Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Học Trò Bà Mụ (Karen Cushman)

“Học trò bà mụ” đoạt giải thưởng Newbery năm 1996, một tác phẩm kết hợp dành cho cả độc giả nhỏ và người lớn. Câu chuyện diễn ra trong bối cảnh nước Anh thời Trung cổ. Nhân vật chính là Alyce (cái tên sau này cô bé tự đặt cho mình), lớn lên từ đống phân rác, vô gia cư, luôn muốn tìm lấy một vị trí trong xã hội - kẻ học việc cho bà mụ Jane Nhọn Sắc quái gở. Trong một lần tự mình làm công việc đỡ sanh, nó đã thất bại. Thay vì đối mặt với thất bại, Alyce lại trốn chạy. Tố chất thông minh và lòng thương trẻ nhỏ vẫn cháy bỏng trong lòng cô bé và cô lại thử công việc đỡ sanh một lần nữa…***

Viết từ năm 1996, cách đây 14 - 15 năm.

Viết về người phụ nữ chuyên giúp phụ nữ khác sinh con theo kiểu truyền thống thời còn các vị lãnh chúa Trung cổ.

Chỉ hai điều đó thôi cũng đủ khiến tác phẩm không dễ tiếp cận với bạn đọc ngày nay. Nhưng ngược lại, cũng chính chúng tạo sự tò mò, hứng thú cho bạn đọc khi tìm đến cuốn sách.

Cuốn sách kể về con đường đến với nghề bà mụ của cô bé có cái tên rất lạ Bọ Hung (sau này là Alyce - do cô tự đặt). Nội dung truyện đơn giản vậy thôi nhưng điều đọng lại có lẽ lớn lao hơn nhiều. Tìm mua: Học Trò Bà Mụ TiKi Lazada Shopee

Trước hết, nói về Bọ Hung.

Con bé xuất thân không ai rõ, người làng thấy nó ở đống phân rác (phân súc vật, rác rưởi, rơm rạ chất đống thối rữa), tìm hơi ấm từ những thứ bỏ đi đó. Nó sống bằng mọi cách có thể: ăn cắp một củ hành, phụ gặt hái mùa màng… Tóm lại đó là một đứa trẻ không may mắn nhưng luôn nỗ lực để tồn tại trong cái thế giới lạnh lùng mà nó đang sống. Người ta thấy nó, chỉ để thấy và chế nhạo một kẻ khốn khổ ngoài ra không còn gì khác, không một sự thương hại hay giúp đỡ đứa trẻ đó.

Sống cùng đám phân rác và những người lớn vô tâm suốt, con bé mang trong mình một tâm hồn lạnh lẽo, tăm tối. Chính nó cũng cảm thấy vô vọng, vô vọng…

Chỉ có điều tận sâu cùng trong tâm hồn nó, nó vẫn muốn sống và sẵn sàng chớp lấy một cơ hội để được sống. Vì thế, nó đã tìm được một chỗ ở - có mùi dễ chịu hơn nhưng không ấm bằng đống phân rác, một công việc - đứa ở - trong nhà bà mụ Jane Nhọn Sắc.

Bắt đầu từ đây, Bọ Hung làm quen với các loại thảo dược và công việc phụ giúp một bà mụ qua các ca đỡ đẻ trong làng. Nó học được nhiều điều nhưng chưa bao giờ dám thử tự mình vận dụng chúng. Nó vẫn còn sợ, vẫn còn e ngại. Cũng từ ngày sống cùng bà mụ Jane, Bọ Hung không còn e sợ sự trêu chọc ác ý của bọn con trai trong làng; nó sẵn sàng đáp trả một cách nanh nọc để bảo vệ mình. Thậm chí nó đủ dũng cảm và nhân hậu để cứu một đứa trong bọn chúng bị rớt xuống nước. Hành động ấy làm thay đổi hẳn mối quan hệ giữa nó và lũ con trai, đặc biệt là đối với Will Russet - kẻ chịu ơn cứu mạng. Bọ Hung đã có bạn ở đây.

Sự đổi thay không chỉ diễn ra trong mối quan hệ nói trên. Bọ Hung còn có cơ hội thực hiện những điều học lóm từ bà mụ Jane vào cuộc sống. Khởi đầu là giúp một con bò sinh nở, sau đó là giúp vợ quan quản lí thái ấp mẹ tròn con vuông. Con bé bắt đầu cảm thấy tự tin hơn và tự hào về mình. Bằng tấm lòng nhân ái của mình, con bé còn cố giúp đỡ một đứa trẻ khác có hoàn cảnh tương tự mình.

Có thể nói, con bé trưởng thành bên đống phân rác nhưng tấm lòng và tâm hồn nó không phải một đống phân rác. Nói như người Việt Nam ta thì đó là “gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”. Bọ Hung - nay là Alyce, đáng được độc giả yêu quý bởi tâm hồn nhân ái, trong sáng và nghị lực sống phi thường.

Nhưng cuộc đời vốn không phải lúc nào cũng yên ổn, con đường thành nghề đâu có trải hoa hồng. Alyce đã gặp phải thất bại đầu tiên trong đời và nó chọn cách bỏ chạy. Bạn có thể cho là nó hèn nhát, không dám đương đầu thất bại. Vậy thì bạn hẳn đã quên, nó vẫn còn là đứa trẻ mười mấy tuổi đầu. Trước khi dám đương đầu với thất bại, rất nhiều người đều nảy sinh ý định chạy trốn. Chúng ta dễ đón nhận thành công nhưng không có gì là dễ chịu với thất bại. Tác giả Karen đã thể hiện rất thật nét tâm lí này của con người.

Và Karen tiếp tục dẫn dắt bạn đọc theo bước chân học trò bà mụ đến quán ăn nơi cô đang làm việc để quên đi thất bại đầu đời. Những tưởng cuộc đời Alyce sẽ rẽ sang hướng khác thì một cơ may khác đưa cô bé quay trở lại con đường cũ. Alyce đã quay về, chính thức trở thành NGƯỜI HỌC VIỆC CỦA BÀ MỤ.

Đây cũng là điểm tôi thích nhất ở nhân vật này. Tình yêu đối với công việc giúp những phụ nữ sinh đẻ vuông tròn đã là động lực giúp Alyce vượt qua thất bại và bắt đầu lại từ đầu. Dưới cái dáng vẻ nhỏ bé, yếu ớt của cô bé là cá tính mạnh mẽ. Cô bé không cha không mẹ ấy đã đứng lên bằng chính đôi chân và sống nhờ đôi bàn tay lao động của mình. Đó không chỉ là điều những đứa trẻ cần học hỏi, chính người lớn đôi khi cũng cần nhìn lại mình.

Còn một người mà tôi muốn giới thiệu với các bạn: bà mụ Jane Nhọn Sắc.

Lúc đầu, tôi không ưa người phụ nữ này lắm mặc dù bà ta tỏ ra thành thạo công việc và là người có hiểu biết về nghề của mình. Ấy là bởi cách bà đối xử với Bọ Hung khá cay độc. Bà ta cũng từng chạy trốn khi gặp khó khăn (đó là suy nghĩ của riêng tôi): không dám theo đến cùng một ca đẻ khó, chạy đi đỡ một ca khác và bỏ con bé giúp việc ở lại với sản phụ.

Sau này, đọc đến gần cuối truyện tôi bỗng nhận ra con người này không hoàn toàn xấu. Bà ta nói Alyce “không phải người tôi cần” vì người học việc Jane muốn phải là “người dám chấp nhận thử thách, rủi ro và thất bại, rồi lại cố gắng lần nữa mà không bỏ cuộc. Trẻ con không ngừng sinh ra dù bà mụ bỏ cuộc.” Chính lời tâm sự ấy của Jane đã tác động không nhỏ tới quyết định của Alyce. Và cũng chính bà ta đã tiếp nhận sự quay lại của Alyce.

