Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Bạn Thật 'Bá Đạo'!

Bạn có thể bắt đầu từ khi chẳng có gì, và từ chỗ chẳng có gì, từ nơi không có đường lối nào, một đường lối sẽ được vạch ra. — Mục sư Michael Bernard Beckwith người từng nghiện ma túy, rồi chuyển sang nghiện thế giới tâm linh, rồi trở thành người truyền cảm hứng. Tôi đã từng cho rằng những câu nói như vậy chỉ là một mớ nhảm nhí. Tôi chẳng hiểu họ đang nói về cái quái gì cả. Mà tôi cũng chẳng buồn quan tâm. Vì khi đó, tôi đã quá “ngầu”. Tôi chỉ biết một chút xíu về thế giới của những chuyện tâm linh và tự cải thiện bản thân, tôi thấy nó sến súa vô cùng: nó sặc mùi giáo điều sáo rỗng, như thể những kẻ xa lạ, xấu xí cứ muốn ôm ấp, vỗ về chúng ta vậy. Và đừng bảo tôi kể chuyện khi ấy tôi thường hay càu nhàu về Thượng đế như thế nào. Cùng lúc đó vẫn còn tồn tại những vấn đề trong cuộc sống mà tôi rất muốn thay đổi, và nếu tôi gạt đi được cái thói kiêu căng tự phụ của mình thì có khi tôi đã nhận được sự giúp đỡ nào đó để cải thiện tình hình. Về tổng thể thì cuộc sống của tôi vẫn tương đối khá khẩm – tôi đã xuất bản được vài cuốn sách, có nhiều người bạn tuyệt vời, có gia đình khăng khít, có căn hộ riêng, xe hơi riêng, có đồ ăn và đủ răng lợi để ăn uống, có quần áo mặc, có nước sạch để uống – nên nếu so với đại đa số dân cư trên hành tinh này thì cuộc đời của tôi có thể coi là “ngon lành cành đào”. Nhưng nếu so với năng lực bản thân vốn có, tôi thấy chẳng có gì đáng ấn tượng cả. Khi ấy, tôi luôn cảm thấy rằng, Thôi nào, chẳng nhẽ cố gắng hết cỡ cũng chỉ được nhường này sao? Thật vậy ư? Tôi sẽ chỉ kiếm được đủ để trả tiền thuê nhà hằng tháng thôi sao? Tiếp tục như vậy mãi sao? Tôi sẽ lại dành cả năm trời để hẹn hò yêu đương với những gã trai lập dị, để chìm đắm trong những mối quan hệ hời hợt, để tạo ra thêm phiền não ư? Thật vậy sao? Và tôi sẽ lại tự vấn bản thân về mục đích tồn tại của mình, để rồi lại tự nuốt lấy khổ đau của vũng lầy ấy vào lòng và chấp nhận chúng như đã từng làm hàng triệu lần trước đây? Sống. Cứ. Như. Đang. Ngái. Ngủ. Tôi có cảm giác cuộc đời của mình cứ nhờ nhợ trôi qua, chỉ thi thoảng có một hai sự kiện hay ho đâu đó mà thôi. Và cái phần đau đớn nhất chính là trong sâu thẳm thì tôi luôn BIẾT rằng mình là một ngôi sao, rằng tôi có khả năng yêu thương, cho đi và nhận lại tuyệt vời, rằng tôi có thể nhảy một bước vọt qua cả tòa nhà cao tầng, rằng tôi có thể kiến tạo ra bất cứ thứ gì nếu đã quyết tâm… Cái gì kia? Tôi lại lãnh thêm một vé phạt đỗ xe ư? Đùa nhau chắc, đưa đây xem nào. Tôi không còn đủ tiền đóng phạt nữa, tháng này đã bị phạt tới ba lần rồi! Tôi phải xuống kiến nghị với họ ngay bây giờ… và thế là, tèn tén ten, tôi lại cắm đầu cắm cổ vào những chuyện vụn vặt không đâu, để rồi vài tuần sau đó lại chẳng thể hiểu nổi mấy tuần vừa rồi đã trôi đi đâu, và tại sao tôi vẫn còn sống ở cái căn hộ tồi tàn này, hằng ngày ăn những bữa ăn rẻ tiền trong đơn độc. Tôi đoán rằng nếu bạn đang đọc cuốn sách này thì cuộc đời của bạn cũng có những chuyện chẳng thuận lợi cho lắm. Và bạn cũng biết rằng chúng có thể được cải thiện hơn rất nhiều. Có thể bạn đang chung sống vui vẻ cùng với người bạn đời, nhưng bạn nghèo tới nỗi con chó của bạn cũng phải tự kiếm ăn. Có thể bạn dư dả về tài chính và đang thuận lợi trên con đường theo đuổi nhiều mục tiêu, nhưng lại chẳng nhớ nổi lần cuối cùng bạn cảm thấy thực sự vui sướng và hạnh phúc là khi nào. Hoặc có thể bạn kém cỏi trong tất cả các lĩnh vực trên, và lúc rảnh rỗi thì bạn dành thời gian để khóc lóc. Hoặc uống rượu. Hoặc hậm hực thù hằn người ghi vé phạt đỗ xe, mà theo bạn là luôn tới đúng lúc nhưng chẳng hề có khiếu hài hước và chính là một phần nguyên nhân khiến bạn gặp phải khủng hoảng tài chính. Hoặc có thể bạn đã có được tất cả mọi thứ bạn từng mong muốn trên đời, nhưng vì một lý do nào đó, bạn vẫn cảm thấy thiếu thốn và chưa hoàn thiện. Bạn không nhất thiết phải hướng tới mục tiêu kiếm hàng triệu đô-la, giải quyết các vấn đề lớn trên thế giới hay tìm kiếm một chương trình truyền hình cho riêng bạn, trừ khi chúng thực sự là những điều mà bạn muốn. Bạn có thể đặt ra những mục đích đơn giản hơn, như chăm sóc gia đình hoặc trồng được một bông hoa tu-lip hoàn hảo. Bạn cần xác định rõ ràng xem điều gì khiến bạn hạnh phúc, khiến bạn cảm thấy thực sự đang tồn tại và tạo ra chính điều đó, chứ không phải giả vờ rằng bạn không thể đạt được hay không xứng đáng có nó. Hoặc lo sợ bị coi là một kẻ tham lam nếu cứ ham muốn thêm dù bản thân đã có những thứ khác rồi. Hoặc nghe lời bố, mẹ hay dì nói về những điều họ nghĩ bạn nên làm. Tôi sẽ biến bạn trở thành một phiên bản hạnh phúc nhất, tươi sáng nhất, bá đạo nhất của bản thân bạn, dù bạn quan niệm phiên bản đó như thế nào đi nữa. Tin vui là để đạt được điều đó, tất cả những gì bạn cần làm chỉ là thay đổi một thứ cực kỳ đơn giản: Bạn phải chuyển từ mong muốn thay đổi cuộc đời sang quyết định thay đổi cuộc đời. Việc mong muốn có thể được thực hiện khi chúng ta ngồi vắt chân trên ghế với điếu thuốc trong tay và quyển tạp chí du lịch trên đùi. Còn việc quyết định thì có nghĩa là nhảy vào cuộc chơi hết mình, sẵn sàng làm bất cứ điều gì cần thiết, theo đuổi giấc mơ với quyết tâm của một kiều nữ chân dài đã xác định rằng “không tiền cạp đất mà ăn”. Có thể bạn sẽ làm những chuyện chưa bao giờ bạn tưởng tượng rằng mình sẽ làm, bởi nếu có người quen trông thấy bạn làm hay tiêu tiền vào chuyện đó, họ sẽ trêu chọc bạn mãi không thôi. Họ sẽ lo lắng cho bạn. Hoặc họ sẽ không còn giao du với bạn vì giờ đây bạn có vẻ kỳ cục và khác thường. Có thể bạn sẽ phải đặt niềm tin vào những điều mà bạn chưa thể thấy được ngay, và thậm chí cả những điều mà bạn vẫn luôn cho là hoàn toàn bất khả thi. Bạn sẽ phải vượt qua những nỗi sợ hãi, phải biết cách chấp nhận thất bại nhiều lần, và phải tập thói quen làm những việc mà bạn vẫn ngại làm. Bạn sẽ phải bỏ đi những niềm tin cố hữu, lạc hậu và bị giới hạn, để vững vàng bám lấy quyết định tạo ra cuộc đời mà bạn mong muốn, như thể mạng sống của bạn phụ thuộc vào nó vậy. Bạn biết vì sao không? Vì đúng là mạng sống của bạn phụ thuộc vào nó. Nghe thì có vẻ vô cùng khó khăn, nhưng thực ra nó không thể khốn khó bằng việc tỉnh dậy nửa đêm và cảm thấy bị đè nén như thể có ai đó đang đỗ xe trên ngực bạn, và bạn bẹp dí dưới sức ép của việc nhận ra rằng cuộc đời đang trôi vụt qua và bạn chưa hề bắt đầu sống một cách thực sự có ý nghĩa. Có thể bạn đã nghe câu chuyện về những người bất chợt đạt được bước tiến lớn vào thời điểm tồi tệ nhất trong cuộc đời của họ – như là khi họ phát hiện khối u ác tính, hay khi nghèo tới nỗi bị cắt điện vì không thể trả tiền điện, hay khi sắp phải bán thân cho người lạ để kiếm tiền mua thuốc, thì bất chợt họ tỉnh ra và hoàn toàn thay đổi. Nhưng thực ra, bạn chẳng cần phải chờ tới khi bị rơi xuống đáy thì mới bắt đầu trèo lên. Tất cả những gì bạn cần làm là đưa ra quyết định. Và bạn có thể làm điều đó ngay