Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Cuốn Sách Tiên Tri

"Trong cuốn tiểu thuyết tuyệt vời này, một Erika Swyler đầy tài hoa  đã xuyên suốt qua nhiều thế hệ và nhiều thế kỷ, dịch chuyển một cách khéo léo và dệt các mạch truyện thành một tấm thảm tuyệt đẹp. Tôi ngay tức khắc hòa mình vào trong câu chuyện gia đình đầy thủ đoạn và bất hòa. Văn chương của Swyler hoa mỹ và thanh tao tới mức vô cùng dễ hiểu, tỏa sáng hệt như giọng nói đặc biệt của bà - cách miêu tả của bà về biển và vẻ hung hãn của nó có thể sánh ngang với Annie Proulx trong tác phẩm Shipping News. Tôi thực sự yêu thích cuốn sách này và đã ngấu nghiến đọc một mạch từ đầu đến cuối"  - Trích lời Sara Gruen, tác giả cuốn Water for Elephants; At the Water's Edge - *** Văn học giả tưởng, ma mị là một thể loại cực kỳ thu hút độc giả. Mời các bạn đón đọc review Cuốn sách tiên tri – một câu chuyện cực hot trong thể loại trên. “Trong khi Peabody vẽ và mơ ước, hàng xe vẫn đi theo con đường quanh co chạy theo chiều dài Catawba. Trục xe rên rỉ phản kháng, những cánh cửa xe đóng sập lại và bị kẹt, không khí ẩm ướt khác thường bao trùm lên cả gánh xiếc khi họ mù quáng đi vào trong sương mù.” Cuốn sách tiên tri có cái ma mị của ‘Rạp xiếc đêm’, cũng có chút bất cần tuổi trẻ của ‘Những thành phố giấy’. Cái ma mị bí ẩn trong hình ảnh ngôi nhà bên vách đá gắn với những kỉ niệm, hiệu sách cũ, lửa trại, những lá bài tarot, gánh xiếc, người cá, cuốn sách cổ, những cái chết.. tất cả góp phần tạo nên một không gian truyện bí ẩn và cuốn hút. Đan xen vào đó là những khao khát, ước mơ và cả tình yêu của những con người trẻ tuổi, những con người mang trong mình những đam mê nồng cháy và cảm xúc bùng nổ khi đối diện với người họ thương yêu. Bằng cách kể chuyện song song ở hai khoảng thời gian hiện tại và quá khứ, tác giả như đang thì thầm những bí mật về những con người xa lạ hóa ra lại có mối liên hệ gắn bó và bị thu hút về phía nhau vậy. Tớ rất thích cách viết gắn kết những con người tưởng chừng không chút liên quan, mà qua ngòi bút của tác giả, sợi dây liên kết giữa họ rõ ràng hơn và kì diệu hơn rất nhiều. Không chỉ có vậy, đây còn là câu chuyện về tình cảm gia đình gắn bó, những kỉ niệm đã qua vẫn còn lưu lại trong kí ức tuổi thơ của những kẻ trưởng thành cô đơn, hay những day dứt về sự bồng bột và những hành động trong quá khứ vẫn xuất hiện trong tâm trí họ. Liệu người thân hay chính bản thân họ có dám đối diện với những sai lầm ngày còn trẻ, có thể bằng lòng tha thứ hay không? Bên cạnh đó thì đôi lúc mạch truyện cũng hơi chậm, cảm giác như tác giả cũng đang băn khoăn tìm hướng đi cho nhân vật vậy. Tớ cũng không thích vài chi tiết tình cảm người lớn trong cuốn này, cứ thấy cái gì đó không hợp câu chuyện lắm đâu. Chung lại thì đây là một cuốn khá ổn, nếu anh em muốn thử một cuốn bí ẩn ma mị mà không thiếu đi sự sâu lắng của tình cảm con người thì tớ nghĩ đây sẽ là một câu chuyện phù hợp đó. Cuốn sách tiên tri xoay quanh Simon Watson, anh chàng thủ thư vừa mất việc, rơi vào chán chường vì mất việc đồng nghĩa với không có tiền sửa sang lại căn nhà thơ ấu với bao kỉ niệm cùng bố mẹ và em gái Enola. Một ngày, Simon nhận được cuốn sách cổ từ chủ hiệu sách Churchwarry&son mà trong đó, anh chợt nhận ra những mối liên hệ bất ngờ và một sự trùng hợp kì lạ về những con người đặc biệt từ nhiều năm về trước. Trích dẫn Cuốn sách tiên tri: “Trong khi Amos mơ những giấc mơ của một Cậu bé Rừng xanh – có những đầm lầy dồi dào muông thú, có những đám rong rêu mềm mại để anh ngủ ngon lành trên đó, có sự sảng khoái của những dòng sông mát lạnh áp vào da thịt, có một cô gái đáng yêu trong nước, mái tóc bồng bềnh xung quanh như thảm cỏ – thì những giấc mơ của Evangeline lại u ám hơn nhiều. Cô mơ đến việc bò ra khỏi ngôi nhà màu xám ở Kromeskill, đầu gối đẫm máu, bùn đóng cứng lại cùng với lá thông. Lúc nào bà cô cũng đi theo cô, khuôn mặt tím tái, cầu xin lòng nhân từ và sự cứu giúp. Tại sao? Tại sao? Bà rất yêu cháu. Gánh xiếc đang rời Philadelphia để đến những ngôi nhà gạch có đầu nhọn ở New Castle thì bầu trời nổi gió và mưa trút xuống đe doạ sẽ cuốn trôi cả bầy thú. Con ngựa nhỏ đá chân và lồng lên bên trong xe ngựa của mình, con lạc đà rít lên như một đứa trẻ bị thương. Lo sợ rằng việc cố gắng đi tiếp sẽ khiến chúng bị sa lầy, Peabody lệnh cho tất cả các cỗ xe dừng lại cho đến khi mưa tạnh. Màn đêm buông xuống với hơi nóng dày đặc buộc mọi người phải lên giường đi ngủ. Không khí nặng nề với những đám mây mưa, bầu trời như một quả cân kéo Evangeline xuống như bà của cô đã từng làm. Cô ngủ một giấc ngủ bồn chồn, không yên vì tội lỗi.” Với Cuốn sách tiên tri, tớ chấm 4/5 điểm. *** Ngôi nhà cheo leo bên rìa dốc thẳng đứng trông thật nguy hiểm. Cơn bão đêm qua đã cày tung đất, khuấy đảo vùng biển, khiến bãi biển đầy rẫy chai lọ, rong biển, mai cua hình móng ngựa. Mảnh đất tôi đã sống cả cuộc đời này không chắc có thể trụ qua được mùa bão. Eo biển Long Island rải rác tàn tích của những ngôi nhà và những mảnh đời, tất cả bị chôn vùi trong cái dạ dày tham lam của cát. Nó là một kẻ chết đói. Các biện pháp như xây vách ngăn, tôn nền cao đều không có. Sự thờ ơ của bố đã khiến tôi phải gánh chịu một vấn đề không thể giải quyết, một vấn đề quá tốn kém với một thủ thư ở Napawset. Nhưng, những thủ thư chúng tôi nổi tiếng là có tài xoay xở. Tôi đi về phía những bậc thang gỗ dẫn xuống vách đá. Chân tôi đau nhói ở nơi đá găm vào. Ở bờ biển Bắc này, có một vài thứ cần thiết hơn là bàn chân chai cứng. Vào mùa