Nếu tạm bỏ qua những cay độc và khắt khe của bà, bạn sẽ thấy đó là một người thầy mà Alyce cần có. Sự dạy dỗ quả là muôn hình muôn vẻ.

***

Bà Karen Cushman sinh tại Chicago, bang Illinois, Mỹ. Ngoài bằng cử nhân về Nhân Văn và Bảo Tàng, bà còn tự học về thư viện, thuật gấy mê, múa ba-lê và đặc biệt là y học. Được mệnh danh là nhà văn hư cấu lịch sử kiệt xuất dành cho thanh thiếu niên, 50 tuổi bà mới viết quyển sách đầu tay CATHERINE, CALLED BIRDY và đoạt ngay giải bạc Newbery năm 1995; sang năm 1996, THE MIDWIFE’S APPRENTICE đoạt giải vàng Newbery - cả hai tác phẩm đều xuất phát từ việc nghiên cứu lịch sử và văn hóa các nước Anh thời Trung cổ của bà. Tác phẩm thứ ba nói về thời kỳ đổ xô đi tìm vàng trong lịch sử Hoa Kỳ. Bà cũng là tác giải của MATHILDA BONE, THE BALLAD OF LUCY WHIPPLE và gần đây nhất là RODZINA.

Tác phẩm Học trò bà mụ (Nguyên tác: The Midwife’s Apprentice) đoạt:

- Huy chương vàng Newbery năm 1996.

- Lọt vào danh sách những quyển sách hay nhất của Hiệp hội Thư viện Mỹ năm 1996.

- Sách hay nhất cho thanh thiếu niên năm 1996.

Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Học Trò Bà Mụ PDF của tác giả Karen Cushman nếu chưa có điều kiện.

Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.