bây giờ. Có một câu thơ rất hay của nhà thơ Anaïs Nin, tôi xin tạm dịch như sau: “Rồi sẽ tới một ngày mà những mối nguy hại của việc bó mình trong nụ hoa sẽ lớn hơn và đau đớn hơn các mối nguy hại của việc nở bung thành bông hoa.” Trường hợp của tôi hoàn toàn đúng như vậy, và tôi nghĩ rằng nó cũng đúng với đa số các trường hợp khác. Sự thay đổi của tôi là cả một quá trình (và đến giờ vẫn đang là một quá trình) vốn được bắt đầu bằng quyết định của tôi rằng phải thực sự cải thiện tình hình, dù có phải làm gì đi chăng nữa. Tôi đưa ra quyết định ấy vào thời điểm mà những điều tôi thường làm đều không giúp cải thiện được gì cả: than vãn với bác sĩ tâm lý và những người bạn cũng kém cỏi và tệ hại như mình, làm việc hùng hục, la cà nhậu nhẹt và hy vọng các vấn đề sẽ tự được giải quyết… Khi ấy, tôi tuyệt vọng tới nỗi sẵn sàng làm bất cứ thứ gì để chấn chỉnh cuộc đời mình, và ôi trời, tình cảnh lúc đó cứ như thể cả thế gian đang thử thách xem sự quyết tâm của tôi lớn tới mức nào. Tôi ghi danh học các khóa tạo động lực, nơi mà họ bắt tôi gắn bảng tên trước ngực và đập tay với người bên cạnh rồi hét lên rằng: “Bạn tuyệt vời và tôi cũng vậy!” Tôi còn phải cầm gậy bóng chày để vừa vụt túi bụi vào một cái gối vừa gào thét như đang lên cơn, phải kết thân với người chỉ dẫn tinh thần cho mình, phải tham gia một nghi lễ nhóm mà trong đó tôi kết hôn với bản thân, viết thư tình cho cái âm đạo của mình, vừa sưởi nắng vừa đọc các loại sách động lực, và vay mượn cả một đống tiền để thuê huấn luyện viên riêng. Có thể coi là tôi đã hy sinh vì các bạn. Nếu bạn còn bỡ ngỡ với thế giới của việc tự cải thiện bản thân thì tôi hy vọng rằng cuốn sách này sẽ nhẹ nhàng giới thiệu cho bạn một vài khái niệm – tuy là khái niệm cơ bản nhưng đã hoàn toàn thay đổi cuộc đời của tôi, để bạn có thể nắm bắt và đạt được những bước đột phá trước khi vừa bỏ chạy vừa la hét. Còn nếu bạn đã quen với việc tự cải thiện và phát triển bản thân rồi thì hy vọng cuốn sách sẽ trình bày được điều gì đó theo một cách mới mẻ, mở ra những tia sáng giúp bạn nhận thấy rằng có thể chuyển hướng và đạt được các thành quả cụ thể, để rồi một ngày nào đó, bạn sẽ tỉnh dậy và bật khóc trong vui sướng vì không thể tin nổi mình lại thành công như vậy. Và nếu tôi có thể giúp cho dù chỉ một người bỏ được cái thói trẻ con ở bên trong họ thì coi như cuốn sách này đã hoàn thành nhiệm vụ. Khi bắt đầu cải thiện bản thân, tôi chỉ quan tâm đến mục đích kiếm tiền. Khi ấy tôi không hề biết làm thế nào để kiếm ra tiền một cách bền vững và lâu dài, và thậm chí ban đầu còn thấy khá kỳ cục khi phải thừa nhận mình muốn kiếm tiền. Lúc đó, tôi là nhà văn và nhạc sĩ; tôi cảm thấy rằng cứ mặc kệ chuyện tiền bạc và chỉ cần tập trung vào nghệ thuật là đủ (như vậy còn cao quý nữa chứ). Tư tưởng đó đã làm tôi khốn đốn! Nhưng tôi lại thấy rất nhiều người làm những công việc trơ trẽn và kinh khủng để kiếm tiền, còn chưa kể tới những nghề nghiệp nhàm chán, tới nỗi tôi hoàn toàn không muốn dây dưa gì tới chúng. Đã vậy, tôi còn cho rằng đồng tiền là dơ bẩn, rằng các thứ vật chất chỉ là phù du, hèn hạ và thấp kém, nên thật không thể hiểu nổi tại sao khi đó tôi chưa phải “cạp đất mà ăn”. Thế rồi tôi cũng nhận ra mình không chỉ cần tập trung vào việc kiếm tiền, mà còn phải vượt qua được nỗi sợ hãi và ghê tởm đồng tiền thì mới có thể thực sự kiếm được tiền. Đây chính là lúc mà những cuốn sách hướng dẫn cải thiện bản thân bắt đầu thâm nhập vào nơi tôi sống và bảng tên hiện diện trên ngực tôi. Cuối cùng, tôi đẩy khoản nợ ngân hàng của mình lên cao tới mức kỷ lục vì đã bỏ ra khoản tiền còn lớn hơn số tiền đã mua chiếc xe cà tàng, để thuê huấn luyện viên đầu tiên. Trong vòng sáu tháng sau đó, tôi đã tăng được thu nhập lên gấp ba lần bằng cách mở một dịch vụ hướng dẫn trực tuyến cho các nhà văn. Giờ đây, tôi đã biến nó thành một nơi kiếm ra lợi nhuận đủ để cho bản thân có điều kiện đi khắp thế giới, viết lách, diễn thuyết, chơi nhạc và hướng dẫn người khác cách cải thiện cuộc đời của họ, thông qua những phương thức – những khái niệm mà xưa kia tôi từng khinh bỉ và coi thường, còn giờ thì lại hoàn toàn mê mẩn. Để giúp bạn cũng tới được những nơi mà bạn muốn tới, trong cuốn sách này, tôi sẽ yêu cầu bạn tập cách chấp nhận những thứ có vẻ như xa lạ ở ngoài kia, khuyến khích bạn trở nên cởi mở và suy nghĩ thoáng. Không, thực ra tôi thấy cần phải quát vào mặt bạn rằng: HÃY CỞI MỞ VÀ BIẾT CHẤP NHẬN CÁI MỚI, NẾU KHÔNG THÌ SẼ TIÊU ĐỜI! Tôi nói thật đấy. Chuyện này thực sự rất quan trọng. Bạn đang ở vị trí hiện tại do bạn chỉ làm những thứ mà bạn đang làm, vậy nên nếu không hài lòng với hoàn cảnh hiện tại thì rõ ràng bạn phải biết cách thay đổi. Nếu bạn muốn được sống một cuộc đời mà bạn chưa từng sống thì bạn phải làm những việc mà bạn chưa từng làm. Tôi chẳng quan tâm tới chuyện hiện tại bạn có coi bản thân mình thất bại và bết bát hay không, chỉ cần thấy rằng bạn biết đọc, biết viết, có tiền để mua cuốn sách này và còn có cả thời gian để đọc nó, vậy thì coi như bạn đã có được những lợi thế rất lớn trên thế giới này rồi. Bạn đừng nghĩ cải thiện bản thân là một chuyện đáng xấu hổ, đáng để than vãn hay là đáng để tinh tướng. Đó là một chuyện nên được trân trọng, và nếu bạn đã quyết định theo đuổi chuyện này thì hãy tin rằng bạn hoàn toàn có khả năng đạt được những thành công mỹ mãn, có khả năng thể hiện sự bá đạo của bạn với toàn thế giới. Bởi đó mới chính là mục đích sau cùng. Chỉ những con người thông minh với trái tim rộng mở và tâm hồn sáng tạo mới có thể tận dụng được hết tiền bạc của cải, các nguồn lực, những sự ủng hộ mà họ có, để tạo nên dấu ấn của bản thân trên cuộc đời. Chúng ta đều muốn cảm thấy hạnh phúc, thỏa mãn và được yêu thương, để không ai phải trút nỗi bực dọc lên bản thân, lên người khác, lên môi trường xung quanh, lên động vật hay lên hành tinh này. Chúng ta cần phải sống giữa những con người dư dả và biết quý trọng bản thân, để tránh việc tiêm nhiễm vào các thế hệ tương lai những tư tưởng như tiền bạc là bẩn thỉu, mình không giỏi, hay mình không thể có được cuộc đời mà mình ao ước. Chúng ta cần những con người bá đạo, khả năng thoát khỏi cuộc sống chật vật, chuyển sang sống cởi mở và có mục đích, để họ có thể trở thành nguồn cảm hứng giúp những người khác cùng vươn lên. Điều đầu tiên mà tôi sẽ yêu cầu bạn làm là hãy tin rằng chúng ta đang sống trong một thế giới không hề có giới hạn cho các khả năng và cơ hội. Tôi không quan tâm cho dù bạn có bao nhiêu chứng cứ rằng bạn không thể ngừng ăn nên bị béo, hoặc bản chất của người khác toàn là xấu xa, hoặc bạn không thể giữ nổi người yêu cho dù đã gông cùm anh ta đủ đường. Hãy tin rằng mọi chuyện đều hoàn toàn có thể xảy ra. Hãy thử xem nếu bạn tin tưởng – thì bạn có gì để mất? Nếu bạn đọc cuốn sách này rồi cho rằng nó chỉ là một mớ nhảm nhí thì bạn vẫn quay lại được với cuộc đời đáng thất vọng của mình. Nhưng nếu gạt những ngờ vực sang một bên, xắn tay