hè, tôi và em gái Enola thường chạy chân đất cho đến khi vỉa hè nóng ran đến nỗi ngón chân chúng tôi lún xuống nhựa đường. Người ngoài không thể đi bộ trên những bờ biển thế này. Frank McAvoy vẫy tay với tôi từ dưới chân bậc thang trước khi quay ra nhìn chằm chằm vào vách đá. Ông mang theo con thuyền nhỏ xinh xắn, trông như thể được đục đẽo từ một tấm gỗ duy nhất. Frank McAvoy là thợ đóng thuyền gỗ và là một người tốt bụng, đã quen biết gia đình tôi trước cả khi tôi chào đời. Khi cười, khuôn mặt ông hằn lên những nếp nhăn loang lổ của một người Ireland bao năm dãi dầm mưa nắng; cặp lông mày cong lên trên và mất hút dưới vành mũ cũ kỹ. Nếu bố tôi sống đến sáu mươi tuổi, có thể trông ông sẽ giống như Frank, với hàm răng vàng khè và những vết tàn nhang ửng đỏ. Nhìn vào Frank, tôi lại nhớ đến tôi hồi trẻ thơ, đang bò giữa những thanh củi được xếp để đốt lửa trại, bàn tay to lớn của ông kéo tôi khỏi một khúc gỗ đang lung lay. Ông khiến tôi nhớ lại những kỷ niệm về bố, khi ông đang loanh quanh với món lợn quay, ngô nướng, mùi vỏ khô cháy thành than và mùi lụa cháy, trong khi Frank tiêu khiển cho chúng tôi bằng những câu chuyện đi câu. Frank có biệt tài nói dối như thần, đó là điều rất rõ ràng. Mẹ tôi và vợ ông ấy giục ông kể tiếp, tiếng cười của họ khiến cho lũ mòng biển cũng phải khiếp sợ. Hai người họ giờ đã không còn nữa. Tôi nhìn Frank và thấy bố mẹ tôi, tưởng tượng rằng ông không thể nhìn tôi mà không thấy những người bạn đã mất. - Có vẻ như cơn bão đã ảnh hưởng nhiều đến cháu đó. - Ông nói. - Cháu biết. Cháu mất một mét rưỡi. - Một mét rưỡi là đã nói giảm nói tránh rồi. - Bác đã bảo bố cháu phải dựng kè, trồng thêm cây. - Nhà ông McAvoy cách nhà tôi vài trăm mét về phía tây, nằm xa biển, với một cái dốc đứng có bậc thang và cây trồng, được thiết kế để bảo vệ ngôi nhà trong bất cứ hiểm nguy nào. - Bố cháu không bao giờ biết lắng nghe cả. - Đúng thế. Ngoài ra thì một hay hai miếng che trên kè có lẽ đã có thể cứu cháu khỏi một biển rắc rối. - Bác biết bố cháu thế nào mà. - Sau đó là một khoảng lặng đầy cam chịu. Frank hít không khí qua kẽ răng, tạo ra một tiếng huýt sáo khô khốc. - Bác cho rằng bố cháu nghĩ ông ấy có nhiều thời gian hơn thế để sửa chữa mọi thứ. - Có lẽ vậy. - Tôi nói. Ai mà biết được bố tôi đã nghĩ gì. - Dù vậy, mấy năm nay, nước đã lên cao. - Cháu biết, cháu không thể để việc này tiếp diễn lâu hơn được nữa. Nếu bác quen một ai đó mà bác tin tưởng, cháu sẽ rất cảm kích nếu được bác cho biết tên của một nhà thầu. - Chắc chắn rồi. Bác có thể gửi người đến chỗ cháu. - Ông gãi đầu - Nhưng bác không muốn nói dối, tiền công sẽ không rẻ đâu. - Không còn gì khác nữa phải không bác? - Không, bác nghĩ là không. - Cháu có thể xem xét bán một số thứ. - Thật buồn khi thấy cháu làm việc đó. - Vầng trán Frank nhăn lại, khiến chiếc mũ sụp xuống. - Đất đai còn có chút giá trị ngay cả khi ngôi nhà biến mất. - Hãy suy nghĩ thêm. Frank biết vấn đề tài chính eo hẹp của tôi. Cô con gái Alice của ông cũng làm việc tại thư viện. Tóc hoe đỏ và xinh xắn, Alice có nụ cười của bố và cô ấy rất biết cách lấy lòng bọn trẻ. Alice biết cách giao thiệp với mọi người hơn tôi, đó là lý do tại sao cô ấy làm nhiệm vụ thiết lập chương trình, còn tôi làm công việc tra cứu. Nhưng chúng tôi không ở đây để nói về Alice, hay tình trạng nguy hiểm của căn nhà. Chúng tôi ở đây để làm công việc chúng tôi đã làm suốt một thập kỷ qua, thả phao để cách ly một vùng ngập nước. Cơn bão đủ mạnh để kéo phao và mấu neo vào bờ, để lại một đống những dây xích han gỉ và dây thừng bện màu cam, san sát những hàu. Tôi thấy hơi ngạc nhiên khi bị mất đất. - Chúng ta đi chứ? - Tôi hỏi. - Tại sao không? Thời gian không còn dài nữa. Tôi cởi áo, nhấc dây xích và dây thừng lên một bên vai, rồi chầm chậm bước xuống nước. - Có chắc là cháu không cần giúp một tay không? - Frank hỏi. Con thuyền đã chạm mặt cát khi ông đẩy nó xuống nước. - Dạ không, cảm ơn bác, cháu làm được. - Tôi có thể tự mình làm việc này, nhưng có Frank đi theo vẫn an toàn hơn. Ông ở đây không phải vì tôi, mà là vì cái lý do đã khiến tôi làm việc này vào mỗi năm: để tưởng nhớ mẹ tôi, Paulina, bà đã chết đuối ở vùng nước này. Eo biển thật lạnh lẽo vào tháng 6, bước xuống tôi hòa mình vào nó, bàn chân tôi quắp vào nhũng hòn đá bám đầy tảo biển. Dây xích có móc neo khiến tôi chậm lại, nhưng Frank vẫn duy trì tốc độ, xoay tròn mái chèo. Tôi bước đi cho đến khi nước ngập đến ngực, rồi đến cổ. Ngay trước khi lặn xuống, tôi thở hết ra, rồi hít vào, như mẹ tôi đã hướng dẫn tôi trong một buổi sáng ấm áp vào cuối tháng 7, như tôi đã hướng dẫn em tôi. Mẹo để nín thở là chịu khát. “Thở một hơi thật nhanh và mạnh,” mẹ tôi nói, giọng bà êm ái bên tai. Ở vùng nước nông, mái tóc đen dài của mẹ trôi quanh chúng tôi tựa một dòng sông. Hồi đó tôi năm tuổi. Bà ấn bụng tôi cho đến khi các cơ thắt chặt vào, rốn gần chạm xương sống. Bà đẩy mạnh, móng tay sắc nhọn chọc vào tôi, “Bây giờ con hãy hít vào, nhanh. Nhanh, nhanh, nhanh. Xương sườn căng ra. Nghĩ rộng ra.” Bà hít vào, lồng ngực mở rộng, những chiếc xương mảnh như xương chim bành ra cho đến khi bụng bà tròn như cái thúng. Bộ áo tắm của bà là một ánh sáng trắng rạng rỡ trong nước. Tôi nheo mắt nhìn. Bà xỉa một ngón tay vào xương ức tôi. “Con đang thở ra đấy, Simon. Nếu con thở ra, con sẽ chết đuối.” Một cái chạm khẽ khàng. Một nụ cười mỉm. Mẹ bảo tôi hãy tưởng tượng rằng tôi đang khát, cổ họng khô khốc và trống rỗng, rồi uống không khí vào. “Hãy thư giãn xương cốt và uống vào thật nhiều, thật