Nguồn: thuviensach.vn

Đọc Sách

Chuyện Tình Romeo Và Juliet (Willam Shakespeare)
William Shakespeare, sinh năm 1564, mất ngày 23 tháng 4, 1616 là một nhà văn và nhà viết kịch Anh, được coi là nhà văn vĩ đại nhất của Anh và là nhà viết kịch đi trước thời đại. Ông cũng được vinh danh là nhà thơ tiêu biểu của nước Anh và là "Nhà thơ của Avon" (Avon là quê của Shakespeare, viết tắt của Stratford-upon-Avon). Những tác phẩm của ông, bao gồm cả những tác phẩm hợp tác, bao gồm 38 vở kịch, 154 bản sonnet, 2 bản thơ tường thuật dài, và vài bài thơ ngắn. Những vở kịch của ông đã được dịch ra thành rất nhiều ngôn ngữ lớn và được trình diễn nhiều hơn bất kì nhà viết kịch nào. Truyền thuyết về Roméo và Juliette đã được kể lại nhiều lần hơn 100 năm trước khi William Shakespeare viết thành kịch bản. Vào năm 1476 trong cuốn sách Ý nhan đề là Il Novellino, tác giả Masuccio Salernitano đã kể về mối tình vụng trộm, về vụ giết người, vụ đầy đi khỏi xứ, về một nhà tu sẵn lòng giúp đỡ và cả về đám cưới của hai gia đình thù nghịch. Năm 1530, Luigi da Porta cũng kể lại câu chuyện tình này, gắn cho các nhân vật trong truyện các tên Ý và nơi diễn ra nghịch cảnh là thành phố Verona. Theo truyện của Da Porta, đôi tình nhân này cũng tự sát. Tới năm 1562 tại nước Anh, nhà thơ Arthur Brooke đã dùng đề tài này trong tập thơ dài “The Tragical Historye of Romeus and Julius” (Lịch sử bi thương của Romeus và Julius), đã đề cập tới một thứ đam mê không thánh thiện, một thứ tình yêu vụng trộm, sự không vâng lời cha mẹ và bất tuân luật pháp. Ngôn ngữ trong tập thơ của Brooke thì khô khan, thiếu hấp dẫn dù cho tác giả có cảm tình với cặp uyên ương. Tới khi William Shakespeare dùng câu chuyện tình kể trên làm chất liệu cho vở bi kịch, thì Đại Văn Hào đã làm cho các nhân vật hành xử giống như chúng ta ngày nay: họ có các ưu điểm và khuyết điểm, có lúc nổi giận, có lúc khôi hài… Vở kịch “Roméo và Juliette” là một chuyện tình và một định mạng bi thương. Các nhân vật trong vở kịch đã suy nghĩ như thế nào, tại sao họ đã chọn các cách hành động như vậy? Trong vở kịch “Roméo và Juliette” của Shakespeare, có hai loại nhân vật: loại chuyển biến và loại thụ động. Các nhân vật chuyển biến đã phát triển và thay đổi qua thời gian, đã hành động theo nhiều cách tùy theo các hoàn cảnh khác nhau, gồm có Juliet, Roméo, Cha Lawrence, Hoàng Tử Escalus. Loại thụ động không thay đổi, hành động theo lề lối chúng ta có thể đoán ra được, gồm có bà vú nuôi, Mercutio, Hầu Tước và bà Montague, Hầu Tước và bà Capulet, Tybalt, Benvolio, Paris … Mời các bạn đón đọc Roméo và Juliette của tác giả William Shakespeare.Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Chuyện Tình Romeo Và Juliet PDF của tác giả Willam Shakespeare nếu chưa có điều kiện. Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Những Câu Chuyện Của Homer (Cao Xuân Hạo)
Sử thi Odyssey của Homer kể về hành trình trở về của Odysseus sau chiến thắng ở thành Troy. Tuy là câu chuyện hư cấu nhưng theo các chuyên gia, nó có thể cho chúng ta những cái nhìn sâu sắc, có giá trị về hiện thực cuộc sống thời cổ đại, bao gồm cả các loài động thực vật thời đó. Hành trình trở về của người anh hùng Odysseus là mười năm đằng đẵng đi qua bao hòn đảo, phải đối mặt với những vị thần hung dữ, những con quái vật khát máu, những tiên nữ đầy cám dỗ với vô số bùa chú mê hoặc. Đây là một câu chuyện kinh điển đã thu hút các học giả kể từ lần đầu được xuất bản vào thế kỷ 8 trước Công Nguyên. Bằng những phương pháp khoa học thực sự, các nhà nghiên cứu đã soi đi lật lại từng câu chữ trong văn bản để tìm ý nghĩa và giải thích những chi tiết nổi bật nhất của câu chuyện. Một vài trường hợp nghiên cứu cho thấy những sinh vật được kể trong câu chuyện hư cấu này có thể đã thực sự tồn tại ở thời cổ đại.Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Những Câu Chuyện Của Homer PDF của tác giả Cao Xuân Hạo nếu chưa có điều kiện. Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Chiếc Lá Cuối Cùng (O Henry)
Một số người sống trong một quận gạch đỏ dưới phía đông của thành phố luôn luôn thiếu ổn định, mãi trôi giạt, lang thang. Tuy vô gia cư, họ vẫn có hàng trăm chỗ ở. Họ nhảy từ phòng cho thuê này qua phòng khác (phòng nào cũng đủ tiện nghi nội thất), luôn trong cảnh lông bông, lông bông về chỗ trú ngụ, lông bông về tâm hồn và tư tưởng. Họ ca hát “Tổ ấm gia đình” trong điệu dân ca Mỹ rộn ràng, họ mang đồ tế nhuyễn trong một cái thùng đáng lẽ chỉ để đựng đồ linh tinh, dây leo làm cảnh quấn quanh cái mũ rộng vành ta thường thấy trong các bức họa, một cái cây nhỏ là cây bóng mát. Vì thế, những ngôi nhà của quận này, với hàng nghìn nhân khẩu, có hàng nghìn câu chuyện để kể, đương nhiên, phần lớn đều vô vị, nhưng sẽ là điều lạ lùng nếu ta không thể tìm ra một vài bóng ma trong đám dân cư lông bông này. Một buổi tối, một thanh niên lượn vòng, bấm chuông những toà nhà màu đỏ đổ nát này. Đến toà nhà thứ mười hai, anh đặt túi hành lý lép kẹp trên bậc thềm, lau cái trán đã lấm đầy bụi. Cái chuông phát ra âm thanh khe khẽ và xa xôi trong những chiều sâu nào đấy hun hút, trống rỗng. Một người đàn bà đi ra cửa. Bà làm anh liên tưởng đến một con sâu bệnh hoạn, háo ăn háo uống đã đục khoét cả một cái quả chỉ chừa lại vỏ cứng và bây giờ đang lo kiếm khách trọ nào đấy có thể xơi được, để lấp đầy chỗ hổng. Anh hỏi bà có phòng trống cho thuê hay không. Bà trả lời, tiếng phát ra từ cổ họng, cổ họng dường như được lót lông thú: - Mời vào. Tôi có tầng ba, phía sau, đã trống một tuần nay. Anh muốn xem không? Người thanh niên theo bà đi lên cầu thang. Một luồng ánh sáng nhợt nhạt không rõ phát ra từ đâu lắp bớt những khoảng tối trong các hành lang. Họ bước không một tiếng động nào trên một tấm thảm mà cái khung cửi dệt của nó hẳn phải không dám nhìn nhận nó nữa. Dường như tấm thảm đã trở nên một loài thực vật, trong bầu không khí nặng không hề có ánh mặt trời, nó đã bị thoái hoá thành một lớp địa y lùm xùm hay rêu lan tràn mọc từng mảng đến tận cầu thang, nó trơn nhớt dưới chân như là một chất hữu cơ. Ở mỗi chỗ ngoặt của cầu thang là những hốc lõm trên tường. Có lẽ một loại cây cỏ nào đó đã từng mọc trong đấy. Nếu đúng thế, hẳn mấy cây cỏ đó đã tàn lụi trong bầu không khí hôi hám. Có thể có những bức tượng của các vị thánh đã được đặt ở đấy, nhưng ta có thể suy luận dễ dàng là ma quỷ đã lôi họ qua bóng tối xuống những vực sâu có trang bị đồ đạc trần tục ở phía dưới. Bà chủ nói qua cổ họng được lót lông thú: - Phòng này đây. Phòng này tốt lắm. Ít khi trống. Mùa hè vừa rồi có người đứng đắn thuê - không gây rắc rối gì cả, lại còn trả tiền trước. Nước ở cuối hành lang. Sprowls và Mooney đã thuê ở đây ba tháng. Họ diễn trên sân khấu văn nghệ tạp kỹ. Cô B’retta Sprowls - chắc ông có nghe nói đến cô ấy - À, mà đấy chỉ là tên sân khấu - trên tủ quần áo ngay đây là nơi họ treo giấy hôn thú, có đóng khung đàng hoàng. Vòi ga ở đây, có nhiều tủ quần áo, ông thấy đấy. Ai cũng thích phòng này. Không mấy khi trống.Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Chiếc Lá Cuối Cùng PDF của tác giả O Henry nếu chưa có điều kiện. Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Chiếc Lá Cuối Cùng (O Henry)
