Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Những Bước Đơn Giản Đến Ước Mơ

Chào bạn, Việc bạn quyết định đầu tư thời gian vào quyển sách này là hoàn toàn đúng đắn. Chúng tôi có thể khẳng định với bạn điều đó là vì chúng tôi cũng đã từng đưa ra lựa chọn giống như bạn… Ba năm về trước, chúng tôi có dịp đến nhà một người bạn ở Singapore để tiễn cô ấy lên đường sang định cư ở một nước khác. Vì không thể mang nhiều đồ đạc theo được nên cô ấy bảo với chúng tôi và những người bạn có mặt ngày hôm đó hãy lấy những món mình thích. Những người khác chọn những quyển tạp chí thời trang lôi cuốn, những vật dụng trang trí đủ màu hay những con thú nhồi bông êm ái. Còn lựa chọn của chúng tôi là một quyển sách cũ nhàu với chi chít những ghi chú, có vẻ như đã được chủ nhân của nó đọc rất nhiều lần. Quyển sách ấy có tựa đề “Simple Steps To Impossible Dreams”. Thật tình mà nói, lúc đó chúng tôi không hề biết rằng việc lựa chọn quyển sách này sẽ thay đổi cuộc đời mình như thế nào… Và giờ đây, bạn đang cầm trên tay phiên bản tiếng Việt của chính quyển sách ấy, với tựa đề tiếng Việt: “Những bước đơn giản đến ước mơ”. Về phần chúng tôi, nhờ những phương pháp cực kỳ đơn giản nhưng hiệu quả trong quyển sách này, chúng tôi đã vượt qua được nỗi sợ thất bại để hành động vì ước mơ của mình. Một trong những quyết định lớn nhất của chúng tôi là mạnh dạn từ bỏ công việc ổn định lương cao tại Singapore để trở về giúp các bạn trẻ Việt Nam tiếp cận với công nghệ đào tạo con người và kỹ năng sống hàng đầu thế giới thông qua những quyển sách bán chạy nhất và các khóa đào tạo chất lượng cao. Trên con đường vươn tới thành công của chính mình, bên cạnh sự ủng hộ của bạn bè, người thân, và nhất là các khách hàng, chúng tôi cũng nhận được không ít sự nghi ngờ khi dám đi những bước mang tính đột phá. Và một lần nữa, việc áp dụng những phương pháp trong sách đã giúp chúng tôi đối diện với những điều đó một cách tích cực, kiên trì tiến về phía trước để khẳng định con đường của mình. Bạn thấy đấy, điểm đặc biệt của quyển sách này nằm ở những chiến lược và phương pháp dễ áp dụng nhưng hiệu quả, giúp bạn vượt qua được những vật cản đường đang khiến bạn chưa thể đạt được những thành công mà bạn xứng đáng được hưởng. Vậy thì một lần nữa, chúng tôi chúc mừng bạn đã lựa chọn quyển sách này và xin mời bạn bắt đầu khám phá cuộc hành trình kỳ diệu sống vì ước mơ của bạn. Thân mến, Trần Đăng Khoa – Uông Xuân Vy CẢM NHẬN VỀ QUYỂN SÁCH “NHỮNG BƯỚC ĐƠN GIẢN ĐẾN ƯỚC MƠ” “Trên những trang sách có sức mạnh biến ước mơ thành hiện thực. Lí do khiến quyển sách này có sức thuyết phục tôi đến như vậy là vì tôi đã chứng kiến anh áp dụng những nguyên tắc này để đạt được những thành công vang dội – cả trong sự nghiệp, gia đình và mọi lĩnh vực trong cuộc sống của anh. Đây là một quyển sách bạn nên đọc.” HYRUM W. SMITH, Chủ tịch Hội Đồng Quản Trị Công ty Franklin Covey “Thật là một thảm kịch khi hầu hết mọi người từ bỏ ước mơ của mình từ rất sớm. Quyển sách này của Steven Scott truyền cảm hứng cho chúng ta mơ những ước mơ cao đẹp.” CONNIE SELLECCA và JOHN TESH “Tôi muốn mua thêm một quyển nữa ngay tức thì! Quyển sách này chứa đựng những thông tin quan trọng đến nỗi tôi đã gửi quyển đầu tiên của tôi cho người bạn thân nhất trước khi tôi đọc xong. THẬT TUYỆT VỜI!” CHERYL LADD “Trong quyển sách của mình, Steven Scott cung cấp cho chúng ta những chiến lược và kỹ thuật cụ thể mà chúng ta cần nắm rõ và sử dụng để đạt được những ước mơ giá trị nhất. Ông không những hướng dẫn chúng ta cách làm cho những ước mơ không tưởng trở nên khả thi mà ông còn chỉ chúng ta cách thức cụ thể để biến chúng thành hiện thực.” CHRISTIE BRINKLEY “Trong ngành kinh doanh của chúng tôi, chúng tôi tạo cơ hội để giúp đỡ người khác thực hiện ước mơ của mình. Trong quyển sách này, Steven Scott đưa ra một công cụ hoàn hảo, một bản hướng dẫn chi tiết từng bước để biến cả những giấc mơ kỳ vĩ nhất thành hiện thực. Nếu bạn đọc quyển sách này, nó sẽ thay đổi cách nhìn của bạn mãi mãi. Nếu bạn sống theo quyển sách này, nó sẽ thay đổi cuộc đời bạn vĩnh viễn.” SANDIE TILLOTSON – người đồng sáng lập và Phó chủ tịch Nu Skin International “Nếu bạn bị “mắc kẹt” trong công việc, sự nghiệp hoặc các mối quan hệ và đó không phải là những gì bạn mong muốn, thì Steven Scott sẽ trao cho bạn nhiều “kỹ thuật đột phá” trong mỗi chương sách hơn là đa số mọi người có thể phát hiện trong suốt cuộc đời.” HHENRY MARSH, bốn lần tham dự Olympic, tác giả quyển “Nhân tố đột phá” (The Breakthrough Factor) “Steven Scott là chuyên gia tầm cỡ thế giới trong việc biến những ước mơ không tưởng thành hiện thực… Tôi chính là một bằng chứng sống.” GARY SMALLEY, tác giả quyển “Để tình yêu kéo dài mãi mãi” (Making Love Last Forever) “THẬT KHÔNG THỂ TIN ĐƯỢC! Quyển sách này phải là sách gối đầu giường cho mỗi người đàn ông, đàn bà sống trên đất Mỹ. Trong quyển sách, Steven Scott không chỉ chứng minh bạn và gia đình bạn có thể đạt được những “ước mơ không tưởng” nhất, ông còn trao cho bạn những kiến thức thực tế, cầm tay bạn tận tình chỉ dẫn từng bước một, và hơn thế nữa giúp bạn tự tin và có đủ sức mạnh để đạt được từng ước mơ.” CHUCK NORRIS “THẬT LÀ MỘT HIỆN TƯỢNG! Steven Scott có khả năng thật sự trong việc biến ước mơ của bạn thành hiện thực. Cách thức của ông cũng chính là những kỹ thuật đãđược sử dụng bởi hầu hết những người đạt được những thành tựu phi thường. Nếu bạn làm theo hướng dẫn của ông, chắc chắn bạn sẽ vươn tới những ước mơ vĩ đại nhất trong đời.” JOE MONTANA *** LỜI CẢM ƠN Lời cảm ơn đầu tiên và quan trọng nhất tôi xin dành cho vợ tôi, Shannon Smiley Scott. Nếu không có tình yêu, lòng tin tưởng và sự nhẫn nại vô biên của em, anh sẽ không bao giờ có thể hoàn thành được quyển sách này. Bob Marsh kính mến, tất cả những người quen biết tôi đều biết rằng anh là người thay đổi cuộc đời tôi. Sự nghiệp của tôi, những thành công về mặt tài chính của tôi làm sao được rạng rỡ như ngày nay nếu tôi không có anh trong đời, với tư cách là một người thầy khôn ngoan và tận tụy. Gary Smalley yêu quý, anh không chỉ ảnh hưởng đến tất cả các mối quan hệ trong đời tôi, anh còn dạy tôi những kỹ năng giao tiếp mà nhờ đó, tôi mới có được cuộc sống và thành công như ngày hôm nay. Jan Miller à, cô thật sự là người đại diện tác giả giỏi nhất thế giới. Xin chân thành cảm ơn Steven Spielberg, Oprah Winfrey, Bill Gates, Henry Ford, Thomas Edison, Helen Keller, Sam Walton, Mẹ Teresa, Rich DeVoss, Mary Kay, Phil Knight, Walt Disney, Bob Marsh, Michael Landon, Hyrum Smith, Blake Rooney và Sandie VanNederveen. Cuộc sống của họ đã cung cấp cho tôi những ví dụ minh họa tuyệt vời cho sức mạnh vô địch của “ 15 bí quyết hiệu nghiệm”. Cảm ơn Zig Ziglar vì tình bạn và những bài học tuyệt vời đầy cảm hứng của anh. Cảm ơn Caroline Sutton, người biên tập tài năng và kiên nhẫn của tôi, cùng tất cả những người khác ở nhà xuất bản Simon & Schuster đã giúp cho ước mơ này thành hiện thực. Cảm ơn Frank Kovacs vì đã tạo ra những tác phẩm tốt nhất và vì anh luôn là một người bạn tuyệt vời. Cảm ơn Jim Shaughnessy, anh là người bạn tốt nhất mà người ta có thể mơ ước. Cảm ơn Tom và Marlene Delnoce vì sự động viên nhiệt tình cho quyển sách này. Cảm ơn Hyrum Smith vì tình bạn, sự khích lệ và nỗ lực của anh. Cảm ơn Henry Marsh, vận động