áo lên sẵn sàng mạo hiểm, và hết mình theo đuổi mục đích, thì một ngày nào đó khi ngủ dậy, bạn sẽ chợt nhận ra mình đang sống một cuộc đời mà trước đây mình từng ghen tị. *** Bạn chính là nạn nhân của những luật lệ mà bạn tuân thủ. –Jenny Holzer nghệ sĩ, nhà tư duy, người hay thông minh đột xuất Nhiều năm trước, tôi gặp phải một tai nạn khủng khiếp khi chơi bowling. Tôi và mấy người bạn đang bất phân thắng bại, khi ấy tôi đã quá tập trung vào việc thể hiện và tinh tướng ở lượt ném bóng cuối cùng – tôi dõng dạc tuyên bố rằng mình thắng chắc, và vừa lấy đà ném bóng vừa nhảy múa quay cuồng – do đó tôi đã không để ý vị trí của chân mình ở đâu khi ném bóng. Đó chính là thời điểm mà tôi nhận ra môn bowling này nghiêm khắc như thế nào trong việc trừng phạt những người ném bóng mà dẫm quá vạch. Người ta đã bôi một loại dầu, nhớt hay sáp gì đó trơn kinh khủng lên khắp đường ném bóng, và khi có ai đó nhỡ chân bước vào đường bóng khi chơi, thì người đó sẽ thấy chân mình trượt tung lên trời và mông dập mạnh xuống sàn, cái thứ sàn cũng cứng một cách khủng khiếp. Vài tuần sau đó, khi đang nằm ườn trên giường ở cửa hàng Macy’s với một anh chàng, tôi phải giải thích với anh ta là từ khi bị tai nạn, tôi thường tỉnh dậy giữa đêm vì chân đau nhức nhối. Theo lời chẩn đoán của bác sĩ châm cứu thì đó là do một số dây thần kinh ở lưng đã bị dập khi tôi ngã, và để ngủ được qua đêm thì tôi phải tìm mua một cái đệm mới, cứng hơn đệm tôi đang dùng. “Tôi cũng bị đau ở chân khi đi ngủ này!” Anh chàng kia nói và nhổm dậy, chìa tay ra như muốn đập tay với tôi, nhưng tôi đã không hưởng ứng theo. Tôi làm vậy không chỉ vì tôi chẳng ưa trò đập tay, mà còn vì tôi khó chịu với anh ta. Riêng chuyện phải đi sắm đệm đã khiến tôi thấy kỳ quặc và bối rối – nằm thử đệm giữa nơi công cộng, kẹp gối ở giữa đùi để mọi người xung quanh cùng nhìn thấy, cứ như thể đấy là việc của họ – đã thế tôi lại phải làm vậy khi có người bán hàng nằm ngay bên cạnh, còn đòi tôi cùng đập tay high-five, và từng ấy chuyện thì tôi không thể chịu nổi. Những người bán hàng khác thường chỉ đứng ở cuối giường, lải nhải các thông tin về sản phẩm trong khi khách hàng đang thử nằm đủ các tư thế trên đệm, nhưng người bán hàng của tôi thì lại không như vậy. Anh ta ngả lưng xuống nằm cạnh tôi, khoanh tay trước ngực và tận tình tâm sự, vừa nói vừa nhìn lên trần nhà như thể chúng tôi đang cùng nằm chơi ở trại hè nào đó. Rõ ràng anh ta rất chu đáo và cực kỳ hiểu biết về các loại đệm lò xo, đệm cao su và đệm mút, nhưng tôi thì vẫn không dám nằm thử tư thế khác vì sợ rằng anh ta sẽ ôm lấy tôi. Có phải tôi quá thân thiện? Có phải tôi không nên hỏi thăm quê anh ta ở đâu? Có phải anh ta đã hiểu nhầm khi thấy tôi vỗ vỗ tay vào cái gối bên cạnh (để thử độ đàn hồi của gối)? Rõ ràng là tôi nên mời anh chàng Bob kỳ cục này rời khỏi cái giường, hoặc tìm cho mình một nhân viên bán hàng khác, thay vì lẻn ra khỏi cửa và bỏ lỡ cơ hội duy nhất để sắm đệm trong tuần đó, bởi tôi không muốn làm anh ta phải bối rối. Tôi đã không muốn làm anh ta phải bối rối! Xem ra đây chính là cách mà cả gia đình tôi quen dùng để ứng xử trước mọi tình huống khó xử trong giao tiếp. Ngoài biện pháp an toàn là bỏ chạy thẳng cẳng, chúng tôi còn có những cách phản ứng khác như: khựng người lại, chuyển sang nói chuyện về thời tiết, đứng đờ ra, rồi thì òa lên khóc sau khi đối phương đã đi khuất. Việc chúng tôi yếu kém trong kỹ năng ứng xử chẳng có gì lạ, bởi mẹ tôi vốn thuộc dòng dõi Anglo-Saxon da trắng Tin lành. Ông bà ngoại tôi thì luôn cho rằng trẻ con chỉ được hiện diện chứ không có quyền cất tiếng nói, và dù người khác có thể hiện cảm xúc gì thì ông bà đều phản ứng bằng thái độ khinh bỉ thường được dùng khi phải uống rượu scotch rẻ tiền hoặc những học sinh không được học trường điểm. Và dù mẹ tôi đã cố gắng gây dựng một mái nhà ấm cúng tràn đầy yêu thương và tràn ngập tiếng cười, thì cũng phải mất nhiều năm tôi mới tập được cách thốt ra một câu trả lời khi gặp phải yêu cầu lạnh gáy “Chúng ta cần nói chuyện.” Tất cả chuyện này là để nói lên rằng: việc bạn kém cỏi không phải là do lỗi của bạn. Bạn sẽ có lỗi nếu tiếp tục để cho bản thân kém cỏi mãi, dù cho nguồn gốc của sự kém cỏi ấy có được truyền qua nhiều thế hệ trong nhà bạn, giống như một chiếc gia huy hay một công thức nấu ăn gia truyền, và trong trường hợp của tôi là coi việc giao tiếp căng thẳng chẳng khác gì lên cơn đau tim. Khi cất tiếng khóc chào đời trên thế gian này thì bạn là niềm vui của mọi người xung quanh, bạn là một sinh vật mở to mắt tò mò và không quan tâm tới điều gì ngoài những chuyện xảy ra ngay trước mặt. Bạn không hề biết mình có một cơ thể và cũng không thấy xấu hổ khi đang trần truồng. Khi nhìn ngắm xung quanh thì bạn thấy mọi thứ, mọi điều đều rất đơn giản. Bạn không hề thấy có thứ gì trên đời là quá đáng sợ, quá đắt đỏ, quá lạc hậu hay lỗi mốt cả. Nếu có thứ gì đó tới gần miệng thì bạn sẽ mút nó, nếu có thứ gì tới gần tay thì bạn sẽ nắm lấy nó. Bạn khi đó là một con người đơn giản nhất. Khi đã nhận thức được nhiều hơn và bắt đầu khám phá thế giới này, bạn cũng nhận được nhiều bài học từ mọi người xung quanh về cách thế giới vận hành. Kể từ lúc bạn có khả năng học hỏi, người ta sẽ nhồi vào đầu bạn đủ loại tư tưởng và niềm tin khác nhau, trong đó có nhiều thứ không thực sự liên quan tới con người bạn và không thực sự đúng đắn (ví dụ như thế giới này rất nguy hiểm, bạn quá béo, đồng tính là một căn bệnh, kích cỡ rất quan trọng, không mọc được lông ở chỗ đó, vào được đại học là rất quan trọng, nghệ sĩ không phải là một nghề nghiệp thực sự, v.v...). Cái nguồn chủ yếu nhất của những thông tin như vậy đương nhiên là phụ huynh của bạn, cùng với sự giúp đỡ của toàn xã hội. Trong quá trình nuôi nấng bạn thì phụ huynh của bạn – với hy vọng bảo vệ, giáo dục và thương yêu bạn hết mình – đã truyền cho bạn những tư tưởng mà họ học được từ phụ huynh của họ, những người cũng đã học chúng từ phụ huynh của họ… Vấn đề là rất nhiều tư tưởng trong số đó không hề liên quan tới con người họ, hoặc không hề đúng. Tôi biết rằng tôi đang nói như thể tất cả chúng ta đều điên rồ, nhưng đó là bởi gần như đúng là vậy.   *** Các khóa học và hội thảo 1. PAX—Allison Armstrong Tôi đã tham dự một trong những hội thảo hay ho của họ, có tên là “Thấu hiểu nam giới, ăn mừng nữ giới”, nói về những khác biệt giữa hai giới tính đã khiến tôi phải ngẩn ra vì ngạc nhiên – sao tôi sống được tới giờ này mà chẳng biết gì hết về những thứ này vậy? Tôi thấy nó được tổ chức rất tốt và không hề sến súa. Tôi chỉ tới mỗi buổi hội thảo đó, nhưng rất thích những gì họ thể hiện ở đó, và cũng đã nghe nói những điều tốt đẹp về các hội thảo khác của họ. 2. Viện Hoffman Thôi được, đây là một khóa học vô cùng quái đản theo kiểu Đùa-tôi-chắc? Nó bao gồm những việc như cầm gậy bóng chày vụt lên những cái gối và gào thét hết cỡ, tự kết hôn với bản thân, hát những điệu ru ngủ đứa trẻ bên trong– căn bản là những chuyện khiến người thường phải bỏ chạy thoát thân. Nó rất quá đáng, tới mức tôi phải chấp nhận làm theo vì không thể làm được điều gì khác. May là nó được tổ chức bởi những người rất giỏi giang, ngọt ngào và có khiếu hài hước. Khi tham gia khóa học, bạn sẽ phải dành cả một tuần cho những hội thảo liên tục và đào sâu vào quá khứ cùng với các tư tưởng giới hạn của bạn để bỏ chúng đi. Tôi vừa thích, vừa ghét, lại vừa muốn khuyên bạn thử nó. Những diễn giả tuyệt vời khác mà bạn nên quan tâm: Martha Beck, Esther Hicks, Marianne Williamson, Byron Katie, Wayne Dyer, David Neagle, Deepak Chopra, Gabrielle Bernstien Mời các bạn đón đọc Bạn Thật 'Bá Đạo'! của tác giả Jen Sincero.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Tuổi Già Tập 2 - Simone de Beauvoir