sâu.” Khi bụng tôi đã tròn như chiếc trống cái, bà thì thầm, “Tuyệt, tuyệt. Bây giờ chúng ta lặn xuống nào.” Lúc này tôi lặn xuống. Những tia nắng mềm mại xuyên xuống quanh bóng chiếc thuyền của Frank. Thỉnh thoảng, tôi nghe thấy tiếng mẹ tôi, đang trôi giạt trong làn nước, và thỉnh thoảng tôi thoáng thấy bà, phía sau lớp rong biển, mái tóc đen hòa lẫn với tảo bẹ. Hơi thở của tôi biến thành một màn sương đẹp đẽ bao phủ lên làn da. Mẹ tôi là một diễn viên ở rạp xiếc và lễ hội, người bói bài tarot, trợ lý ảo thuật gia, và người cá, chuyên sống bằng cách nín thở. Bà dạy tôi bơi như cá, và bà khiến bố tôi mỉm cười. Bà thường xuyên biến mất. Bà thường bỏ việc hoặc làm đồng thời hai hay ba việc một lúc. Bà ở khách sạn chỉ để thử những chiếc giường khác nhau xem chúng như thế nào. Bố tôi, Daniel, là một thợ máy và là một người chồng chung thủy. Ông ở nhà, mỉm cười, đợi vợ trở về, đợi bà gọi ông là anh yêu. Simon, con yêu. Bà cũng gọi tôi như vậy. Tôi lên bảy tuổi vào ngày bà gieo mình xuống nước. Tôi cố quên, nhưng nó đã trở thành kỷ niệm thân thương nhất của tôi về bà. Bà đã bỏ chúng tôi sau khi chuẩn bị xong bữa sáng. Trứng luộc chín phải được đập vào cạnh đĩa và phải dùng móng tay để bóc vỏ. Tôi đập và bóc trứng cho em gái, cắt chúng thành miếng cho vừa những ngón tay nhỏ xíu của đứa trẻ mới chập chững biết đi. Có bánh mì nướng khô và nước cam đi kèm. Những giờ đầu điên của mùa hè khiến bóng tối trở nên tối hơn, khuôn mặt trở nên sáng hơn và chỗ hõm trở nên góc cạnh hơn. Mẹ Paulina là một cảnh tượng đẹp trong sáng hôm đó, vô cùng duyên dáng, không ai sánh bằng. Bố tôi đang làm việc ở nhà máy. Chỉ có mẹ ở nhà với chúng tôi, quan sát, và gật đầu khi tôi cắt trứng cho Enola. - Con là một người anh tốt, Simon à. Con hãy trông chừng Enola. Con bé sẽ muốn chạy trốn khỏi con. Hãy hứa với mẹ rằng con sẽ không để em đi. - Con hứa. - Con là một chàng trai tuyệt vời, phải không? Mẹ không bao giờ trông chờ điều đó. Mẹ không trông chờ điều đó ở con một chút nào. Quả lắc trên chiếc đồng hồ chim cu tích tắc qua lại. Bà gõ một gót giày lên tấm vải son lót sàn nhà, yên lặng. Enola bôi đầy trứng và mảnh bánh mì vụn lên người. Tôi vật lộn với việc vừa ăn sáng, vừa giữ cho em gái tôi sạch sẽ. Một lát sau, mẹ đứng dậy và vuốt thẳng vạt trước của chiếc váy mùa hè màu vàng bà đang mặc rồi nói: - Gặp lại con sau nhé, Simon! Tạm biệt Enola! Bà hôn lên má Enola và áp môi lên đỉnh đầu tôi. Bà vẫy tay tạm biệt, mỉm cười và đi làm, tôi đã nghĩ như vậy. Làm sao tôi có thể biết được lời tạm biệt đó lại chính là lời vĩnh biệt. Những suy nghĩ khó khăn chất chứa trong những lời nói nhỏ bé. Khi bà quan sát tôi trong buổi sáng hôm đó, bà biết rằng tôi sẽ chăm sóc cho Enola. Bà biết chúng tôi không thể theo bà. Đó là thời gian duy nhất bà có thể đi. Không lâu sau đó, khi tôi và Alice McAvoy đang đua xe trên chiếc thảm trải sàn phòng khách nhà cô ấy, mẹ tôi đã trẫm mình xuống eo biển. Tôi lao xuống nước, đẩy nước bằng ngực, thọc chân sâu xuống. Sau khi đã lặn thêm vài mét nữa, tôi thả một cái neo, nó rơi xuống với một tiếng vang nghẹt lại. Tôi nhìn vào bóng của chiếc thuyền. Frank đang lo lắng. Mái chèo đập xuống mặt nước. Hít thở dưới nước sẽ như thế nào nhỉ? Tôi tưởng tượng khuôn mặt méo mó của mẹ tôi, nhưng vẫn tiếp tục đi cho đến khi tôi có thể thả một cái neo khác, và rồi tôi đẩy hết không khí ra khỏi phổi và bước về phía bờ, cố gắng ở phía dưới lâu nhất có thể - đó là một trò chơi mà tôi và Enola đã thường chơi. Tôi chỉ bơi khi không thể giữ nổi thăng bằng để bước đi, sau đó cánh tay tôi di chuyển thành những sải bơi ổn định, cắt qua eo biển như một trong những chiếc thuyền của Frank. Khi nước vừa đủ sâu để ngập đầu, tôi lại chạm xuống dưới đáy. Điều tiếp theo tôi làm là vì Frank. “Chậm thôi, Simon. Hãy mở mắt ra, ngay cả khi con thấy cay mắt. Không được chớp mắt.” Mẹ bảo tôi. Muối làm cho mắt đau nhói nhưng mẹ không bao giờ chớp mắt, không chớp mắt trong nước, không chớp mắt khi không khí bắt đầu đập vào mắt mẹ. Bà đang di chuyển như một bức tượng. “Đừng có thở, ngay cả khi mũi con đã ở phía trên mặt nước. Nếu con hít thở quá nhanh, miệng con sẽ đầy muối. Hãy đợi,” Mẹ nói, kéo dài từ này như một lời hứa. “Đợi cho đến khi miệng con đã lên khỏi mặt nước, nhưng hãy hít thở bằng mũi, hay trông như con bị mệt. Con không bao giờ có thể bị mệt. Rồi con mỉm cười.” Dù miệng nhỏ và môi mỏng nhưng nụ cười của bà luôn căng rộng ra như làn nước. Mẹ chỉ cho tôi cách cúi chào đúng đắn: cánh tay giơ cao, ngực ưỡn ra, như một con sếu chuẩn bị bay. “Đám đông thích những người rất nhỏ và rất cao. Đừng gập cong người như một diễn viên, điều đó sẽ ảnh hưởng đến con. Hãy để họ nghĩ rằng con cao hơn thực chất của mình. Mẹ mỉm cười với tôi khi đang giơ cao cánh tay bà. “Và con sẽ rất cao, Simon à.” Một cái gật đầu căng hết cỡ tới những khán giả vô hình. “Và con hãy thật duyên dáng, Hãy luôn luôn duyên dáng.” Tôi không cúi chào, không phải vì Frank. Lần cuối cùng tôi cúi chào là khi tôi dạy Enola và muối đâm vào mắt chúng tôi đau đến nỗi trông chúng tôi như thể mới đánh nhau. Dù vậy, tôi vẫn mỉm cười và hít một hơi thật sâu qua mũi, để cho xương sườn giãn ra và lồng ngực căng đầy. - Bác nghĩ là bác sẽ phải theo sau cháu. - Frank gọi. - Cháu ở dưới bao lâu rồi bác? Ông nhìn vào chiếc đồng hồ đeo tay bằng dây da đã rạn và thở ra: - Chín phút. - Mẹ cháu có thể làm được mười một phút. - Tôi giũ nước khỏi tóc, đập đập hai lần để nước ra khỏi tai. - Không bao giờ hiểu được điều đó. - Frank