viên bốn lần tham dự Olympic, người nắm giữ kỷ lục chạy vượt rào ở Mỹ, người bạn huy chương vàng vì luôn ở bên cạnh tôi. Cảm ơn Brett Smiley, Tamme Webb và Debbie Andersen vì đã đóng góp ý kiến cho từng trang sách. *** LỜI MỞ ĐẦU “Steven Scott là chuyên gia tầm cỡ thế giới trong việc biến những ước mơ không tưởng thành sự thật … Tôi chính là một bằng chứng sống.” GARY SMALLEY Nếu bạn có trong tay cây đèn thần của Alladin và thần đèn có thể biến tất cả mơ ước của bạn thành sự thật thì bạn sẽ mong ước điều gì? Một cuộc sống khỏe mạnh, trường thọ Giàu có hơn Giảm cân Một cuộc hôn nhân mỹ mãn Những đứa con khỏe mạnh, vui tươi Một sự nghiệp thành công hơn Hạnh phúc hơn Có nhiều thời gian hơn Có nhiều quyền lực hơn An bình hơn Thỏa mãn hơn Đạt được thành tích cao hơn Những “ước muốn” này, trong thực tế, chính là ước mơ của bạn. Vị thần đèn của Aladdin chỉ có trong trí tưởng tượng còn những ước mơ của bạn thì không. Ước mơ có thể biến thành hiện thực – nhưng không phải do ngẫu nhiên hay may mắn, mà là kết quả của một vài phương pháp và kỹ thuật hiệu quả nhất mà gần như bất cứ ai cũng có thể học và sử dụng một cách dễ dàng. Tuy vậy, thật oái oăm khi đa số người đời không sử dụng nó. Vậy những phương pháp và kỹ thuật này mạnh mẽ đến mức nào? Gần 30 năm trước, tôi nuôi một ước mơ. Tôi muốn viết một quyển sách truyền đạt những bí quyết giúp cho các cặp vợ chồng có được một cuộc sống hôn nhân hạnh phúc hơn. Tuy vậy, ước mơ đó vẫn chỉ là một hy vọng và một ước nguyện trong suốt 10 năm. Rồi một hôm, tôi nhận được cú điện thoại từ Steven Scott. Anh hỏi tôi có muốn viết hai quyển sách về hôn nhân không – một cho đàn ông và một cho đàn bà. Tôi nói với anh rằng đó là ước mơ của tôi trong gần một thập kỷ. Ba tháng sau, Steven và tôi đã viết hai quyển sách mang tên “Nếu như anh ấy biết” (If Only He Knew) và “Cho điều tốt hơn hay cho điều tốt nhất” (For Better or for Best). Cả hai quyển sách đều nằm trong danh mục sách bán chạy nhất và điều này đã tạo điều kiện cho tôi mở những buổi chuyên đề về các mối quan hệ. Vài năm sau, Steven lại gọi cho tôi và hỏi tôi có muốn thực hiện những cuốn băng video để đưa những buổi chuyên đề của mình đến với hàng triệu cặp vợ chồng không. Tôi nói với anh rằng đây chính là một ước mơ thành hiện thực. Trong vòng sáu tháng, áp dụng Quy Trình Hiện Thực Hóa Ước Mơ, tôi cùng Steven và đối tác của anh không chỉ tạo ra những cuốn băng video mà còn cả những chương trình truyền hình và phân phối chúng đến tay hàng triệu gia đình. Có đúng là Steven nắm trong tay những bí quyết đạt được ước mơ không? Chắc chắn là thế rồi! Quả thật, anh biết nhiều về việc này hơn bất kỳ ai khác mà tôi biết. Những kỹ thuật Hiện Thực Hóa Ước Mơ của anh không chỉ giúp tôi đạt được ước mơ của mình và còn tạo điều kiện cho tôi giúp đỡ không biết bao nhiêu người khác. Tôi đã chứng kiến những phương pháp của anh biến những cuộc hôn nhân rạn nứt thành bền vững, những người không một xu dính túi thành triệu phú và những công ty bên bờ vực phá sản thành doanh nghiệp sinh lợi cao. Donald Trump nhận xét rằng những chiến lược và kỹ thuật của Steven Scott “cụ thể và dễ áp dụng đến nỗi có thể giúp cho bất cứ ai từ sinh viên, ông chủ doanh nghiệp nhỏ cho đến Giám đốc của các công ty trong danh sách Fortune 500 (500 công ty lớn nhất theo xếp hạng của tờ Fortune) đạt được những mức độ thành công mà họ không dám mơ tới.” Nhưng bạn đừng nghĩ là Quy Trình Hiện Thực Hóa Ước Mơ của Steven chỉ có tác dụng trong kinh doanh. Nó cũng có thể tạo ra sự khác biệt lớn lao trong bất cứ lĩnh vực nào trong cuộc sống cá nhân của bạn, bao gồm cả quan hệ hôn nhân và gia đình, tình bạn thậm chí cả thành công và hạnh phúc trong hiện tại cũng như tương lai của con cái bạn. Kỹ thuật Hiện Thực Hóa Ước Mơ có thể được áp dụng vào từng lĩnh vực quan trọng trong đời bạn, giúp bạn đạt được những thành tựu phi thường. Trong quyển sách này, Steven không những tiết lộ những kỹ thuật dễ sử dụng mà còn hướng dẫn bạn cách thức áp dụng chúng vào cuộc sống hàng ngày ngay lập tức. Nếu làm theo, bạn sẽ không phải chờ đợi hàng tháng để nhìn thấy mức độ thành công của mình tăng lên. Bạn sẽ thấy mức tiến vượt bậc trong những kết quả đạt được và chất lượng cuộc sống của bạn ngay lập tức. Tôi đồng ý với Donald Trump rằng: bạn sẽ gặt hái được những thành tựu mà bạn chưa từng mơ tới! Vậy ước mơ của bạn là gì? Nếu bạn không thể trả lời câu hỏi này thì cũng đừng lo lắng. Bạn sẽ biết rõ ngay sau khi đọc xong quyển sách này. Khi ấy, bạn không những có cái nhìn sáng tỏ về những ước mơ của mình mà còn biết được cách thức cụ thể để đạt được nó. Gary Smalley Mời các bạn đón đọc Những Bước Đơn Giản Đến Ước Mơ của tác giả Steven K. Scott.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Các Quy Luật Phát Triển Hệ Thống
“Cuộc đời của mỗi người là chuỗi các vấn đề cần giải quyết, chuỗi các quyết định cần phải ra. Mỗi người cần giải quyết tốt các vấn đề và ra các quyết định đúng”. “Cuộc đời của mỗi người là quá trình liên tục biến đổi thông tin thành tri thức và tri thức đã biết thành tri thức mới”. “Cuộc đời của mỗi người phải là chuỗi những sáng tạo và đổi mới hoàn toàn”. Phương pháp luận sáng tạo và đổi mới xây dựng và trang bị loại tư duy: “Nhìn xa, trông rộng, xem xét toàn diện, thấy và hành động giải quyết các mâu thuẫn để đưa các hệ liên quan phát triển theo các quy luật phát triển hệ thống”. LỜI NÓI ĐẦU CỦA BỘ SÁCH“SÁNG TẠO VÀ ĐỔI MỚI” (CREATIVITY AND INNOVATION) Phương pháp luận sáng tạo và đổi mới (viết tắt là PPLSTVĐM, tiếng Anh là Creativity and Innovation Methodologies) là phần ứng dụng của Khoa học về sáng tạo (Sáng tạo học, tên cổ điển – Heuristics, tên hiện đại – Creatology), gồm hệ thống các phương pháp và các kỹ năng cụ thể giúp nâng cao năng suất và hiệu quả, về lâu dài tiến tới điều khiển tư duy sáng tạo (quá trình suy nghĩ giải quyết vấn đề và ra quyết định) của người sử dụng. Suốt cuộc đời, mỗi người chúng ta dùng suy nghĩ rất nhiều, nếu không nói là hàng ngày. Từ việc trả lời những câu hỏi bình thường như “Hôm nay ăn gì? mặc gì? làm gì? mua gì? xem gì? đi đâu?...” đến làm các bài tập thầy, cô cho khi đi học; chọn ngành nghề đào tạo; lo sức khỏe, việc làm, thu nhập, hôn nhân, nhà ở; giải quyết các vấn đề nảy sinh trong công việc, trong quan hệ xã hội, gia đình, nuôi dạy con cái..., tất tần tật đều đòi hỏi phải suy nghĩ và chắc rằng ai cũng muốn mình suy nghĩ tốt, ra những quyết định đúng để “đời là bể khổ” trở thành “bể sướng”. Chúng ta tuy được đào tạo và làm những nghề khác nhau nhưng có lẽ có một nghề chung, giữ nguyên suốt cuộc đời, cần cho tất cả mọi người. Đó là “nghề” suy nghĩ và hành động giải quyết các vấn đề gặp phải trong suốt cuộc đời nhằm thỏa mãn các nhu cầu chính đáng của cá nhân mình, đồng thời thỏa mãn các nhu cầu để xã hội tồn tại và phát triển. Nhìn dưới góc độ này, PPLSTVĐM giúp trang bị loại nghề chung nói trên, bổ sung cho giáo dục, đào tạo hiện nay, chủ yếu, chỉ đào tạo các nhà chuyên môn. Nhà chuyên môn có thể giải quyết tốt các vấn đề chuyên môn nhưng nhiều khi không giải quyết tốt các vấn đề ngoài chuyên môn, do vậy, không thực sự hạnh phúc như ý. Các nghiên cứu cho thấy, phần lớn mọi người thường suy nghĩ một cách tự nhiên như đi lại, ăn uống, hít thở mà ít khi suy nghĩ về chính suy nghĩ của mình, xem