Simone de Beauvoir (1908 - 1986) là nhà văn, nhà triết học và một nhà đấu tranh cho nữ quyền người Pháp. Là một nhà văn từng được giải Goncourt nhưng cũng là một học giả uyên bác, các tác phẩm của bà được lấy cảm hứng từ chính cuộc đời mình đồng thời đầy ắp các dữ kiện khoa học, lịch sử, thống kê… Hai tác phẩm non-fiction được biết ở Việt Nam nhiều nhất của bà là Giới tính thứ nhì và Tuổi già. Giới tính thứ nhì (xuất bản năm 1949), được xem là một trong những quyển sách hay nhất của thế kỷ 20, là một cuốn bách khoa toàn thư về các giai đoạn của cuộc đời phụ nữ từ lúc sinh ra, dậy thì, lấy chồng, làm mẹ; đồng thời vạch ra con đường giành quyền lợi cho nữ giới. Với tác phẩm này, bà được xem là “Bà mẹ của phong trào nữ quyền". Tuổi già được viết lúc Beauvoir hơn 50 tuổi, mô tả chi tiết cuộc sống của người già và đấu tranh giành quyền cho họ. Người ta chỉ có thể hiểu được thân phận người già khi ở tuổi đó. “50 tuổi, tôi giật nảy mình khi một nữ sinh viên Mỹ kể lại với mình câu nói của một cô bạn: "Nhưng Simone de Beauvoir là một bà già chứ sao!" Cả một truyền thống dồn cho từ ngữ này một cái nghĩa xấu; nó vang lên như một lời thoá mạ. Vì vậy, người ta phản ứng, thường bằng giận dữ, khi nghe người khác bảo mình già. Tôi có biết nhiều người phụ nữ được biết tuổi tác của mình một cách khó chịu qua một kinh nghiệm giống như kinh nghiệm Marie Dormoy: một người đàn ông, bị vẻ trẻ trung của hình bóng bà đánh lừa, đi theo bà trên đường phố; đến khi đi vượt qua bà và trông thấy gương mặt bà, thì thay vì bắt chuyện, ông ta rảo bước.” "Bạn có biết khuyết tật nào lớn nhất trong các khuyết tật không? Đó là tuổi trên 55" – Tourgueniev. Vào tuổi 55, Trotsky phàn nàn người mệt mỏi, mất ngủ, hay quên; ông có cảm giác sức lực sút kém; và lo lắng. Ông gợi lại quá khứ: "Anh buồn bã nhớ lại tấm ảnh của em, tấm ảnh của chúng ta, trong đó chúng ta trẻ trung biết chừng nào”. Già đi – đó là một điều không thể tránh khỏi và cũng là một quá trình chấp nhận đầy đau đớn. "Wagner kinh hãi thấy mình già đi, 80 tuổi, ông viết: “Hình hài tôi làm người ta khiếp sợ và khiến tôi u sầu một cách xót xa”. Sự suy sụp về thể chất khiến người già không còn có thể tham gia sản xuất hay xây dựng, do đó họ bị xem như gánh nặng, phải phụ thuộc vào người khác. Beauvoir viết về những trại dưỡng lão ở ngoại ô Paris với những người già như bị xã hội bỏ quên, sống mòn mỏi chờ đợi những cuộc viếng thăm của con cháu. Theo Beauvoir, đối đãi công bằng với người già là cách ứng xử có trước có sau mà nếu khác đi là làm lung lay gốc rễ của xã hội hiện đại. Mời các bạn đón đọc Tuổi Già Tập 2 của tác giả Simone de Beauvoir.
Tuổi Già Tập 1 - Simone de Beauvoir
Simone de Beauvoir (1908 - 1986) là nhà văn, nhà triết học và một nhà đấu tranh cho nữ quyền người Pháp. Là một nhà văn từng được giải Goncourt nhưng cũng là một học giả uyên bác, các tác phẩm của bà được lấy cảm hứng từ chính cuộc đời mình đồng thời đầy ắp các dữ kiện khoa học, lịch sử, thống kê… Hai tác phẩm non-fiction được biết ở Việt Nam nhiều nhất của bà là Giới tính thứ nhì và Tuổi già. Giới tính thứ nhì (xuất bản năm 1949), được xem là một trong những quyển sách hay nhất của thế kỷ 20, là một cuốn bách khoa toàn thư về các giai đoạn của cuộc đời phụ nữ từ lúc sinh ra, dậy thì, lấy chồng, làm mẹ; đồng thời vạch ra con đường giành quyền lợi cho nữ giới. Với tác phẩm này, bà được xem là “Bà mẹ của phong trào nữ quyền". Tuổi già được viết lúc Beauvoir hơn 50 tuổi, mô tả chi tiết cuộc sống của người già và đấu tranh giành quyền cho họ. Người ta chỉ có thể hiểu được thân phận người già khi ở tuổi đó. “50 tuổi, tôi giật nảy mình khi một nữ sinh viên Mỹ kể lại với mình câu nói của một cô bạn: "Nhưng Simone de Beauvoir là một bà già chứ sao!" Cả một truyền thống dồn cho từ ngữ này một cái nghĩa xấu; nó vang lên như một lời thoá mạ. Vì vậy, người ta phản ứng, thường bằng giận dữ, khi nghe người khác bảo mình già. Tôi có biết nhiều người phụ nữ được biết tuổi tác của mình một cách khó chịu qua một kinh nghiệm giống như kinh nghiệm Marie Dormoy: một người đàn ông, bị vẻ trẻ trung của hình bóng bà đánh lừa, đi theo bà trên đường phố; đến khi đi vượt qua bà và trông thấy gương mặt bà, thì thay vì bắt chuyện, ông ta rảo bước.” "Bạn có biết khuyết tật nào lớn nhất trong các khuyết tật không? Đó là tuổi trên 55" – Tourgueniev. Vào tuổi 55, Trotsky phàn nàn người mệt mỏi, mất ngủ, hay quên; ông có cảm giác sức lực sút kém; và lo lắng. Ông gợi lại quá khứ: "Anh buồn bã nhớ lại tấm ảnh của em, tấm ảnh của chúng ta, trong đó chúng ta trẻ trung biết chừng nào”. Già đi – đó là một điều không thể tránh khỏi và cũng là một quá trình chấp nhận đầy đau đớn. "Wagner kinh hãi thấy mình già đi, 80 tuổi, ông viết: “Hình hài tôi làm người ta khiếp sợ và khiến tôi u sầu một cách xót xa”. Sự suy sụp về thể chất khiến người già không còn có thể tham gia sản xuất hay xây dựng, do đó họ bị xem như gánh nặng, phải phụ thuộc vào người khác. Beauvoir viết về những trại dưỡng lão ở ngoại ô Paris với những người già như bị xã hội bỏ quên, sống mòn mỏi chờ đợi những cuộc viếng thăm của con cháu. Theo Beauvoir, đối đãi công bằng với người già là cách ứng xử có trước có sau mà nếu khác đi là làm lung lay gốc rễ của xã hội hiện đại. *** Khi còn là thái tử Siddharta, bị vua cha nhốt trong một tòa lâu đài tráng lệ, nhiều lần Thích Ca trốn đi dạo chơi bằng xe ngựa trong vùng. Trong lần dạo chơi đầu tiên, thái tử gặp một người tàn tật, tóc bạc, răng rụng, da nhăn nheo, cúi gập người trên một cây gậy, miệng lập cập, hai tay run rẩy. Chàng lấy làm ngạc nhiên và người xà ích giải thích đó là một ông già. Thái tử liền thốt: “Những kẻ hèn yếu và dốt nát, chuếnh choáng vì niềm kiêu hãnh của tuổi trẻ, không thấy được tuổi già. Khốn khổ biết chừng nào! Hãy trở nhanh về nhà thôi. Các trò chơi và niềm vui mà làm gì, vì ta là nơi ẩn náu của tuổi già mai sau”. Qua một ông già Thích Ca nhận ra số phận của chính mình, sinh ra để cứu vớt loài người, Thích Ca muốn chia sẻ hoàn toàn với số phận của họ. Và về điểm này, Người khác họ: họ lẩn tránh những gì không làm họ vui lòng. Và đặc biệt là tuổi già. Châu