Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Xác Không Đầu

Cơ thể bị chia cắt của một người đàn ông được tìm thấy Trong Kênh Saint-Martin. Gần với hiện trường, Maigret gặp chủ nhân ngầm của một quán cà phê, Aline Calas, và tự hỏi liệu cơ thể trong con kênh có phải là của chồng cô không. Như thường lệ, bản năng của Maigret là chính xác. Buộc phải điều tra thêm nhưng với thời gian trên tay khi anh đã giải quyết xong vụ án, Maigret bắt đầu đào sâu vào quá khứ của tất cả những ai quan tâm. Không giống như hầu hết các hư cấu thám tử, nơi tìm kiếm giải pháp là trọng tâm của câu chuyện, cuốn tiểu thuyết này khám phá các động cơ khác nhau có thể dẫn đến phạm tội. Đây là lý do tự thù hận đằng sau những hành động theo đó bạn có thể làm tổn thương và làm tổn thương những người thân thiết nhất với bạn. Simenon, thông qua Maigret, tuyệt vọng cố gắng để tìm ra ý nghĩa thực sự và tham vọng, tin rằng sự hiểu biết có thể dẫn đến sự tha thứ và tha thứ sẽ làm giảm ổ đĩa để phạm tội. *** Nhà văn Georges Simenon sinh ngày 13.2.1903 mất ngày 4.9.1989. Năm 16 tuổi, Simenon là chàng phóng viên trẻ viết tin vắn cho tờ La Gazette de Liège. Mỗi ngày, ông đạp xe đến các bót cảnh sát, nhà băng, sở cứu hỏa, những cuộc thi thể thao để lấy tin cho báo. Năm 1922, ông tới Paris hoa lệ. Tiểu thuyết đầu tay Trên Chiếc Cầu Vòm Cung được xuất bản tại Liège (Bỉ) với bút danh Georges Sun. Nhưng sự thành công chưa vội đến với cây bút trẻ có hàng chục bút danh khác nhau này (Jean du Perry, Gom Gut, Christian Brull...). Mười năm miệt mài viết như người lao động khổ sai giúp ông thành thạo trong “tốc độ” sáng tác. Đây chính là thế mạnh của tác giả “bậc thầy trinh thám” sau này. “Suốt thời kỳ 1928-1931, ông chỉ viết những tác phẩm về Maigret, trung bình mỗi tháng một cuốn”, ông nổi tiếng như cồn khi tiểu thuyết trinh thám Con Chó Vàng (Le chien jaune, 1931) được xuất bản, với tên thật Georges Simenon. 11 tác phẩm in năm đó thì 10 cuốn là tiểu thuyết với nhân vật sáng tạo Thanh tra Maigret. Một đời văn với hơn 300 tác phẩm viết bằng tiếng Pháp đã được xuất bản, người ta không khỏi thán phục năng lực sáng tác bền bỉ và trí tưởng tượng phong phú của nhà văn Georges Simenon. Bậc thầy tiểu thuyết trình thám thật sự chinh phục hàng triệu người đọc tại nhiều nước trên thế giới. Hơn 80 tiểu thuyết Thanh tra Maigret không nằm trong thể loại truyện hình sự tầm thường. Giá trị văn học của tác phẩm đã được các nhà phê bình nhìn nhận. Sau ngày ông mất, Đại học Liège ở Bỉ đã thành lập Trung tâm nghiên cứu Georges Simenon và đã xuất bản các tác phẩm nghiên cứu về ông. Cho đến nay, chưa có nhà xuất bản nào tại Pháp in toàn bộ tác phẩm của Georges Simenon. Mới đây, các tiểu thuyết của ông được Nhà xuất bản Ommious in thành 25 tập Tất cả Simenon nhưng chưa đầy đủ. Còn ở Việt Nam mới chỉ có khoảng chục cuốn thuộc thể loại trinh thám hình sự của Georges Simenon. Không học cao, không đọc nhiều, không quan hệ rộng và cũng chẳng mấy khi đi đâu xa, thế nhưng Georges Simenon lại lập kỷ lục về số sách bán được và làm giàu nhờ những tác phẩm được chuyển thể điện ảnh. Bị một số người xem thường suốt thời gian dài, nhà văn viết nhiều và viết nhanh này lại được những đồng nghiệp danh tiếng như André Gide, Henry Miller hết mực kính trọng. Làm thế nào một người rời trường học từ lúc 15 tuổi và thừa nhận mình chưa bao giờ đọc những tác phẩm văn học cổ điển lại trở thành nhà văn viết tiếng Pháp có nhiều người đọc nhất và có tác phẩm được dịch nhiều nhất trên thế giới? Văn phong của Georges Simenon không có gì đặc biệt, không hoa mỹ và không có những hình ảnh ấn tượng. Vốn từ vựng của ông cũng rất hạn chế. Tiểu thuyết của ông không có nhiều yếu tố lịch sử hay triết học. Mọi nhân vật trong truyện đều thuộc tầng lớp trung lưu, có cuộc sống bình lặng, những thị dân tiểu tư sản, chung thủy với vợ, ít ngao du, không tham vọng, không chính kiến rõ rệt. Thế mà không khí trong tiểu thuyết của ông khiến người đọc phải nhớ mãi. Trong 60 năm cầm bút, Georges Simenon trải qua nhiều trào lưu văn nghệ; chủ nghĩa siêu thực, chủ nghĩa hiện sinh, chủ nghĩa Marx và Tiểu thuyết mới, nhưng không trào lưu nào ảnh hưởng nơi ông. Để hiểu được phần nào bí quyết thành công của Georges Simenon, có lẽ cần trở lại thời thơ ấu của ông. Gia đình sống quanh quẩn trong thành phố quê hương, chẳng mấy khi đi đâu xa. Để thay đổi số phận, năm 16 tuổi, Georges Simenon đến Paris. Vì sinh kế, chàng thanh niên trẻ làm đủ mọi công việc liên quan đến viết lách. Con người rất ít khi đọc sách ấy lại có một năng khiếu đặc biệt: Có thể cùng lúc là thư ký, nhà báo, nhà văn, và viết rất nhanh. Khi một nhà xuất bản yêu cầu một cuốn tiểu thuyết, câu hỏi đầu tiên của Georges Simenon luôn là: “Ông muốn có sách vào thứ sáu này hay tuần tới?” Ông viết nhiều và nhanh đến nỗi khi chưa đến 25 tuổi đã có rất nhiều bút danh. Tất cả các tác giả từng viết tiểu sử Georges Simenon đều nhận định: Để viết cuốn tiểu thuyết “Maigret” (tên vị thanh tra, nhân vật chính trong tiểu thuyết của Simenon), nhà văn chỉ cần 6 ngày và chỉ mất 9 ngày cho những tác phẩm khác mà ông gọi là “tiểu thuyết hắc” (romans durs). Cách viết nhanh như vậy giúp ông đạt được những thành công đầu tiên. Pietr le Letton (1931) là cuốn truyện mở đầu loạt truyện Maigret. Trong vòng hai năm, ông viết hơn 20 tiểu thuyết, đem lại lợi nhuận lớn lao cho nhà xuất bản Fayard. Cuốn tiểu thuyết cuối cùng, Maigret et monsieur Charles (Maigret và ông Charles) được xuất bản năm 1972. Những cuộc phiêu lưu của thanh tra Maigret trải dài trên 75 tiểu thuyết (với khoảng chừng 10 năm), mà nhân vật chính không già đi, trán không gợn một nếp nhăn. Từ tác phẩm đầu tiên cho đến tác phẩm cuối cùng, thanh tra Maigret vẫn ở tuổi 50. Các nhà nghiên cứu nhận thấy tên Georges Simenon được ký trên hơn 200 cuốn tiểu thuyết và ông cũng viết ngần ấy tiểu thuyết với những bút danh khác (40 bút danh) và gần 1.000 truyện ngắn. Les fiançailles de monsieur Hire (Lễ Đính Hôn Của Ông Hire) và Le Chien Jaune (Con Chó Vàng) là những tác phẩm củng cố danh tiếng của ông. Những trí thức ở Paris không muốn nhắc đến “kẻ xa lạ” trốn tránh kinh đô Ánh sáng và xem thường những nghi thức của xã hội thượng lưu. Nhiều người phê phán Georges Simenon không có văn phong. Ngoại trừ nhà văn Pháp André Gide và nhà văn Mỹ Henry Miller, Georges Simenon không giao tiếp với ai nên bị giới văn học cho “ra rìa”. Ông cũng giữ thái độ mập mờ, không cộng tác với ai, cũng chẳng phản kháng ai. Khi nước Pháp thoát khỏi sự chiếm đóng của phát xít Đức, cũng như nhiều nhà văn khác, Georges Simenon bị buộc nhiều tội, trong đó hai tội chính: Ký hợp đồng với một nhà sản xuất phim người Đức để chuyển thể 9 cuốn tiểu thuyết của ông và Christian Simenon, em trai ông, ủng hộ phong trào chống chế độ đại nghị ở Bỉ, bị kết án tử hình vắng mặt. Năm 1945, Georges Simenon rời châu Âu sang Mỹ, lưu lại đây 10 năm. Nhưng ở nơi sống mới, “nỗi ám ảnh viết lách” không hề dịu đi. Trái lại, trí tưởng tượng của ông càng thêm phong phú nhờ những chuyến phiêu lưu khám phá kinh đô điện ảnh Hollywood. Lúc này ở châu Âu, những lời lên án ông hợp tác với phát xít Đức đã nhạt đi. Georges Simenon sang Thụy Sĩ, sống trong một dinh thự mênh mông ở Epalinges, cách Lausanne 10km. Ông đã là một ngôi sao. Người tra tranh nhau đăng tiểu thuyết của ông trên các báo và chuyển thể thành phim. Từ La nuit du carrefour (1932) đến Monsieur Hire (1989), tổng cộng 56 tiểu thuyết chuyển thể. Thêm một kỷ lục nữa: Georges Simenon trở nên giàu có nhờ số sách bán được và những bộ phim. Thoạt đầu, danh tiếng làm ông thích thú, nhưng rồi ông thấy chán ngán: “Tôi bán bản quyền và chẳng quan tâm nữa. Thậm chí tôi còn không đi xem phim”. Ở Epalinges, cuộc sống của ông rất bình lặng. Ông ít giao tiếp, dành toàn bộ thời gian để viết, đi dạo hai lần mỗi ngày, mỗi tháng gửi một bản thảo cho nhà xuất bản. Cuộc sống cứ thế trôi đi cho đến năm 1972, ông hầu như ngưng viết. Trước khi qua đời năm 1989, ông cho xuất bản 20 tác phẩm tự truyện. Sách của Georges Simenon được dịch sang 50 thứ tiếng. Trong bảng xếp hạng các sách được dịch nhiều nhất trên thế giới, sách của Georges Simenon và Agatha Christie chỉ xếp sau Kinh Thánh và các tác phẩm của Karl Marx. Cùng với việc viết lách, phụ nữ là mối quan tâm lớn của đời ông. Có nhiều lời đồn đoán về “năng lực tình ái” phi thường của Georges Simenon. Ông từng khoe đã yêu 10.000 phụ nữ. Denyse, người vợ thứ hai, cho biết lúc tuổi xế bóng, Georges Simenon vẫn chăn gối 3 lần mỗi ngày. Bà bếp tiết lộ đã dan díu với ông chủ Georges Simenon trong một thời gian dài, và trong lúc đi dạo, cha đẻ của Maigret lại tìm quên trong vòng tay của một cô gái làng chơi. Sinh hoạt