Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Hội chứng Uniqlo

Hội chứng Uniqlo không phải là một trong số những cuốn sách ca tụng về Uniqlo đang tràn ngập trên thị trường, cũng không phải cuốn chỉ dẫn về phương thức hoạt động của Uniqlo hay phân tích về sự phát triển của Fast Retailing (Tập đoàn bán lẻ lớn của Nhật, công ty mẹ của Uniqlo). Nó cũng không nghiên cứu về sự nghiệp của ngài Yanai Tadashi (Người sáng lập và Chủ tịch của Fast Retailing, chủ nhân thương hiệu Uniqlo). Nếu muốn tìm hiểu về những điều đó, các bạn hoàn toàn có thể tìm đọc những cuốn sách do chính ngài Yanai viết là Một lời, chín lỗ hay Có thể đánh mất thành công chỉ sau một ngày. Hội chứng Uniqlo sẽ chỉ ra sự thật rằng bối cảnh cho sự thành công bất ngờ của Uniqlo chính là một nền văn hóa tiêu dùng đang suy thoái do sự sụt giảm của kinh tế và kìm hãm cảm tính của giới trẻ, đồng thời làm rõ hiện tượng sụt giảm tiêu dùng trong xã hội được gọi tên là “hội chứng Uniqlo”, mở rộng chủ đề nghiên cứu từ phong cách tiêu dùng toàn cầu hóa đến cấu trúc nền kinh tế. Trong bối cảnh làn sóng toàn cầu hóa với số lượng người trẻ ngày càng sụt giảm, Nhật Bản dần mất đi sức cạnh tranh và trở nên tụt hậu so với một châu Á đang trên đà phát triển. Chúng ta cần xem xét từ cả hai phía, nước Nhật và châu Á, để tìm ra đối sách phù hợp nhằm thoát khỏi tình cảnh hiện tại. Thêm vào đó, tôi muốn đưa ra những nhận định, dự đoán xem liệu Uniqlo – thương hiệu chất lượng cao đang độc chiếm thị trường Nhật Bản, được thiết kế dành riêng cho thị trường trong nước nay đã gặt hái được thành công ở một số quốc gia đã và đang phát triển – liệu có đạt được mục tiêu dài hạn là đến năm 2020 vượt mốc doanh thu 5.000 tỉ yên và lợi nhuận 1.000 tỉ yên hay không. Lập trường của cuốn sách Hội chứng Uniqlo này không phải là khẳng định và nghiên cứu những thành công của Uniqlo mà là phân tích trực diện tình hình thị trường và mô hình doanh nghiệp ở Nhật Bản, so sánh với các mô hình doanh nghiệp không chỉ ở Âu Mỹ mà còn ở cả châu Á bằng cái nhìn tỉnh táo để tìm ra điểm mạnh cũng như điểm yếu, đồng thời xác định những cơ hội và thách thức của Uniqlo nói riêng và Fast Retailing nói chung trong tương lai. Với những nghiên cứu về Uniqlo từ trước đến giờ, cuốn sách này sẽ mang lại những đánh giá về Uniqlo trên góc độ toàn cầu, từ đó đưa ra những cảnh báo cũng như triển vọng trong tương lai của giới kinh doanh. *** Thông qua cuốn sách Hội chứng Uniqlo (Uniqlo Syndrome), tác giả Kensuke Kojima chỉ ra sự thật rằng bối cảnh cho sự thành công bất ngờ của Uniqlo chính là một nền văn hóa tiêu dùng đang suy thoái do sự sụt giảm của kinh tế và kìm hãm cảm tính của giới trẻ, đồng thời làm rõ một hiện tượng sụt giảm tiêu dùng trong xã hội, được gọi là “Hội chứng Uniqlo”, mở rộng chủ đề nghiên cứu từ phong cách tiêu dùng toàn cầu hóa đến cấu trúc nền kinh tế. Vào khoảng những năm 2000, thị trường thời trang giá rẻ của Nhật Bản rơi vào trạng thái hỗn loạn. Hàng loạt “ông lớn” như Aeon, Jeans Mate hay Right – On đều bị rơi vào những “bi kịch”. Nền thời trang giá rẻ Nhật Bản bị đặt trong tình trạng báo động. Nguyên nhân đến từ đâu? Có một “kẻ đứng sau”, và cho đến bây giờ, “kẻ đứng sau” đó vẫn sẽ luôn bị chỉ trích là “kẻ châm ngòi” cho cuộc chiến giữa các thương hiệu giá rẻ đã làm hỗn loạn thị trường Nhật Bản. Vậy, “kẻ đứng sau” là ai? Câu trả lời chính là: Uniqlo Uniqlo (còn được gọi là GU cấp thấp) đã từng làm chao đảo thị trường đồ jeans của các thương hiệu quốc gia. Đây là các thương hiệu lớn, nổi tiếng trên phạm vi toàn quốc (gọi là các NB – National Brand), tuy nhiên, tất cả đều lao đao trong một cuộc chiến giá bán, mà ở đó, “kẻ châm ngòi” chính là Uniqlo. Ngày 10/03/2009, hãng GU thuộc tập đoàn Fast Retailing cho ra mắt mẫu quần jeans có giá chỉ 990 yên (khoảng hơn 200.000 VNĐ). Một cuộc cạnh tranh về giá đã nổ ra. Aeon và Daiei đáp trả với mức giá 880 yên, đỉnh điểm là Don Quijote tung ra mức 660 yên. Tiếp sau là GAP tặng miễn phí 500 cặp quần kỉ niệm được thiết kế riêng cho dịp này. Jeans Mate cũng nhân dịp khai trương cửa hàng ở Shinsaibashi đã tặng sản phẩm cho 100 vị khách đầu tiên trong 4 ngày liên tiếp. Cuộc chiến về giá trên thị trường đồ jeans dường như không có điểm dừng. Nó kéo dài và dần trở thành một cuộc phá giá sản phẩm jeans, khiến nhiều người không còn biết đâu là giá trị thực của mặt hàng này. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng này là do CEO của Fast Retailing, ngài Yanai Tadashi, đã quyết định tiến hành chiến lược về giá khi bắt đầu phát triển sản phẩm jeans 990 yên của GU. Những cửa hàng giá rẻ của GU buộc phải đặt cược và giảm giá đến một nửa để hướng đến mục tiêu tăng trưởng nhanh. Chính vì vậy, sản phẩm 990 yên được tung ra thị trường như một món hàng chấp nhận lỗ để thu hút khách hàng. Nhờ chiến lược ấy, doanh số bán hàng của GU tăng lên nhanh chóng, nhưng mặt trái là hãng không chỉ phá giá thị trường đồ jeans mà còn khiến cả thị trường tiêu dùng hỗn loạn. Không chỉ vậy, trong cơn bão phá giá, hàng loạt nhà cung cấp vải và sợi cho thị trường đồ jeans cũng phải chuyển dịch sang các nước có chi phí sản xuất thấp hơn như Trung Quốc để tránh nguy cơ sụp đổ toàn bộ thị trường. Chiến lược phá giá của GU đã làm chao đảo cả thị trường thời trang Nhật Bản, khi mà cơn sốt jeans bắt đầu qua đi từ mùa xuân năm 2006. Hậu quả là, thị trường hàng may mặc Nhật không ngừng thu nhỏ lại, bởi hai lý do sau: Sự suy thoái của các NB Người tiêu dùng đang phải cắt giảm các khoản chi tiêu dành cho mua sắm Hàng loạt hệ quả kéo theo. Thị trường may mặc Nhật thu nhỏ dẫn tới hệ thống cửa hàng bách hóa suy thoái. Sự suy thoái này kéo theo việc những thương hiệu thời trang lớn dần rời khỏi kệ hàng của các cửa hàng bách hóa. Đây là điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của thị trường các cửa hàng tiêu thụ hàng tồn kho, dẫn tới thị trường này ngày càng mở rộng. Chưa bao giờ thị trường may mặc giá rẻ tại Nhật Bản lại trở nên hỗn loạn đến như vậy. Hội chứng Uniqlo không có điểm dừng Trước sự phát triển thần kỳ của Uniqlo, việc những cửa hàng bán lẻ và bán buôn muốn tìm hiểu phương pháp phát triển sản phẩm và công nghệ kỹ thuật của hãng là lẽ đương nhiên. Cùng với đó, các trung tâm mua sắm và cửa hàng bách hóa cũng nhập các sản phẩm của Uniqlo vào kinh doanh. Tuy nhiên, phong trào này diễn ra ồ ạt mang đến hiệu quả ngược, do những công ty đi trước đã thâu tóm thị trường không phù hợp với mình và cuộc cạnh tranh về giá dần khiến doanh thu và lợi nhuận giảm sút. Những thương hiệu ra đời sau phải cạnh tranh trong một môi trường đầy biến động, không có hiệu quả và chứa rất nhiều rủi ro. Trong hoàn cảnh như vậy, các doanh nghiệp không tránh khỏi bị ảnh hưởng bởi làn sóng Uniqlo. Hiện tượng này được gọi chính xác nhất là “Hội chứng Uniqlo”. Uniqlo mở rộng đối tượng khách hàng với nhiều nhóm sản phẩm phong phú như áo khoác, tất chân, khăn quàng và gần đây còn tiến tới cả áo, quần bó với rất nhiều chủng loại.  Chiến lược bán hàng đã đưa doanh thu đạt đỉnh. Việc kết hợp phát tờ rơi và chính sách giảm giá (giới hạn số lượng) đã thực sự thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm. Tuy nhiên, khi nhận xét về bản chất của việc mở rộng phạm vi khách hàng bằng phương pháp phát triển từng chủng loại sản phẩm của Uniqlo, ngài Yanai Tadashi cho rằng: “Trong ngành may mặc, âu phục đồng nghĩa với thời trang, và rất nhiều khách hàng thông thường phù hợp và có đủ khả năng chi trả cho mặt hàng này. Nếu cung cấp mặt hàng chất lượng với mức giá hợp lý để trở thành một phần trong cuộc sống của khách hàng, thị trường của công ty có thể mở rộng không giới hạn”. Những chuỗi cửa hàng và các nhà bán lẻ không hiểu được bản chất này mà chỉ chăm chăm học theo Uniqlo thì sẽ rất khó nắm bắt được tâm lý khách hàng. Có rất nhiều ý kiến về thế giới thời trang và ngành bán lẻ mà Uniqlo đang tham gia nhưng không ai có thể phủ nhận rằng với châm ngôn “Thay đổi trang phục, thay đổi nhận thức, thay đổi thế giới”, Uniqlo đã mang đến sự độc đáo và mở rộng đối tượng khách hàng của mình. Một minh chứng điển hình cho hội chứng Uniqlo chính là bộ phận bán lẻ hàng may mặc của Aeon. Sau khi bùng nổ làn sóng sản phẩm lông cừu, Aeon đã tiếp nối những sản phẩm đặc thù của Uniqlo như quần bó và áo len cashmere. Họ đáp trả sản phẩm đồ jeans 990 yên của GU bằng thương hiệu 880 yên. Kết quả là, dẫu nhiều người lầm tưởng rằng bộ phận bán lẻ hàng may mặc của Aeon đã phát triển gần tương xứng với Uniqlo nhưng thực tế thì hoàn toàn ngược lại. Thị phần của sản phẩm 880 yên bị thị phần của các sản phẩm 1.990 và 2.990 yên nuốt gọn, cân bằng giữa các nhóm sản phẩm dần bị phá vỡ. Điều tồi tệ nhất chính là trong khi mải theo đuổi và tìm kiếm những dòng sản phẩm bán chạy, bộ phận hàng may mặc của Aeon đã chìm vào vòng xoáy khủng hoảng, khiến cán cân thương mại mất cân bằng. Thêm vào đó, từ mùa xuân năm 2006, khi nền kinh tế có dấu hiệu đi lên, Aeon lại chọn phương hướng hoạt động giống những cửa hàng bách hóa, lãng phí thời gian và tài nguyên vào những mặt hàng xa rời nhu cầu của người tiêu dùng. Do vậy, dù tình hình kinh tế có khởi sắc, doanh thu của Aeon vẫn bị giảm. Như vậy, có thể thấy, dù là Aeon hay bất cứ thương hiệu lớn nào khác, nếu không tập trung vào khách hàng của mình mà chỉ chăm chăm học hỏi chiến lược kinh doanh của các đơn vị khác thì khó có thể thành công. Dù là hội chứng Uniqlo, hay “cải cách”, hay đi theo đường lối của các cửa hàng bách hóa, các công ty cũng không được phép xa rời nhu cầu thực tế của khách hàng. Quỹ đạo tăng trưởng của Uniqlo Theo thông tin tổng hợp từ Thời báo Kinh tế Nhật Bản cuối năm 2009, Uniqlo đứng đầu tất cả các hạng mục sản phẩm trong suốt 10 năm đầu của thế kỷ XXI. Fast Retailing cũng là một trong những doanh nghiệp có sức tăng trưởng nhanh nhất trong thập niên đầu thế kỷ XXI. Sau “20 năm đánh đổi”, doanh thu của Uniqlo đã tăng 115 lần (chỉ tính thị trường quốc nội), đồng thời tận dụng tốt tình trạng giảm phát để trở thành doanh nghiệp tượng trưng cho lối sống ngày càng giản dị của nước Nhật. Từ thương hiệu quốc gia thành thương hiệu quốc tế Uniqlo là hình mẫu trong việc duy trì hình ảnh sản phẩm cho mọi lứa tuổi, mọi giới tính. Bắt đầu từ một cửa hàng thường phục bên đường, Uniqlo dần phát triển thành chuỗi cửa hàng dành cho người dân địa phương, sau này còn phát triển thêm những sản phẩm thể thao và những sản phẩm mang phong cách Mỹ. Công ty luôn cố gắng để cân bằng giữa việc theo đuổi xu hướng và việc sản xuất những mặt hàng thông dụng để duy trì doanh thu. Sau làn sóng áo khoác thể thao, tính đại chúng của công ty cũng tăng dần lên, các sản phẩm về sau như những mẫu thường phục cao cấp hay áo giữ nhiệt cũng dần được khách hàng đón nhận khiến công ty khẳng định được vị thế là một thương hiệu thường phục nổi tiếng toàn quốc. Một cuộc khảo sát đã được thực hiện để điều tra xem liệu Uniqlo có thể đáp ứng được nhiều tầng lớp khách hàng khác nhau không. Theo khảo sát xu hướng người tiêu dùng được Brand Data Bank thực hiện trong giai đoạn từ tháng 12 năm 2008 đến tháng 1 năm 2009, với hơn 30.000 người trên toàn quốc, Uniqlo chiếm ưu thế tuyệt đối với nữ giới trừ những người trong độ tuổi từ 60 đến 64 và nam giới trong độ tuổi 20 đến 54. Điều này chứng minh rằng công ty đã thành công trong việc kinh doanh mặt hàng thường phục và những sản phẩm cơ bản đồng thời được công nhận là một thương hiệu quốc gia. Lý do Uniqlo nhận được sự ủng hộ nhiệt tình từ mọi tầng lớp, mọi lứa tuổi là việc khiến khái niệm “chất lượng cao” trở thành một khái niệm