán thứ 3 đời nhà Đường tức năm 628, lúc ấy Ngài đã 33 tuổi. Như vậy Ngài sinh vào năm 595 và Ngài thị tịch vào ngày mồng 5 tháng 2 năm 664, tại Ngọc Hoa Cung, hưởng thọ 69 tuổi. Ngài về lại Kinh Đô đúng 50 tuổi và chủ trì phiên dịch trong 19 năm ròng rã như thế và ngày nay Ngài đã để lại cho hậu thế một gia tài Pháp Bảo vô giá mà đông tây kim cổ khó có người thứ hai sánh kịp. Đây là một tập sách gồm 12 quyển và hai lời tựa được đăng trong Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, quyển thứ 51 thuộc Sử Truyện, bộ thứ 3 từ trang 867 đến trang 948, theo thứ tự kinh văn số 2087. Chỉ có 81 trang kinh mà chúng tôi phải dịch ròng rã gần 2 tháng dài. Mỗi ngày từ 5 đến 6 tiếng đồng hồ và kết quả là hơn 460 trang sách khổ A5 và gồm 127.264 chữ, như quý vị đang đọc. Đại Tạng Kinh không chỉ có một quyển mà cả một trăm quyển như thế. Mỗi quyển dày từ 1000 đến 2000 trang. Nếu một người để cả một đời ra đọc chưa chắc gì đã hết, đừng nói đến vấn đề phiên dịch. Bây giờ Phật Giáo Việt Nam đã bắt đầu cho phiên dịch nhiều phần từ Kinh, Luật, Luận trong Đại Tạng Kinh ra tiếng Việt. Trong đó phải nói rằng về phần Kinh Văn, Hòa Thượng Thích Trí Tịnh, Cố Đại Lão Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm, Cố Hòa Thượng Thích Thiện Siêu, Cố Hòa Thượng Thích Huệ Hưng đã đóng góp dịch thuật phần chính. Về Luật Tạng có Cố Hòa Thượng Thích Hành Trụ, Cố Hòa Thượng Thích Thiện Hòa, Cố Hòa Thượng Thích Trí Thủ, Cố Hòa Thượng Thích Trí Minh, Hòa Thượng Thích Đổng Minh v.v..... Về Luận Tạng có Cố Hòa Thượng Thích Khánh Anh, Cố Hòa Thượng Thích Thiện Hoa, Cố Hòa Thượng chúng tôi vẫn chưa đọc được một bản nào mô tả tỉ mĩ như thế. Gần đây chúng tôi có đọc được quyển “Đường Tam Tạng Thỉnh Kinh” của nhà văn Võ Đình Cường tái bản lần thứ 3 năm 2000 thì mới biết ngày 7 tháng 5 năm 1960, ông đã cho xuất bản cuốn “Huyền Trang” , nhưng lúc ấy tại quê nhà tôi chưa có cơ duyên đọc đến. Căn cứ theo lời tựa lần thứ nhất xuất bản vào năm 1960, được biết rằng nhà văn Võ Đình Cường dùng tài liệu của Học giả Lương Khải Siêu người Trung Hoa soạn và nhờ Cố Hòa Thượng Thích Thiện Siêu, Cố Hòa Thượng Thích Trí Thủ dịch tài liệu ấy ra tiếng Việt; nhưng phần mình, nhà văn không cho biết ông đã căn cứ vào tài liệu nào để viết. Dĩ nhiên phải có tài liệu chính trong tay, ông mới hoàn thành tác phẩm ấy được. Vì đây là một nhân vật lịch sử chứ không phải Dã sử hoặc Huyền sử, cho nên chúng ta phải làm sáng danh điều nầy. Nhân nghiên cứu để viết lời tựa cho quyển sách quan trọng nầy, chúng tôi mới thấy bài dịch của lời tựa Vua Đường Thái Tông đã viết vào năm 648 gồm 780 chữ mà Ngài Trí Thủ và Ngài Thiện Siêu đã dịch ra tiếng Việt thật tuyệt vời. Nay chúng tôi xin trích đăng lại cho đủ ba lời tựa cho phần đầu của dịch phẩm nầy. Trong chương 5, phần XVI về việc phiên dịch Kinh Điển, nhà văn Võ Đình Cường viết như sau: “Mùa thu năm sau, phụng mệnh Vua Thái Tông, Ngài thuật cho một đệ tử là Biện Cơ chép lại cuộc Tây Du của Ngài trong 17 năm trải qua 138 nước một cách tường tận.....” Ở đây có thể phân tích một vài việc như sau: Có một điều chúng tôi thắc mắc là: “Ngài Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang phụng chiếu dịch” quyển nầy. Tại sao Ngài phải dịch? Lẽ ra phải nói là Ngài soạn mới đúng. Khi viết lại chắc Ngài phải viết bằng chữ Hán, nghĩa là đi đến đâu ngài chép đến đó. Chứ sau 17 năm về lại Trung Quốc làm sao nhớ hết mà kể lại cho ngài Biện Cơ soạn lại? Và một điều khó hiểu nữa - Không lẽ Ngài viết bằng chữ Phạn? - Chắc chắn là không. Vì tiếng mẹ đẻ của Ngài là tiếng Trung Hoa, khi qua đó Ngài đã 33 tuổi, trong khi tiếng Phạn chưa giỏi thì phải lấy tiếng mẹ đẻ làm chuẩn vậy. Thứ nữa ở trong Đại Tạng Kinh, Phần tựa thứ nhất cho biết Ngài đã đi 110 nước; trong khi đó ông Võ Đình Cường bảo đi đến 138 nước và ngay cả trong lời tựa thứ 2 trong Đại Đường Tây Vức Ký của Thượng Thơ Tả Bộc Xạ Yến Quốc Công Trương Thuyết có ghi là: Lời tựa của Tam Tạng Thánh Giáo do Vua Đường Thái Tông viết chỉ có 780 chữ” mà ông Võ đã viết là 781 chữ. Điều đó cũng dễ hiểu thôi vì ông cũng có nhận định rằng: “Ông Lương Khải Siêu bảo rằng Ngài Huyền Trang sang Ấn Độ năm Trinh Quán nguyên niên là sai” và ông đã chứng minh là năm Trinh Quán thứ ba mới đúng. Điều chứng minh nầy của ông Võ đúng với Đại Tạng Kinh.   Mời các bạn đón đọc Bút Ký Đường Tăng - Đại Đường Tây Vực Ký của tác giả Trần Huyền Trang.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Thương Yêu Theo Phương Pháp Bụt Dạy
Tóm tắt & Review (Đánh Giá) sách Thương Yêu Theo Phương Pháp Bụt Dạy của tác giả Thích Nhất Hạnh. Khi nói đến thương yêu, ta hay nghĩ rằng đối tượng thương yêu là một người khác. Từ nhỏ chúng ta cũng được dạy rằng phải yêu thương người khác, thậm chí đến quên mình, đó được ca ngợi là đức hy sinh. Nhưng Bụt dạy rằng đối tượng thương yêu đầu tiên phải là chính bản thân mình. Nếu không thương yêu được bản thân thì ta không thể thương yêu được bất cứ ai khác. Thương yêu ở trong đạo Phật là một sự thực tập chứ không phải là sự hưởng thụ mà thôi. Tu tập như vậy thì càng ngày mình càng hạnh phúc và người yêu của mình càng ngày càng hạnh phúc.Sách được chia thành năm phần. Phần đầu tiên chỉ ra cho chúng ta thấy yêu thương là cội nguồn của hạnh phúc. Các chương sau là cái bài thực tập, từ trong tâm, gieo trồng và nuôi dưỡng thương yêu để mang lại hạnh phúc cho chính mình và người khác. Giáo lý của đạo Bụt về tình thương rất phong phú và sâu sắc. Ta biết rằng hạnh phúc không thể nào có được nếu ta không có tình thương. Tu học không có nghĩa là giết chết khả năng thương yêu trong con người của ta, trái lại tu học tức là làm cho tình thương trong ta lớn lên nở ra và vững mạnh. Ở ngoài đời danh từ thương yêu có nhiều nghĩa, có khi rất hàm hồ, nhưng giáo lý của đạo Bụt về thương yêu thì rất sâu sắc, rõ ràng và những định nghĩa về thương yêu rất xác thật và đầy đủ. Chủ đề thương yêu là một chủ đề cần phải phát triển rất lớn. *** Tóm tắt Sách "Thương Yêu Theo Phương Pháp Bụt Dạy" của Thiền sư Thích Nhất Hạnh là một tập hợp những bài giảng của ngài về tình yêu thương, về cách thực hành thương yêu trong đời sống hàng ngày. Thiền sư Thích Nhất Hạnh cho rằng, tình yêu thương là cội nguồn của hạnh phúc. Khi chúng ta thương yêu, chúng ta sẽ cảm thấy hạnh phúc và bình an. Tình yêu thương cũng là sức mạnh có thể giúp chúng ta vượt qua những khó khăn, thử thách trong cuộc sống. Thiền sư Thích Nhất Hạnh cũng nhấn mạnh rằng, tình yêu thương phải bắt đầu từ chính bản thân mình. Nếu chúng ta không thương yêu bản thân mình, chúng ta sẽ không thể thương yêu được người khác. Trong sách, Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã chia sẻ những bài tập thực hành thương yêu, giúp chúng ta có thể gieo trồng và nuôi dưỡng tình yêu thương trong cuộc sống của mình. Review "Thương Yêu Theo Phương Pháp Bụt Dạy" là một tác phẩm có giá trị về mặt tâm linh và triết học. Sách đã được dịch sang nhiều ngôn ngữ khác nhau và được nhiều người trên thế giới nghiên cứu và thực hành. Trong sách, Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã trình bày một cách rõ ràng và súc tích về những ý nghĩa và lợi ích của tình yêu thương. Ngài cũng đã chia sẻ những bài tập thực hành thương yêu rất đơn giản và dễ hiểu, giúp chúng ta có thể bắt đầu thực hành ngay trong cuộc sống hàng ngày. Sách được viết bằng một lối văn giản dị, dễ hiểu, nhưng vẫn đầy chất thơ. Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã sử dụng những câu chuyện, những hình ảnh sinh động để diễn đạt những ý tưởng của mình. Một số điểm nổi bật của sách: Sách đã trình bày một cách rõ ràng và súc tích về những ý nghĩa và lợi ích của tình yêu thương. Sách đã chia sẻ những bài tập thực hành thương yêu rất đơn giản và dễ hiểu. Sách được viết bằng một lối văn giản dị, dễ hiểu, nhưng vẫn đầy chất thơ. Khuyến nghị: "Thương Yêu Theo Phương Pháp Bụt Dạy" là một cuốn sách đáng đọc cho những ai muốn tìm hiểu về tình yêu thương, về cách thực hành thương yêu trong đời sống hàng ngày. Mời các bạn mượn đọc sách Thương Yêu Theo Phương Pháp Bụt Dạy của tác giả Thích Nhất Hạnh.
Cho Đất Nước Đi Lên
Tóm tắt & Review (Đánh Giá) tùy bút Cho Đất Nước Đi Lên của tác giả Thích Nhất Hạnh. Trong chuyến về thăm quê hương mà nay đã thành lịch sử. Từ ngày 12 tháng 1 năm 2005 đến ngày 11 tháng 4 năm 2005, Thiền sư Thích Nhất Hạnh và tăng thân Đạo Tràng Mai Thôn đã đi thăm các Tổ Đình và Tự Viện trên khắp ba miền đất nước. Chỉ với chín mươi ngày ngắn ngủi đó, trong những giảng đường dù lớn rộng đến đâu nhưng vẫn không bao giờ đủ chỗ. Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã thuyết giảng trên dưới bảy mươi bài, phần lớn dành cho Tăng Ni và Phật tử cư sĩ trong các khóa tu tổ chức tại chùa, nhưng cũng có những bài nói chuyện với nhân sĩ, trí thức đồng bào mọi giới ở bốn thành phố lớn Hà Nội (hai lần), Sài Gòn, Huế và Bình Định. Bảy bài được in lại trong tập sách này được tuyển chọn từ bảy mươi bài pháp thoại của cả chuyến đi, xếp theo thứ tự thời gian các buổi nói chuyện của Thiền sư tại trụ sở các tổ chức văn hóa, giáo dục, tôn giáo và chính trị ở ba thành phố lớn Hà Nội, Huế và Sài Gòn. Người nghe là những cán bộ, nhân sĩ, trí thức hoạt động trong các giới chính trị, văn hóa, xã hội và tôn giáo. Ngoài ra cũng có đông đảo khách mời trong và ngoài nước. Chủ đề của các bài nói dù khác nhau nhưng tựu trung nhà văn hóa Nhất Hạnh đã khách quan