Mỹ đã loại trừ ra khỏi từ vựng của họ từ: người chết: mà chỉ nói người khuất bóng thân yêu; cũng giống như vậy, họ tránh liên hệ tới tuổi già. Ở nước Pháp ngày nay, đó là một đề tài cấm kỵ. Khi bắt buộc phải vi phạm điều cấm kỵ ấy, tôi đã bị người ta la ó! Chấp nhận mình đã bước vào ngưỡng cửa của tuổi già, tức là cho rằng nó rình rập tất cả mọi người phụ nữ, rằng nó đã tóm cổ nhiều người. Với thái độ dễ thương hay giận dữ, nhiều người, nhất là người già, không ngớt nhắc đi nhắc lại với tôi rằng làm gì có tuổi già! Có những người không trẻ bằng những người khác, chỉ thế thôi! Đối với xã hội, tuổi già xuất hiện như một điều bí ẩn đáng xấu hổ, mà nói tới là điều khiếm nhã. Trong mọi lĩnh vực, văn học viết rất nhiều về phụ nữ, về trẻ em, về thiếu niên; ngoài các công trình chuyên môn, người ta rất ít ám chỉ tới tuổi già. Một tác giả băng hoạt hình đã phải làm lại cả một loạt tác phẩm vì trước đó ông ta đã đưa vào trong số các nhân vật một cặp vợ chồng đáng tuổi làm ông làm bà: “Hãy loại bỏ người già đi!” - người ta hạ lệnh cho ông ta[1]. Khi tôi nói mình viết một cuốn tiểu luận về tuổi già, người ta thường thốt lên: “Sao lại kỳ thế!... Bà đâu có già!... Đề tài ấy, ngán lắm...” Chính vì lý do ấy mà tôi viết cuốn sách này: để phá tan sự đồng tình im lặng. Theo Marcuse, xã hội tiêu thụ đem một ý thức tốt đẹp thay thế cho ý thức xấu xa và bài xích mọi ý nghĩ tội phạm. Cần khuấy động sự yên ổn của nó. Đối với người có tuổi, nó chẳng những là phạm tội, mà còn là một tội ác. Ẩn náu phía sau các huyền thoại bành trướng và phong túc, nó cho người già là những kẻ khốn cùng. Ở Pháp, nơi tỷ lệ người già cao nhất thế giới - 12% dân số trên 65 tuổi - họ bị dồn vào cảnh khốn cùng, cô đơn, tàn tật, thất vọng. Ở Mỹ, số phận của họ cũng không sung sướng hơn. Nhằm dung hòa sự man rợ này với thứ đạo lý nhân văn chủ nghĩa mà họ thuyết giáo, giai cấp thống trị có cách đơn giản là không xem họ là những con người; nếu nghe tiếng nói của họ, người ta bắt buộc phải thừa nhận đó là một tiếng nói của con người; tôi sẽ buộc độc giả của mình nghe tiếng nói ấy. Tôi sẽ miêu tả hoàn cảnh của họ và cách họ sống; tôi sẽ nói những gì diễn ra thực sự trong đầu óc và trong con tim họ - những thứ bị dối trá, huyền thoại và những lời sáo rỗng của nền văn hóa tư sản xuyên tạc. Vả lại, thái độ của xã hội đối với họ mang tính chất đồng lõa sâu sắc. Nói chung, xã hội không coi tuổi già là một lớp tuổi rõ rệt. Cuộc khủng hoảng về tuổi dậy thì cho phép vạch ra giữa một thiếu niên và người trưởng thành một đường ranh giới chỉ mang tính võ đoán trong những giới hạn chật hẹp; ở tuổi 18, 21, thanh niên được chấp nhận vào xã hội con người. Hầu như bao giờ xung quanh sự thăng tiến ấy cũng có những “nghi thức chuyển giai đoạn”. Còn thời điểm bắt đầu tuổi già thì không được xác định rõ rệt, nó thay đổi theo từng lúc, từng nơi. Không ở đâu, người ta bắt gặp “nghi thức chuyển giai đoạn” thiết lập một quy chế mới[2], về chính trị, suốt đời, cá nhân giữ nguyên những quyền lợi và nghĩa vụ giống nhau. Luật Dân sự không mảy may phân biệt giữa một cụ già trăm tuổi và một người tuổi bốn mươi. Các nhà làm luật cho rằng ngoài những trường hợp bệnh lý ra, trách nhiệm hình sự của người có tuổi cũng hoàn toàn đầy đủ như của thanh niên[3]. Trong thực tiễn, người ta không coi họ là một lớp người riêng, vả lại, họ cũng không muốn như vậy; có sách, báo, sân khấu, những buổi truyền hình và truyền thanh dành cho trẻ em và thiêu niên: còn đối với người già thì không[4]. Trên tất cả những bình diện này, người ta đồng hóa họ với lớp người lớn tuổi trẻ hơn. Nhưng khi quyết định quy chế kinh tế của họ, hình như người ta cho là họ thuộc một lớp người xa lạ: họ không có những nhu cầu cũng như những tình cảm giống như những người khác, nếu chỉ cần ban cho họ một chút bố thí khốn khổ là cảm thấy hết nợ đối với họ. Các nhà kinh tế học, các nhà làm luật tin vào cái ảo ảnh thuận tiện ấy khi phàn nàn cái gánh nặng những người không hoạt động gây nên cho những người hoạt động: như thể những người này không phải là những người không hoạt động trong tương lai và không bảo đảm chính ngày mai của mình trong lúc xây dựng việc nhận lấy trách nhiệm đối với những người có tuổi. Còn các nhà hoạt động công đoàn thì không nhầm lẫn: khi đưa ra những đòi hòi, bao giờ họ cũng coi trọng vấn đề hưu trí. Những người già không tạo nên một lực lượng kinh tế nào thì không có cách gì để đòi hỏi quyền lợi của mình: lợi ích của những kẻ bóc lột, là tiêu diệt tình đoàn kết giữa người lao động và người không sản xuất, sao cho không một ai bênh vực những người này. Những huyền thoại và lời sáo rỗng theo tư duy tư sản tìm cách chỉ ra một con người khác trong người già. “Chính với những thiếu niên sống khá nhiều năm mà cuộc đời tạo nên lớp người già” - Proust từng nhận định như vậy - họ giữ lại những nết tốt và những tật xấu của con người trong họ. Điều đó, dư luận không muốn biết tới. Nếu biểu thị những ham muốn, những tình cảm, những đòi hỏi giống như những người trẻ tuổi, thì người già làm người ta công phẫn; ở họ, tình yêu nam nữ, lòng ghen tuông hình như là bỉ ổi hay lố bịch, còn tình dục thì đáng ghê tởm và bạo lực thì chẳng có nghĩa lý gì. Họ phải là tấm gương về mọi đức tính. Trước hết, người ta đòi hỏi ở họ sự thanh thản; người ta khẳng định họ có lòng thanh thản ấy, nên cho phép người ta không quan tâm tới nỗi bất hạnh của họ. Cái hình ảnh người ta tô vẽ về họ là hình ảnh một nhà Hiền triết trong ánh hào quang của một mái tóc bạc trắng, giàu kinh nghiệm và khả kính, vượt lên rất xa thân phận con người; nếu rời khỏi hình ảnh ấy, là họ rơi xuống phía dưới; cái hình ảnh đối lập với hình ảnh trên đây, là hình ảnh một lão già điên lẩm cẩm, lố lăng, bị trẻ em chế giễu. Dẫu sao, do đức độ hay do sự đê tiện của họ, họ ở ngoài nhân loại. Vì vậy, người ta có thể không ngại ngần khước từ đối với họ những gì tối thiểu được coi là cần thiết cho một cuộc sống con người. Người ta đẩy xa sự loại thải này tới mức làm cho nó quay trở lại chống chính bản thân mình; người ta sẽ không công nhận bản thân mình trong hình ảnh ông già mà chính mình là ông già đó. Proust nhận xét một cách xác đáng: “Trong mọi hiện thực, (tuổi già) có lẽ là hiện thực mà chúng ta giữ lại một khái niệm thuần túy trừu tượng lâu bền nhất trong đời”. Tất thảy mọi người đều khả tử: họ nghĩ tới điều đó. Nhiều người trong số họ trở thành người già: hầu như không một ai hình dung trước sự biến đổi ấy. Người ta không chờ đón, không dự kiến một cái gì khác ngoài tuổi già. Khi được hỏi về tương lai của họ, thanh niên, nhất là nữ thanh niên, cho đời mình kéo dài nhiều nhất đến tuổi 60. Một số cô gái bảo: “Em không chờ đến ngày ấy, em sẽ ra đi trước đó”. Và thậm chí, một vài cô nói: “Em sẽ tự sát trước ngày ấy”. Người trưởng thành hành động như thế không bao giờ phải trở thành người già. Thông thường, người lao động kinh hoàng khi điểm giờ nghỉ hưu: thời hạn