nó hoạt động ra sao để cải tiến, làm suy nghĩ của mình trở nên tốt hơn, như người ta thường chú ý cải tiến các dụng cụ, máy móc dùng trong sinh hoạt và công việc. Cách suy nghĩ tự nhiên nói trên có năng suất, hiệu quả rất thấp và nhiều khi trả giá đắt cho các quyết định sai. Nói một cách nôm na, cách suy nghĩ tự nhiên ứng với việc lao động bằng xẻng thì PPLSTVĐM là máy xúc với năng suất và hiệu quả cao hơn nhiều. Nếu xem bộ não của mỗi người là máy tính tinh xảo – đỉnh cao tiến hóa và phát triển của tự nhiên thì phần mềm (cách suy nghĩ) tự nhiên đi kèm với nó chỉ khai thác một phần rất nhỏ tiềm năng của bộ não. PPLSTVĐM là phần mềm tiên tiến giúp máy tính – bộ não hoạt động tốt hơn nhiều. Nếu như cần “học ăn, học nói, học gói, học mở” thì “học suy nghĩ” cũng cần thiết cho tất cả mọi người. PPLSTVĐM dạy và học được như các môn học truyền thống: Toán, lý, hóa, sinh, tin học, quản trị kinh doanh... Trên thế giới, nhiều trường và công ty đã bắt đầu từ lâu và đang làm điều đó một cách bình thường. Dưới đây là vài thông tin về PPLSTVĐM trên thế giới và ở nước ta. Từ những năm 1950, ở Mỹ và Liên Xô đã có những lớp học dạy thử nghiệm PPLSTVĐM. Dưới ảnh hưởng của A.F. Osborn, phó chủ tịch công ty quảng cáo BBD & O và là tác giả của phương pháp não công (Brainstorming) nổi tiếng, Trung tâm nghiên cứu sáng tạo (Center for Studies in Creativity) được thành lập năm 1967 tại Đại học Buffalo, bang New York. Năm 1974, Trung tâm nói trên bắt đầu đào tạo cử nhân khoa học và năm 1975 – thạc sỹ khoa học về sáng tạo và đổi mới (BS, MS in Creativity and Innovation). Ở Liên Xô, G.S. Altshuller, nhà sáng chế, nhà văn viết truyện khoa học viễn tưởng và là tác giả của Lý thuyết giải các bài toán sáng chế (viết tắt theo tiếng Nga và chuyển sang ký tự Latinh – TRIZ) cộng tác với “Hiệp hội toàn liên bang các nhà sáng chế và hợp lý hóa” (VOIR) thành lập Phòng thí nghiệm các phương pháp sáng chế năm 1968 và Học viện công cộng về sáng tạo sáng chế (Public Institute of Inventive Creativity) năm 1971. Người viết, lúc đó đang học ngành vật lý bán dẫn thực nghiệm tại Liên Xô, có may mắn học thêm được khóa đầu tiên của Học viện sáng tạo nói trên, dưới sự hướng dẫn trực tiếp của thầy G.S. Altshuller. Chịu ấn tượng rất sâu sắc do những ích lợi PPLSTVĐM đem lại cho cá nhân mình, bản thân lại mong muốn chia sẻ những gì học được với mọi người, cùng với sự khuyến khích của thầy G.S. Altshuller, năm 1977 người viết đã tổ chức dạy dưới dạng ngoại khóa cho sinh viên các khoa tự nhiên thuộc Đại học tổng hợp TpHCM (nay là Trường đại học khoa học tự nhiên, Đại học quốc gia TpHCM). Những khóa PPLSTVĐM tiếp theo là kết quả của sự cộng tác giữa người viết và Câu lạc bộ thanh niên (nay là Nhà văn hóa thanh niên TpHCM), Ủy ban khoa học và kỹ thuật TpHCM (nay là Sở khoa học và công nghệ TpHCM)... Năm 1991, được sự chấp thuận của lãnh đạo Đại học tổng hợp TpHCM, Trung tâm Sáng tạo Khoa học – kỹ thuật (TSK) hoạt động theo nguyên tắc tự trang trải ra đời và trở thành cơ sở chính thức đầu tiên ở nước ta giảng dạy, đào tạo và nghiên cứu PPLSTVĐM. Đến nay đã có vài chục ngàn người với nghề nghiệp khác nhau thuộc mọi thành phần kinh tế, xã hội, từ Hà Nội đến Cà Mau tham dự các khóa học từng phần hoặc đầy đủ chương trình 120 tiết của TSK dành đào tạo những người sử dụng PPLSTVĐM. TSK cũng tích cực tham gia các hoạt động quốc tế như công bố các công trình nghiên cứu khoa học dưới dạng các báo cáo, báo cáo chính (keynotes) tại các hội nghị, các bài báo đăng trong các tạp chí chuyên ngành và giảng dạy PPLSTVĐM cho các cán bộ quản lý, giảng dạy, nghiên cứu ở nước ngoài theo lời mời. Năm 2000, tại Mỹ, nhà xuất bản Kendall/Hunt Publishing Company xuất bản quyển sách “Facilitative Leadership: Making a Difference with Creative Problem Solving” (Tạm dịch là “Lãnh đạo hỗ trợ: Tạo sự khác biệt nhờ giải quyết vấn đề một cách sáng tạo”) do tiến sỹ Scott G. Isaksen làm chủ biên. Ở các trang 219, 220, dưới tiêu đề Các tổ chức sáng tạo (Creativity Organizations) có đăng danh sách đại biểu các tổ chức hoạt động trong lĩnh vực sáng tạo và đổi mới trên thế giới. Trong 17 tổ chức được nêu tên, TSK là tổ chức duy nhất ở châu Á. Bộ sách “Sáng tạo và đổi mới” gồm những quyển sách trình bày tương đối chi tiết và hệ thống dựa theo giáo trình môn học dành đào tạo những người sử dụng PPLSTVĐM, được các giảng viên của Trung tâm Sáng tạo Khoa học – kỹ thuật (TSK) dạy ở nước ta trong các lớp do TSK mở và theo lời mời của các cơ quan, trường học, tổ chức, công ty. Những quyển sách này được biên soạn nhằm phục vụ đông đảo bạn đọc muốn tìm hiểu môn học PPLSTVĐM trong khi chưa có điều kiện đến lớp học và các cựu học viên muốn có thêm các tài liệu giúp nhớ lại để áp dụng các kiến thức đã học tốt hơn. PPLSTVĐM, tương tự như các môn học đòi hỏi thực hành và luyện tập nhiều như thể thao chẳng hạn, rất cần sự tương tác trực tiếp giữa các huấn luyện viên và học viên mà đọc sách không thôi chắc chắn còn chưa đủ. Tuy đây không phải là những quyển sách tự học để sử dụng PPLSTVĐM, lại càng không phải để trở thành cán bộ giảng dạy, nghiên cứu, người viết không loại trừ, có những bạn đọc với các nỗ lực của riêng mình có thể rút ra và áp dụng thành công nhiều điều từ sách vào cuộc sống và công việc. Người viết cũng rất hy vọng có nhiều bạn đọc như vậy. Các quyển sách của bộ sách “Sáng tạo và đổi mới” không chỉ trình bày hệ thống các phương pháp và các kỹ năng cụ thể dùng để sáng tạo và đổi mới mà còn có những phần được biên soạn nhằm tác động tốt lên nhận thức, quan niệm, thái độ và xúc cảm của bạn đọc, là những yếu tố rất cần thiết thúc đẩy những hành động áp dụng PPLSTVĐM vào cuộc sống, công việc. Nói cách khác, PPLSTVĐM còn góp phần hình thành, xây dựng, củng cố và phát triển những phẩm chất của nhân cách sáng tạo ở người học. Dự kiến, bộ sách “Sáng tạo và đổi mới” sẽ gồm những quyển sách trình bày từ đơn giản đến phức tạp, từ những kiến thức cơ sở đến những kiến thức ứng dụng của PPLSTVĐM với các tên sách sau: Giới thiệu: Phương pháp luận sáng tạo và đổi mới. Thế giới bên trong con người sáng tạo. Tư duy lôgích, biện chứng và hệ thống. Các thủ thuật (nguyên tắc) sáng tạo cơ bản (1). Các thủ thuật (nguyên tắc) sáng tạo cơ bản (2). Các phương pháp sáng tạo. Các quy luật phát triển hệ thống. Hệ thống các chuẩn dùng để giải các bài toán sáng chế. Algôrit (Algorithm) giải các bài toán sáng chế (ARIZ). Phương pháp luận sáng tạo và đổi mới: Những điều muốn nói thêm. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, xã hội loài người trong quá trình phát triển trải qua bốn thời đại hay nền văn minh (làn sóng phát triển): Nông nghiệp, công nghiệp, thông tin và tri thức. Nền văn minh nông nghiệp chấm dứt thời kỳ săn bắn, hái lượm, du cư bằng việc định cư, trồng trọt và chăn nuôi, sử dụng các công cụ lao động còn thủ công. Nền văn minh công nghiệp cho thấy, mọi người lao động bằng các máy móc hoạt động bằng năng lượng ngoài cơ bắp, giúp tăng sức mạnh và nối dài đôi tay của con người. Ở thời đại thông tin, máy tính, các mạng lưới thông tin giúp tăng sức mạnh, nối dài các bộ phận thu, phát thông tin trên cơ thể người như các giác quan, tiếng nói, chữ viết... và một số hoạt động lôgích của bộ não. Nhờ công nghệ thông tin, thông tin trở nên truyền, biến đổi nhanh, nhiều, lưu trữ gọn, truy cập dễ dàng. Tuy nhiên, trừ loại thông tin có ích lợi thấy ngay đối với người nhận tin, các loại thông tin khác vẫn phải cần bộ não của người nhận tin xử lý, biến đổi để trở thành thông tin có ý nghĩa và ích lợi (tri thức) cho người có thông tin. Nếu người có thông tin không làm được điều này trong thời đại bùng nổ thông tin thì có thể trở thành bội thực thông tin nhưng đói tri thức, thậm chí ngộ độc vì nhiễu thông tin và chết đuối trong đại dương thông tin mà không khai thác được gì từ đại dương giàu có đó. Thời đại tri thức mà thực chất là thời đại sáng tạo và đổi mới, ở đó đông đảo quần chúng sử dụng PPLSTVĐM được dạy và học đại trà để biến thông tin thành tri thức với các ích lợi toàn diện, không chỉ riêng về mặt kinh tế. Nói cách khác, PPLSTVĐM là hệ thống các công cụ dùng để biến đổi thông tin thành tri thức, tri thức đã biết thành tri thức mới. Rất tiếc, ở nước ta hiện nay chưa chính thức đào tạo các cán bộ giảng dạy, nghiên cứu Sáng tạo học và PPLSTVĐM với các bằng cấp tương ứng: Cử nhân, thạc sỹ và tiến sỹ như một số nước tiên tiến trên thế giới. Người viết tin rằng sớm hay muộn, những người có trách nhiệm quyết định sẽ phải để tâm đến vấn đề này và “sớm” chắc chắn tốt hơn “muộn”. Hy vọng rằng, PPLSTVĐM nói riêng, Sáng tạo học nói chung sẽ có chỗ đứng xứng đáng, trước hết, trong chương trình giáo dục và đào tạo của nước ta trong tương lai không xa. Người viết gởi lời cảm ơn chung đến các đồng nghiệp trong nước và quốc tế, các cựu học viên đã động viên, khuyến khích để bộ sách “Sáng tạo và đổi mới” ra đời. Người viết cũng chân thành cảm ơn sự cộng tác nhiệt tình của các cán bộ Trung tâm Sáng tạo Khoa học – kỹ thuật (TSK) thuộc Trường đại học khoa học tự nhiên, Đại học quốc gia TpHCM: Th.S. Trần Thế Hưởng, Th.S. Vương Huỳnh Minh Triết, Th.S. Lê Minh Sơn, anh Nguyễn Hoàng Tuấn, đặc biệt là Th.S. Lê Minh Sơn đã dành rất nhiều thời gian và công sức cho việc trình bày bộ sách này trên máy tính. Trung tâm Sáng tạo Khoa học – kỹ thuật (TSK) Trường đại học khoa học tự nhiên – Đại học quốc gia TpHCM 227 Nguyễn Văn Cừ, Q.5, Tp.HCM ĐT: (848) 38301743 FAX: (848) 38350096 E-mail: [email protected] Website: www.hcmus.edu.vn/CSTC/home-v.htm (tiếng Việt) hoặc www.cstc.vn www.hcmus.edu.vn/CSTC/home-e.htm (tiếng Anh) Phan Dũng Mời các bạn đón đọc Các Quy Luật Phát Triển Hệ Thống của tác giả Phan Dũng.
Các Phương Pháp Sáng Tạo
“Cuộc đời của mỗi người là chuỗi các vấn đề cần giải quyết, chuỗi các quyết định cần phải ra. Mỗi người cần giải quyết tốt các vấn đề và ra các quyết định đúng”. “Cuộc đời của mỗi người là quá trình liên tục biến đổi thông tin thành tri thức và tri thức đã biết thành tri thức mới”. “Cuộc đời của mỗi người phải là chuỗi những sáng tạo và đổi mới hoàn toàn”. Phương pháp luận sáng tạo và đổi mới xây dựng và trang bị loại tư duy: “Nhìn xa, trông rộng, xem xét toàn diện, thấy và hành động giải quyết các mâu thuẫn để đưa các hệ liên quan phát triển theo các quy luật phát triển hệ thống”. LỜI NÓI ĐẦU CỦA BỘ SÁCH“SÁNG TẠO VÀ ĐỔI MỚI” (CREATIVITY AND INNOVATION) Phương pháp luận sáng tạo và đổi mới (viết tắt là PPLSTVĐM, tiếng Anh là Creativity and Innovation Methodologies) là phần ứng dụng của Khoa học về sáng tạo (Sáng tạo học, tên cổ điển – Heuristics, tên hiện đại – Creatology), gồm hệ thống các phương pháp và các kỹ năng cụ thể giúp nâng cao năng suất và hiệu quả, về lâu dài tiến tới điều khiển tư duy sáng tạo (quá trình suy nghĩ giải quyết vấn đề và ra quyết định) của người sử dụng. Suốt cuộc đời, mỗi người chúng ta dùng suy nghĩ rất nhiều, nếu không nói là hàng ngày. Từ việc trả lời những câu hỏi bình thường như “Hôm nay ăn gì? mặc gì? làm gì? mua gì? xem gì? đi đâu?...” đến làm các bài tập thầy, cô cho khi đi học; chọn ngành nghề đào tạo; lo sức khỏe, việc làm, thu nhập, hôn nhân, nhà ở; giải quyết các vấn đề nảy sinh trong công việc, trong quan hệ xã hội, gia đình, nuôi dạy con cái..., tất tần tật đều đòi hỏi phải suy nghĩ và chắc rằng ai cũng muốn mình suy nghĩ tốt, ra những quyết định đúng để “đời là bể khổ” trở thành “bể sướng”. Chúng ta tuy được đào tạo và làm những nghề khác nhau nhưng có lẽ có một nghề chung, giữ nguyên suốt cuộc đời, cần cho tất cả mọi người. Đó là “nghề” suy nghĩ và hành động giải quyết các vấn đề gặp phải trong suốt cuộc đời nhằm thỏa mãn các nhu cầu chính đáng của cá nhân mình, đồng thời thỏa mãn các nhu cầu để xã hội tồn tại và phát triển. Nhìn dưới góc độ này, PPLSTVĐM giúp trang bị loại nghề chung nói trên, bổ sung cho giáo dục, đào tạo hiện nay, chủ yếu, chỉ đào tạo các nhà chuyên môn. Nhà chuyên môn có thể giải quyết tốt các vấn đề chuyên môn nhưng nhiều khi không giải quyết tốt các vấn đề ngoài chuyên môn, do vậy, không thực sự hạnh phúc như ý. Các nghiên cứu cho thấy, phần lớn mọi người thường suy nghĩ một cách tự nhiên như đi lại, ăn uống, hít thở mà ít khi suy nghĩ về chính suy nghĩ của mình, xem nó hoạt động ra sao để cải tiến, làm suy nghĩ của mình trở nên tốt hơn, như người ta thường chú ý cải tiến các dụng cụ, máy móc dùng trong sinh hoạt và công việc. Cách suy nghĩ tự nhiên nói trên có năng suất, hiệu quả rất thấp và nhiều khi trả giá đắt cho các quyết định sai. Nói một cách nôm na, cách suy nghĩ tự nhiên ứng với việc lao động bằng xẻng thì PPLSTVĐM là máy xúc với năng suất và hiệu quả cao hơn nhiều. Nếu xem bộ não của mỗi người là máy tính tinh xảo – đỉnh cao tiến hóa và phát triển của tự nhiên thì phần mềm (cách suy nghĩ) tự nhiên đi kèm với nó chỉ khai thác một phần rất nhỏ tiềm năng của bộ não. PPLSTVĐM là phần mềm tiên tiến giúp máy tính – bộ não hoạt động tốt hơn nhiều. Nếu như cần “học ăn, học nói, học gói, học mở” thì “học suy nghĩ” cũng cần thiết cho tất cả mọi người. PPLSTVĐM dạy và học được như các môn học truyền thống: Toán, lý, hóa, sinh, tin học, quản trị kinh doanh... Trên thế giới, nhiều trường và công ty đã bắt đầu từ lâu và đang làm điều đó một cách bình thường. Dưới đây là vài thông tin về PPLSTVĐM trên thế giới và ở nước ta. Từ những năm 1950, ở Mỹ và Liên Xô đã có những lớp học dạy thử nghiệm PPLSTVĐM. Dưới ảnh hưởng của A.F. Osborn, phó chủ tịch công ty quảng cáo BBD & O và là tác giả của phương pháp não công (Brainstorming) nổi tiếng, Trung tâm nghiên cứu sáng tạo (Center for Studies in Creativity) được thành lập năm 1967 tại Đại học Buffalo, bang New York. Năm 1974, Trung tâm nói trên bắt đầu đào tạo cử nhân khoa học và năm 1975 – thạc sỹ khoa học về sáng tạo và đổi mới (BS, MS in Creativity and Innovation). Ở Liên Xô, G.S. Altshuller, nhà sáng chế, nhà văn viết truyện khoa học viễn tưởng và là tác giả của Lý thuyết giải các bài toán sáng chế (viết tắt theo tiếng Nga và chuyển sang ký tự Latinh – TRIZ) cộng tác với “Hiệp hội toàn liên bang các nhà sáng chế và hợp lý hóa” (VOIR) thành lập Phòng thí nghiệm các phương pháp sáng chế năm 1968 và Học viện công cộng về sáng tạo sáng chế (Public Institute of Inventive Creativity) năm 1971. Người viết, lúc đó đang học ngành vật lý bán dẫn thực nghiệm tại Liên Xô, có may mắn học thêm được khóa đầu tiên của Học viện sáng tạo nói trên, dưới sự hướng dẫn trực tiếp của thầy G.S. Altshuller. Chịu ấn tượng rất sâu sắc do những ích lợi PPLSTVĐM đem lại cho cá nhân mình, bản thân lại mong muốn chia sẻ những gì học được với mọi