trình bày một Phật giáo qua nhãn quan và nhận thức mới từ những kinh nghiệm thực tiễn qua những năm hành đạo của ngài tại các quốc gia Tây phương. Đó là Phật giáo dấn thân, trị liệu và chuyển hóa, là đạo Bụt đi vào cuộc đời mà hơn 40 năm trước ở quê hương, chính ngài đã khởi xướng. Nhưng chúng ta vẫn nhận ra được Phật giáo muôn đời của trí tuệ và từ bi, của hiểu và thương. Để có được một tình thương đúng nghĩa ta cần phải có hiểu biết. Hiểu để nhận diện, để công nhận nhau qua bao oan khúc, phân ly để thoát khỏi những sợ hãi, nghị kỵ, hận thù,… khi đó mới có thể thương được thực sự. Hiểu càng sâu thương càng lớn, cả hai giúp ta đạt tới tự do, giải phóng chính mình, có cơ hội tiếp xúc sâu sắc với sự sống trong và quanh ta, thực sự sống trọn vẹn trong từng giây phút hiện tại màu nhiệm, đạt an lạc ngay giữa đời này, vượt trên mọi sóng thăng trầm của biển đời tục lụy, để rồi có thể sang bờ kia, thoát vòng sinh tử. Gia tài của đạo Bụt Việt Nam tổng hợp của đại thừa và nguyên thủy, của Hiện Pháp Lạc Trú và Tịnh Độ hiện tiền sẽ đưa dân tộc bây giờ cùng đi như một giòng sông, sẽ đẩy đất nước ở đây đi lên. Để Cho Đất Nước Đi Lên là tựa đề được Thiền Sư chọn và tự tay viết với thư pháp của ngài để làm bìa in cho tập sách này. Chúng tôi trân trọng gửi tới các bạn đọc. Các bài nói chuyện ghi lại theo bản mp3 thu âm tại chỗ. Lời của ngài giữ nguyên, ý của ngài giữ trọn vẹn nhưng câu cú có lược chuyển đôi chút để những bài đọc được thêm xuôi thuận. Các chú thích về các những danh từ Phật học, nhân danh, địa danh nước ngoài (nếu có sai lầm) là của ban biên tập. Chúng tôi đã dựa trên Tự Điển Làng Mai (TĐLM), Từ Điển Phật Học - Chân Nguyên và Nguyễn Tường Bách (TĐPH). Trân trọng cảm ơn các tác giả. Ban biên tập (2009) *** Tóm tắt Tùy bút "Cho Đất Nước Đi Lên" của Thiền sư Thích Nhất Hạnh là tuyển tập 7 bài pháp thoại được tuyển chọn từ 70 bài pháp thoại của Ngài trong chuyến về thăm quê hương năm 2005. Trong các bài pháp thoại của mình, Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã trình bày một Phật giáo dấn thân, trị liệu và chuyển hóa, là đạo Bụt đi vào cuộc đời. Ngài nhấn mạnh tầm quan trọng của trí tuệ và từ bi, của hiểu và thương. Để có được một tình thương đúng nghĩa, chúng ta cần phải có hiểu biết. Hiểu để nhận diện, để công nhận nhau qua bao oan khúc, phân ly để thoát khỏi những sợ hãi, nghị kỵ, hận thù,… khi đó mới có thể thương được thực sự. Thiền sư Thích Nhất Hạnh cũng đề cập đến gia tài của đạo Bụt Việt Nam, tổng hợp của đại thừa và nguyên thủy, của Hiện Pháp Lạc Trú và Tịnh Độ hiện tiền. Ngài tin rằng gia tài này sẽ đưa dân tộc cùng đi như một dòng sông, sẽ đẩy đất nước đi lên. Review "Cho Đất Nước Đi Lên" là một tác phẩm có giá trị về mặt văn hóa, chính trị, và tôn giáo. Đây là một nguồn tài liệu quý báu cho những ai muốn tìm hiểu về Phật giáo Việt Nam, đặc biệt là Phật giáo dấn thân. Sách được viết theo lối văn giản dị, dễ hiểu, nhưng vẫn đầy chất thơ. Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã sử dụng những câu chuyện, hình ảnh, và bài thơ để diễn đạt những ý tưởng của mình một cách sinh động và dễ tiếp thu. Đọc "Cho Đất Nước Đi Lên", người đọc sẽ được tiếp cận với những góc nhìn mới về Phật giáo, về con người, và về đất nước Việt Nam. Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã truyền tải một thông điệp tích cực và đầy hy vọng về một tương lai tươi sáng cho đất nước Việt Nam. Một số bài pháp thoại tiêu biểu trong sách Bài 1: Cùng đi như một dòng sông Trong bài pháp thoại này, Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã nhấn mạnh tầm quan trọng của sự đoàn kết, gắn bó trong một dân tộc. Ngài ví von dân tộc như một dòng sông, chỉ khi mọi người cùng chung sức, đồng lòng thì dòng sông mới có thể chảy trôi mạnh mẽ. Bài 2: Hiểu và thương Bài pháp thoại này đề cập đến tầm quan trọng của hiểu và thương trong cuộc sống. Thiền sư Thích Nhất Hạnh cho rằng, để có được một tình thương đúng nghĩa, chúng ta cần phải có hiểu biết. Hiểu để nhận diện, để công nhận nhau qua bao oan khúc, phân ly để thoát khỏi những sợ hãi, nghị kỵ, hận thù,… khi đó mới có thể thương được thực sự. Bài 3: Trí tuệ và từ bi Bài pháp thoại này nói về mối quan hệ giữa trí tuệ và từ bi. Thiền sư Thích Nhất Hạnh cho rằng, trí tuệ và từ bi là hai cánh của con chim bồ câu hòa bình. Có trí tuệ, chúng ta mới có thể thấu hiểu bản chất của vấn đề, từ đó đưa ra những giải pháp đúng đắn. Có từ bi, chúng ta mới có thể hành động vì lợi ích của người khác. Bài 4: Gia tài của đạo Bụt Việt Nam Bài pháp thoại này đề cập đến gia tài của đạo Bụt Việt Nam. Thiền sư Thích Nhất Hạnh cho rằng, gia tài này là một nguồn sức mạnh to lớn có thể giúp đất nước Việt Nam vượt qua mọi khó khăn, thử thách. Bài 5: Đạo Bụt đi vào cuộc đời Bài pháp thoại này nói về tầm quan trọng của việc thực hành Phật giáo trong cuộc sống. Thiền sư Thích Nhất Hạnh cho rằng, Phật giáo không chỉ là một tôn giáo mà còn là một lối sống, một triết lý nhân sinh. Chúng ta cần thực hành Phật giáo trong cuộc sống hàng ngày để có được hạnh phúc và an lạc. Bài 6: Cho đất nước đi lên Bài pháp thoại này là bài pháp thoại cuối cùng trong sách. Trong bài pháp thoại này, Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã gửi gắm những lời tâm huyết của mình cho đất nước Việt Nam. Ngài mong muốn đất nước Việt Nam sẽ hòa bình, thịnh   Mời các bạn mượn đọc sách Cho Đất Nước Đi Lên của tác giả Thích Nhất Hạnh.
Tuổi Trẻ - Tình Yêu - Lý Tưởng
Tóm tắt & Review (Đánh Giá) tùy bút Tuổi Trẻ - Tình Yêu - Lý Tưởng của tác giả Thích Nhất Hạnh. Này Người bạn trẻ, tôi muốn mời anh, tôi muốn mời chị tham dự vào một giấc mơ, tôi tạm gọi giấc mơ ấy là giấc mơ Việt Nam... Giấc mơ chung của chúng ta Giấc mơ Việt Nam là có một nước Việt Nam thật đẹp, thật hiền, chơi chung với các nước Cam-pu-chia, Lào, Thái Lan, Malaysia, Singapore, Indonesia, Myanmar, với Hàn Quốc và Nhật Bản, và sau đó, với cả Trung Quốc, một cách thân ái trong tình huynh đệ, dân chúng các nước qua lại không cần chiếu khán, và tất cả sử dụng một đồng bạc chung. Giấc mơ Việt Nam là dân tộc Việt Nam biết để thì giờ ra để đi chơi, ngồi chơi, leo núi, đi biển, sống với cảnh đẹp thiên nhiên, hàng ngày có nhiều cơ hội dựng xây tình huynh đệ mà không để hết thì giờ chạy theo