nghỉ hưu vốn đã được ấn định trước, người đó biết thời hạn ấy, nhẽ ra họ phải chuẩn bị sẵn. Sự thật là sự hiểu biết ấy vẫn xa lạ đối với họ cho tới giây phút cuối cùng - trừ phi nó thực sự mang tính chất chính trị. Đến ngày đó, và khi đã bước tới gần, thông thường, người ta thích tuổi già hơn là cái chết. Tuy vậy, đứng cách xa, người ta xem xét cái chết sáng suốt hơn cả. Cái chết nằm trong phạm vi những khả năng trực tiếp của chúng ta, uy hiếp chúng ta ở mọi lứa tuổi; có lúc chúng ta suýt chết; thông thường, chúng ta sợ chết. Con người ta không trở nên già nua trong chốc lát; ở tuổi thanh niên hay lúc tráng niên, chúng ta không nghĩ là tuổi già tương lai đã tiềm ẩn trong con người mình như Thích Ca: tuổi già ấy cách xa chúng ta tới mức khoảng cách ấy lẫn lộn trước mắt mình với sự vĩnh hằng: tương lai đối với chúng ta như thể phi hiện thực. Vả lại, cái chết không là gì cả; người ta có thể cảm thấy một nỗi bàng hoàng siêu hình trước cái hư vô ấy, nhưng bằng một cách nào đó, nó làm người ta yên lòng, nó không đặt thành vấn đề. “Ta sẽ không còn nữa”. : ta giữ hình tích của mình trong sự tiêu vong ấy[5]. Ở tuổi 20, hay 40, tôi nghĩ mình già, tức là nghĩ mình là người khác. Trong mọi sự biến đổi, đều có một cái gì đó khủng khiếp. Ở tuổi ấu thơ, tôi bàng hoàng, và thậm chí kinh hoàng khi hiểu ra sẽ có ngày mình sẽ trở thành người lớn. Nhưng ý muốn mình vẫn là bản thân mình, thường được bù đắp ở buổi thiếu thời bởi những lợi thế của quy chế người trưởng thành. Còn tuổi già thì xuất hiện như một nỗi bất hạnh: ngay cả ở những người mà người ta cho là vẫn giữ được vẻ quắc thước, sự suy sụp về thể chất mà tuổi già kéo theo cũng vẫn lồ lộ trước mắt. Vì ở loài người, sự đổi thay do năm tháng là nổi bật nhất. Loài vật thì gầy đi, yếu đi, nhưng không biến đổi. Còn con người thì có. Người ta se lòng khi nhìn thấy bên cạnh một thiếu phụ trẻ, phảng phất trong gương hình ảnh chính mình những năm tháng sau này: tức là mẹ mình. Theo Lévi-Strauss, người Da đỏ Namblikwara chỉ có một từ để nói “trẻ và đẹp” và một từ để nói “già và xấu”. Trước hình ảnh người già gợi ý với chúng ta về tương lai của mình, chúng ta không tin; một tiếng nói nội tâm thầm thì một cách phi lý với chúng ta rằng điều đó sẽ không đến với mình: sẽ không còn là chúng ta nữa khi điều đó xảy tới. Trước khi nó ập xuống chúng ta, tuổi già là cái chỉ liên quan tới ngườl khác. Vì vậy, có thể hiểu vì sao xã hội có thể khiến chúng ta không coi người già là đồng loại của mình. Thôi, chúng ta đừng tự lừa dối mình nữa; ý nghĩa cuộc sống chúng ta nằm trong tương lai đang đón đợi mình; chúng ta không biết mình là ai, nếu không muốn biết mình sẽ là người thế nào: chúng ta hãy tự nhận biết mình ở ông lão kia, ở bà già nọ. Cần phải như vậy nếu chúng ta muốn đảm nhận thân phận con người của mình một cách trọn vẹn. Chỉ có như vậy, chúng ta mới không còn chấp nhận một cách thờ ơ nỗi bất hạnh của lứa tuổi cuối cùng, chúng ta sẽ cảm thấy mình ở trong cuộc: và quả chúng ta ở trong cuộc. Nỗi bất hạnh ấy tố cáo một cách vang dội chế độ bóc lột chúng ta đang sống. Người ta không thể tự mình thỏa mãn nhu cầu của mình, bao giờ cũng bị coi là một gánh nặng. Nhưng trong những tập thể có một sự bình đẳng nào đó - trong lòng một cộng đồng nông thôn, ở một số dân tộc nguyên thủy - người đứng tuổi, tuy không muốn biết, vẫn biết ngày mai thân phận của mình sẽ là thân phận mà ngày hôm nay người đó quy cho người già. Đấy là ý nghĩa truyện cổ tích của Grim, được thuật lại ở mọi miền thôn dã. Một gã nông dân bắt người cha già ăn riêng, trong một cái máng gỗ nhỏ; hắn bất chợt thấy đứa con trai đang ghép những miếng ván. Nó bảo ông bố: “Cho bố đấy, khi bố về già”. Thế là ông già lại ngồi vào bàn ăn cùng cả nhà. Trước lợi ích lâu dài và lợi ích trước mắt, các thành viên còn hoạt động trong tập thể sáng tạo nên những sự thỏa hiệp. Tình trạng cấp bách của nhu cầu buộc một số người nguyên thủy giết chết bố mẹ, dù về sau, có phải chịu một số phận như thế. Trong những trường hợp ít căng thẳng hơn, sự phòng xa và tình cảm gia đình chế ngự tính ích kỷ. Trong thế giới tư bản, lợi ích dài hơn không còn tác dụng: những kẻ có đặc quyền và quyết định số phận của đám đông không sợ phải nếm trải số phận ấy. Còn những tình cảm nhân văn chủ nghĩa thì không bao giờ can thiệp tới, mặc dù những lời huyênh hoang dối trá. Cơ sở của nền kinh tế là lợi nhuận; trên thực tiễn, toàn bộ nền văn minh phụ thuộc vào nó: người ta chỉ quan tâm tới tập thể người trong một doanh nghiệp trong chừng mực tập thể ấy có lợi. Sau đó, họ bị vứt bỏ. Tại một hội nghị gần đây, tiến sĩ Leach, nhà nhân chủng học ở Cambritgiơ tuyên bố: “Trong một thế giới đang chuyển động, trong đó máy móc có những cuộc đời rất ngắn ngủi, con người không nên phục vụ quá lâu. Tất cả những gì vượt qua 55 năm tuổi đều phải loại bỏ”[6]. Cái từ “đồ bỏ đi” nói đúng điều nó muốn nói. Người ta kể lể với chúng ta rằng nghỉ hưu là thời gian của tự do và giải trí; có những nhà thơ ca ngợi “lạc thú nghỉ ngơi”. Đó là những lời dối trá vô liêm sỉ. Xã hội áp đặt cho số đông người già mức sống khốn khổ tới mức từ ngữ “già nua và đói nghèo” trở thành hầu như một từ thừa (pléonasme); ngược lại, số đông người bần cùng là người già. Nhàn rỗi không mở ra cho người nghỉ hưu những khả năng mới; vào lúc cá nhân, đến phút cuối cùng, được giải thoát khỏi những sự ràng buộc, người ta tước đoạt của họ mọi phương tiện sử dụng quyền tự do. Họ buộc phải sống lay lắt trong cô đơn và phiền muộn, như một vật phế thải không hơn không kém. Khi trong mười lăm hay hai mươi năm cuối đời, một con người chỉ còn là một vật chẳng ai đoái hoài, thì đó là sự thất bại của nền văn minh chúng ta: sự thật hiển nhiên ấy khiến chúng ta nghẹn ngào nếu chúng ta coi người già là những con người từng có một cuộc sống con người phía sau họ, chứ không phải là những xác chết dật dờ. Những ai tố cáo cái chế độ đọa đày vốn là chế độ chúng ta, phải đưa điều điếm nhục ấy ra ánh sáng. Chính bằng cách tập trung nỗ lực của mình vào thân phận những người xấu số nhất, người ta có thể làm lay chuyển một xã hội. Để phá hủy hệ thống đẳng cấp, Gandhi tìm cách giải quyết thân phận tầng lớp Tiện dân (parias); nhằm tiêu hủy gia đình phong kiến, nước Trung Hoa cộng sản giải phóng phụ nữ. Đòi hỏi con người cứ phải là con người ở lứa tuổi cuối cùng của họ bao hàm một sự đảo lộn triệt dể. Không thể thu được kết quả ấy với một vài cải cách hạn hẹp không đụng chạm tới hệ thống: chính nạn bóc lột người lao động, chính quá trình phân hủy xã hội và sự khốn cùng của một nền văn hóa chỉ dành riêng cho tầng lớp quan lại, dẫn tới những cảnh già nua phi-nhân văn ấy. Chúng chỉ ra rằng cần làm lại tất cả, từ đầu. Chính vì vậy, vấn đề này bị nhấn chìm trong im lặng hết sức kỹ lưỡng; và chính vì vậy, cần phá tan sự im lặng ấy: tôi mong đợi độc giả giúp đỡ tôi trong công việc này.   Mời các bạn đón đọc Tuổi Già Tập 1 của tác giả Simone de Beauvoir.