dễ hiểu. Đó không phải là những khái niệm cao xa chỉ có người trong ngành mới hiểu, mà là những tiêu chuẩn, những “chuẩn mực cơ bản của ngành thời trang” khiến các đối tượng đại chúng cũng có thể dễ dàng đánh giá. Cụ thể là những tiêu chuẩn như nguyên liệu hay độ bền của mũi khâu, dù sử dụng hay giặt giũ cũng không dễ bị sứt chỉ hay hỏng hóc, không quan trọng là nguyên liệu đó có cao cấp hay không. Với phương châm “quá nhiều cũng đồng nghĩa với thừa thãi, không cần thiết”, Uniqlo đã xây dựng một tiêu chuẩn căn bản, dễ hiểu cho ngành thời trang, không thiếu cũng không thừa. Việc tuân thủ quá chặt chẽ tiêu chuẩn từ các chuyên gia ngược lại khiến thương hiệu không thể duy trì được sự ủng hộ, cũng như tiêu tốn nhiều kinh phí. Chính nhờ việc áp dụng phương pháp loại bỏ những giá trị không cần thiết để tập trung tạo nên một “sản phẩm vừa đủ những yếu tố quan trọng”, Uniqlo nhận được sự ủng hộ của đông đảo mọi tầng lớp. Đây chính là con đường để Uniqlo trở thành thương hiệu được đón nhận ở cả những nước phát triển và những nước đang phát triển, đặt nền móng cho sự mở rộng phát triển trên phạm vi toàn cầu. Khi đã nhận được sự ủng hộ đông đảo từ người tiêu dùng trong nước và trở thành một NB, việc Uniqlo chuyển mình thành một thương hiệu toàn cầu không hề khó. Uniqlo bước chân vào thị trường quốc tế với hàng loạt những cửa hàng được mở ra tại London, Thượng Hải, Seoul, New Jersey, New York, Paris, Singapore,.... Kết quả là, đến cuối tháng 2 năm 2010, thị trường Âu Mỹ đã có 17 cửa hàng, Trung Quốc, Đài Loan có 59 cửa hàng, Hàn Quốc có 46 cửa hàng, Singapore có 3 cửa hàng, tổng cộng là 125 cửa hàng. Sau đó, lần lượt tại Moscow, Đài Bắc cũng có sự xuất hiện của các cửa hàng Uniqlo. Câu chuyện về sự chuyển mình của Uniqlo từ thương hiệu quốc gia thành thương hiệu toàn cầu đang diễn ra một cách sôi nổi. Tuy đã trở thành một thương hiệu quốc gia nhưng số lượng những người ghét Uniqlo cũng không phải là ít. Có không ít người “cảm thấy xấu hổ khi mặc đồ Uniqlo”. Nguyên nhân chính là do đây là một thương hiệu giá rẻ và được sử dụng tràn lan bởi số đông. Uniqlo mang đến cảm giác về một thương hiệu được sản xuất đại trà theo quy mô công nghiệp và thiếu bản sắc riêng, tạo ra một khoảng cách không nhỏ giữa “những người xấu hổ” với những người yêu thích sự độc đáo của các thương hiệu như Giordano hay Benneton. Những người không thể chấp nhận được những sản phẩm thuộc thời đại số hóa hay mang sắc thái công nghiệp thì sau này cũng không thể trở thành khách hàng của Uniqlo. Uniqlo là một hình mẫu doanh nghiệp cổ điển Có thể nói ngay từ đầu Uniqlo đã lựa chọn phát triển một cách đầy sáng tạo theo hình mẫu doanh nghiệp kiểu SPA. SPA là gì? Nó là một hình thức kinh doanh mới, xuất phát từ hình thức kinh doanh tên là “Specialty store retailer of Private label Apparel” – Cửa hàng bán lẻ đặc quyền của thương hiệu may mặc quốc gia. Sau đó, hình thức này được mở rộng ra với những công ty vừa sản xuất vừa mở cửa hàng bán lẻ các sản phẩm may mặc, được gọi là SPA. Hình thức SPA luôn tồn tại mối quan hệ mật thiết giữa nhà sản xuất và nhà bán lẻ. Nhà sản xuất sẽ thực hiện toàn bộ quy trình từ lên kế hoạch, phát triển và quản lý quá trình sản xuất. Tuy nhiên, trong giai đoạn quá độ chuyển đổi sang hình thức SPA, để vượt qua những trở ngại về nguồn lao động và đẩy nhanh tốc độ phát triển, các công ty này đã phải bắt tay với những công ty thương mại hay những công ty trong ngành công nghiệp phụ trợ. Ngay từ đầu, trong ngành sản xuất các sản phẩm may mặc, SPA được coi là định hướng phát triển theo chiều dọc, tuy nhiên, có rất nhiều công ty chỉ tập trung phát triển giá trị gia tăng của riêng mình bằng cách tận dụng bối cảnh sản xuất và tự lên kế hoạch, định dạng thương hiệu riêng. Trái với xu hướng đó, Uniqlo chú trọng đến việc phát triển nguyên vật liệu và quản lý sản xuất. Theo chiến lược điều chỉnh dựa trên những tiêu chuẩn đồng đều, lợi nhuận của công ty sẽ được thể hiện bằng một đường cong nụ cười, không thể đứng ngoài sự sụt giảm chung của chuẩn mực thế giới. Quá trình hội nhập ngày càng phát triển người ta càng nghi ngờ liệu rằng Uniqlo với chiến lược hội nhập theo chiều dọc có thể duy trì được những lợi thế về chi phí sản xuất hay không. Hình thức sản xuất của Uniqlo giống hệt những nhà sản xuất đồ điện gia dụng hợp tác với các dịch vụ sản xuất may mặc và thuê nhà máy sản xuất từng phụ tùng. Thực tế, hình thức này không có bất cứ ưu điểm nào về chi phí cũng như tốc độ. Có thể Uniqlo sẽ trở thành một khối hóa thạch bị kìm kẹp trong câu chuyện về chất lượng sản phẩm đi ngược với chuẩn mực thế giới mà mức chi phí lại trên trời, bước theo vết xe đổ của Toyota. Cũng có thể Uniqlo sẽ ưu tiên giảm chi phí và phá bỏ câu chuyện thần thoại về chất lượng đã tồn tại từ lâu. Cũng giống như Toyota, Uniqlo không thể tránh khỏi những khó khăn do việc tự mâu thuẫn. Trong bối cảnh như vậy, có lẽ chúng ta nên thừa nhận thương hiệu GU đã chấp nhận hi sinh chất lượng để hình thành định dạng “thương hiệu giá rẻ” mới đúng là đường hướng phát triển của thị trường toàn cầu, bao gồm cả những thị trường mới nổi. Uniqlo – “Người mở đường” hay “Kẻ châm ngòi”? Dẫu còn quá vội vàng khi kết luận Uniqlo là nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng kinh tế nhưng không thể phủ nhận rằng đây chính là thương hiệu mở đường cho làn sóng hàng may mặc giá rẻ. Trong xã hội ngập tràn “Fast fashion” như hiện nay, Uniqlo không chỉ nên tập trung vào phân khúc sản phẩm giá rẻ đã tấn công mà sau bốn năm phát triển với “tuyên ngôn giá rẻ”, giờ là lúc hãng phải nâng cao giá trị sản phẩm ở khía cạnh chất lượng, tạo ra một thương hiệu dựa trên cơ sở “mức giá tương đương với chất lượng sản phẩm”. Thế nhưng, trong lĩnh vực đồ jeans, Uniqlo vẫn sẽ luôn bị chỉ trích là kẻ châm ngòi cho cuộc chiến giữa các thương hiệu giá rẻ đã làm hỗn loạn thị trường. Kết Trong bối cảnh làn sóng toàn cầu hóa với số lượng người trẻ ngày càng sụt giảm, Nhật Bản dần mất đi sức cạnh tranh và trở nên tụt hậu so với một châu Á đang trên đà phát triển. Một cách khách quan, cần xem xét từ cả hai phía, nước Nhật và châu Á, để tìm ra đối sách phù hợp nhằm thoát khỏi tình cảnh hiện tại. Thêm vào đó, tác giả Kensuke Kojima muốn đưa ra những nhận định, dự đoán xem liệu Uniqlo – thương hiệu chất lượng cao đang độc chiếm thị trường Nhật Bản, được thiết kế dành riêng cho thị trường trong nước nay đã gặt hái được thành công ở một số quốc gia đã và đang phát triển –  liệu có đạt được mục tiêu dài hạn là đến năm 2020 vượt mốc doanh thu 5.000 tỉ yên và lợi nhuận 1.000 tỉ yên hay không. Hội chứng Uniqlo không phải là một cuốn sách ca tụng thương hiệu Uniqlo, hiện đang tràn ngập trên thị trường, cũng không phải là cuốn sách chỉ dẫn phương thức hoạt động của Uniqlo hay phân tích về sự phát triển của Fast Retailing – Tập đoàn bán lẻ lớn của Nhật, công ty mẹ của Uniqlo. Nó cũng không nghiên cứu về sự nghiệp của ngài Yanai Tadashi – Người sáng lập và Chủ tịch của Fast Retailing, chủ nhân thương hiệu Uniqlo. Lập trường của cuốn sách này không phải là khẳng định và nghiên cứu những thành công của Uniqlo, mà là phân tích trực diện tình hình thị trường và mô hình doanh nghiệp ở Nhật Bản, so sánh với các mô hình doanh nghiệp không chỉ ở Âu Mỹ mà còn ở cả châu Á, bằng cái nhìn tỉnh táo để tìm ra điểm mạnh cũng như điểm yếu, đồng thời xác định những cơ hội và thách thức của Uniqlo nói riêng và Fast Retailing nói chung trong tương lai. Với những nghiên cứu về Uniqlo từ trước đến giờ của tác giả Kensuke Kojima, cuốn sách Hội chứng Uniqlo sẽ mang lại những đánh giá về Uniqlo trên góc độ toàn cầu, từ đó đưa ra những cảnh báo cũng như triển vọng trong tương lai của giới kinh doanh. Tác giả: DO   Mời các bạn đón đọc Hội chứng Uniqlo của tác giả Kensuke Kojima & Vũ Linh (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Đọc Sách

Jorma Ollila Và Nokia - Đưa Thế Giới Đến Gần Nhau
Rùa có thể di chuyển với tốc độ phi thuyền? Có một câu chuyện ngụ ngôn nổi tiếng trên thế giới - chuyện rùa và thỏ. Trong cuộc đua lừng danh của truyện ngụ ngôn này, thỏ đã thua rùa chỉ vì ham chơi, còn rùa đã thắng nhờ vào sự tập trung với tất cả khả năng nặng nề của mình và nhờ vào chính sai lầm của bạn chơi. Một chuyện ngụ ngôn thấm đẫm tính tư tưởng. Một bài học luôn luôn đúng trong lý thuyết và điều kiện lý tưởng. Nhưng nếu thỏ chơi đàng hoàng và tập trung thì sao? Rùa nắm chắc phần thua. Vậy kẻ ít lợi thế luôn luôn thua? Câu trả lời từ lịch sử là không hẳn vậy. Chuyện gì sẽ xảy ra nếu rùa gắn cho mình một vài bánh xe, hoặc sắm một chiếc xe máy, hay đại loại gắn cho mình một chiếc tên lửa? Kết quả cuộc đua khi đó sẽ tùy thuộc vào lựa chọn của Rùa. Đó là câu chuyện của Nokia – câu chuyện được mệnh danh là huyền thoại hiện đại của Phần Lan. Chú rùa Nokia đã được gắn một chiếc tên lửa. Chúng tôi sẽ cùng bạn đọc Việt Nam khám phá câu chuyện về người đã kiến tạo nên chuyến bay vĩ đại của chú rùa Nokia. Đó là Jorma Ollila. Tại sao phải là Jorma Ollila? Eljas Repo, tổng biên tập Arvopaperi – tạp chí thị trường chứng khoán hàng đầu Phần Lan gọi Jorma Ollila là “thần thoại Ollila”. Đó là Repo chỉ nhắc lại từ ngữ rất quen thuộc đối với người Phần Lan. Tại sao? Vì chính Ollila đã làm nên hiện tượng Nokia “công ty lớn nhất, giá trị nhất của Phần Lan” như Repo đã viết. Nokia cũng là hiện tượng châu Âu “chứng tỏ rằng người châu Âu có thể dẫn đầu thế giới trong công nghệ cao” như Fortune, của Mỹ, nhận định. Trên quy mô toàn cầu, hiệp hội GSM thế giới đã trao giải thưởng thành tựu trọn đời cho Ollila vì “những cống hiến cho lịch sử phát triển truyền thông di động”. Nếu trong nước, Nokia chiếm 1/5 thu nhập quốc gia thì, trên toàn hành tinh, điện thoại Nokia chiếm mức 1/3 thị trường điện thoại. Đó là tập đoàn đa quốc gia duy nhất của Phần Lan và là nhà doanh nghiệp dẫn đầu thế giới trong lĩnh vực này. Tất cả diễn ra trong một thời gian cực ngắn, chưa đầy 10 năm – trong đó chỉ cần 5 năm để đạt vị trí dẫn đầu thế giới. Câu chuyện về Ollila và Nokia là một phần câu chuyện mà Việt Nam đang và sẽ phải viết trong tương lai. Chúng ta không thật sự giải mã Nokia – với lịch sử 140 năm của nó. Chúng ta chỉ nói về người tạo ra câu chuyện này, Jorma Ollila, để tìm hiểu tác giả của bí quyết “biến một người tí hon trở thành người dẫn đầu thế giới”. Một thiên tài thì phải có khả năng tạo ra ước mơ nơi kẻ khác, vì chính họ kích thích trí tưởng tượng vượt giới hạn, xác định những khả năng mới của con người. Và một thiên tài thì phải cống hiến những kinh nghiệm mới mà từ đó những ai đang hy vọng có thể tiếp tục hiện thực hóa ước mơ. Ollila có đủ những điều đó. Đó là lý do nữa để câu chuyện Ollila cần được kể bằng tiếng Việt. Một thiên tài kinh doanh được xác định bởi khả năng làm ra nhiều tiền cho doanh nghiệp, cho nhân viên, cho đất nước và xã hội. Nhưng một khi họ vượt lên trên cả khả năng kiếm tiền, rồi tạo ra được một giá trị ngoại hạng cho doanh nghiệp bởi những cống hiến mang tính mở đường cho nhân loại, thì chúng ta phải gọi đó là huyền thoại. Jorma Ollila đạt được cả hai. Ông đã kiến tạo trở lại Nokia từ vực sâu phá sản, làm cho nó giàu có, biến tập đoàn từ dưới con số không đến chỗ chiếm 1/5 tổng thu nhập quốc gia. Cốt lõi hơn, ông đã tạo ra được giá trị cho doanh nghiệp với tư cách là nhà tiên phong cống hiến cho lịch sử công nghệ của thế giới những cột mốc phát triển quan trọng, làm cho doanh nghiệp trở thành một công cụ phục vụ thế giới. Mỗi cột mốc mà Nokia ghi dấu trong lịch sử công nghệ truyền thông di động là một lần giúp người dùng