tình dục sôi nổi ấy lại không để lại một dấu vết nào trong tác phẩm của Georges Simenon. Bà Maigret là một phụ nữ tiểu tư sản, mờ nhạt và lệ thuộc, luôn ngưỡng mộ chồng. Điểm này cũng là một bí ẩn của Georges Simenon. Ông kết hôn lần đầu tiên năm 19 tuổi với Tigy, có một con trai tên Marc. Marc kết hôn với nữ diễn viên nổi tiếng Mylène Demongeot, Georges Simenon cũng có quan hệ tình ái với ngôi sao nhạc kịch Joséphine Baker và suýt ly hôn với Tigy. Năm 1945, Georges Simenon gặp Denyse Ouimet, thoạt đầu là thư ký của ông, rồi trở thành người tình, người vợ, Georges Simenon và Denyse có 3 con: John, Mary và Pierre. *** Khi trời vừa rạng sáng thì Jules Naud, người anh cả của hai anh em nhà Naud, xuất hiện trên sà lan, trước hết là cái đầu, tiếp đó đến đôi vai và sau cùng là tấm thân cao lều nghều của anh. Đưa tay lên vuốt mớ tóc màu sợi lanh chưa kịp chải, anh nhìn âu thuyền có bến cảng Jemmages ở bên trái và bến cảng Valmy bên phải. Anh vừa cuốn một điếu thuốc lá và châm hút trong buổi sáng còn se lạnh thì ngọn đèn của một quán rượu ở phố Recollets bật sáng. Mặt tiền của quán rượu có màu vàng khè. Popaul, chủ quán, mặc áo không cổ, tóc chưa chải, đang đứng ngoài vỉa hè để tháo những cánh cửa lùa. Jules đi trên tấm ván bắc làm cầu lên bờ và cuốn điếu thuốc thứ hai trong khi đó thì Robert, người em, cũng cao lớn như anh, đã thức giấc và lên trên boong tàu. Anh ta thấy Jules đang tì tay lên quầy hàng đợi chủ quán rót thêm rượu vào tách cà phê của anh.  Robert đang đợi đến lượt mình. Cùng với những cử chỉ như Jules, anh ta cũng cuốn một điếu thuốc lá. Khi người anh cả rời khỏi quán hàng thì người em cũng đã lên khỏi sà lan. Hai người gặp nhau ở giữa đường. - Ta cho nổ máy đây - Jules bảo người em trai. Có những ngày hai người không nói với nhau quá một chục câu theo kiểu ấy. Con tàu của họ mang tên Hai anh em. Họ đã lấy hai chị em sinh đôi của một gia đình sống trên bờ sông. Robert cũng tì tay lên quầy hàng của ông Popaul béo lùn và đợi chủ quán rót rượu. - Hôm nay đẹp trời - Popaul gợi chuyện. Qua cửa sổ, Robert thấy trời đã chuyển sang màu hồng. Những ống khói trên các nóc nhà bắt đầu hoạt động, sương giá đọng trên các mái nhà lợp bằng đá bảng hoặc bằng ngói bắt đầu tan. Người ta nghe thấy tiếng nổ của đầu máy đi-ê-zen. Phía sau sà lan phụt ra những luồng khói đen. Robert đặt tiền lên quầy hàng, cầm lấy chiếc mũ cát-két và đi khỏi quán rượu. Người phụ trách âu thuyền trong bộ đồng phục đã xuất hiện chuẩn bị cho việc mở cửa âu. Người ta nghe thấy những bước chân ở cảng Valmy nhưng không nhìn thấy người. Tiếng trẻ con bi bô trong những khoang tàu, nơi các bà mẹ đang chuẩn bị cà phê. Jules đang cúi xuống nhìn mặt nước ở cuối sà lan. Người em thấy như có chuyện gì không ổn. Sà lan chở đá xây dựng từ Beauvais về. Chuyến này đá chở nhiều hơn thường lệ một vài tấn. Đêm qua sà lan từ bên La Vilette để đi vào kênh đào Saint-Martin. Thông thường thì tháng Ba kênh đào có nhiều nước. Năm nay ít mưa nên bùn trong các con kênh sục lên khi sà lan đi qua. Những cánh cửa âu thuyền được kéo lên. Jules ngồi bên vòng quay của bánh lái. Người em lên bờ tháo neo. Chân vịt bắt đầu quay tít, những bọt nước có bùn nổi lên. Tì người vào cây sào, Jules đẩy sà lan tránh xa bờ kênh. Bỗng nhiên chân vịt khựng lại, tiếng máy nổ rú lên và Robert thấy Jules đang cúi xuống máy. Cả hai đều không hiểu đã có chuyện gì xảy ra. Chân vịt không sát xuống đáy sông. Chắc chắn đã có vật gì mắc vào nó. Có thể là rác đã bị cuốn lên. Cầm một cây sào, Jules đến cuối sà lan và khuấy nước ở đấy lên. Chân vịt vẫn không nhúc nhích. Trong khi Jules đi tìm một chiếc móc bằng sắt thì Laurence từ khoang sà lan nhô đầu lên. - Có chuyện gì vậy? - Không biết. Cái móc bắt đầu làm việc. Vài phút sau đó thì Charles Dambois, người phụ trách âu thuyền, bước tới. Ông ta không hỏi han gì mà chỉ lặng lẽ nhồi thuốc vào tẩu để hút. Trên bờ kênh, người ta thấy nhiều y tá và hộ lý vội vã tới phố Cộng Hoà để làm việc tại bệnh viện Saint-Louis. - Anh đã thấy vật đó chưa? - Đã thấy. - Một sợi dây cáp ư? - Không biết. Jules đã móc được vật ấy lên và chân vịt lại tiếp tục quay. Chiếc móc sắt được nhấc lên khỏi mặt nước và mắc vào đấy là một gói giấy báo buộc kỹ. Giấy báo ngâm nước đã mủn ra. Đấy là một cánh tay người, từ bả vai đến bàn tay, thịt đã xám lại như con cá chết. *** Depoil, hạ sĩ cảnh sát của khu phố Ba, đã hết phiên trực đêm ở bến cảng Jemmages, đang chuẩn bị ra về thì gặp Jules chạy tới. - Tôi ở âu thuyền Recollets cùng với chiếc sà lan Hai anh em. Chân vịt đã không quay được khi chúng tôi cho sà lan chạy và chúng tôi đã gỡ từ đó ra một cánh tay người. Depoil đã làm việc ở quận Mười mười lăm năm, có phản ứng nhanh nhạy của người cảnh sát nên anh nắm ngay sự việc. - Tay của đàn ông ư? - Depoil hỏi với vẻ hoài nghi. - Phải. Cánh tay đầy lông màu hung và... Thường thì người ta vớt được xác chết ở kênh đào Saint-Martin từ chân vịt của tàu thuyền. Hầu hết là xác nguyên vẹn, đại đa số là xác đàn ông, ví dụ như xác của một ông già lang thang quá chén hoặc xác của một thanh niên bị địch thủ cho một nhát dao rồi đẩy xuống dòng kênh. Xác chết bị chặt ra từng khúc cũng không phải là không có, một năm trung bình một hai vụ, mà hầu hết là phụ nữ. Depoil có thể kể ra từng vụ một. Chín phần mười họ đều là gái bán dâm, đi lượn lờ trên bờ kênh vào ban đêm. "Tội ác do những kẻ loạn dâm gây ra" - Báo cáo của anh thường kết luận như vậy. Cảnh sát biết rõ những kẻ năng lui tới chốn này, họ có cả một danh sách những kẻ đáng nghi ngờ. Chỉ cần một vài ngày là đủ để tóm cổ được tác giả của vụ án cướp của giết người hoặc tấn công địch thủ bằng vũ khí. - Anh đã mang nó lên bờ rồi chứ? - Depoil hỏi. - Cánh tay người ư? - Anh để nó ở đâu? Mời các bạn đón đọc Xác Không Đầu của tác giả Georges Simenon & Trần Bình (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Cốt Tủy
“Trong khu phố Bone có một ngôi nhà Trong ngôi nhà có một cô gái Trong cô gái là bóng tối ngự đầy...” Tại sao chúng ta lại thích đọc tiểu thuyết về tội phạm, xem các chương trình truyền hình tội phạm và những điều tương tự. Chúng ta tìm hiểu cách thức họ gây án? Động cơ gây án là gì? Tất cả bởi vì chúng ta muốn muốn hiểu họ; tại sao họ lại có "hành động" khác với chúng ta. Những kẻ tội phạm - Bản thân họ sinh ra đã mang "mầm ác" hay do hoàn cảnh, xã hội đưa đẩy? Tarryn Fisher là một trong những tác giả Best-seller. Cô là một bậc thầy về những nhân vật hư hỏng về mặt đạo đức và làm cho chúng ta suy nghĩ về vẻ đẹp trong "bóng tối". Cốt tủy (tên gốc tiếng Anh là “Marrow”) là một trong những câu chuyện về vẻ đẹp bên trong xấu xí. Nhân vật chính của tác phẩm là Margo - cô gái sinh ra và lớn lên ở khu phố nghèo nàn, trong ngôi nhà "hố đen của sự sống". Lặng lẽ ngủ yên trong từng ống xương, ngày qua ngày, “cốt tủy” chưa một lần lên tiếng, chỉ âm thầm đồng hành cùng cô gái ấy - Margo Moon -qua những ngày buồn thảm ở khu Bone (Xương), trong ngôi nhà “hố đen sự sống”, cùng người mẹ loạn thần, đàng điếm và vô cảm. Thật khó có thể nói Cốt tủy là hành trình "tha hóa tâm hồn" hay "thăng hoa tâm hồn". Cuốn sách giống như một bộ phim hình sự. Nửa đầu, tĩnh lặng đến đáng sợ, tĩnh lặng trong những suy nghĩ miên man của cô gái nhút nhát, nghĩ rằng cô ấy không quan trọng. Nhưng nửa sau, khi đã nắm trong tay số phận của chính mình, mạch truyện trở nên dồn dập và nhanh hơn. Rốt cuộc chuyện gì đã xảy ra giữa "khúc cua" ấy? Với Cốt tủy, người đọc như đang chứng kiến những điều từ phía bên kia của luật pháp. Một cuốn tiểu thuyết chạm đến tận cùng "góc tối" của con người. Một cuốn tiểu thuyết vừa lạnh lẽo, vừa thơ mộng đến "xảo quyệt". Quyến rũ nhưng cũng rất nguy hiểm. Thế nào là sai? Thế nào là đúng? Một cuốn tiểu thuyết sẽ khiến bạn phải day dứt, đau đến tận cốt tủy. Nếu bạn thích tham gia một cuộc hành trình ở góc tối của tâm hồn, có lẽ bạn sẽ thích cuốn sách này! *** MỖI VIÊN NGỌC TRAI ĐƯỢC HÌNH THÀNH NÊN TỪ MỘT MẢNH VỤN - đó là thứ vô dụng như một mẩu gốm hay bụi bẩn tình cờ lọt vào cơ thể con trai. Theo bản năng, để tự chữa lành vết thương, con trai sẽ sinh ra phản ứng tự vệ, tạo ra một chất trơn, cứng và sáng bóng bao bọc lấy dị vật. Chất này được gọi là “xà cừ”. Một khi vẫn còn nằm trong cơ thể con trai, dị vật sẽ luôn được phủ trong lớp xà cừ đẹp đẽ. Tôi vẫn luôn cho rằng con trai thật phi thường khi bao bọc lấy thứ làm đau mình bằng chính phần tinh túy nhất của bản thân. So với kim cương - loại đá quý đắt đỏ và quý hiếm được người đời khao khát, ngưỡng vọng, những viên ngọc trai có phần lép vế hơn. Chúng sinh ra thật khiêm nhường khi ban đầu chỉ là những vật ký sinh nhỏ bé bám vào cơ thể vật chủ, ngày ngày được chính vật chủ nuôi dưỡng và trở nên