thốt lên khi lôi mái chèo ra khỏi khóa. Chúng kêu loảng xoảng khi ông ném chúng vào thuyền. Có một câu hỏi mà cả hai chúng tôi đều không hỏi: mất bao lâu để một người nín thở bị chết đuối? Khi tôi mặc áo, nó đầy cát, đó là hậu quả của việc sống ở bờ biển, cát luôn có trong tóc, dưới móng chân, trong những nếp khăn trải giường. Frank đi đến sau tôi, thở hổn hển vì kéo thuyền. - Lẽ ra bác nên để cháu giúp việc đó. Ông vỗ lưng tôi: - Nếu thỉnh thoảng bác không vận động thì bác sẽ chỉ có già đi thôi. Chúng tôi nói chuyện phiếm về mọi thứ ở bến du thuyền. Ông phàn nàn về sự thịnh hành của những chiếc thuyền bằng sợi thủy tinh, cả hai chúng tôi đều lan man về Windmind, chiếc thuyền đua mà ông và bố tôi cùng sở hữu. Sau khi mẹ tôi chết đuối, bố tôi chẳng nói chẳng rằng đã bán luôn chiếc thuyền đó đi. Ông thật tàn nhẫn khi làm vậy với Frank, nhưng tôi cho rằng Frank đã có thể mua được nó ngay tức khắc nếu ông muốn vậy. Chúng tôi tránh không nói chuyện về ngôi nhà, dù rõ ràng là ông buồn rầu với ý tưởng bán nó đi. Tôi cũng không muốn bán nó. Thế nên chúng tôi cùng trao đổi những lời nhận xét hài hước về Alice. Tôi nói tôi đang để ý đến cô ấy, dù điều đó là không cần thiết. - Thế còn em gái cháu thì sao? Nó đã ổn định ở đâu chưa? - Cháu không rõ. Thật ra mà nói, cháu không biết liệu nó có từng muốn vậy không. Frank khẽ mỉm cười. Cả hai chúng tôi đều nghĩ về điều đó: Enola cũng hoạt bát như mẹ tôi. - Vẫn đang bói bài tarot à? -Nó đang xoay sở với công việc đó. - Em tôi đã bỏ đi cùng với một gánh xiếc. Khi nói ra điều này, chúng tôi đã kết thúc cuộc hội thoại tất yếu. Chúng tôi lau khô và nhấc chiếc thuyền nhẹ trở lại cái kè. - Bác sẽ lên chứ? Cháu sẽ đi bộ về với bác. - Tôi nói. - Hôm nay trời thật đẹp. Bác nghĩ là bác sẽ ở đây thêm một lát nữa. - Nghi thức đã xong. Chúng tôi đi theo hai hướng khác nhau khi chúng tôi đã dìm chết hồn ma của chính mình. Tôi bước lên những bậc thang trở lại, tránh cây thường xuân độc leo lên rào chắn và mọc dày đặc trên dốc đứng - không ai kéo nó xuống, bất cứ thứ gì bám chặt vào cát xứng đáng với bất cứ tội lỗi nào nó đem lại - Và cắt qua đám cỏ biển, hướng về nhà. Giống như rất nhiều ngôi nhà ở Napawset, nhà của tôi là một thuộc địa thực sự, được xây dựng vào cuối những năm 100. Có một tấm bảng từ xã hội lịch sử được treo cạnh cửa trước cho đến khi nó bị thổi bay mất trong một cơn gió đông bắc vài năm trước. Ngôi nhà Timothy Wabash. Với màu sơn trắng bong tróc, bốn cửa sổ vặn vẹo, và một bậc thang dốc, vẻ bề ngoài của ngôi nhà cho thấy nó đã bị lãng quên từ lâu và thiếu tiền tu bổ trầm trọng. Trên bậc thang trước màu xanh lá bạc màu (phải nói đến điều đó) là một gói đồ được dựng mở trên cửa lưới. Người giao hàng luôn để cửa mở dù đã vô số lần tôi để lại lời nhắn là không được như vậy, tôi phải treo lại một cánh cửa vào một ngôi nhà đã không vuông vức kể từ ngày nó mới được xây. Tôi không đặt món hàng nào và không thể nghĩ được ai có thể gửi cho tôi món gì. Enola hiếm khi ở một nơi nào đủ lâu để gửi thư mà chỉ gửi một tấm bưu thiếp. Ngay cả nếu có vậy, chúng cũng thường trống trơn. Gói hàng nặng, kỳ cục, và được đề địa chỉ bằng những nét chữ nguệch ngoạc, khẳng khiu của một người lớn tuổi - một kiểu mà tôi đã quen thuộc, vì khách quen của thư viện chủ yếu là một nhóm những người lớn tuổi. Điều đó nhắc tôi rằng, cần phải nói chuyện với Janice về việc kiếm thêm một khoản trong ngân sách của thư viện. Mọi thứ sẽ không quá tồi nếu tôi có thể đắp kè. Không cần phải tăng lương, chỉ cần một khoản tiền thưởng vào một dịp nào đó, vì thâm niên làm việc. Người gửi là một ai đó tôi không biết, một người nào đó có tên là M. Churchwarry ở Iowa. Tôi dọn sạch một chồng giấy khỏi mặt bàn, đó là một vài bài báo về gánh xiếc và lễ hội, những thứ tôi đã sưu tầm trong những năm qua để bắt kịp cuộc sống của em gái tôi. Hộp đồ có chứa một cuốn sách khá lớn, được bọc cẩn thận. Dù chưa mở thì cái mùi mốc, hăng hăng cho thấy đó là mùi giấy, gỗ, da và keo dán cũ. Nó được gói trong tấm vải mỏng và giấy in báo, khi mở ra, nó là một bìa sách da màu tối trên đó có thể là những họa tiết xoắn phức tạp nếu nó không bị nước hủy hoại. Tôi cảm thấy hơi choáng váng. Nó rất cũ kĩ, không phải một cuốn sách có thể sờ mó bằng những ngón tay trần, mà nó như một thứ đã bị hư hỏng hoàn toàn, tôi hồi hộp chạm vào nó như chạm vào một cái gì đó của lịch sử. Mép trang giấy không bị hỏng mà còn thật mềm mại. Bộ sưu tập săn cá voi của thư viện đã khiến tôi lao mình vào công việc lưu trữ và phục chế, đủ để nói rằng quyển sách có cảm giác như đã tồn tại ít nhất từ những năm 1800. Đây là một sự sắp đặt, không phải một cuốn sách bạn chuyển đến mà không báo trước. Tôi xếp những tờ báo của mình thành hai chồng nhỏ để đỡ cuốn sách - sự thay thế đáng thương cho một cái giá sách nó đáng có được, nhưng như vậy cũng ổn. Có một lá thư được nhét bên trong bìa trước, được viết bằng mực nước cũng với nét chữ run rẩy đó. Cậu Watson thân mến, Tôi tình cờ thấy cuốn sách này tại một buổi đấu giá, nó nằm trong một mớ mà tôi đã mua để đầu cơ. Tình trạng hư hại của cuốn sách này cho thấy nó vô dụng với tôi, nhưng một cái tên bên trong nó - Verona Bonn - đã khiến tôi tin rằng nó có thể là mối quan tâm của cậu hay gia đình cậu. Đó là một cuốn sách thú vị và tôi hy vọng nó tìm được một ngôi nhà tuyệt vời với cậu. Làm ơn đừng do dự liên lạc với tôi nếu cậu có bất kỳ câu hỏi nào cậu cho rằng tôi có thể trả lời. Nó được ký bởi một ông Martin Churchwarry của Hiệu sách Churchwarry & Son