người, cùng với sự khuyến khích của thầy G.S. Altshuller, năm 1977 người viết đã tổ chức dạy dưới dạng ngoại khóa cho sinh viên các khoa tự nhiên thuộc Đại học tổng hợp TpHCM (nay là Trường đại học khoa học tự nhiên, Đại học quốc gia TpHCM). Những khóa PPLSTVĐM tiếp theo là kết quả của sự cộng tác giữa người viết và Câu lạc bộ thanh niên (nay là Nhà văn hóa thanh niên TpHCM), Ủy ban khoa học và kỹ thuật TpHCM (nay là Sở khoa học và công nghệ TpHCM)... Năm 1991, được sự chấp thuận của lãnh đạo Đại học tổng hợp TpHCM, Trung tâm Sáng tạo Khoa học – kỹ thuật (TSK) hoạt động theo nguyên tắc tự trang trải ra đời và trở thành cơ sở chính thức đầu tiên ở nước ta giảng dạy, đào tạo và nghiên cứu PPLSTVĐM. Đến nay đã có vài chục ngàn người với nghề nghiệp khác nhau thuộc mọi thành phần kinh tế, xã hội, từ Hà Nội đến Cà Mau tham dự các khóa học từng phần hoặc đầy đủ chương trình 120 tiết của TSK dành đào tạo những người sử dụng PPLSTVĐM. TSK cũng tích cực tham gia các hoạt động quốc tế như công bố các công trình nghiên cứu khoa học dưới dạng các báo cáo, báo cáo chính (keynotes) tại các hội nghị, các bài báo đăng trong các tạp chí chuyên ngành và giảng dạy PPLSTVĐM cho các cán bộ quản lý, giảng dạy, nghiên cứu ở nước ngoài theo lời mời. Năm 2000, tại Mỹ, nhà xuất bản Kendall/Hunt Publishing Company xuất bản quyển sách “Facilitative Leadership: Making a Difference with Creative Problem Solving” (Tạm dịch là “Lãnh đạo hỗ trợ: Tạo sự khác biệt nhờ giải quyết vấn đề một cách sáng tạo”) do tiến sỹ Scott G. Isaksen làm chủ biên. Ở các trang 219, 220, dưới tiêu đề Các tổ chức sáng tạo (Creativity Organizations) có đăng danh sách đại biểu các tổ chức hoạt động trong lĩnh vực sáng tạo và đổi mới trên thế giới. Trong 17 tổ chức được nêu tên, TSK là tổ chức duy nhất ở châu Á. Bộ sách “Sáng tạo và đổi mới” gồm những quyển sách trình bày tương đối chi tiết và hệ thống dựa theo giáo trình môn học dành đào tạo những người sử dụng PPLSTVĐM, được các giảng viên của Trung tâm Sáng tạo Khoa học – kỹ thuật (TSK) dạy ở nước ta trong các lớp do TSK mở và theo lời mời của các cơ quan, trường học, tổ chức, công ty. Những quyển sách này được biên soạn nhằm phục vụ đông đảo bạn đọc muốn tìm hiểu môn học PPLSTVĐM trong khi chưa có điều kiện đến lớp học và các cựu học viên muốn có thêm các tài liệu giúp nhớ lại để áp dụng các kiến thức đã học tốt hơn. PPLSTVĐM, tương tự như các môn học đòi hỏi thực hành và luyện tập nhiều như thể thao chẳng hạn, rất cần sự tương tác trực tiếp giữa các huấn luyện viên và học viên mà đọc sách không thôi chắc chắn còn chưa đủ. Tuy đây không phải là những quyển sách tự học để sử dụng PPLSTVĐM, lại càng không phải để trở thành cán bộ giảng dạy, nghiên cứu, người viết không loại trừ, có những bạn đọc với các nỗ lực của riêng mình có thể rút ra và áp dụng thành công nhiều điều từ sách vào cuộc sống và công việc. Người viết cũng rất hy vọng có nhiều bạn đọc như vậy. Các quyển sách của bộ sách “Sáng tạo và đổi mới” không chỉ trình bày hệ thống các phương pháp và các kỹ năng cụ thể dùng để sáng tạo và đổi mới mà còn có những phần được biên soạn nhằm tác động tốt lên nhận thức, quan niệm, thái độ và xúc cảm của bạn đọc, là những yếu tố rất cần thiết thúc đẩy những hành động áp dụng PPLSTVĐM vào cuộc sống, công việc. Nói cách khác, PPLSTVĐM còn góp phần hình thành, xây dựng, củng cố và phát triển những phẩm chất của nhân cách sáng tạo ở người học. Dự kiến, bộ sách “Sáng tạo và đổi mới” sẽ gồm những quyển sách trình bày từ đơn giản đến phức tạp, từ những kiến thức cơ sở đến những kiến thức ứng dụng của PPLSTVĐM với các tên sách sau: Giới thiệu: Phương pháp luận sáng tạo và đổi mới. Thế giới bên trong con người sáng tạo. Tư duy lôgích, biện chứng và hệ thống. Các thủ thuật (nguyên tắc) sáng tạo cơ bản (1). Các thủ thuật (nguyên tắc) sáng tạo cơ bản (2). Các phương pháp sáng tạo. Các quy luật phát triển hệ thống. Hệ thống các chuẩn dùng để giải các bài toán sáng chế. Algôrit (Algorithm) giải các bài toán sáng chế (ARIZ). Phương pháp luận sáng tạo và đổi mới: Những điều muốn nói thêm. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, xã hội loài người trong quá trình phát triển trải qua bốn thời đại hay nền văn minh (làn sóng phát triển): Nông nghiệp, công nghiệp, thông tin và tri thức. Nền văn minh nông nghiệp chấm dứt thời kỳ săn bắn, hái lượm, du cư bằng việc định cư, trồng trọt và chăn nuôi, sử dụng các công cụ lao động còn thủ công. Nền văn minh công nghiệp cho thấy, mọi người lao động bằng các máy móc hoạt động bằng năng lượng ngoài cơ bắp, giúp tăng sức mạnh và nối dài đôi tay của con người. Ở thời đại thông tin, máy tính, các mạng lưới thông tin giúp tăng sức mạnh, nối dài các bộ phận thu, phát thông tin trên cơ thể người như các giác quan, tiếng nói, chữ viết... và một số hoạt động lôgích của bộ não. Nhờ công nghệ thông tin, thông tin trở nên truyền, biến đổi nhanh, nhiều, lưu trữ gọn, truy cập dễ dàng. Tuy nhiên, trừ loại thông tin có ích lợi thấy ngay đối với người nhận tin, các loại thông tin khác vẫn phải cần bộ não của người nhận tin xử lý, biến đổi để trở thành thông tin có ý nghĩa và ích lợi (tri thức) cho người có thông tin. Nếu người có thông tin không làm được điều này trong thời đại bùng nổ thông tin thì có thể trở thành bội thực thông tin nhưng đói tri thức, thậm chí ngộ độc vì nhiễu thông tin và chết đuối trong đại dương thông tin mà không khai thác được gì từ đại dương giàu có đó. Thời đại tri thức mà thực chất là thời đại sáng tạo và đổi mới, ở đó đông đảo quần chúng sử dụng PPLSTVĐM được dạy và học đại trà để biến thông tin thành tri thức với các ích lợi toàn diện, không chỉ riêng về mặt kinh tế. Nói cách khác, PPLSTVĐM là hệ thống các công cụ dùng để biến đổi thông tin thành tri thức, tri thức đã biết thành tri thức mới. Rất tiếc, ở nước ta hiện nay chưa chính thức đào tạo các cán bộ giảng dạy, nghiên cứu Sáng tạo học và PPLSTVĐM với các bằng cấp tương ứng: Cử nhân, thạc sỹ và tiến sỹ như một số nước tiên tiến trên thế giới. Người viết tin rằng sớm hay muộn, những người có trách nhiệm quyết định sẽ phải để tâm đến vấn đề này và “sớm” chắc chắn tốt hơn “muộn”. Hy vọng rằng, PPLSTVĐM nói riêng, Sáng tạo học nói chung sẽ có chỗ đứng xứng đáng, trước hết, trong chương trình giáo dục và đào tạo của nước ta trong tương lai không xa. Người viết gởi lời cảm ơn chung đến các đồng nghiệp trong nước và quốc tế, các cựu học viên đã động viên, khuyến khích để bộ sách “Sáng tạo và đổi mới” ra đời. Người viết cũng chân thành cảm ơn sự cộng tác nhiệt tình của các cán bộ Trung tâm Sáng tạo Khoa học – kỹ thuật (TSK) thuộc Trường đại học khoa học tự nhiên, Đại học quốc gia TpHCM: Th.S. Trần Thế Hưởng, Th.S. Vương Huỳnh Minh Triết, Th.S. Lê Minh Sơn, anh Nguyễn Hoàng Tuấn, đặc biệt là Th.S. Lê Minh Sơn đã dành rất nhiều thời gian và công sức cho việc trình bày bộ sách này trên máy tính. Trung tâm Sáng tạo Khoa học – kỹ thuật (TSK) Trường đại học khoa học tự nhiên – Đại học quốc gia TpHCM 227 Nguyễn Văn Cừ, Q.5, Tp.HCM ĐT: (848) 38301743 FAX: (848) 38350096 E-mail: [email protected] Website: www.hcmus.edu.vn/CSTC/home-v.htm (tiếng Việt) hoặc www.cstc.vn www.hcmus.edu.vn/CSTC/home-e.htm (tiếng Anh) Phan Dũng Mời các bạn đón đọc Các Phương Pháp Sáng Tạo của tác giả Phan Dũng.