sắc dục, tiền bạc, quyền hành và danh vọng. Giấc mơ Việt Nam là trẻ em và người lớn đều ý thức được rằng đất hứa, thiên đường hay cõi tịnh độ là cái đang có mặt đích thực trong giờ phút hiện tại, và ta phải biết và phải có khả năng thích ý rong chơi. Giấc mơ Việt Nam là người Việt có khả năng sống đơn giản mà hạnh phúc, có thì giờ và tình thương để làm việc giúp cho người trong nước và ngoài nước vượt thắng nghèo khổ, bệnh tật, thất học, hòa giải được với người thân và tìm được nguồn vui sống. Giấc mơ Việt Nam là sông, núi, rừng, biển và ruộng vườn của chúng ta được bảo vệ an lành để chúng ta và con cháu chúng ta cũng như thế giới cũng được bảo vệ an lành và để cho mọi người được tiếp tục thừa hưởng tất cả những gì hùng vĩ, cẩm tú và giàu sang của đất nước này. Giấc mơ Việt Nam là những người Việt sống trong một nước có quyền tin theo bất cứ một tôn giáo, một chủ thuyết nào, nhưng tất cả đều thấy được rằng không có tôn giáo và chủ thuyết nào cao hơn tình huynh đệ, cao hơn lòng cởi mở và lượng bao dung, và bất cứ ai cũng học được và thừa hưởng được những châu báu của các truyền thống và quan điểm khác để làm giàu cho tuệ giác và hạnh phúc của mình. Giấc mơ Việt Nam là các quốc gia lân cận, kể cả Trung Quốc, biết thương mến và thưởng thức cái đẹp và cái dễ thương của đất nước, văn hóa và con người Việt Nam mà không còn có ý muốn xâm chiếm và giành giật nhau, tại vì người Việt đã học được cách bảo vệ sông núi, văn hóa và con người của mình bằng nếp chung sống hòa bình, bằng tình huynh đệ, bằng tài ngoại giao, bằng nếp sống tương trợ với các nước chung quanh mà không tin rằng chỉ có vũ khí và quân sự mới làm được chuyện ấy. Ô hay, bạn sẽ nói, thầy Nhất Hạnh lâu nay khuyên mình sống trong giây phút hiện tại mà bây giờ lại tìm cách trao cho mình một giấc mơ, gọi là giấc mơ Việt Nam! Thầy Nhất Hạnh có còn là thầy Nhất Hạnh nữa không, khi thầy muốn dìu mình đi vào một giấc mơ, dù là một giấc mơ thật đẹp? Người bạn trẻ ơi, sở dĩ tôi nói tới giấc mơ, tại vì giấc mơ này có thể trở thành sự thật, và đang bắt đầu trở thành sự thật. Một giấc mơ không bao giờ có thể trở thành sự thật một trăm phần trăm, nhưng nó có thể dần dần trở thành sự thật mỗi ngày, và ta có thể sống với sự thật ấy trong giây phút hiện tại. Lý tưởng lớn, hoài bão rộng là gì, nếu không phải là một giấc mơ? Trong đạo Bụt người ta dùng danh từ Tâm Bồ Đề. Tâm bồ đề đâu có phải chỉ là giấc mơ? Tâm bồ đề là một sự thật, một năng lượng mà ta đang sống và đang cho ta nhiều niềm tin và hạnh phúc. Giấc mơ có thể trở thành sự thật từ từ trong từng giây phút của cuộc sống. Mấy mươi năm nay, không lúc nào mà tôi không đang chứng kiến giấc mơ trở thành sự thật, trong đời sống hàng ngày của tôi. *** Tóm tắt Tùy bút Tuổi Trẻ - Tình Yêu - Lý Tưởng của Thích Nhất Hạnh là một lời kêu gọi các bạn trẻ Việt Nam hãy cùng nhau xây dựng một giấc mơ Việt Nam tươi đẹp, hòa bình và hạnh phúc. Giấc mơ ấy bao gồm những điều sau: Một nước Việt Nam hòa bình, thân thiện với các nước láng giềng. Một dân tộc Việt Nam biết trân trọng thiên nhiên và sống chan hòa với nhau. Một đất nước Việt Nam nơi mọi người