nào đó, và có cả một số điện thoại đi kèm. Một người bán sách, chuyên về những cuốn sách cũ và sách cổ. Verona Bonn. Tên bà tôi xuất hiện trong cuốn sách này nằm ngoài sức tưởng tượng của tôi. Là một người biểu diễn lưu động như mẹ tôi, bà sẽ không có thời gian cho một cuốn sách như thế này. Tôi khẽ lật một trang sách bằng mép ngón tay. Trang sách bên trong đầy những chữ viết phức tạp, một bản khắc đồng được trang trí với những nét cong bay bướm kì dị. Có vẻ như nó là một cuốn sách kế toán hay hành trình của một ông Hermelius Peabody nào đó, liên quan đến điều gì đó có chứa từ xách tay và phép màu. Bất cứ chi tiết nào khác để nhận dạng cũng rất khó đọc vì bị nước làm hư hại và vì sự cống hiến cho nghệ thuật viết chữ đẹp của ông Peabody. Tôi lướt qua thấy những bức phác họa về phụ nữ, nam giới, những tòa nhà, và những cỗ xe ngựa mái cong, tất cả đều màu nâu. Tôi chưa bao giờ biết mặt bà tồi. Bà mất khi mẹ tôi còn nhỏ, mà mẹ tôi thì chẳng bao giờ nói nhiều về bà. Tôi không rõ cuốn sách này có liên quan đến bà tôi không, tuy nhiên, điều đó cũng thật thú vị. Tôi quay số, lờ đi những âm thanh ám chỉ đó là một tin nhắn. Nó reo một hồi vô cùng lâu trước khi chuyển sang chế độ trả lời tự động và giọng nói già nua của một người đàn ông nói rằng tôi đã gọi đến Hiệu sách Churchwarry & Son, hướng dẫn tôi nhắn lại ngày và thời gian ngoài một lời nhắn chi tiết về bất kỳ cuốn sách cụ thể nào mà tôi đang tìm kiếm. Chữ viết tay không nói dối. Đây là một ông lão. Mời các bạn đón đọc Cuốn Sách Tiên Tri của tác giả Erika Swyler.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Chuyện Tình Của Mẹ - Ruth Rendell
Liza sống cách biệt với mọi người tại lâu đài Shrove với Eve mẹ nàng, cho đến năm lên 17 tuổi. Nàng không được mẹ cho tiếp xúc với bất cứ ai. Bà đích thân dạy cho con học, mà không cho Liza đến trường. Khi mẹ của Liza bị cảnh sát bắt, nàng trốn theo Sean, chàng trai đã từng là kẻ làm vườn thời vụ cho Lâu đài Shrove. Trên toa nhà xe lưu động, nay đây mai đó, đem đêm Liza đã kể cho Sean nghe mỗi đêm một ít cuộc sống đầy bí ẩn, xa lánh hết thảy mọi người trong xã hội. Những sự bí mật lần lượt bị lột trần. Số phận của những người đàn ông đã bị sắc đẹp của Eve cuốn hút sẽ ra sao? Liza đã thực sự đóng vai trò gì trong các vụ giết người tại lâu đài Shrove bí ẩn? *** Ruth Barbara Rendell, Nam tước Rendell của Babergh, CBE, là một tác giả người Anh của phim kinh dị và bí ẩn giết người tâm lý. Sáng tạo nổi tiếng nhất của Rendell, Chánh thanh tra Wexford, là anh hùng trong nhiều câu chuyện cảnh sát nổi tiếng, một số trong số chúng được chuyển thể thành công cho TV.   Mời các bạn đón đọc Chuyện Tình Của Mẹ của tác giả Ruth Rendell.
Câm Lặng - Eric Rickstad
Mùa đông chết chóc ở Vermont đang tới gần, quỷ dữ nơi đây bắt đầu hiện hữu và trở nên sống động hơn bao giờ hết. Franks Rath cho rằng mình đã không phải dính dáng tới án mạng khi anh rời khỏi lực lượng cảnh sát, trở thành một thám tử tư để dành phần lớn thời gian của mình chăm sóc cho con gái. Cho đến khi lực lượng cảnh sát của vùng Canaan hẻo lánh tìm được một chiếc xe Monte Carlo đời 89 bị bỏ mặc bên đường và chủ nhân của nó – một cô gái tuyệt đẹp ở độ tuổi 16 biến mất không dấu vết, Rath lại một lần nữa lên đường điều tra, hỗ trợ lực lượng cảnh sát từ trong bóng tối. Càng dấn sâu vào vụ án, anh càng tiến gần tới những góc khuất tối tăm của con người. Một người đàn ông vốn chịu đủ những ám ảnh từ quá khứ, mang trên vai trách nhiệm tìm kiếm những cô gái còn đang mất tích. Rath sẽ phải làm gì khi ngay cả ở những nơi sâu xa hẻo lánh nhất cũng không tránh khỏi bị cái ác bao trùm? *** “Không.” Rath nói, “vị trí này không dành cho tôi.” “Cậu đang làm trái tim tôi tan vỡ đấy nhóc.” Barrons vừa nói vừa đặt bàn tay to bè lên ngực như để chứng minh. Nó chả chứng minh được cái khỉ gì cả. “Tôi không phải cớm.” Rath nói. “Vớ vẩn.” “Tôi đã từng là cớm.” “Một sĩ quan tuyệt vời.” “Một sĩ quan phải có niềm tin.” “Vào cái gì?” “Vào luật pháp, vào thể chế. Tôi thì không, không thể, không phải một cái thể chế như thế này, một dạng pháp luật coi một đứa nhỏ mười sáu tuổi là người lớn, một dạng pháp luật thả những thằng khốn như Preacher ra ngoài săn lùng và sát hại phụ nữ. Chết tiệt! Ngay cả mụ phù thủy già Malroy cũng có thể chống án được đấy.” “Nếu...” “Không, chẳng có chữ nếu ở đây đâu. Đây là cuộc đời và chúng ta không thể sống bằng chữ nếu...” “Nghe cậu nói kìa.” “Phải.” “Ừ thì.” Barrons ngả người ra phía sau và dang rộng đôi tay. Nhìn qua cửa sổ phía sau, Rath có thể nhìn thấy đám chim bồ câu bay qua bay lại. “Grout đã đỡ non và xanh hơn rồi đấy.” Rath đùa. “Grout đã vắng mặt không phép kể từ sau vụ con mụ già ở Connecticut. Mụ ấy suýt chết đấy. Tôi không nghĩ thằng nhỏ sẽ quay lại ngành đâu, hình như chuyển sang bên an ninh rồi, ở New Hampshire thì phải.” Rath gật đầu, chẳng lấy gì làm ngạc nhiên. “Sonja cũng gần chín rồi.” “Tôi nói gì cậu cũng không vào tai nhỉ, nhóc?” Barrons nói. “Biết rồi còn hỏi. Ông có thể rủ tôi xuống Bahamas câu cá. Tôi muốn học câu cá bằng ruồi.” “Cậu đã sẵn sàng chưa nhóc? Sống cuộc đời của một lão già về hưu?” “Sẵn sàng!” Quả thực như vậy. Rath cần phải đến một vùng đất mới, đến nơi mà anh chưa bao giờ đi qua, một nơi nào đó đầy nắng và gió, một nơi nào đó anh có thể thả lỏng và điều chỉnh tâm tình để khi trở lại anh có thể tập trung vào điều quan trọng nhất - Ned Preacher. “Tôi cứ tưởng cậu đang hẹn hò cơ mà?” Barrons hỏi. ... Mời các bạn đón đọc Câm Lặng của tác giả Eric Rickstad.