thay đổi cách thức giao tiếp trong cuộc sống. Tác động của nó ảnh hưởng đến cuộc sống hàng ngày của hàng trăm triệu con người từ châu Âu, châu Á đến châu Phi, châu Đại dương và ngay trên đất Mỹ - trung tâm kỹ thuật cao lớn nhất của thế giới. Không chỉ người Việt Nam, mà hàng trăm triệu người trên thế giới đều biết triết lý “Conecting People” là của Nokia – ra đời trong thời kỳ Ollila. Cuốn sách này hướng đến sự gần gũi thay vì thao thao bất tuyệt về một tượng đài chỉ để chiêm ngưỡng đơn thuần. *** Ollila có ánh nhìn mạnh mẽ và có sức điều khiển người khác nhưng nụ cười của ông thì cởi mở. Nokia có bước đại nhảy vọt trong công cuộc tái cấu trúc nhưng cũng “hở sườn” trong nhiều dịp thi thố. Ollila có bằng chứng về “thuyết thích nghi” rất độc đáo, đó chính là sự lựa chọn duy nhất trong tình trạng hiểm nghèo. Thay vì chờ cơ hội đến với dân tộc mình, ông đã nhanh chân chạy đến với nó – cơ hội GSM. Do đó, phần này của cuốn sách cho thấy “tôi thích thử thách” như ông nói, kiểu mạo hiểm của những người nghĩ lớn, đầy khát vọng trong trách nhiệm. Nền tảng khác biệt của Jorma Ollila là người đàn ông này đã học rất nhiều, thực hành rất nhiều những bài thực hành quốc tế, để rồi trở về quê hương ông đã thực hành một lý thuyết mà ông chưa hề biết trước. Ollila – người làm thuê cho phương Tây đã nói một câu rất xúc động: “Nokia là trường đại học của tôi”. “Đại học” luôn luôn là nơi mang sứ mệnh khám phá cái mới, cái chưa biết. Do đó, rủi ro của nó luôn luôn treo trên đầu và bạn phải sẵn sàng học từ thất bại cũng như giơ đầu chịu báng. Những gì ông đã làm trong sự nghiệp cực kỳ thành công của mình thì giống hệt sứ mệnh của một trường đại học. Các lý thuyết phải ra đời tiếp theo thời kỳ nghiên cứu và thử nghiệm mà không được phép sai. Các lý thuyết xuất phát từ Nokia trong thời kỳ Ollila đã được nghiên cứu chính quy và không chính quy, riêng cá nhân ông, các thành quả đã đưa ông đến cả tá chức vụ cao cấp trong các tập đoàn hàng đầu thế giới như Shell, General Motor. Ông là một CEO chuyên nghiệp hàng đầu thế giới. Câu chuyện về một CEO huyền thoại chắc chắn là hữu ích cho công cuộc hình thành thế hệ CEO chuyên nghiệp ở Việt Nam. Ollila đã gắn cho Rùa nhỏ Nokia sức bay của một phi thuyền. Vậy, việc thú vị cần làm là hãy thử khám phá “hệ điều khiển” của chiếc phi thuyền Ollila. Và mời bạn đọc cùng chúng tôi lên đường chu du vào một thế giới của khát vọng, khát vọng kết nối con người với con người vì một xã hội hạnh phúc hơn. *** Bộ sách mà bạn đọc đang cầm trên tay là kết quả của dự án nghiên cứu mang tên Đi tìm Đạo Kinh doanh của Việt Nam và Thế giới do Tổ hợp Giáo dục PACE thực hiện trong suốt 14 tháng vừa qua. Chúng tôi đặt tên cho bộ sách này là Đạo Kinh doanh Việt Nam và Thế giới với mong muốn được chia sẻ cùng bạn đọc, đặc biệt là bạn đọc doanh nhân và bạn đọc quan tâm đến kinh doanh, những kiến giải về hàng loạt các câu hỏi như: “Kinh doanh là gì?”, “Doanh nhân là ai?”, “Đâu là ‘đạo’ của nghề kinh doanh?” và “Tại sao kinh doanh là một nghề cao quý và xứng đáng được xã hội tôn vinh?”... Đội ngũ chuyên gia của PACE cùng các cộng sự đã nghiên cứu cuộc đời và sự nghiệp của 25 doanh nhân huyền thoại, đến từ 25 tập đoàn kinh doanh dẫn đầu trong những bảng xếp hạng doanh nghiệp trên toàn thế giới, nhằm tìm kiếm “cái đạo”, cái triết lý cốt lõi trong kinh doanh của họ. Mục đích là để lý giải xem vì sao họ là những người kiếm tiền nhanh nhất, kiếm tiền nhiều nhất và kiếm tiền bền vững nhất thế giới, đồng thời họ lại được xã hội đặc biệt kính trọng? Phân tích từng chặng đường, từng mốc sự nghiệp, từng bước thăng trầm... của những huyền thoại doanh nhân này, chúng tôi đã đúc kết được những nét chung nhất, nói chính xác hơn, là những yếu tố khiến họ trở nên vĩ đại, trở thành những doanh nhân huyền thoại. Đó là sự khao khát, là niềm đam mê một cách mãnh liệt để sáng tạo, để đem đến thật nhiều giá trị mới cho cuộc sống và cho xã hội. Họ đã thực hiện được điều đó bằng việc cống hiến cả cuộc đời mình lẫn việc truyền đạt, dẫn đường cho hậu thế. Trong lời đầu này của bộ sách, chúng tôi cũng muốn kể lại với quý vị một vài câu chuyện và một vài so sánh mà PACE luôn tự hào khi tìm thấy nó trong hành trình Khát vọng Doanh trí của mình trong suốt những năm vừa qua: Bà chủ một tiệm tạp hóa suốt ngày không vui vì buôn bán ế ẩm. Nhưng sau những ngày tháng nhìn vào “mắt” khách hàng, bà chợt nghĩ: “Sao tôi không là người giải quyết vấn đề nhu yếu phẩm cho cả xóm?”. Và mọi chuyện thay đổi. Từ đó, nhiều gia đình chưa khá giả trong khu phố có thể mua một, hai gói mì tôm (mà không cần phải mua cả thùng mì), một tép bột ngọt (mà không cần phải mua cả gói bột ngọt). Bà có thể mở cửa lúc mờ sáng hay nửa đêm, khi chẳng còn nơi nào bán hàng nữa để đáp ứng nhu cầu “hết chanh đột xuất” hoặc “nhà không còn nước mắm”. Hay hơn nữa, mọi người chỉ “xẹt” một hai bước chân là có ngay những vật phẩm cần thiết nhất cho gia đình. Lại thêm chuyện giá cả của bà so với chợ và siêu thị cũng chẳng chênh lệch là bao. Ai cũng đoán ra kết quả: cửa tiệm suốt ngày người ra kẻ vào, bà thì bán hàng luôn tay và cười nói luôn miệng. Không chỉ tiền lãi thu được tăng cao, mà bà còn có “lợi nhuận” lớn nhất là sự quý mến của mọi người dành cho một người biết kinh doanh như bà. Câu chuyện thứ hai về một cơ sở sản xuất tủ sắt. Người ta thường mua tủ của cơ sở này về để đựng hồ sơ. Một cơ sở bé xíu rất đỗi bình thường thì liệu có mang trong người “sứ mệnh xã hội”? Trong một thời gian dài, cơ sở hoạt động cầm chừng, cho đến một ngày ông chủ của nó thay đổi cách nghĩ: tôi không “bán tủ sắt” nữa, mà sẽ “bán giải pháp lưu trữ hồ sơ văn phòng”. Từ đó, ông và đồng sự tiến hành nghiên cứu để tạo ra những cái tủ sao cho có thể chống được mối, mọt, chống thấm, ngăn tủ này thì