Tuyệt Mật Trong Buồng Lái - Patrick Smith
Hơn bao giờ hết, đi máy bay là tâm điểm của sự tò mò, thích thú, lo lắng, và tức giận. Trong các chương sau đây, tôi sẽ cố gắng hết sức để đưa ra câu trả lời cho những ai tò mò, làm yên lòng những ai lo lắng, và những sự thật không ngờ dành cho những ai bị đánh lừa. Có lẽ các bạn khi cầm trên tay cuốn sách này đều nhận biết rõ đây là một tác phẩm kiến thức phổ thông, bình thường như mọi cuốn sách giáo khoa hay cẩm nang khoa học thường thức. Nhưng tôi tin là cuốn sách này phi thường hơn thế. Để làm được điều vĩ đại trên, cần nhiều hơn những năm miệt mài thực tập căng thẳng trong buồng lái và những chuyến bay thực nghiệm nguy hiểm, nhiều hơn những tố chất cần có của một phi công, nhiều hơn cả một cái đầu lạnh và một trái tim gan dạ, và thật nhiều hơn những may mắn không tên. Không thể hiểu rõ được những điều trên nếu ta chưa từng đọc qua cuốn sách này. *** “Tuyệt mật trong buồng lái là tài liệu nên nằm trong túi lưới đằng sau mỗi ghế ngồi.” —David Pogue, thông tín viên tờ The New York Times và tổng biên tập chương trình PBS “Là một cây viết xuất sắc, Patrick Smith mang đến một chuyến du lịch đầy tiếng cười trong một ngành vốn bị hiểu lầm—một chuyến đi vào thế giới hàng không, chẳng hề có những thuật ngữ rắc rối mà đầy ắp sự hài hước và hiểu biết sâu sắc.” —Christine Negroni, nhà văn chuyên viết về hàng không và tác giả của cuốn sách Flying Lessons “Đặc sắc và cung cấp kiến thức tuyệt vời. Một thành tựu cao xa, một cuốn sách không thể thiếu được dành cho bất kỳ ai di chuyển bằng đường hàng không, nghĩa là tất cả mọi người. —James Kaplan “Patrick Smith cực kỳ thông hiểu về ngành hàng không hiện đại và truyền tải thông tin xuất sắc bằng tiếng Anh, chứ không bằng tiếng phi công. Smith là người bạn cùng buồng lái, bạn đồng hành, cây viết, và người giải thích lý tưởng.” —Alex Beam, Boston Globe “Thật vui thích làm sao khi được đọc những lời giải thích và bình luận tao nhã đến ngạc nhiên của Patrick Smith. Thế giới cần có một người viết thật đơn giản và hợp lý kiểu E. B. White về chủ đề mà tất cả mọi người đều thắc mắc.” —Berke Breathed “Thực tế một cách xuất sắc và thật khiến người ta vững tâm.” —Cath Urquhart, The Times (London) “Giá mà tôi có thể gấp gọn Patrick Smith rồi cất anh ta vào vali của mình. Dường như anh ta biết mọi điều đáng để biết về ngành hàng không.” —Stephen J. Dubner, đồng tác giả cuốn Kinh tế học hài hước “Sắc sảo và sâu sắc.” —Joe Sharkey, The New York Times “Tuyệt vời.” —Rudy Maxa, the Savvy Traveler “Ask the Pilot thực sự khiến cho việc đi máy bay trở nên vui vẻ. Patrict Smith làm sáng tỏ được trải nghiệm này và nhắc chúng ta nhớ đến sự kỳ diệu của hàng không. Anh cũng có óc hài hước tuyệt vời—đây là điều rất quan trọng khi mà bạn bị nhồi nhét vào ghế 14D trên một chiếc máy bay tầm khu vực.” —Chris Bohjalian, tác giả cuốn sách The Night Strangers và Midwives Mời các bạn đón đọc Tuyệt Mật Trong Buồng Lái của tác giả Patrick Smith.
Ikigai - Đi Tìm Lý Do Thức Dậy Mỗi Sáng
Ý nghĩa cuộc đời mình là gì? Phải chăng mục đích chỉ là để sống lâu hơn, hay nên tìm kiếm một mục đích lớn lao? Tại sao có những người biết rõ điều họ muốn và sống trọn đam mê cả cuộc đời, trong khi số khác lại héo mòn trong lú lẫn? Trong cuộc trò chuyện của chúng tôi, từ bí ẩn ikigai được nhắc đến. Trong tiếng Nhật, Ikigai có nghĩa là “đi tìm mục đích sống của đời bạn” hoặc là “một lý do để thức dậy mỗi sáng”. Người Nhật quan niệm rằng mỗi người đều có một ikigai – mục đích sống. Và theo người dân của ngôi làng sống thọ nhất thế giới tại Nhật Bản, tìm ikigai là chìa khóa để có được cuộc sống hạnh phúc và lâu dài. Sở hữu một ikigai rõ rãng tức là mỗi sáng thức giấc, bạn có thể vùng dậy với cảm giác vui sướng, sẵn sàng sống một ngày thật năng động, hạnh phúc và đầy ý nghĩa. Trong cuốn sách Ikigai - Đi Tìm Lý Do Thức Dậy Mỗi Sáng này, các tác giả đã tiến hành phỏng vấn người dân sống tại làng Ogimi, ngôi làng có tỷ lệ người thọ trên trăm tuổi cao nhất thế giới. Từ đó, hé lộ bí quyết hạnh phúc và trường thọ của họ, đồng thời đem đến cho bạn những công cụ thực tiễn để khám phá ikigai của bản thân. Cuộc sống không phải là một vấn đề cần giải quyết. Chỉ cần nhớ rằng phải có thứ gì đó khiến bạn bận rộn làm những điều mình yêu thích trong khi có những người yêu quý bạn ở bên. Ikigai của mỗi người là khác nhau, nhưng có một điểm chung là tất cả chúng ta đều đang tìm kiếm ý nghĩa của cuộc sống. Khi dành nhiều ngày để gắn kết với thứ có ý nghĩa với bản thân, chúng ta sẽ sống hạnh phúc hơn.  Hãy tìm ra và theo đuổi ikigai của mình, để mỗi sớm thức dậy, bạn biết mình đang sống vì điều gì. *** Điều gì mang lại ý nghĩa cho cuộc sống? Lý do tồn tại của bạn là gì? Tại sao có những người biết rõ điều họ muốn và sống trọn đam mê cả cuộc đời, trong khi số khác lại giạt trôi trong một thế giới đầy mơ hồ và mỏi mệt? Người Nhật quan niệm rằng mỗi người đều có một ikigai - mục đích sống. Và theo người dân của ngôi làng sống thọ nhất thế giới tại Nhật Bản, tìm ra ikigai là chìa khóa để có được cuộc sống hạnh phúc và lâu dài. Sở hữu một ikigai rõ ràng tức là mỗi sống thức giấc, bạn có thể vùng dậy với cảm giác vui sướng, sẵn sàng sống một ngày thật năng động, hạnh phúc và đầy ý nghĩa. Trong cuốn sách này, các tác giả đã tiến hành phỏng vấn người dân sống tại Ogimi, ngôi làng có tỷ lệ người thọ trên trăm tuổi cao nhất thế giới. Từ đó, hé lộ bí quyết hạnh phúc và trường thọ của họ, đồng thời đem đến cho bạn những công cụ thực tiễn để khám phá ikigai của bản thân. Hãy tìm ra và theo đuổi ikigai của mình, để mỗi sớm mai thức dậy, bạn biết mình đang sống vì điều gì. *** HÉCTOR GARCÍA Sinh ra tại Tây Ban Nha, ông đồng thời có thêm quốc tịch Nhật Bản, nơi ông đã sống hơn mười năm. Ông từng làm kỹ sư phần mềm cho Tổ chức Nghiên cứu Hạt nhân châu Âu tại Thụy Sĩ. Sau đó, ông chuyển đến Nhật Bản và phát triển phần mềm nhận dạng