đẹp đẽ. Sự hình thành ngọc trai từ mảnh vụn thật kỳ diệu. Những câu chuyện quý báu cũng thường được tạo nên từ những điều tầm thường như thế. *** Năm 13 tuổi CÓ MỘT NGÔI NHÀ TRONG KHU XƯƠNG. Ngôi nhà ấy có một cánh cửa sổ vỡ. Chỗ vỡ được che bằng giấy báo dán băng dính chằng chịt ở bốn góc. Lớp ván gỗ ốp tường chống đỡ phần mái xập xệ, lõm xuống như da thịt người già, như thể phải chống đỡ sức nặng của cả trái đất vậy. Đó là ngôi nhà nơi tôi sống cùng với mẹ, chịu đựng mưa gió, chịu đựng sự đè nén. Tôi gọi nó là “hố đen sự sống”, vì nếu không chống cự lại, ngôi nhà này sẽ xâu xé bất kỳ ai bước vào trong. Như nó đã làm thế với mẹ tôi. Và như nó đang cố cắn xé cả tôi. “Margo, cầm cho mẹ cái khăn tắm.” Tên tôi được xướng lên cùng với lời sai bảo. Tôi vâng lệnh. Rõ ràng không thể gọi đây là cái khăn tắm được. Trông nó chẳng khác gì cái giẻ cũ kỹ vì dùng quá lâu ngày và đã bạc màu vì phải lau chùi quá nhiều thứ bẩn thỉu. Mẹ lấy cái khăn từ tay tôi mà chẳng thèm nhìn tôi lấy một cái. Ngón tay mẹ rất thon thả, móng tay sơn màu đen được cắt tỉa gọn gàng. Mẹ luồn khăn vào giữa hai chân và lau thật mạnh. Tôi ái ngại quay mặt đi để mẹ được riêng tư một chút. Chỉ khi không có những ánh mắt dòm ngó, người ta mới được riêng tư trong ngôi nhà này. Lúc nào cũng có những kẻ - chủ yếu là đàn ông - núp xung quanh cửa và hành lang nhìn vào với ánh mắt hau háu thèm muốn. Chỉ cần được phép là mấy kẻ đó ngay lập tức lao vào. Đấy là nếu họ được phép. Nhưng tôi không đời nào làm thế. Mẹ tôi bước ra khỏi bồn tắm và cầm lấy cái khăn mặt trong tay tôi. Ngôi nhà lúc nào cũng bốc mùi ẩm mốc và hôi thối, nhưng trong vòng một tiếng sau khi mẹ tắm, nó sẽ phảng phất mùi muối tắm của mẹ. “Margo, lấy cho mẹ cái áo choàng.” Tên tôi lại được xướng lên cùng với câu ra lệnh. Mẹ tôi rất ghét phải tắm một mình. Mẹ kể với tôi rằng bà ngoại từng cố dìm chết mẹ trong bồn tắm khi mẹ còn nhỏ. Đến bây giờ mẹ tôi vẫn bị ám ảnh vì chuyện đó. Ban đêm, thỉnh thoảng tôi lại nghe tiếng mẹ rên rỉ trong khi mơ màng ngủ: Đừng mẹ ơi! Tôi không biết gì về bà ngoại mình. Sau lần suýt chết ấy, mẹ tôi được đưa vào Trung tâm bảo trợ trẻ em. Mẹ tôi gọi nơi đó là một cơn ác mộng. Đúng lúc mẹ tôi được chấp nhận vào trại thì bà ngoại tôi qua đời vì lên cơn đau tim dữ dội và để lại cho đứa con gái duy nhất ngôi nhà này - chính là “hố đen sự sống”. Trong khi mẹ soi gương, tôi trải chiếc áo choàng đỏ mềm mại của mẹ ra. Tôi có nhiệm vụ giặt là nó hai lần một tuần và luôn làm thật cẩn thận vì chiếc áo này là tài sản quý giá nhất của mẹ. Mẹ tôi là người phụ nữ đẹp. Vẻ đẹp dữ dội sánh ngang với bão tố. Mẹ phóng túng và mạnh mẽ. Dường như Chúa đã trao cho mẹ quyền năng khủng khiếp để phá hủy mọi thứ mỗi lần mẹ nổi cơn thịnh nộ. Chúng tôi cùng chiêm ngưỡng hình ảnh mẹ trong gương suốt mấy phút. Tôi dõi mắt theo những ngón tay mẹ đang kiểm tra từng nếp nhăn trên mặt. Đây là “thủ tục” mà chiều nào mẹ cũng làm trước khi bắt tay vào việc khác. Mẹ lấy mấy tuýp kem nhỏ tôi mua cho mẹ ở hiệu thuốc ra bày trên mặt chậu rửa sứt sẹo, rồi lần lượt chấm từng loại kem lên vùng da quanh miệng và mắt. “Margo”, mẹ gọi tôi. Tôi nín thở chờ lệnh. Nhìn tôi đứng lấp ló đằng sau, mẹ nói, “Trông mày khó coi quá. Ít nhất cũng phải giảm cân đi chứ. Mặt không xinh thì dáng người phải hấp dẫn.” Để mang thân đi bán như mẹ sao? “Con sẽ cố ạ.” Việc của tôi là phục tùng. “Margo, mày đi được rồi đấy. Nhớ ở yên trong phòng.” Tên tôi vang lên kèm theo hai câu mệnh lệnh. Đúng là được đối xử đặc biệt! Tôi đi giật lùi khỏi nhà tắm để tránh bị đập hay ném đồ vào đầu. Nếu không uống thuốc, mẹ tôi có thể trở nên vô cùng dữ tợn. Chẳng ai lường trước được khi nào mẹ lên cơn điên. Thỉnh thoảng tôi lại lén vào phòng mẹ đếm xem có bao nhiêu viên thuốc, để biết mình còn được sống yên ổn bao nhiêu ngày nữa. “Margo!” Đúng lúc tôi sắp ra đến cửa thì mẹ gọi giật lại. “Dạ, mẹ?” Tôi hỏi như thì thầm. “Tối nay mày không cần ăn cơm đâu.” Nghe có vẻ dễ chịu nhưng thực chất ý mẹ là, “Tối nay mẹ không cho mày ăn đâu.” Không sao hết. Tôi đã tự tích trữ đồ ăn rồi, dù sao trong chạn cũng không có đồ gì ăn được. Tôi đi về phòng mình. Tôi nghe tiếng mẹ khóa cửa rồi bỏ chìa khóa vào túi. Ngoài cửa chính thì trong nhà chỉ có cửa phòng tôi là khóa được. Mẹ lắp cửa phòng tôi từ mấy năm trước. Lúc đầu tôi cứ tưởng mẹ làm thế để giữ an toàn cho