có khóa kiên cố để đựng hồ sơ quan trọng, ngăn tủ khác thì không cần khóa để dễ kéo ra kéo vào... Ông cũng chịu khó đi đến các văn phòng để nghiên cứu màu sơn, thay đổi kích cỡ, kiểu dáng... Thế là sản phẩm của ông còn thêm tính năng làm đẹp cho cả văn phòng của các công ty. Chỉ sau một thời gian ngắn, cơ sở của ông đã lột xác và phát triển rất nhanh. Như vậy, doanh nghiệp lớn hay nhỏ tùy thuộc vào vấn đề xã hội mà họ giải quyết được. Bà chủ tạp hóa của khu phố nọ cùng Sam Walton (ông chủ tập đoàn bán lẻ lớn nhất thế giới Wal-Mart) đều giải quyết vấn đề mua sắm của xã hội thông qua việc mở cửa hàng bán lẻ. Họ chỉ khác nhau về phạm vi: xã hội của bà chủ tiệm tạp hóa là một khu phố, còn xã hội của Sam mang tầm cỡ thế giới. Điều xã hội quan tâm không phải là doanh nghiệp đó kiếm được bao nhiêu mà là họ đã mang lại gì cho cộng đồng. Chẳng hạn, trong khi tỉ phú Nhật, Toyoda (“cha đẻ” của Toyota), với tinh thần ái quốc được người Nhật xem như anh hùng dân tộc thì tỉ phú Nga, Khodorkovsky (ông chủ của Yukos), ông ta là ai trong mắt dân Nga thì chỉ người Nga mới thấu rõ. Sự khác nhau này có lẽ do cách thức kiếm tiền của họ. Nghề kinh doanh, xưa nay vẫn thường bị hiểu chỉ như là nghề “kiếm tiền”. Nhưng thực chất, không hề có nghề kiếm tiền, bởi nghề nào thì cũng kiếm tiền cả. Chẳng hạn, luật sư kiếm tiền bằng việc hành nghề luật, bác sĩ kiếm tiền bằng cách chữa bệnh cứu người... Và doanh nhân, người hành nghề kinh doanh, cũng kiếm tiền bằng cách lãnh đạo một doanh nghiệp và thông qua doanh nghiệp đó để giải quyết vấn đề hay đáp ứng nhu cầu nào đó của xã hội. Nhưng điều khác biệt của nghề kinh doanh là trong quá trình hành nghề của mình doanh nhân không hành động một cách đơn lẻ mà biết kiến tạo ra các chuỗi giá trị. Cụ thể hơn, họ nắm lấy một doanh nghiệp và tập hợp bên mình nhiều thành viên để cùng cộng hưởng lại nhằm hình thành một sức mạnh tổng lực, từ đó tạo ra nhiều giá trị hơn cho xã hội. Đó cũng chính là lý do mà nghề kinh doanh thường kiếm được nhiều tiền hơn so với những nghề khác và vẫn được cộng đồng xã hội ủng hộ. Nghiên cứu 25 huyền thoại doanh nhân thế giới cho thấy, dù có quá nhiều sự khác biệt nhưng họ đều có chung một tư tưởng chủ đạo: “Kinh doanh là phụng sự xã hội”. Hay nói một cách đầy đủ hơn, “Kinh doanh là kiếm tiền bằng cách phụng sự xã hội, bằng cách dùng sản phẩm hay dịch vụ như là phương tiện để giải quyết những vấn đề của xã hội và làm cho cuộc sống trở nên tốt đẹp hơn”. Cái “đạo” kinh doanh này đã được họ quán triệt ngay từ buổi đầu khởi nghiệp đầy gian khó cho tới lúc thành công. Và sự thật này cũng chính là lý do giúp họ kiếm tiền nhanh nhất, nhiều nhất, bền nhất, còn bản thân họ thì được xã hội tôn vinh, nể trọng, và rồi họ đi vào lịch sử kinh doanh thế giới như những huyền thoại, doanh nghiệp của họ cũng vĩ đại và trường tồn. Như vậy, với một tâm thế luôn hướng về cộng đồng, luôn khát khao làm cho xã hội quanh mình (có thể nhỏ gọn trong một ngôi làng hoặc rộng lớn bằng cả một hệ mặt trời) tốt đẹp hơn, chính họ, những doanh nhân (dù lớn hay nhỏ, dù “Tây” hay “Ta”, dù “cổ” hay “kim”) luôn được xã hội tôn vinh không phải vì số của cải khổng lồ họ kiếm được, mà vì những đóng góp vô giá của họ vào sự đổi thay của thế giới này. Song song với những doanh nhân lẫy lừng của thế giới, điều khác biệt ở bộ sách này là chúng tôi đã khởi sự hành trình tìm kiếm những “huyền thoại doanh nhân Việt Nam” để, như một cố gắng, “định vị” xem ông cha ta ngày xưa đã khởi sự kinh doanh như thế nào. Và thật bất ngờ, trong lịch sử Việt Nam đã từng có những Lương Văn Can, Bạch Thái Bưởi, Nguyễn Sơn Hà, Trịnh Văn Bô... với những tư tưởng kinh doanh có thể gây ngạc nhiên cho đến tận bây giờ. Nhìn “Tây” sẽ thấy “Đông”, soi “cổ” mà ngẫm tới “kim”, đó là điều mà chúng tôi, những người thực hiện bộ sách, mong muốn được chia sẻ. Bộ sách này cũng là một câu chuyện, một phác thảo cho bức tranh toàn cảnh sinh động và đầy màu sắc về doanh nhân thế giới - những doanh nhân làm thay đổi thế giới, và về một thế hệ doanh nhân tiền bối của Việt Nam cách đây gần một trăm năm lịch sử - một thế hệ doanh nhân mà đến ngày nay chúng ta vẫn có thể tự hào. Từ đó, những nỗ lực này sẽ góp phần hình thành văn hóa doanh nhân Việt, một bộ phận quan trọng trong văn hóa Việt Nam. Chúng tôi xin được gửi lời tri ân trân trọng nhất đến những đồng nghiệp đã hỗ trợ tinh thần cho chúng tôi, đến các cá nhân và đơn vị đã sẵn lòng hỗ trợ thông tin, tư liệu trong quá trình nghiên cứu. Đặc biệt, chúng tôi muốn gửi lời cám ơn chân thành đến các tập đoàn hàng đầu thế giới do các doanh nhân huyền thoại sáng lập, cám ơn gia tộc họ Lương, gia tộc họ Bạch,... – hậu duệ của cụ Lương Văn Can, cụ Bạch Thái Bưởi... đã nhiệt tâm giúp đỡ chúng tôi trong suốt quá trình “đi tìm Đạo Kinh doanh của Việt Nam và Thế giới”. Việc triển khai dự án này từ khâu nghiên cứu đến thể hiện thành sách trong một thời gian không dài, cùng những khó khăn trong quá trình đi tìm tư liệu lịch sử về các nhân vật, chắc hẳn bộ sách sẽ khó tránh khỏi những sai sót nhất định. Do vậy, chúng tôi rất mong nhận được sự thông cảm cũng như những góp ý chia sẻ của bạn đọc gần xa về bộ sách để lần tái bản tiếp theo được hoàn thiện hơn. Chúng tôi, PACE và Nhà xuất bản Trẻ, xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc bộ sách đầy tâm huyết này. Và chúng tôi cũng tin rằng, qua bộ sách này, bạn đọc sẽ có thêm kiến giải về “đạo kinh doanh”, để từ đó, tự mình đưa ra một định nghĩa cho nghề kinh doanh và tự mình khẳng định rằng, kinh doanh là kiếm tiền hay phụng sự xã hội! Thay mặt Nhóm tác giả của bộ sách Giản Tư Trung - Người Sáng lập PACE Sài Gòn, Xuân Đinh Hợi, 2007   Mời các bạn đón đọc Jorma Ollila Và Nokia - Đưa Thế Giới Đến Gần Nhau của tác giả Đặng Tươi & Ngọc Hoàng.