Algorit Giải Các Bài Toán Sáng Chế
“Cuộc đời của mỗi người là chuỗi các vấn đề cần giải quyết, chuỗi các quyết định cần phải ra. Mỗi người cần giải quyết tốt các vấn đề và ra các quyết định đúng”. “Cuộc đời của mỗi người là quá trình liên tục biến đổi thông tin thành tri thức và tri thức đã biết thành tri thức mới”. “Cuộc đời của mỗi người phải là chuỗi những sáng tạo và đổi mới hoàn toàn”. Phương pháp luận sáng tạo và đổi mới xây dựng và trang bị loại tư duy: “Nhìn xa, trông rộng, xem xét toàn diện, thấy và hành động giải quyết các mâu thuẫn để đưa các hệ liên quan phát triển theo các quy luật phát triển hệ thống”. LỜI NÓI ĐẦU CỦA BỘ SÁCH“SÁNG TẠO VÀ ĐỔI MỚI” (CREATIVITY AND INNOVATION) Phương pháp luận sáng tạo và đổi mới (viết tắt là PPLSTVĐM, tiếng Anh là Creativity and Innovation Methodologies) là phần ứng dụng của Khoa học về sáng tạo (Sáng tạo học, tên cổ điển – Heuristics, tên hiện đại – Creatology), gồm hệ thống các phương pháp và các kỹ năng cụ thể giúp nâng cao năng suất và hiệu quả, về lâu dài tiến tới điều khiển tư duy sáng tạo (quá trình suy nghĩ giải quyết vấn đề và ra quyết định) của người sử dụng. Suốt cuộc đời, mỗi người chúng ta dùng suy nghĩ rất nhiều, nếu không nói là hàng ngày. Từ việc trả lời những câu hỏi bình thường như “Hôm nay ăn gì? mặc gì? làm gì? mua gì? xem gì? đi đâu?...” đến làm các bài tập thầy, cô cho khi đi học; chọn ngành nghề đào tạo; lo sức khỏe, việc làm, thu nhập, hôn nhân, nhà ở; giải quyết các vấn đề nảy sinh trong công việc, trong quan hệ xã hội, gia đình, nuôi dạy con cái..., tất tần tật đều đòi hỏi phải suy nghĩ và chắc rằng ai cũng muốn mình suy nghĩ tốt, ra những quyết định đúng để “đời là bể khổ” trở thành “bể sướng”. Chúng ta tuy được đào tạo và làm những nghề khác nhau nhưng có lẽ có một nghề chung, giữ nguyên suốt cuộc đời, cần cho tất cả mọi người. Đó là “nghề” suy nghĩ và hành động giải quyết các vấn đề gặp phải trong suốt cuộc đời nhằm thỏa mãn các nhu cầu chính đáng của cá nhân mình, đồng thời thỏa mãn các nhu cầu để xã hội tồn tại và phát triển. Nhìn dưới góc độ này, PPLSTVĐM giúp trang bị loại nghề chung nói trên, bổ sung cho giáo dục, đào tạo hiện nay, chủ yếu, chỉ đào tạo các nhà chuyên môn. Nhà chuyên môn có thể giải quyết tốt các vấn đề chuyên môn nhưng nhiều khi không giải quyết tốt các vấn đề ngoài chuyên môn, do vậy, không thực sự hạnh phúc như ý. Các nghiên cứu cho thấy, phần lớn mọi người thường suy nghĩ một cách tự nhiên như đi lại, ăn uống, hít thở mà ít khi suy nghĩ về chính suy nghĩ của mình, xem nó hoạt động ra sao để cải tiến, làm suy nghĩ của mình trở nên tốt hơn, như người ta thường chú ý cải tiến các dụng cụ, máy móc dùng trong sinh hoạt và công việc. Cách suy nghĩ tự nhiên nói trên có năng suất, hiệu quả rất thấp và nhiều khi trả giá đắt cho các quyết định sai. Nói một cách nôm na, cách suy nghĩ tự nhiên ứng với việc lao động bằng xẻng thì PPLSTVĐM là máy xúc với năng suất và hiệu quả cao hơn nhiều. Nếu xem bộ não của mỗi người là máy tính tinh xảo – đỉnh cao tiến hóa và phát triển của tự nhiên thì phần mềm (cách suy nghĩ) tự nhiên đi kèm với nó chỉ khai thác một phần rất nhỏ tiềm năng của bộ não. PPLSTVĐM là phần mềm tiên tiến giúp máy tính – bộ não hoạt động tốt hơn nhiều. Nếu như cần “học ăn, học nói, học gói, học mở” thì “học suy nghĩ” cũng cần thiết cho tất cả mọi người. PPLSTVĐM dạy và học được như các môn học truyền thống: Toán, lý, hóa, sinh, tin học, quản trị kinh doanh... Trên thế giới, nhiều trường và công ty đã bắt đầu từ lâu và đang làm điều đó một cách bình thường. Dưới đây là vài thông tin về PPLSTVĐM trên thế giới và ở nước ta. Từ những năm 1950, ở Mỹ và Liên Xô đã có những lớp học dạy thử nghiệm PPLSTVĐM. Dưới ảnh hưởng của A.F. Osborn, phó chủ tịch công ty quảng cáo BBD & O và là tác giả của phương pháp não công (Brainstorming) nổi tiếng, Trung tâm nghiên cứu sáng tạo (Center for Studies in Creativity) được thành lập năm 1967 tại Đại học Buffalo, bang New York. Năm 1974, Trung tâm nói trên bắt đầu đào tạo cử nhân khoa học và năm 1975 – thạc sỹ khoa học về sáng tạo và đổi mới (BS, MS in Creativity and Innovation). Ở Liên Xô, G.S. Altshuller, nhà sáng chế, nhà văn viết truyện khoa học viễn tưởng và là tác giả của Lý thuyết giải các bài toán sáng chế (viết tắt theo tiếng Nga và chuyển sang ký tự Latinh – TRIZ) cộng tác với “Hiệp hội toàn liên bang các nhà sáng chế và hợp lý hóa” (VOIR) thành lập Phòng thí nghiệm các phương pháp sáng chế năm 1968 và Học viện công cộng về sáng tạo sáng chế (Public Institute of Inventive Creativity) năm 1971. Người viết, lúc đó đang học ngành vật lý bán dẫn thực nghiệm tại Liên Xô, có may mắn học thêm được khóa đầu tiên của Học viện sáng tạo nói trên, dưới sự hướng dẫn trực tiếp của thầy G.S. Altshuller. Chịu ấn tượng rất sâu sắc do những ích lợi PPLSTVĐM đem lại cho cá nhân mình, bản thân lại mong muốn chia sẻ những gì học được với mọi người, cùng với sự khuyến khích của thầy G.S. Altshuller, năm 1977 người viết đã tổ chức dạy dưới dạng ngoại khóa cho sinh viên các khoa tự nhiên thuộc Đại học tổng hợp TpHCM (nay là Trường đại học khoa học tự nhiên, Đại học quốc gia TpHCM). Những khóa PPLSTVĐM tiếp theo là kết quả của sự cộng tác giữa người viết và Câu lạc bộ thanh niên (nay là Nhà văn hóa thanh niên TpHCM), Ủy ban khoa học và kỹ thuật TpHCM (nay là Sở khoa học và công nghệ TpHCM)... Năm 1991, được sự chấp thuận của lãnh đạo Đại học tổng hợp TpHCM, Trung tâm Sáng tạo Khoa học – kỹ thuật (TSK) hoạt động theo nguyên tắc tự trang trải ra đời và trở thành cơ sở chính thức đầu tiên ở nước ta giảng dạy, đào tạo và nghiên cứu PPLSTVĐM. Đến nay đã có vài chục ngàn người với nghề nghiệp khác nhau thuộc mọi thành phần kinh tế, xã hội, từ Hà Nội đến Cà Mau tham dự các khóa học từng phần hoặc đầy đủ chương trình 120 tiết của TSK dành đào tạo những người sử dụng PPLSTVĐM. TSK cũng tích cực tham gia các hoạt động quốc tế như công bố các công trình nghiên cứu khoa học dưới dạng các báo cáo, báo cáo chính (keynotes) tại các hội nghị, các bài báo đăng trong các tạp chí chuyên ngành và giảng dạy PPLSTVĐM cho các