tôi, nhưng sau đó tôi phát hiện ra mẹ cất giữ tiền ngay dưới ván sàn phòng tôi. Ngay dưới chân tôi là cả kho báu của mẹ. Mẹ tôi không mua quần áo, ô tô hay đồ ăn, mà lại tích trữ hết tiền ở đây. Tôi thường lấy vài đồng để mua đồ ăn. Chắc là mẹ cũng biết vì thực chất tôi vẫn sống khỏe, lại còn béo tốt nữa. Tôi ngồi bệt xuống sàn, lôi từ gầm giường ra một cái hộp rồi khẽ lấy ra một quả chuối và hai lát bánh mì, cố để mẹ tôi không nghe thấy tiếng giấy gói sột soạt. Quả chuối đã chín đen, vỏ dính nhớp nháp, bánh mì cũng sắp hỏng nhưng vẫn còn ăn được. Tôi cấu mấy miếng bánh mì, vê tròn lại rồi ăn, trong đầu tưởng tượng như đang dự tiệc Thánh vậy. Bạn tôi là Destiny đã được tham dự lễ ban Thánh thể đầu tiên. Cô ấy kể rằng linh mục sẽ đút một miếng bánh mì dẹt vào miệng người chịu lễ. Miếng bánh mì sẽ tượng trưng cho xác thịt của Chúa Jesu. Phải chờ “thân thể Chúa Jesu” tan ra thì mới được nuốt xuống, vì không được cắn vào xác thịt của Người. Sau đó còn phải uống cả “máu Chúa” nữa. Tôi không biết gì về Chúa Jesu hay lý do vì sao lại phải làm như vậy thì mới trở thành giáo dân, nhưng tôi thấy thà giả vờ đang ăn xác thịt Chúa vẫn tuyệt hơn là ăn bánh mì sắp mốc hỏng. Ăn tối xong, tôi nghe thấy có tiếng chân nện huỳnh huỵch và sàn nhà kêu kẽo kẹt. Là tiếng chân ai? Phải chăng là người đàn ông cao lớn có đám lông xoăn rậm rạp màu xám trước ngực? Mà cũng có thể là cái gã ho dữ dội đến mức làm rung cả giường của mẹ. “Là bệnh bạch hầu”, tôi tự độc thoại với cái vỏ chuối mềm oặt. Tôi đã đọc về bệnh này trong một cuốn sách mà tôi đăng ký mượn liên tục ở thư viện vì không muốn trả lại. Tôi ăn một cái bánh Honey Bun rồi lục cặp rút cuốn sách ra, vừa xem tranh vừa liếm mấy ngón tay dính đồ ngọt. Lúc nghe thấy tiếng tấm ván đầu giường của mẹ va kẽo kẹt vào tường, tôi lại ăn một cái bánh nữa. Chẳng mấy chốc tôi sẽ thành đứa béo phì nếu còn sống trong “hố đen sự sống” này. Chừng nào ngôi nhà còn ăn dần ăn mòn chính bản thân tôi.   Mời các bạn đón đọc Cốt Tủy của tác giả Tarryn Fisher.
Mẹ Đã Sai Rồi
“Tôi có nhiều mẹ. Đối với tôi, chuyện này hơi phức tạp. Nhất là vì họ không thực sự yêu thương nhau. Thậm chí một người còn sắp chết. Phải chăng phần nào là do lỗi của tôi? Phải chăng mọi chuyện xảy ra là tại tôi? Bởi lẽ tôi không nhớ được mẹ nào mới là mẹ thật." Không có gì ngắn ngủi như trí nhớ của một đứa trẻ, nhất là khi đứa trẻ đó mới ba tuổi rưỡi. Không ai tin Malone khi cậu khẳng định rằng mẹ cậu không phải là mẹ thật, ngoại trừ bác sĩ tâm lý Vasile, người duy nhất tìm cách khám phá ra sự thật, trước khi các kí ức mong manh của Malone bị xóa nhòa theo thời gian. Một cuộc chạy đua gấp gáp. Trước khi mọi sự đảo lộn. Trước khi tất cả các miếng ghép được xếp vào đúng chỗ. Trước khi những chiếc mặt nạ bị lột bỏ. Malone thực sự là ai? “Bussi liên tục đưa ra những hướng điều tra, xáo trộn các manh mối, đùa giỡn với ảo giác và những bề ngoài đầy lừa mị. Quả là một bậc thầy trong nghệ thuật đánh lừa. - ELLE *** Review Linh Lee:   Malone - một cậu nhóc 3 tuổi đã dứt khoát khẳng định rằng mẹ cậu không phải là mẹ thật. Trí óc non nớt và những ký ức mong manh như khu rừng yêu tinh, tên lửa hay toà lâu đài nhìn ra biển với một con thuyền đắm gãy đôi về cuộc sống trước kia cùng Mẹ thật khiến không một ai tin lời Malone - họ cho rằng đó đơn thuần chỉ là thế giới tưởng tượng sinh động của cậu nhóc 3 tuổi, chỉ trừ anh chàng bác sĩ tâm lý Vasile, người quyết tâm chạy đua với những ký ức bí ẩn ấy để tìm ra sự thật đằng sau những lời nói của đứa trẻ. Đồng hành cùng anh là cô thiếu tá Marianne - một người phụ nữ 40 tuổi, chưa chồng cũng chẳng tình nhân, một nữ thiếu tá quyết đoán trong công việc nhưng cô vẫn mang trong mình giấc mơ hạnh phúc yên ổn với một đứa con, một gia đình. Trước lời nhờ cậy của Vasile, cô chấp nhận tìm ra chân tướng sự thật sau những bức tranh hay câu chuyện của Malone. Cùng lúc đó chính bản thân Marianne đang săn đuổi theo một tên tội phạm đã gây ra vụ cướp nữ trang nhiều tháng trước mà cảnh sát vẫn chưa tóm gọn được. Hai hay thậm chí ba, bốn vụ án chồng chéo nhau tưởng như tách biệt lại chính là những ghép vừa vặn tạo ra một bức tranh hoàn chỉnh, dẫn tới chìa khoá giải đáp bí ẩn mang tên Mẹ thật của cậu nhóc 3 tuổi. Mạch truyện ổn định, logic chặt chẽ, dẫn dắt người đọc theo dòng ký ức và khiến người đọc sống trong những