giọng nói cũng như công nghệ phục vụ cho các công ty khởi nghiệp của thung lũng Silicon muốn tiến vào thị trường Nhật Bản. Ông là chủ trang blog nổi tiếng kirainet.com và là tác giả của A Geek in Japan, một cuốn sách bán chạy hàng đầu tại Nhật Bản. FRANCESC MIRALLES Sinh ra và lớn lên tại Barcelona, ông theo học chuyên ngành báo chí, văn học Anh và tiếng Đức. Hiện ông làm công việc biên tập, dịch thuật, viết thuê và cả sáng tác nhạc. Ông là một tác giả nổi tiếng với nhiều đầu sách bán chạy. Tiểu thuyết Love In Lowercase của ông đã được dịch sang 20 thứ tiếng. *** LỜI NÓI ĐẦU IKIGAI: Một từ bí ẩn Mối lương duyên hình thành nên cuốn sách này bắt đầu từ một đêm mưa ở Tokyo, khi chúng tôi lần đầu trò chuyện tại một quán bar nhỏ trong thành phố. Do khoảng cách địa lý xa xôi giữa Barcelona và thủ đô của Nhật Bản, chúng tôi chưa bao giờ gặp mặt dù từng đọc tác phẩm của nhau. Thế rồi, một người bạn chung kết nối hai chúng tôi, khởi đầu cho một tình bạn dẫn đến dự án này và dường như tình bạn đó được định trước để tồn tại suốt đời. Trong lần gặp gỡ tiếp theo, diễn ra một năm sau đó, chúng tôi đi dạo quanh một công viên ở trung tâm thành phố Tokyo, bàn luận về các xu hướng trong tâm lý học phương Tây, đặc biệt là liệu pháp ý nghĩa (logotherapy), liệu pháp giúp mọi người tìm ra mục đích sống trong cuộc đời mình. Chúng tôi nhận thấy rằng liệu pháp ý nghĩa của Viktor Frankl đã trở nên lỗi thời trong giới trị liệu tâm lý, họ ưa chuộng các trường phái tâm lý học khác, dẫu cho mọi người vẫn đang không ngừng tìm kiếm ý nghĩa trong những việc họ làm và cách họ sống. Chúng ta tự hỏi bản thân những điều như: Ý nghĩa cuộc đời mình là gì? Phải chẳng mục đích chỉ là để sống lâu hơn, hay nên tìm kiếm một mục đích lớn lao? Tại sao có những người biết rõ điều họ muốn và sống trọn đam mê cả cuộc đời, trong khi số khác lại héo mòn trong lú lẫn? Trong cuộc trò chuyện của chúng tôi, từ bí ẩn ikigai được nhắc đến. Khái niệm này của người Nhật, dịch nôm na là “niềm hạnh phúc của việc luôn bận rộn”, cũng tương tự liệu pháp ý nghĩa, nhưng còn đi sâu hơn nữa. Đây có lẽ cũng là một lý giải cho tuổi thọ phi thường của người Nhật, đặc biệt là trên đảo Okinawa, nơi cứ 100.000 dân lại có 24,55 người sống trên 100 tuổi - vượt xa tuổi thọ trung bình toàn cầu. Về lý do cư dân trên hòn đảo phía Nam Nhật Bản này sống lâu hơn cư dân tại bất cứ đâu trên toàn thế giới, các nhà nghiên cứu cho rằng một trong những bí quyết - bên cạnh chế độ ăn uống lành mạnh, cuộc sống bình dị nơi thôn dã, trà xanh cùng khí hậu cận nhiệt đới (với nhiệt độ trung bình tương đương Hawaii) - chính là ikigai, thứ định hình nên cuộc sống của họ. Khi nghiên cứu khái niệm này, chúng tôi khám phá ra rằng chưa có bất kỳ cuốn sách nào trong lĩnh vực tâm lý học hay phát triển cá nhân được dành riêng để truyền tải triết lý này tới phương Tây. Liệu ikigai có phải là lý do Okinawa có nhiều người sống lâu trăm tuổi hơn bất kỳ nơi nào khác? Bằng cách nào ikigai thúc đẩy mọi người sống năng động cho tới tận cuối đời? Bí quyết để sống lâu và hạnh phúc là gì? Khỉ tìm hiểu sâu hơn, chúng tôi khám phá ra một nơi đặc biệt, Ogimi, một thị trấn nông thôn nằm ở tận cùng phía Bắc hòn đảo với dân số khoảng ba nghìn người, tự hào là nơi có tuổi thọ trung bình cao nhất thế giới và được mệnh danh là “Làng Trường thọ”. Okinawa là nơi trồng shikuwasa nhiều nhất Nhật Bản - một loại quả họ Chanh (hay còn gọi là chanh lõm) chứa hàm lượng lớn chất chống ô xi hóa. Bí quyết sống thọ của người dân Ogimi là đây chăng? Hay là thứ nước tinh khiết được dùng để pha loại trà Moringa của họ? Chúng tôi quyết định gặp gỡ trực tiếp những người sống lâu trăm tuổi Nhật Bản để tìm hiểu bí quyết của họ. Sau một năm chuẩn bị, đem theo máy quay và thiết bị ghi âm, chúng tôi tới ngôi làng - nơi người dân nói thổ ngữ cổ và theo tôn giáo duy linh tôn thờ các tinh linh rừng có mái tóc dài được gọi là bunagaya. Ngay khi đặt chân đến, chúng tôi đã cảm nhận được sự thân thiện đáng kinh ngạc của người dân nơi đây, họ cười đùa không ngớt giữa những ngọn đồi xanh tươi được tưới tắm từ nguồn nước thanh khiết. Khi thực hiện phỏng vấn những cụ già lớn tuổi nhất làng, chúng tôi nhận thấy một thứ còn mạnh mẽ hơn cả những nguồn tài nguyên thiên nhiên đang hiển hiện nơi đây: một niềm vui khác thường chảy trong người dân bản địa và dẫn dắt họ suốt chặng đường đời dài lâu và lý thú. Một lần nữa, lại là từ ikigai bí ẩn. Nhưng nó chính xác là cái gì? Làm thế nào để có được? Chúng tôi chẳng bao giờ hết kinh ngạc khi biết rằng thiên đường của cuộc sống gần như vĩnh cửu này lại tọa lạc chính ở Okinawa, nơi 200.000 sinh mạng vô tội bị tước đoạt vào cuối Thế chiến thứ hai. Vậy nhưng, thay vì dung dưỡng lòng hận thù đối với người ngoại quốc, người Okinawa lại sống theo tôn chỉ ichariba chode, một thành ngữ địa phương mang ý nghĩa “đối xử với mọi người như anh em, cho dù bạn chưa từng gặp họ”. Hóa ra một trong những bí quyết hạnh phúc của người dân Ogimi chính là cảm nhận bản thân là một phần của cộng đồng. Ngay từ nhỏ họ đã thực hành yuimaaru, hay còn gọi là làm việc nhóm, và quen với việc giúp đỡ người khác. Nuôi dưỡng tình bạn, hấp thụ ánh sáng, nghỉ ngơi điều độ và rèn luyện cơ thể thường xuyên đều là những yếu tố để có được sức khỏe tốt, nhưng cốt lõi của joie de vivre,[1] thứ truyền cảm hứng cho những con người trăm tuổi nơi đây tiếp tục hưởng niềm vui sinh nhật và trân trọng mỗi ngày mới, chính là ikigai. Mục đích của cuốn sách này là hé lộ bí quyết của những người trăm tuổi tại Nhật Bản và cung cấp công cụ để bạn tìm ra ikigai của chính mình. Bởi lẽ, người tìm thấy ikigai của bản thân sẽ có được tất cả những gì mình cần cho hành trình dài lâu và hạnh phúc suốt chặng đường đời. Chúc bạn có một cuộc hành trình hạnh phúc!   Héctor García và Francesc Miralles Mời bạn đón đọc Ikigai - Đi Tìm Lý Do Thức Dậy Mỗi Sáng của tác giả Héctor García & Francesc Miralles.