cán bộ quản lý, giảng dạy, nghiên cứu ở nước ngoài theo lời mời. Năm 2000, tại Mỹ, nhà xuất bản Kendall/Hunt Publishing Company xuất bản quyển sách “Facilitative Leadership: Making a Difference with Creative Problem Solving” (Tạm dịch là “Lãnh đạo hỗ trợ: Tạo sự khác biệt nhờ giải quyết vấn đề một cách sáng tạo”) do tiến sỹ Scott G. Isaksen làm chủ biên. Ở các trang 219, 220, dưới tiêu đề Các tổ chức sáng tạo (Creativity Organizations) có đăng danh sách đại biểu các tổ chức hoạt động trong lĩnh vực sáng tạo và đổi mới trên thế giới. Trong 17 tổ chức được nêu tên, TSK là tổ chức duy nhất ở châu Á. Bộ sách “Sáng tạo và đổi mới” gồm những quyển sách trình bày tương đối chi tiết và hệ thống dựa theo giáo trình môn học dành đào tạo những người sử dụng PPLSTVĐM, được các giảng viên của Trung tâm Sáng tạo Khoa học – kỹ thuật (TSK) dạy ở nước ta trong các lớp do TSK mở và theo lời mời của các cơ quan, trường học, tổ chức, công ty. Những quyển sách này được biên soạn nhằm phục vụ đông đảo bạn đọc muốn tìm hiểu môn học PPLSTVĐM trong khi chưa có điều kiện đến lớp học và các cựu học viên muốn có thêm các tài liệu giúp nhớ lại để áp dụng các kiến thức đã học tốt hơn. PPLSTVĐM, tương tự như các môn học đòi hỏi thực hành và luyện tập nhiều như thể thao chẳng hạn, rất cần sự tương tác trực tiếp giữa các huấn luyện viên và học viên mà đọc sách không thôi chắc chắn còn chưa đủ. Tuy đây không phải là những quyển sách tự học để sử dụng PPLSTVĐM, lại càng không phải để trở thành cán bộ giảng dạy, nghiên cứu, người viết không loại trừ, có những bạn đọc với các nỗ lực của riêng mình có thể rút ra và áp dụng thành công nhiều điều từ sách vào cuộc sống và công việc. Người viết cũng rất hy vọng có nhiều bạn đọc như vậy. Các quyển sách của bộ sách “Sáng tạo và đổi mới” không chỉ trình bày hệ thống các phương pháp và các kỹ năng cụ thể dùng để sáng tạo và đổi mới mà còn có những phần được biên soạn nhằm tác động tốt lên nhận thức, quan niệm, thái độ và xúc cảm của bạn đọc, là những yếu tố rất cần thiết thúc đẩy những hành động áp dụng PPLSTVĐM vào cuộc sống, công việc. Nói cách khác, PPLSTVĐM còn góp phần hình thành, xây dựng, củng cố và phát triển những phẩm chất của nhân cách sáng tạo ở người học. Dự kiến, bộ sách “Sáng tạo và đổi mới” sẽ gồm những quyển sách trình bày từ đơn giản đến phức tạp, từ những kiến thức cơ sở đến những kiến thức ứng dụng của PPLSTVĐM với các tên sách sau: Giới thiệu: Phương pháp luận sáng tạo và đổi mới. Thế giới bên trong con người sáng tạo. Tư duy lôgích, biện chứng và hệ thống. Các thủ thuật (nguyên tắc) sáng tạo cơ bản (1). Các thủ thuật (nguyên tắc) sáng tạo cơ bản (2). Các phương pháp sáng tạo. Các quy luật phát triển hệ thống. Hệ thống các chuẩn dùng để giải các bài toán sáng chế. Algôrit (Algorithm) giải các bài toán sáng chế (ARIZ). Phương pháp luận sáng tạo và đổi mới: Những điều muốn nói thêm. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, xã hội loài người trong quá trình phát triển trải qua bốn thời đại hay nền văn minh (làn sóng phát triển): Nông nghiệp, công nghiệp, thông tin và tri thức. Nền văn minh nông nghiệp chấm dứt thời kỳ săn bắn, hái lượm, du cư bằng việc định cư, trồng trọt và chăn nuôi, sử dụng các công cụ lao động còn thủ công. Nền văn minh công nghiệp cho thấy, mọi người lao động bằng các máy móc hoạt động bằng năng lượng ngoài cơ bắp, giúp tăng sức mạnh và nối dài đôi tay của con người. Ở thời đại thông tin, máy tính, các mạng lưới thông tin giúp tăng sức mạnh, nối dài các bộ phận thu, phát thông tin trên cơ thể người như các giác quan, tiếng nói, chữ viết... và một số hoạt động lôgích của bộ não. Nhờ công nghệ thông tin, thông tin trở nên truyền, biến đổi nhanh, nhiều, lưu trữ gọn, truy cập dễ dàng. Tuy nhiên, trừ loại thông tin có ích lợi thấy ngay đối với người nhận tin, các loại thông tin khác vẫn phải cần bộ não của người nhận tin xử lý, biến đổi để trở thành thông tin có ý nghĩa và ích lợi (tri thức) cho người có thông tin. Nếu người có thông tin không làm được điều này trong thời đại bùng nổ thông tin thì có thể trở thành bội thực thông tin nhưng đói tri thức, thậm chí ngộ độc vì nhiễu thông tin và chết đuối trong đại dương thông tin mà không khai thác được gì từ đại dương giàu có đó. Thời đại tri thức mà thực chất là thời đại sáng tạo và đổi mới, ở đó đông đảo quần chúng sử dụng PPLSTVĐM được dạy và học đại trà để biến thông tin thành tri thức với các ích lợi toàn diện, không chỉ riêng về mặt kinh tế. Nói cách khác, PPLSTVĐM là hệ thống các công cụ dùng để biến đổi thông tin thành tri thức, tri thức đã biết thành tri thức mới. Rất tiếc, ở nước ta hiện nay chưa chính thức đào tạo các cán bộ giảng dạy, nghiên cứu Sáng tạo học và PPLSTVĐM với các bằng cấp tương ứng: Cử nhân, thạc sỹ và tiến sỹ như một số nước tiên tiến trên thế giới. Người viết tin rằng sớm hay muộn, những người có trách nhiệm quyết định sẽ phải để tâm đến vấn đề này và “sớm” chắc chắn tốt hơn “muộn”. Hy vọng rằng, PPLSTVĐM nói riêng, Sáng tạo học nói chung sẽ có chỗ đứng xứng đáng, trước hết, trong chương trình giáo dục và đào tạo của nước ta trong tương lai không xa. Người viết gởi lời cảm ơn chung đến các đồng nghiệp trong nước và quốc tế, các cựu học viên đã động viên, khuyến khích để bộ sách “Sáng tạo và đổi mới” ra đời. Người viết cũng chân thành cảm ơn sự cộng tác nhiệt tình của các cán bộ Trung tâm Sáng tạo Khoa học – kỹ thuật (TSK) thuộc Trường đại học khoa học tự nhiên, Đại học quốc gia TpHCM: Th.S. Trần Thế Hưởng, Th.S. Vương Huỳnh Minh Triết, Th.S. Lê Minh Sơn, anh Nguyễn Hoàng Tuấn, đặc biệt là Th.S. Lê Minh Sơn đã dành rất nhiều thời gian và công sức cho việc trình bày bộ sách này trên máy tính. Trung tâm Sáng tạo Khoa học – kỹ thuật (TSK) Trường đại học khoa học tự nhiên – Đại học quốc gia TpHCM 227 Nguyễn Văn Cừ, Q.5, Tp.HCM ĐT: (848) 38301743 FAX: (848) 38350096 E-mail: [email protected] Website: www.hcmus.edu.vn/CSTC/home-v.htm (tiếng Việt) hoặc www.cstc.vn www.hcmus.edu.vn/CSTC/home-e.htm (tiếng Anh) Phan Dũng Mời các bạn đón đọc Algorit Giải Các Bài Toán Sáng Chế của tác giả Phan Dũng.