suy nghĩ và câu chuyện của Malone. Michel Bussi đã thể hiện xuyên suốt được yếu tố psychological đan xem trinh thám trong cả câu chuyện. Ngoài ra, Mẹ đã sai rồi còn có thêm một chút yếu tố thriller được thể hiện qua ý nghĩ của cậu nhóc Malone nên đọc buổi đêm yếu tim có hơi rờn rợn tí. Điểm trừ là bìa sách, dù nhìn thoáng qua rất ổn nhưng 'hơi sai sai' so với nội dung truyện, con thú bông của cậu nhóc là Gouti - con chuột chứ không phải là con gấu bông. Ngoài chi tiết đó thì nhìn chung là rất ổn. Hơi thắc mắc vì không nhiều người biết cuốn nè. 3.8/5. *** Review Nhã Nguyễn: ”Khi bạn nói dối đủ lớn và đủ nhiều thì đó là sự thật”? Một đứa trẻ hơn ba tuổi khăng khăng rằng cha mẹ hiện tại không phải cha mẹ thật của nó, bởi vì con thú bông loài gặm nhấm của cậu kể cho cậu nghe như vậy. Một vụ cướp ngân hàng diễn ra từ nhiều tháng trước mà quá trình điều tra đang đến giai đoạn nước rút. Một chàng bác sĩ tâm lý học đường điển trai, người duy nhất tin lời của cậu bé. Một cô thiếu tá “lỡ thì” bị cuốn vào hai vụ án diễn ra song song (vì anh bác sĩ đeo bám cô không ngừng). Và cuối cùng, một nhân vật bí ẩn, mấu chốt của vấn đề, một bộ óc tính toán đến mức tinh vi (và nhờ đôi chút may mắn?). Tất cả đã đủ cuốn hút bạn chưa, với một cuốn tiểu thuyết trinh thám đến từ nước Pháp? Như đã nói ở trên, tác phẩm này gồm hai vụ án được điều tra độc lập cùng lúc với nhau, và dĩ nhiên, tôi bị hút hơn vào vụ án của cậu bé Malone, với bí ẩn của cậu, rằng những câu chuyện mà cậu kể có là thật, dù mang ít nhiều hoang đường? Chàng bác sĩ tâm lý đã khẳng định rằng trí nhớ của một đứa trẻ ở độ tuổi này có thể dễ dàng mất đi chỉ sau vài tuần, vài tháng, và những ký ức mà ta còn lưu giữ lại vào khoảng thời gian đó khi lớn lên thực chất không phải ký ức trực tiếp, vậy vì sao Malone có thể nhớ và kể lại những câu chuyện ấy suốt một thời gian dài mà không hề quên nó đi? Cái con thú bông loài gặm nhấm đó liên quan gì đến tất cả chuyện này? Bên cạnh vụ án của Malone, quá trình đuổi bắt tên cướp ngân hàng cũng khá là hấp dẫn. Vì sao mỗi khi cảnh sát đuổi đến sát nút, hắn lại có thể biến mất tài tình đến vậy, trong khi đang bị trọng thương? Hồi hộp, gay cấn đến những trang cuối cùng, một số bất ngờ cài cắm đúng lúc xuyên suốt tác phẩm, đây thực sự là một cuốn sách rất đáng đọc. Điểm trừ nhẹ có lẽ là một số đoạn tả cảnh tả tình hơi dài dòng và lãng mạn hóa (có lẽ là theo kiểu Pháp?), và quý cô Marianne hoàn toàn vẫn có thể là một cô gái độc thân kiêu hãnh cơ mà? Điều đầu tiên tôi thích ở tiểu thuyết này đó là đây không phải câu chuyện tôn vinh chỉ một người hùng đơn lẻ. Vụ án được phá không chỉ bởi công sức của cô cảnh sát Marianne, mà nó là sự đóng góp từ giả thiết của bác sĩ Vasile, linh cảm hợp lý của cảnh sát sắp về hưu Papy và những suy luận rất đúng thời điểm của chàng cảnh sát cấp dưới. Điều thứ hai tôi thích hơn nữa, đó là những câu chuyện của Gouti kể cho Malone rải rác suốt tác phẩm, những câu chuyện tưởng chừng cho trẻ con nhưng chứa đựng những triết lý mà người lớn cũng phải suy ngẫm. “Khi con còn nhỏ thì thật khó mà hiểu được, nhưng con hãy lắng nghe cho kỹ. Ai đó mà ta yêu thương, đôi khi phải dám để cho họ đi xa. Hoặc biết chờ đợi thật lâu. Đó là bằng chứng đích thực của tình yêu, có lẽ là bằng chứng duy nhất” - câu chuyện của Gouti. Khi đọc hết tác phẩm này rồi, ngồi ngẫm nghĩ lại, có lẽ bạn sẽ thấm thía nó hơn, tôi nghĩ nó ít nhiều có liên quan đến toàn bộ nội dung tác phẩm đấy. SPOIL NHẸ (dành cho bạn nào đọc rồi). Cá nhân mình thấy cả kế hoạch có những điểm phụ thuộc quá nhiều vào may mắn (ví dụ tình tiết người mẹ tìm thấy tấm vé máy bay, hay tình tiết Marianne hiểu ra toàn bộ vấn đề ở cuối truyện). Kết thúc chuyện tình cảm ở cuối cùng cũng khá là khiên cưỡng, giống như muốn Marianne hết kiếp gái ế vậy =.=. Ngoài ra vụ con thú bông biết nói, bạn nào hay đọc Reddit chắc lờ mờ đoán ra được rồi. *** Michel Bussi là một tác giả người Pháp, được biết đến với việc viết tiểu thuyết ly kỳ, đồng thời là nhà phân tích chính trị và Giáo sư Địa lý tại Đại học Rouen, nơi ông lãnh đạo một Cơ sở Nghiên cứu Khoa học và Kỹ thuật Công cộng tại Trung tâm Nghiên cứu Khoa học Quốc gia Pháp, nơi ông là chuyên gia về địa lý bầu cử. Tác phẩm: Hoa Súng Đen Mẹ Đã Sai Rồi Xin Đừng Buông Tay ... Mời các bạn đón đọc Mẹ Đã Sai Rồi của tác giả Michel Bussi.