Cách Tân
TẠI SAO BẠN LẮNG NGHE CHÚNG TÔI? Hầu như không có một ngày nào trôi qua mà không có ai đó nhận xét rằng năng lực của cách tân đã trở thành một vấn đề sống còn đối với mỗi một cá nhân như bạn, với doanh nghiệp bạn đang làm việc, và với quốc gia mà bạn đang sống ở đó. Không phải tranh cãi gì về điều đó và thực tế chúng ta sẽ tiến xa hơn để biết rằng ngày nay không có điều gì quan trọng hơn vấn đề này. Vấn đề được đưa ra là tại sao bạn lại đọc cuốn sách này? Chúng tôi sẽ mang đến cho bạn điều gì? Câu trả lời sẽ gồm có hai phần: thứ nhất, đó là những cách tân làm thay đổi thế giới mà Công ty SRI International đã hỗ trợ được tạo ra trong suốt sáu mươi năm qua. Và thứ hai là tiến trình và phương pháp tư duy về cách tân đã được kết nối mật thiết với chức năng mà các doanh nghiệp đã vận hành theo phương thức ngắn hạn hay dài hạn. Hàng ngày, có khả năng là ngay bản thân bạn đang sử dụng chính phương thức cách tân của SRI [1] . Đây là một vài ví dụ. • Con chuột và giao diện máy tính bạn đang sử dụng ở nhà và ở cơ quan. • Các ký hiệu internet như .com, .org, và .gov đã được khai thác để tổ chức tên miền. • Trong lĩnh vực truyền thông di động, chúng tôi đã đưa ra những hệ thống truyền dẫn đầu tiên trên mạng hữu tuyến và vô tuyến. Chúng tôi cũng tiếp nhận hệ thống mạng Arpanet đầu tiên, là tiền thân của mạng Internet ngày nay. • Các chữ số vuông bên dưới từng tờ séc của bạn cho phép ngân hàng duy trì cân đối thu chi trong tài khoản của bạn một cách chính xác. • Hệ thống theo dõi cho phép Sở Bưu chính Hoa Kỳ phát thư cho bạn một cách nhanh chóng từ hàng triệu thư được gửi mỗi ngày trên khắp quốc gia. • Halofantrine, một loại thuốc trị sốt rét nhằm chống lại một trong những căn bệnh có tỉ lệ tử vong cao nhất thế giới - và đây cũng chỉ là một trong rất nhiều loại thuốc mà chúng tôi hỗ trợ khám phá hoặc phát triển, một số trong đó là thuốc điều trị HIV và ung thư. • Màn hình tivi HD với độ nét cao trong phòng khách nhà bạn. Với dự án này chúng tôi đã nhận được giải thưởng Emmy (một trong mười giải thưởng chúng tôi được nhận) [2] , giải thưởng cao nhất trong ngành truyền thanh - truyền hình. Chúng tôi còn nhận được giải thưởng Academy Award cho các đóng góp của mình đối với lĩnh vực sản xuất điện ảnh. Chúng tôi đã tạo ra nhiều công ty mới và đi tiên phong mở đường cho nhiều cơ hội kinh doanh mới mang tính cách mạng. Ví dụ như Nuance Communications, công ty dẫn đầu trong ngành nhận dạng giọng nói bằng máy tính [3] . Khi bạn nói chuyện với một tổng đài điện thoại tự động của một công ty, ví dụ như công ty Charles Schwab, có khả năng là bạn đang nói với một cái máy tính có cài đặt công nghệ của SRI. Bạn có thể nghĩ đến Intuitive Surgical, một công ty dẫn đầu về ngành vi phẫu. Công ty này cũng đang sử dụng công nghệ tiên phong của SRI. Ví dụ, thay vì thực hiện một ca phẫu thuật tim bằng cách mở khoang lồng ngực của bệnh nhân, hệ thống phẫu thuật Intuitive Surgical’s da Vinci cho phép một bác sĩ ở phòng khác - hoặc hành tinh khác - dùng ba đầu dò được đặt xuyên qua thành lồng ngực để thực hiện phẫu thuật, giúp người bác sĩ nhìn và cảm giác như đang giải phẫu trực tiếp trên bệnh nhân. Quan trọng nhất là thời gian ở lại trong bệnh viện của bệnh nhân sẽ được rút ngắn vì vết thương lành nhanh hơn, và điều này không những làm hài lòng bệnh nhân mà cả các công ty bảo hiểm nữa. Thời gian bệnh nhân lưu trú trong bệnh viện được rút ngắn từ năm đến tám ngày xuống còn hai đến ba ngày, và thời gian nghỉ việc để điều trị được cắt giảm từ hai tháng xuống còn khoảng một tháng. Hoặc với Artificial Muscle, Inc. Tưởng tượng rằng bạn có thể tạo ra các động cơ hoặc cơ cấu truyền động có tác dụng giống như cơ bắp con người. Đó là các động cơ nhẹ, hiệu suất cao, mạnh mẽ, được định hình theo rất nhiều kích thước và hình dáng khác nhau. Các động cơ này có tiềm năng thay thế cho rất nhiều động cơ điện cỡ nhỏ hiện đang được sử dụng trong xe hơi và các thiết bị gia dụng khác. Hoặc với PacketHop, một doanh nghiệp có tiềm năng giúp cho các công ty viễn thông thoát khỏi tình trạng chạy vòng mạch bằng cách cho phép các điện thoại di động nhận và truyền tin nhắn bằng cách tạo ra một mạng của chính chúng mà không cần phải đi qua một công ty điện thoại. Tại SRI International, chúng tôi đã hoàn tất hàng chục ngàn dự án và giúp tạo ra giá trị thị trường đáng giá hàng trăm tỉ đô-la. Chúng tôi phục vụ cho khách hàng từ hơn nửa số quốc gia trên thế giới, và hoạt động trên các lĩnh vực công nghệ then chốt như công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, và công nghệ nano. Ngày nay chúng tôi đang tham gia đẩy mạnh cách mạng hóa và cải thiện thế giới, từ sản xuất năng lượng sạch, cho đến thay đổi cách thức sử dụng thuốc, đến việc góp phần làm cho hệ thống giáo dục hiệu quả hơn, đến việc bảo đảm an ninh cho mạng internet và lãnh thổ Hoa Kỳ. Tại SRI, chúng tôi luôn tích cực giải quyết các vấn đề quan trọng, chứ không chỉ các vấn đề lý thú không thôi. Ví dụ, chúng tôi đã đưa ra giới thiệu phương pháp fuel cell để đốt than đá một cách hiệu quả và sạch, đưa ra một hệ thống sản xuất titan với giá thành xấp xỉ với sản xuất nhôm, và đưa ra một loại máy tính dùng để dạy vật lý cho sinh viên đại học năm thứ nhất. Chúng tôi cũng phát triển các loại thuốc để điều trị các hậu quả của chứng nghiện, và hiện tại chúng tôi đang tạo ra thế hệ kế tiếp các thiết bị viễn thông di động, thông minh. Như sẽ giải thích ở các phần sau, những cách tân vĩ đại này không phải do riêng SRI thực hiện. Đúng hơn là chúng tôi có hàng ngàn khách hàng và đối tác tuyệt vời, những người đó đã chuyển đưa các ý tưởng, các sáng chế, và cách tân của SRI vào thị trường. Chúng tôi không thể nào không cảm ơn cho những đóng góp của họ. Theo các ví dụ đã đưa ra ở đây, thì chúng ta đang sống trong một