được sống hạnh phúc và bình an. Review Tùy bút Tuổi Trẻ - Tình Yêu - Lý Tưởng là một tác phẩm giàu ý nghĩa và có sức truyền cảm mạnh mẽ. Thích Nhất Hạnh đã dùng những ngôn từ giản dị, gần gũi để nói lên những suy nghĩ và mong ước của mình về tương lai của đất nước Việt Nam. Giấc mơ Việt Nam của Thích Nhất Hạnh là một giấc mơ đẹp, nhưng nó không phải là một giấc mơ viển vông. Giấc mơ ấy có thể trở thành hiện thực nếu mỗi người Việt Nam đều cùng nhau nỗ lực, chung tay xây dựng. Tùy bút đã gợi lên trong lòng người đọc niềm tin và hy vọng vào một tương lai tươi sáng cho đất nước Việt Nam. Nó cũng là một lời nhắc nhở đối với các bạn trẻ Việt Nam hãy sống có trách nhiệm với bản thân, với gia đình, với xã hội và với đất nước. Một số điểm nổi bật của tùy bút: Tác phẩm mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc. Thích Nhất Hạnh đã đề cao những giá trị cao đẹp của con người như tình yêu thương, hòa bình, đoàn kết,… Tác phẩm có sức truyền cảm mạnh mẽ. Ngôn từ giản dị, gần gũi của Thích Nhất Hạnh đã giúp người đọc dễ dàng thấu hiểu và đồng cảm với những suy nghĩ, mong ước của ông. Tác phẩm có giá trị thời sự. Giấc mơ Việt Nam của Thích Nhất Hạnh là một giấc mơ đẹp, nhưng nó cũng là một giấc mơ thiết thực, có thể trở thành hiện thực nếu mỗi người Việt Nam đều cùng nhau nỗ lực. Đánh giá Tôi đánh giá tùy bút Tuổi Trẻ - Tình Yêu - Lý Tưởng của Thích Nhất Hạnh là một tác phẩm hay và ý nghĩa. Tác phẩm đã để lại trong lòng tôi nhiều suy nghĩ và cảm xúc. Tôi tin rằng, nếu mỗi người Việt Nam đều cùng nhau nỗ lực, chung tay xây dựng thì giấc mơ Việt Nam của Thích Nhất Hạnh sẽ sớm trở thành hiện thực. Mời các bạn mượn đọc sách Tuổi Trẻ - Tình Yêu - Lý Tưởng của tác giả Thích Nhất Hạnh.
Truyện Kiều Văn Xuôi Dành Cho Người Trẻ
Tóm tắt & Review (Đánh Giá) sách Truyện Kiều Văn Xuôi Dành Cho Người Trẻ của tác giả Thích Nhất Hạnh. Truyện Kiều là tác phẩm thơ nổi tiếng nhất của nền Thi ca Việt Nam. Người trẻ nào trong thời gian học Trung học cũng có dịp được nghe về truyện Kiều và học một ít về truyện Kiều. Nhưng vì truyện Kiều là một tác phẩm cổ điển và lại có nhiều điển tích cho nên đối với người trẻ, thưởng thức hết được cái hay của truyện Kiều là một chuyện không dễ. Vì vậy tôi đã có ý cống hiến Truyện Kiều Văn Xuôi như một lời mời mọc những người trẻ trở về thưởng thức những cái hay, cái đẹp của truyện Kiều. Đọc xong Truyện Kiều Văn Xuôi, người trẻ sẽ thấy thoải mái khi trở về với nguyên tác bằng thơ. Tôi nhớ hồi 1945, khi nước ta mới giành lại được chủ quyền quốc gia, tất cả các phân khoa của các trường Đại Học trong nước đều còn sử dụng tiếng Pháp để dạy và để học. Trong suốt những năm sau đó, các giáo sư đã nỗ lực tìm cách sử dụng tiếng Việt để giảng dạy trong các phân khoa Đại Học, từ trường Y, trường Dược, trường Luật đến trường Khoa Học. Các tập sách như Danh Từ Khoa Học, Danh Từ Luật Học, v.v.. được biên tập cấp tốc để cung ứng kịp thời cho nhu cầu giảng dạy và học hỏi. Nhiều khi giáo sư và sinh viên cọng tác với nhau ngày cũng như đêm để làm công việc biên tập ấy. Lòng yêu nước và yêu tiếng Việt ấy của mọi người thật đáng làm cho chúng