Sự Cứu Rỗi Của Thánh Nữ - Higashino Keigo
Trong biệt thự nhà Mashiba Yoshitaka, người chồng trúng độc chết trên sàn, thạch tín còn sót lại trong cốc cà phê đổ lênh láng bên cạnh. Mọi nghi vấn tập trung vào hai đối tượng: người vợ Ayane vốn là nghệ nhân nổi tiếng với các tác phẩm thảm ghép vải độc đáo đắt tiền trưng bày ở khu Ginza, và cô người tình bí mật Wakayama Hiromi, cũng là học trò của Ayane. Nhưng cả hai đều có chứng cứ ngoại phạm vững chắc. Và cảnh sát đau đầu vì vấn đề hóc búa: Làm thế nào hung thủ bỏ thạch tín hạ độc Yoshitaka, khi không ai khác có khả năng tiếp cận nạn nhân quanh thời điểm xảy ra vụ án. Một lần nữa thiên tài “thám tử Galileo” Yukawa Manabu nhập cuộc. Anh đã tìm ra đáp án, nhưng là một “đáp án ảo”, chỉ “có thể suy nghĩ về mặt lý thuyết nhưng không thể tồn tại trong hiện thực”. Từng bước lật lại các tình tiết, tác giả đại tài Keigo đã chìa ra cho chúng ta chân tướng đáng kinh ngạc của một sự thật vô cùng chua xót… *** Lại thêm một tác phẩm xuất sắc nữa của tác giả Higashino, không có gì để chê trách, nội dung tuyệt vời, những bí ẩn dần được khám phá. Nguyễn Quốc Huy *** Có vẻ cái tên Higashino Keigo không ít fan ở Việt Nam đâu nhỉ. Trả lời câu hỏi Sự cứu rỗi của thánh nữ có hay hay không? Câu trả lời là có hay. Có vẻ Nhã Nam vẫn là nhà chọn sách tốt trong rất nhiều các tác phẩm của Keigo. Sẽ chỉ nói về Thánh nữ chứ không so sánh nó với tác phẩm nào của Keigo. Cà phê, lại là cà phê. Mình nhớ trong Sự thật về Bebe Donge của Simenon thì người vợ cũng đã đầu độc chồng trong ly cà phê. Sự cứu rỗi của thánh nữ cũng liên quan đến cà phê. Thế nên các quý ông quý bà thích uống cà phê cẩn thận nha, có thể bị độc chết bất cứ lúc nào. Mashiba Yoshiaka, người chồng bị độc chết trên sàn nhà, thạch tín còn sót lại trong cốc cà phê lênh láng bên cạnh. Mọi nghi vấn được tập trung vào hai đối tượng: người vợ Ayane và cô người tình bí mật Hiromi. Vấn đề là cả hai người đều có chứng cớ ngoại phạm vững chắc. Bài toán đặt ra là làm thế nào để hạ độc Yoshitaka và đầu độc bằng cách nào? Vì trong thời điểm xảy ra vụ án không ai có khả năng tiếp cận nạn nhân. Thật ra, trong Sự cứu rỗi của thánh nữ, hung thủ có thể thấy ngay từ đầu. Vấn đề là nguyên nhân và cách thức gây án. Một bài toán vô cùng khó và có những cái không thể ngờ tới. Vẫn là những người phụ nữ. Nếu bạn nào ít nhiều đọc Keigo chắc hẳn sẽ rất ấn tượng với những người phụ nữ trong tác phẩm của ông. Họ thường đẹp và rất nguy hiểm. Sự cứu rỗi của thánh nữ cũng không ngoại lệ. Cô ấy đẹp, thu hút nhưng luôn treo cái chết trên đầu bạn. Thật sự rất nể người phụ nữ này luôn. Làm sao cô ấy có thể kiên trì sống và chịu đựng, chấp nhận cuộc sống với tình yêu và sự thù hận, treo cái chết lơ lửng từng ngày như vậy. Sự cứu rỗi của thánh nữ nằm trong series “Thám tử Galileo” Yukawa. Đọc đến nửa thì vị thám tử này mới nhập cuộc nhưng vô cùng thú vị. Có lẽ bài toán càng hóc búa thì càng thu hút vị thám tử này. Mặc dù khó tin, có thể là “đáp án ảo” chỉ “có thể chỉ xảy ra về mặt lý thuyết nhưng không hề tồn tại trong hiện thực” nhưng chứng minh đáp án đó là ảo lại cho ra một kết quả hết sức kinh ngạc của một sự thật chua xót. Và tất nhiên tác giả cũng có lồng ghép một số kiến thức rất thú vị vào trong vụ án vì thám tử Galileo là giáo sư dạy vật lý ở trường đại học mà. Cứ tưởng đâu đây là vụ án “hoàn hảo”, biết mười mươi mà không đủ bằng chứng để buộc tội gây “ức chế”, nhưng may quá, vẫn còn ánh sáng cuối đường hầm mặc dù sự thật là đau xót. Có một câu hỏi: Đàn ông quan niệm như nào về lập gia đình? Phải chăng họ lập gia đình chỉ vì cần người sinh con? Họ không cần tình yêu? Nếu không sinh được con thì người phụ nữ chẳng qua chỉ là vật trang trí trong ngôi nhà không hơn không kém? Tác phẩm: Phía Sau Nghi Can X Bạch Dạ Hành Bí mật của Naoko Thánh Giá Rỗng Điều Kỳ Diệu Của Tiệm Tạp Hóa Namiya Hoa Mộng Ảo Ngôi Nhà Của Người Cá Say Ngủ Trước Khi Nhắm Mắt Sự Cứu Rỗi Của Thánh Nữ Tên của trò chơi là bắt cóc Ác Ý Ảo Dạ Ma Nữ Của Laplace Phương Trình Hạ Chí Cáp Treo Tình Yêu Trứng Chim Cúc Cu Này Thuộc Về Ai Thư ... *** Các truyện về Thám tử Galileo: Tiểu thuyết Yōgisha X no Kenshin (容疑者Xの献身?), 2005 (Phía sau nghi can X, Nhã Nam, 2009) Seijo no Kyūsai (聖女の救済?), 2008 (Sự cứu rỗi của thánh nữ, Nhã Nam, 2019) Manatsu no Hōteishiki (真夏の方程式?), 2011 (Phương trình hạ chí, Nhã Nam, 2018) Kindan no Majutsu (禁断の魔術?), 2015 (Ma Thuật Bị Cấm) Tập truyện ngắn Tantei Galileo (探偵ガリレオ?), 1998 Yochimu (予知夢?), 2000 Galileo no Kunō (ガリレオの苦悩?), 2008 Kyozō no Dōkeshi (虚像の道化師?), 2012 Mời các bạn đón đọc Sự Cứu Rỗi Của Thánh Nữ của tác giả Higashino Keigo.