Nhà Băng
“NHÀ BĂNG” , nguyên tác tiếng Anh “The money changers”, người dịch Vũ Đình Phòng, Nhà Xuất bản Hà Nội, xuất bản năm 1996. Nếu anh giàu tức là anh nghèo Bởi anh sẽ giống như con lừa còng lưng Dưới những thỏi vàng đè nặng Anh phải vác tiền bạc của cải Nhưng chỉ trên một quãng đường Rồi cái chết sẽ giải tỏa cho anh khỏi nỗi nhọc nhằn đó. *** Nhiều người vẫn còn giữ lại ấn tượng lo âu, dai dẳng trong hai ngày hôm đó của tháng Mười. Hôm ấy là thứ Ba, Ben Rosselli, chủ tịch Hội đồng quản trị kiêm Tổng Giám đốc Ngân hàng Thương mại số một Hoa Kỳ, đồng thời là cháu nội của cố sáng lập viên nhà băng này đã công bố một tin ghê rợn. Tin này lập tức loan truyền khắp các phòng ban và ra cả bên ngoài. Hôm sau, thứ Tư, người ta phát hiện ra một vụ ăn cắp ngay tại chi nhánh chính của Ngân hàng đóng ngay ở trung tâm thành phố, sự kiện này mở đầu cho một loạt sự kiện nối tiếp nhau như phản ứng dây chuyền, đầy bất ngờ, dẫn đến một thảm họa tài chính, đến một bi kịch con người, đến một cái chết.   Khi Tổng giám đốc Ben Rosselli gọi điện cho một số các quan chức thân cận dưới quyền, chưa ai đoán được ông định nói điều gì. Một số nhận được lời triệu tập trong lúc họ ăn sáng ở nhà, số khác vào lúc họ bước vào phòng giấy. Dĩ nhiên đó là những quan chức cấp cao nhất nhà băng, nhưng Ben Rosselli còn triệu tập cả một số nhân viên kỳ cựu mà ông vẫn thường coi là bạn bè thân thiết. Tất cả đều nhận được câu triệu tập y hệt nhau: "Mời đến hội trường họp lớn trong Tòa nhà cao ốc vào mười một giờ sáng nay."   Đó là tên gọi trụ sở công khai của Ngân hàng Thương mại số một Hoa Kỳ. Đúng giờ quy định, khoảng hai chục người đã tề tựu trong phòng họp. Trong lúc chờ đợi, họ vẫn đứng bàn tán xôn xao, không ai quả quyết kéo ghế ra ngồi. Đột nhiên một tiếng nói to làm mọi người ngừng trò chuyện:   - Ai cho phép bác làm chuyện này? Các cặp mắt quay cả lại nhìn người vừa nói câu đó: Roscoe Heyward, Phó tổng giám đốc, đặc trách khu vực các tài khoản. Ông ta quát hỏi bác quản lý nhà ăn dành cho các quan chức cao cấp của nhà băng, lúc này đang rót rượu Xeres ra ly. Đây là thứ rượu quý đặc biệt của Tây Ban Nha. Là cấp lãnh đạo cao, Roscoe Heyward nổi tiếng là người nghiệt ngã trong công việc theo đúng các khuôn phép của nhà băng. ... *** Arthur Hailey (người Anh có quốc tịch Canada) (1920 - 2004) là tác giả của mười một cuốn best-sellers, trong đó có "Bản tin chiều" đã được dựng thành phim. Ông có 11 tiểu thuyết bán rất chạy được in ở 40 quốc gia với 170 triệu bản. Hailey được coi là người trường vốn trong sự nghiệp sáng tác. Những cuốn truyện ông viết đã vượt khỏi quê hương, được xuất bản trên 40 nước với hơn 170 triệu bản. Điểm nổi bật trong tác phẩm của ông là những nhân vật có xuất xứ rất tầm thường nhưng khi bị đẩy vào hoàn cảnh bi hùng đã vượt lên thành một số phận khác.  Sinh ngày 5/4/1920, Hailey sớm phải bỏ học ở tuổi mười bốn, bởi cha mẹ không đủ tiền chu cấp ăn học cho con trai. Sau đó, chàng trai Arthur trở thành phi công trong quân chủng Hoàng gia Anh trong đại chiến 2. Năm 1947, nhà văn tương lai rời bỏ xứ sở sương mù đến Canada và nhập quốc tịch tại đây. Thời gian đầu nơi đất khách, Hailey phải kiếm sống như một nhân viên tiếp thị cho nhà máy sản xuất máy kéo. Được một thời gian thì việc viết lách đã cám dỗ Hailey. Cuốn tiểu thuyết đầu tay của ông là The Final Diagnosis, xuất bản năm 1959, kể về một bác sĩ chẳng may gây ra cái chết với một bé sơ sinh.  Mải mê với những con chữ trong một thập kỷ, rồi ông trở về công việc kinh doanh, chỉ ngồi vào bàn viết như một thú vui. Bà vợ của Hailey cho biết, nhà văn rất khiêm tốn và giản dị, nhưng ông có một niềm hân hoan đặc biệt khi đọc những bức thư của độc giả tán dương tác phẩm mình. Hậu duệ của ông dự định sẽ tổ chức một bữa tiệc tưởng nhớ ông vào tháng giêng theo đúng nguyện ước của người quá cố. Mười bốn tuổi đã nghỉ học vì cha mẹ không đủ tiền cho ông đi học tiếp, Arthur Hailey tham gia thế chiến thứ 2 với tư cách là phi công trong không lực hoàng gia Anh và trở thành nhà văn khi xuất bản tác phẩm đầu tay The final diagnoisis vào năm 1959.  Arthur Hailey có cách viết tiểu thuyết rất hấp dẫn, mô tả những người bình thường trong hoàn cảnh bất thường. Năm 2001 ông nói với hãng tin AP: "Tôi không thật sự tạo ra ai cả. Tôi chỉ lấy từ đời thật". Một số tác phẩm của ông đã được ra tiếng Việt như Phi trường, Bản tin chiều, Trong khách sạn... Mời các bạn đón đọc Nhà Băng của tác giả Arthur Hailey.