thế giới của sự dư dả. Khác với thời đại công nghiệp, những cải tiến trong các sản phẩm và dịch vụ được dựa trên tri thức ngày nay không còn bị giới hạn nữa. Nếu bạn có thể cách tân thì cơ hội là vô hạn. Cách tân có thể dẫn bạn đến thịnh vượng và một cuộc sống có chất lượng cao hơn. Đó là cơ sở của việc gia tăng năng suất, của khả năng cạnh tranh và quốc gia thịnh vượng. Cuối cùng, những vấn đề chính của thời đại chúng ta - đói nghèo, sức khỏe, và môi trường - chỉ có thể được giải quyết thông qua việc tập hợp lại tất cả khả năng cách tân của chúng ta. Nhưng một năng lực cách tân nhanh chóng chỉ có thể đạt được nếu chúng ta nhận biết và phát triển những gì phong phú đang ở trước chúng ta. Điều thứ hai chúng tôi muốn mang đến là: chúng tôi đã phát triển một quy trình cách tân chặt chẽ có liên hệ thực tiễn với các phương thức đã được làm trong một doanh nghiệp. Quy trình cách tân này là trọng tâm của cuốn sách - Năm Phương thức tạo ra Cách tân. Có nhiều người bối rối không biết điều gì dẫn tới sự thành công của cách tân. Cách tân không chỉ là việc sáng chế ra một cái gì đó mới mẻ thông minh hơn. Nó còn nhiều hơn thế. Cách tân là sự thành công khi sáng tạo và đưa ra thị trường một sản phẩm mới hoặc một sản phẩm được cải tiến hay là một dịch vụ. Nói một cách khác, cách tân là một quá trình chuyển hướng từ một ý tưởng trở thành một giá trị cho khách hàng và mang lại kết quả cho doanh nghiệp bằng những lợi nhuận có thể minh chứng được. Cách tân có thể tăng lên dần dần (một món đồ chơi mới của trẻ con) hoặc chuyển hóa (sự phát triển của máy chụp ảnh lấy ngay). Trong các trường hợp đó, những cách tân đem lại những giá trị mới cho khách hàng trên thị trường. Dù vậy, những gì chúng ta thường thấy là mọi người bối rối vì không biết cách tân thực chất là gì và nó được hoàn thành bằng cách nào? Thay vì tập trung vào việc sáng tạo ra giá trị mới cho khách hàng, chúng ta thường thấy lãnh đạo của các tổ chức cố gắng khuyến khích “sáng tạo” với hi vọng sẽ đạt được thành công to lớn hơn. Đôi khi họ có cả những đội ngũ khá đông chuyên làm công việc cải tiến những gì được tạo ra trong doanh nghiệp. Nhưng vấn đề thực sự là, “Sáng tạo cho cái gì?” Chỉ tập trung vào sự sáng tạo không thôi có thể dẫn đến việc sử dụng không đúng nguồn lực và phản tác dụng. Ví dụ, mọi người thường khăng khăng rằng các tổ chức mang tính sáng tạo không thể nào bị áp đặt kỷ luật lên quá trình sáng tạo của họ được. Chúng tôi hoàn toàn không đồng ý như thế. Chính các cá nhân, đội nhóm và tổ chức có khả năng sáng tạo nhất thực ra lại cực kỳ có kỷ luật. Nhưng đó là một dạng kỷ luật đặc biệt - kỷ luật này góp phần giải phóng và trợ giúp cho việc phát triển những cách tân quan trọng một cách đầy sáng tạo. 1 Hình 1.1 Các công ty lấy khách hàng làm trung tâm thường có chung quan niệm và công cụ để tìm hiểu về giá trị khách hàng cũng như có chung một quy trình tạo dựng giá trị hoạt động tốt nhất trong việc tạo ra giá trị khách hàng. Căn cứ vào số lượng các nỗ lực bị đặt sai chỗ mà chúng ta nhận thấy trong các tổ chức, chúng ta sẽ không lấy gì làm ngạc nhiên về tỉ lệ thất bại cao của nhiều sản phẩm và sự rút ngắn trong vòng đời của nhiều công ty. Nhưng chính những thất bại này lại chỉ ra một yêu cầu cấp bách: ngay cả một cải tiến nhỏ trong khả năng cách tân của chúng ta cũng có thể tạo ra một tác động to lớn. Và không giống như việc khai thác các tài nguyên thiên nhiên, khi nói tới cách tân thì sự tăng trưởng sẽ không còn bị giới hạn nữa. Năng lực cách tân của hầu hết các doanh nghiệp đều có thể được cải thiện đáng kể, nếu không nói là có thể cải thiện hoàn toàn. Hình 1.1 cho thấy các ưu thế có thể có được khi sử dụng những biện pháp cách tân tối ưu. Đường cong tiêu cực ở dưới cuối hình thể hiện 80-90% các sản phẩm mới và dịch vụ mới bị thất bại sau khoảng một năm [4] . Họ thất bại không phải bởi vì công nghệ, nguồn lực hay vì những lý do khác. Họ thất bại chủ yếu là vì khách hàng không muốn họ nữa: doanh nghiệp không hiểu được nhu cầu khách hàng. Như đã trình bày, một doanh nghiệp lấy khách hàng làm trọng tâm sẽ tạo ra giá trị khách hàng tốt hơn. Một doanh nghiệp lấy khách hàng làm trọng tâm và có các công cụ và ngôn ngữ chung để tìm hiểu giá trị khách hàng thì càng tạo ra giá trị khách hàng tốt hơn nữa. Cuối cùng, một doanh nghiệp lấy khách hàng làm trọng tâm, có các công cụ và ngôn ngữ chung để tìm hiểu giá trị khách hàng và có một quy trình có hệ thống để tạo ra giá trị sẽ là doanh nghiệp tạo ra giá trị khách hàng tốt nhất. Năm Phương thức Cách tân mô tả cách làm thế nào để bạn có thể đạt được trạng thái năng suất cao hơn này trong nhóm và doanh nghiệp của bạn. Với việc nổi lên của Trung Quốc và Ấn Độ như những cường quốc kinh tế thì khả năng cách tân đang trở thành vấn đề mang tính sống còn cho hầu hết các công ty và trở thành vấn đề mang tính cạnh tranh cho hầu hết các quốc gia. Sự phát triển kinh tế của nhiều quốc gia - như Nhật Bản, Pháp, và Đức - đã bị đình trệ trong suốt thập niên vừa qua. Thêm vào đó, có rất ít công ty thể hiện khả năng cách tân một cách có hệ thống. Những cá nhân có kỹ năng cách tân cần thiết để làm chủ được nghề nghiệp của mình và tạo ra ảnh hưởng trong thế giới siêu cạnh tranh của chúng ta thậm chí còn ít hơn nữa. Giai đoạn này là một trong những thời điểm có nhiều cơ hội và thú vị nhất trong lịch sử. Và nó cũng chứa đầy những thay đổi và xáo trộn. Năm Phương thức Cách tân sẽ giúp bạn, nhóm của bạn, doanh nghiệp của bạn, và trên hết là quốc gia của bạn phát triển thịnh vượng trong giai đoạn đặc biệt này. Nó sẽ cho bạn một chiến lược và một kế hoạch để làm sao nắm vững được sự cách tân và tiến lên phía trước một cách chủ động trong thế giới dư dả của chúng ta. Mời các bạn đón đọc Cách Tân của tác giả Curtis R. Carlson & William W. Wilmot.