Ác Ý
“Hàng xóm nuôi con mèo lông trắng điểm nâu. Mèo nhà mà cứ thả rông, để nó chạy sang vườn mình bứt cây đi bậy, phiền toái vô cùng, không làm sao mà chịu đựng được.” Một nhà văn có bài tùy bút đăng báo, đại ý như vậy. Báo phát hành được vài hôm thì con mèo hàng xóm chết vì trúng bả. Tình cờ là, chủ nó bắt gặp bài tùy bút. Và vấn đề là, con mèo của chị ta lông trắng điểm nâu. Chiều hôm ấy, chị ta sang vườn nhà văn để tìm vết tích bả độc. Tối hôm ấy, nhà văn bị giết. Có một nhân vật nổi tiếng từng tiêu diệt rất nhiều người, thậm chí phá tan cả mấy băng đảng, chỉ để báo thù cho một con chó. Vậy đây, liệu có phải án mạng để báo thù cho một con mèo? Từ xuất phát điểm là vụ sát hại một nhà văn nhân cách vàng trong khu phố giàu sang, Keigo Higashino kéo tuột người đọc vào một lịch sử được viết lại bằng gian dối, một ma trận được vận hành theo nguyên tắc lấy oán trả ơn. *** Về tác giả Higashino Keigo có lẽ không cần phải đề cập nhiều vì đây hẳn là cái tên đã quá đỗi quen thuộc với độc giả trinh thám Việt Nam. Bằng lối viết đặc trưng đi sâu vào tâm lý của thủ phạm với văn phong giản dị, mộc mạc nhưng ẩn chứa tầng lớp ý nghĩa, Keigo đã cho ra đời không ít tuyệt phẩm độc nhất vô nhị chỉ tính riêng ở mảng văn học trinh thám. Và “Ác ý” chắc chắn là một trong số đó. Hidaka Kunihiko – một nhà văn nổi tiếng bị sát hại ngay tại nhà riêng, thi thể nhanh chóng được phát hiện bởi vợ và người bạn thân của anh, tác giả truyện thiếu nhi Nonoguchi Osamu. Không lâu sau, hung thủ bị bắt, nhưng câu chuyện chưa dừng lại ở đó, ẩn đằng sau tội ác tưởng chừng như bình thường ấy là một âm mưu hiểm độc, một “ác ý” đáng sợ đến ghê người. Mình xin không nhận xét gì thêm về tác phẩm này, vì sẽ tốt hơn nếu người đọc được tự mình trải nghiệm một cách trọn vẹn. Tuy nhiên, mình rất muốn chia sẻ một chút suy nghĩ cá nhân về nhan đề câu chuyện: “Ác ý” Đầu tiên cần hiểu “ác ý” ở đây nghĩa là gì? Theo cách hiểu của mình, “ác ý” nói đơn giản là ý muốn gây tổn thương cho người khác. “Ác ý” thường bắt đầu từ “ác cảm” (nghĩa là cảm giác ghét một ai đó), qua thời gian, “ác cảm” này vì nhiều nguyên nhân khác nhau, chủ quan có, khách quan có, đơn giản có, phức tạp cũng có, dần phát triển thành “ác ý”. Như nhận xét của nhà văn Natsuo Kirino, “ác ý” là một dòng chảy ngầm, là thứ mà ta không thể nhìn thấy bằng mắt, mà chỉ có thể cảm nhận khi đã ý thức được sự tồn tại của nó. Trong câu chuyện này, “ác ý” cũng khéo léo ẩn mình xuyên suốt tác phẩm, người đọc hẳn phải cực kỳ tinh tế mới nhìn thấy được sự hiện diện của nó trong từng câu chữ, từng lời nói. Nhưng không thấy không có nghĩa là không tồn tại. Keigo có tài đánh lừa độc giả, chơi đùa với tâm lý, cảm xúc và óc phán đoán của họ. Bạn nào đã đọc “Phía sau nghi can X” chắc sẽ không còn mấy xa lạ với trải nghiệm này. Tuy nhiên, sau mỗi lần bị tác giả xỏ mũi, bản thân người đọc có lẽ cũng tự ngộ ra được nhiều điều. Ví như, qua tác phẩm này, mình hiểu ra sự đáng sợ, sức tàn phá khủng khiếp mà “ác ý” có thể gây ra cho cuộc đời một con người. Nụ cười thân thiện bị lầm tưởng thành sự khinh miệt, lời nói vô tội vạ trở nên cái cớ để bắt đầu một cuộc cãi vả, sự quan tâm giúp đỡ bị ngộ nhận là thương hại, ban phát. Khi đã mang trong mình ác ý đối với một ai đó, chúng ta không thể đánh giá mọi thứ bằng cái nhìn khách quan nữa, mà qua lăng kính của sự hằn hộc, đố kỵ và thù hận. Một khi ác ý đã được hình thành, nó sẽ tiếp tục lớn dần, lớn dần, để rồi một ngày nào đó, khi thời cơ cho phép, nó trỗi dậy thống trị và xui khiến ta làm những việc tổn hại đến chính bản thân và người khác. Dĩ nhiên văn học thường mượn chuyện hư cấu để phóng đại một sự kiện, một vấn đề nào đó nhằm làm nổi bật quan điểm, góc nhìn của tác giả và thu hút sự quan tâm từ độc giả. Cá nhân mình vẫn tin rằng ác ý luôn luôn hiện hữu trong cuộc sống, nhưng không phải là vô phương hóa giải. Bởi lẽ, suy cho cùng, ác ý xuất phát từ tâm mỗi người, do đó hoàn toàn có thể nhận biết và khống chế được (tuy không hề dễ dàng). Ngoài ra, tác phẩm còn là một hồi chuông cảnh tỉnh để mỗi người tự nhìn lại bản thân, phải chăng ở một khoảnh khắc nào đó trong cuộc đời, đã từng vô tình gieo rắc ác ý mà không hề hay biết. Đấy có thể là những lời nói xấu, những định kiến vô căn cứ mà ta tự ý áp đặt cho một ai đó. Và tác động của chúng đến cuộc đời người khác, bản thân ta khó bề kiểm soát được. Steven Nguyễn review *** Tự chấm điểm: 9đ + 0.5đ cho sự độc đáo Kunihiko Hidaka, một nhà văn nổi tiếng, bị sát hại tại nhà riêng ngay trước khi chuẩn bị chuyển đến sinh sống ở Vancouver. Những người đầu tiên phát hiện ra vụ án là Rie, vợ của nhà văn và Osamu Nonoguchi, bạn thân nhất của Hidaka. Cả hai người này đều có chứng cứ ngoại phạm. Nonoguchi thậm chí còn viết nhật ký về những gì đã diễn ra trước khi phát hiện ra cái chết của bạn mình. Thám tử Kyoichiro Kaga, người điều tra vụ án này, trùng hợp thay lại là đồng nghiệp cũ của Nonoguchi khi mà hai người trước đây từng cùng là giáo viên. Nhờ nhật ký của Nonoguchi