Một số người sống trong một quận gạch đỏ dưới phía đông của thành phố luôn luôn thiếu ổn định, mãi trôi giạt, lang thang. Tuy vô gia cư, họ vẫn có hàng trăm chỗ ở. Họ nhảy từ phòng cho thuê này qua phòng khác (phòng nào cũng đủ tiện nghi nội thất), luôn trong cảnh lông bông, lông bông về chỗ trú ngụ, lông bông về tâm hồn và tư tưởng. Họ ca hát “Tổ ấm gia đình” trong điệu dân ca Mỹ rộn ràng, họ mang đồ tế nhuyễn trong một cái thùng đáng lẽ chỉ để đựng đồ linh tinh, dây leo làm cảnh quấn quanh cái mũ rộng vành ta thường thấy trong các bức họa, một cái cây nhỏ là cây bóng mát. Vì thế, những ngôi nhà của quận này, với hàng nghìn nhân khẩu, có hàng nghìn câu chuyện để kể, đương nhiên, phần lớn đều vô vị, nhưng sẽ là điều lạ lùng nếu ta không thể tìm ra một vài bóng ma trong đám dân cư lông bông này. Một buổi tối, một thanh niên lượn vòng, bấm chuông những toà nhà màu đỏ đổ nát này. Đến toà nhà thứ mười hai, anh đặt túi hành lý lép kẹp trên bậc thềm, lau cái trán đã lấm đầy bụi. Cái chuông phát ra âm thanh khe khẽ và xa xôi trong những chiều sâu nào đấy hun hút, trống rỗng. Một người đàn bà đi ra cửa. Bà làm anh liên tưởng đến một con sâu bệnh hoạn, háo ăn háo uống đã đục khoét cả một cái quả chỉ chừa lại vỏ cứng và bây giờ đang lo kiếm khách trọ nào đấy có thể xơi được, để lấp đầy chỗ hổng. Anh hỏi bà có phòng trống cho thuê hay không. Bà trả lời, tiếng phát ra từ cổ họng, cổ họng dường như được lót lông thú: - Mời vào. Tôi có tầng ba, phía sau, đã trống một tuần nay. Anh muốn xem không? Người thanh niên theo bà đi lên cầu thang. Một luồng ánh sáng nhợt nhạt không rõ phát ra từ đâu lắp bớt những khoảng tối trong các hành lang. Họ bước không một tiếng động nào trên một tấm thảm mà cái khung cửi dệt của nó hẳn phải không dám nhìn nhận nó nữa. Dường như tấm thảm đã trở nên một loài thực vật, trong bầu không khí nặng không hề có ánh mặt trời, nó đã bị thoái hoá thành một lớp địa y lùm xùm hay rêu lan tràn mọc từng mảng đến tận cầu thang, nó trơn nhớt dưới chân như là một chất hữu cơ. Ở mỗi chỗ ngoặt của cầu thang là những hốc lõm trên tường. Có lẽ một loại cây cỏ nào đó đã từng mọc trong đấy. Nếu đúng thế, hẳn mấy cây cỏ đó đã tàn lụi trong bầu không khí hôi hám. Có thể có những bức tượng của các vị thánh đã được đặt ở đấy, nhưng ta có thể suy luận dễ dàng là ma quỷ đã lôi họ qua bóng tối xuống những vực sâu có trang bị đồ đạc trần tục ở phía dưới. Bà chủ nói qua cổ họng được lót lông thú: - Phòng này đây. Phòng này tốt lắm. Ít khi trống. Mùa hè vừa rồi có người đứng đắn thuê - không gây rắc rối gì cả, lại còn trả tiền trước. Nước ở cuối hành lang. Sprowls và Mooney đã thuê ở đây ba tháng. Họ diễn trên sân khấu văn nghệ tạp kỹ. Cô B’retta Sprowls - chắc ông có nghe nói đến cô ấy - À, mà đấy chỉ là tên sân khấu - trên tủ quần áo ngay đây là nơi họ treo giấy hôn thú, có đóng khung đàng hoàng. Vòi ga ở đây, có nhiều tủ quần áo, ông thấy đấy. Ai cũng thích phòng này. Không mấy khi trống.Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Chiếc Lá Cuối Cùng PDF của tác giả O Henry nếu chưa có điều kiện. Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.