ta cảm động. Sự xuất hiện của truyện Kiều cách đây gần 200 năm đã cho chúng ta rất nhiều niềm tin nơi khả năng diễn đạt của tiếng Việt. Truyện Kiều cho chúng ta thấy là tiếng Việt có khả năng diễn tả được những tư duy và tình cảm sâu sắc nhất của ta. Trước đó, có người tin rằng chỉ có chữ Hán mới làm được việc này. Vì vậy mới có câu, 'Nôm na là cha mách qué,' tỏ ý không tin tưởng mấy vào khả năng của tiếng Việt. Viết truyện Kiều bằng chữ Nôm, thi sĩ Nguyễn Du đã đóng góp lớn lao cho văn hóa dân tộc và cho niềm tin của chúng ta nơi tiếng mẹ đẻ, dù có thể là trong khi sáng tác, thi sĩ đã không có chủ đích ấy. Tuy nhiên có một điều mà ta không thể nghi ngờ được: đó là Nguyễn Du đã rất yêu tiếng Việt. Tôi xin lỗi các bạn trẻ là đã không chuyển hết được toàn bộ truyện Kiều thành văn xuôi. Tôi là người xuất gia, phải dành phần lớn thì giờ của mình cho việc ngồi thiền, dịch kinh và hướng dẫn các khóa tu cho cả hai giới xuất gia lẫn tại gia, cho nên chỉ mới làm được tới đấy. Tôi mong có dịp rảnh để hoàn tất được công việc rất thú vị này. Trong khi chờ đợi, xin đền bù lại bằng bài 'Kiều và nền Văn Nghệ đứt ruột' in ở phần sau. Viết tại thất Ngồi Yên Xóm Thượng Làng Mai, Pháp quốc. Ngày 14.7.2002 *** Tóm tắt Cuốn sách "Truyện Kiều Văn Xuôi Dành Cho Người Trẻ" của Thiền sư Thích Nhất Hạnh là một bản dịch văn xuôi của tác phẩm "Truyện Kiều" của Nguyễn Du. Cuốn sách được viết với mục đích giúp cho những người trẻ tuổi có thể dễ dàng tiếp cận và thưởng thức tác phẩm văn học kinh điển này. Cuốn sách được chia thành 32 chương, mỗi chương tương ứng với một đoạn thơ trong "Truyện Kiều". Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã cố gắng giữ nguyên nội dung và tinh thần của tác phẩm gốc, đồng thời sử dụng ngôn ngữ giản dị, gần gũi để phù hợp với người đọc trẻ tuổi. Review Cuốn sách "Truyện Kiều Văn Xuôi Dành Cho Người Trẻ" là một tác phẩm có giá trị đối với những người trẻ tuổi yêu thích văn học. Cuốn sách giúp người đọc dễ dàng hiểu và cảm nhận được những giá trị nhân văn sâu sắc của "Truyện Kiều". Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã thể hiện sự am hiểu sâu sắc về "Truyện Kiều" của Nguyễn Du. Ông đã khéo léo chuyển tải nội dung và tinh thần của tác phẩm gốc sang văn xuôi một cách trọn vẹn. Ngôn ngữ của cuốn sách giản dị, gần gũi, dễ hiểu, phù hợp với người đọc trẻ tuổi. Cuốn sách đã giúp người đọc trẻ tuổi có thêm một cách tiếp cận tác phẩm văn học kinh điển "Truyện Kiều". Cuốn sách cũng giúp người đọc hiểu thêm về văn hóa và lịch sử của dân tộc Việt Nam. Một số điểm nổi bật của cuốn sách: Cuốn sách được viết với mục đích giúp cho những người trẻ tuổi có thể dễ dàng tiếp cận và thưởng thức tác phẩm văn học kinh điển "Truyện Kiều". Cuốn sách được viết bằng ngôn ngữ giản dị, gần gũi, dễ hiểu, phù hợp với người đọc trẻ tuổi. Cuốn sách đã thể hiện sự am hiểu sâu sắc của Thiền sư Thích Nhất Hạnh về "Truyện Kiều" của Nguyễn Du. Cuốn sách đã giúp người đọc trẻ tuổi có thêm một cách tiếp cận tác phẩm văn học kinh điển "Truyện Kiều". Mời các bạn mượn đọc sách Truyện Kiều Văn Xuôi Dành Cho Người Trẻ của tác giả Thích Nhất Hạnh.