cùng với khả năng điều tra của mình, Kaga đã nhanh chóng phát hiện ra thủ phạm khi cuốn truyện chỉ mới trôi qua một nửa. Thế nhưng, giống như trong tác phẩm Sự cứu rỗi của thánh nữ, Keigo đã cho thấy sự sáng tạo và tính nguyên gốc (original) của mình khi viết nên một tác phẩm trinh thám mà danh tính hung thủ không phải là bí ẩn lớn nhất. Trong tác phẩm này, thông qua cuộc đấu trí căng thẳng, thám tử Kaga đã giải mã được một kế hoạch cực kì tinh vi và nhờ đó, sự thật của quá khứ và hiện tại mới được làm rõ. Mặc dù chưa đọc hết tất cả các tác phẩm của Keigo, đặc biệt là Bạch dạ hành nhưng cuốn Ác ý này chắc chắn sẽ là một trong những cuốn mình recommend cho ai muốn đọc truyện của Keigo. Những bí ẩn trong truyện thực sự rất hay và độc đáo, đủ để cho thấy khả năng sáng tạo của Keigo. Tuy chưa thể đem lại cảm giác như sau khi đọc cuốn The Murder of Roger Ackroyd của Agatha Christie nhưng Ác ý cũng xứng đáng để bạn bỏ thời gian nếu muốn đọc một tác phẩm trinh thám có gì đó mới lạ Quang Huy review *** Vụ án xảy ra vào thứ Ba, ngày 16 tháng Tư. Hôm ấy, tôi rời khỏi nhà vào lúc 3 rưỡi chiều để đến nhà Hidaka Kunihiko. Nhà Hidaka cách chỗ tôi một ga tàu điện. Tuy từ ga phải đi xe buýt một chút, nhưng tính cả thời gian đi bộ cũng chỉ cần hai mươi phút là đến nơi. Bình thường, tôi cũng hay đến nhà Hidaka dù không có chuyện gì quan trọng, nhưng hôm ấy thì có chuyện đặc biệt. Chính xác hơn, nếu bỏ lỡ ngày này, tôi sẽ không được gặp cậu ấy một thời gian dài. Nhà Hidaka nằm trong khu dân cư được quy hoạch ngay ngắn. Khu này toàn nhà ở cao cấp. Thỉnh thoảng còn thấy những ngôi nhà có thể gọi là biệt thự sang chảnh. Khu vực này lúc trước vốn là rừng cây, nên có nhiều nhà cứ để nguyên cây cối coi như cây trồng trong vườn. Phía sau những bức tường là mấy cây họ sồi mọc um tùm, đổ bóng xuống mặt đường. Đường đi cũng không nhỏ hẹp gì, nhưng toàn bộ khu vực này là đường một chiều. Tính an toàn cũng là một tiêu chuẩn đánh giá chăng. Khi nghe Hidaka mua nhà ở khu này mấy năm trước, tôi đã nghĩ bụng quả nhiên là vậy. Bởi những thiếu niên lớn lên ở khu vực này đều từng mơ ước được sống ở đây. Nhà của Hidaka chưa đến mức biệt thự xa hoa, nhưng chắc chắn là quá rộng cho hai vợ chồng. Mái nhà kiểu Irimoya1 truyền thống của Nhật, nhưng lại có cửa sổ lồi, cửa ra vào hình vòm, cửa sổ tầng hai trang trí những chậu hoa theo thiết kế phương Tây. Có lẽ đây là kết quả của việc dung hòa đồng đều ý kiến của hai vợ chồng. Không, nếu nghĩ đến bức tường gạch trần, thì chắc ý kiến của người vợ được thông qua nhiều hơn. Lúc trước, cô ấy từng thổ lộ muốn thử sống trong một ngôi nhà như lâu đài châu Âu. Đính chính, không phải vợ. Là vợ trước. Đi dọc theo bức tường gạch đó, đến trước cánh cổng cũng đắp những viên gạch nằm ngang, tôi bấm chuông gọi. Nhưng chờ mãi cũng không có tiếng trả lời. Nhìn lại, không thấy chiếc SAAB của Hidaka ở bãi đỗ xe. Tôi nghĩ cậu ấy đã ra ngoài. Đang tìm cách giết thời gian, tôi nhớ ra cây hoa anh đào. Trong vườn nhà Hidaka có trồng một cây hoa anh đào cánh kép, lần tôi đến mới đây, hoa đã nở được ba phần. Từ hôm đó cũng đã gần mười ngày trôi qua, không biết nó thế nào rồi. Tuy là nhà người ta nhưng tôi ỷ mình là bạn thân, nên tự ý bước vào. Lối đi vào cửa rẽ nhánh giữa chừng, dẫn đến phía Nam căn nhà. Tôi đi theo đó và vòng ra vườn. Hoa anh đào đã rụng kha khá nhưng vẫn còn lại số cánh hoa đủ để thưởng lãm. Có điều, đây không phải lúc để tôi ngắm hoa vãn cảnh. Có một người phụ nữ lạ mặt ở đó. Cô ta cúi gập người, dường như đang nhìn mặt đất. Trang phục đơn giản, quần jeans, áo len, trên tay cầm thứ gì như miếng vải trắng. “Này, cô ơi...” Tôi lên tiếng. Người phụ nữ có vẻ giật mình, nhìn về phía này rồi đứng phắt dậy. “À, xin lỗi.” Người phụ nữ nói. “Là vì cái này bị gió thổi, bay vào vườn. Hình như chủ nhà đi vắng, tôi cũng thấy thật ngại, nhưng...” Nói rồi cô ta cho tôi xem món đồ cầm trên tay. Một chiếc mũ trắng. Trông cô ta khoảng hơn ba mươi lăm tuổi. Mắt, mũi, miệng đều nhỏ, một gương mặt đơn điệu. Sắc mặt không tốt lắm. Tôi hơi nghi ngờ, vừa có một cơn gió mạnh đến mức thổi bay cả mũ sao? “Trông cô nhìn chằm chằm mặt đất...” “Vâng, à, do bãi cỏ đẹp quá nên tôi cứ nghĩ bụng không biết người ta đã chăm sóc ra sao.” “Ừm, tôi không rõ lắm. Đây là nhà người bạn thân của tôi nên...” Cô ta gật đầu. Có vẻ cô ta biết tôi không phải chủ nhân ngôi nhà. “Xin lỗi anh.” Cô ta cúi đầu rồi băng ngang qua tôi, đi về phía cánh cổng. Khoảng năm phút sau thì phải, tôi nghe tiếng động cơ ô tô ở phía bãi đỗ xe. Có lẽ Hidaka đã về. Tôi quay lại chỗ cửa ra vào. Đúng lúc chiếc SAAB màu xanh thẫm đang lùi vào bãi. Hidaka ngồi ở ghế tài xế nhận ra tôi, khẽ gật đầu. Cả Rie ngồi ghế bên cạnh cũng mỉm cười cúi chào. “Xin lỗi cậu. Tôi định ra ngoài mua sắm chút đỉnh mà kẹt xe quá. Chịu thua.” Vừa bước xuống xe, cậu ấy giơ tay trước mặt tỏ ý xin lỗi. “Chờ lâu không?” “Cũng không lâu lắm. Tôi tranh thủ ngắm cây anh đào.” ... Mời bạn đón đọc Ác Ý của tác giả Higashino Keigo.