Ký Giả Chuyên Nghiệp: Lý thuyết và Thực hành trong các ngành Truyền Thông Đại Chúng
LỜI DỊCH GIẢ KÝ GIẢ CHUYÊN NGHIỆP là bản dịch cuốn THE PROFESSIONAL JOURNALIST của John Hohenherg, một cuốn sách đang được sinh viên báo chí học và các giới trong các ngành truyền thông đại chúng tìm đọc. Tác giả là giáo sư Báo Chí Học tại Trường Cao Học Báo Chí, Viện Đại Học Columbia, New York từ 1950, và từ 1954 đến nay, Ông là Thư Ký Ủy Ban Cố Vấn các giải thưởng Pulitzer do Viện Đại Học này quản trị. Trước khi đảm nhiệm những chức vụ kể trên, John Hohenherg đã từng là ký giả, trong 25 năm, hoạt động ở Hoa Kỳ cũng như ở ngoại quốc. Năm 1963, ông đã thực hiện một cuộc hành trình qua nhiều thành phố ở Viễn Đông và Nam Á với tư cách một chuyên viên của Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ. Nhờ cuộc hành trình này, ông đã viết được cuốn Between Two Worlds (Giữa Hai Thế Giới) trong đó ông trình bày những liên lạc giữa Á Châu và Hoa Kỳ qua các chính sách, báo chí và dư luận quần chúng. Ngoài ra, ông còn là chuyên viên nghiên cứu báo chí của Trung Tâm Đông Tây (East-West Center) ở Honolulu, Hawaii. Ông viết nhiều cuốn sách chuyên về báo chí học trong số đó có những cuốn: Foreign Correspondence: The Great Reporters and Their Times; The News Media: A Journalist Looks at His Profession; The Pulitzer Prize Story, vân vân. Nhờ những công trình đặc biệt đóng góp cho bộ môn báo chí học, John Hohenherg đã được hai lần giải thưởng Sigma Delta Chi trong những năm 1965 và 1968. Cuốn sách mà chúng tôi phiên dịch đây là nhuận bản lần thứ ba của cuốn THE PROEESSIONAL JOURNALIST do nhà xuất bản Holt, Rinehart và Winston ở Hoa Kỳ phát hành trong năm 1973. Ấn bản thứ nhất đã được ra mắt từ 1960 và được coi như là một tài liêu giáo khoa căn bản cho những ai muốn theo học ngành báo chí. Nhuận bản năm 1969 với nhiều sửa chữa và nhiều tài liệu mới cũng rất được hoan nghênh. So với những bản trước, bản này phong phú hơn nhiều vì trong lời tựa tác giả cho biết có đưa thêm vào rất nhiều tài liệu được cập nhật hóa và thí dụ mới, đề cập nhiều hơn đến các bộ môn truyền thanh, truyền hình, quảng cáo, giao tế quần chúng cũng như các vấn đề mới trong xã hội (tiêu thụ, sinh thái học, vân vân), nghiên cứu sâu rộng hơn các vấn đề xâm phạm đời tư, tự do thông tin và nhất là công việc thâu thập và soạn thảo tin tức, công việc chính yếu của người làm báo. Chúng tôi nhận thấy trong tác phẩm của John Hohenherg, của một người từng lăn lóc nhiều năm trong nghề và hiện đang giữ một địa vị quan trọng trong ngành giáo dục báo chí Mỹ, có nhiều điều hữu ích cho những người muốn tìm hiểu nghề làm báo và làm tin tức trong các bộ môn truyền thông đại chúng nên cố gắng phiên dịch ra Việt ngữ. Tuy nhiên, trong cuốn THE PROFESSIONAL JOURNALIST, vì được soạn thảo cho những người làm báo Anh ngữ nên có một số chi tiết không thích hợp với giới làm báo Việt ngữ ở đây, nhất là những đoạn nói về việc sử dụng Anh ngữ. Bởi vậy, chúng tôi đã bỏ hẳn một số đoạn văn không dịch hoặc chỉ lược dịch một số đoạn văn khác. Dĩ nhiên, đó là công việc giản lược duy nhất và tối thiểu đối với tác phẩm giá trị này. Chúng tôi ước mong cuốn sách dịch này sẽ giúp ích được phần nào cho những ai muốn tìm hiểu kỹ thuật làm báo của nước người đề đem ứng dụng vào nghề này của nước ta ngõ hầu mang lại vài cải tiến nghề nghiệp trong làng báo Việt Nam.   L.T.B. và L.Đ.Đ. *** Trong những năm gần đây, ngành báo chí đã phát triển với quá nhiều chủ đề, vấn đề, thái độ và phương pháp mới khiến cho tôi phải hiệu đính phần lớn cuốn sách THE PROFESSIONAL JOURNALIST trong lần nhuận bản thứ ba này. Cuộc tranh đấu về “quyền được biết” (right to know) của nhân dân đã trở nên gay cấn. Tư thế của nền báo chí tự do và của nhà báo độc lập đã trở thành khó khăn hơn. Kỹ thuật tiến triển mạnh làm cho các phương pháp sản xuất báo chí thay đổi nhanh chóng, nhất là với phong trào bành trướng mạnh ra ngoài trung tâm thành phố và vài ba “tá” băng tần trên đài truyền hình không còn là một ước mơ nữa. Tất nhiên, tinh thần thay đổi trong kỷ nguyên hỗn loạn này đã có ảnh hưởng đến công cuộc giáo dục báo chí ở Hoa Kỳ. Nó sẽ được phản ánh qua những trang sau đây. Trong nhuận bản kỳ này, tôi đã thực hiện hàng trăm sự thay đổi, kèm nhiều thí dụ mới và nhiều trường hợp lịch sử. Những phần về phóng sự điều tra (investigative reporting) và dịch vụ công cộng của báo chí đã được mở rộng thêm cũng như phần nói về luật lệ báo chí bởi vì có sự thay đổi thái độ của tòa án và những phán quyết mới được để lại. Thêm vào đó, có những tài liệu mới về những phần chuyên biệt như giới tiêu thụ hàng hóa, sinh thái học, hội đồng báo chí (press councils) và việc sử dụng những văn kiện “mật”, cùng với những cuộc thảo luận về công việc của các “ký giả mới” (new journalists) và những vấn đề của báo chí truyền thanh và truyền hình. Cuộc phóng người lên cung trăng, những cuộc bang giao mới giữa Hoa Kỳ, Trung Hoa (lục địa) và Nga Sô cùng việc chú tâm đến một lối sống khả quan hơn cho tất cả mọi người Mỹ đã đem đến những kích thước mới cho công việc của ký giả như đã thấy qua vài thành tích mới đây trong công việc của cả báo in lẫn báo phát thanh. Sau hết, trong lần nhuận bản này, tôi dựa nhiều hơn vào những tài liệu của các giải thưởng Pulitzer, đặc biệt là những tài liệu mới với cố gắng là nâng cao những tiêu chuẩn nghề nghiệp của ký giả. Hiệu đính cuốn sách này là công việc thích thú, trước hết bởi vì ấn bản đầu tiên đã được nhiều trường cũng như nhiều tổ chức nghề nghiệp chấp nhận trong chương trình giảng huấn. Về thực chất và các kỹ thuật của nghề báo, trọng điểm vẫn được đặt vào những tiêu chuẩn nghề nghiệp được đem ứng dụng cho các báo ngoại ô và báo tỉnh nhỏ (suburban and small city newspapers) và báo chí phát thanh (broadcast journalism) trong tất cả các giai đoạn. Từ khi đề tài phê bình xã hội (social crititism) đã được trình bày trong cuốn Các Phương Tiện Truyền Thông (The Mass Media), một cuốn sách dùng kèm với cuốn này, đề tài đó thật ra ít được đề cập đến ở đây nhưng không phải là gạt bỏ hẳn. Trong nhuận bản lần này, trách nhiệm báo chí phục vụ quần chúng, tường thuật dư luận, làm tin ở thủ đô Washington và làm thông tín viên hải ngoại, cùng sự quan tâm liên tục về tự do báo chí và xử án công bằng. Nhuận bản mới cũng đề cập nhiều hơn đến sự thực hành và nội dung công việc của báo chí và hãng thông tấn rất ích lợi cho báo đô thị lẫn báo tỉnh và báo ngoại ô. Làm tin về những cuộc xáo trộn trong dân chúng là một trường hợp thích đáng trong lúc này. Cuộc tranh đấu cho bình đẳng là một trường hợp thích đáng khác. Còn nhiều trường hợp nữa mà phần lớn là những vấn đề xã hội to tát của thời đại chúng ta. Cuốn sách được chia làm bốn phần. Phần I trình bày một khái niệm về công việc của ký giả và những phương tiện chính của anh như ngôn ngữ, phương pháp và những thủ tục căn bản. Phần II nói về cách thức sử dụng những phương pháp đó trong ngành báo in cũng như trong ngành bá âm. Phần III chuyên chú vào phóng viên, phần tử nòng cốt của mọi bộ môn báo chí, và bàn về những trách nhiệm, lề lối hành nghề, luân lý chức nghiệp của anh cũng như các luật lệ chi phối báo chí. Phần IV nói đến những khía cạnh mới của báo chí Mỹ, tư trào phục vụ công ích trong các ngành truyền thông, các cách dùng tin đào sâu (depth reporting), diễn giải (interpretation) và phân tích (analysis) trong các cột báo dành cho tin tức (news columns), làm tin về các vấn đề của giới tiêu thụ hàng hóa, về sinh thái học (ecology) cũng như các lãnh vực chuyên biệt khác cùng những thái độ luôn luôn biến chuyển và những đòi hỏi của nghề nghiệp. Tóm lại, hơn 75 trang tài liệu mới và thí dụ mới đã được đem vào nhuận bản lần này. Tôi đặc biệt tri ân Tiến Sĩ Theodore Peterson, Khoa Trưởng Trường Báo Chí và Truyền Thông, Viện Đại Học Illinois, các giáo sư John B. Bremner, thuộc Viện Đại Học Kansas, và Henry F. Schulte, thuộc Viện Đại Học Syracuse, về những lời chỉ dẫn quí báu trong khi làm công việc hiệu đính. Tôi cũng tri ân những vị đã được đề tặng trên cuốn sách này. Tôi chân thành cảm ơn về sự giúp đỡ tài liệu của những vị sau đây: William Attwood, chủ nhiệm tờ Newsday ở Garden City, New York; Floyd Barger, chủ bút tờ New York Daily News; Barry Bingham Jr., chủ nhiệm và Geoffrey Vincent, chủ bút chủ nhật tờ Louisville Courier Journal và Times; Malcolm A. Borg, phó chủ tịch chấp hành tờ The Record ở New Jersey; Benjamin C. Bradlee, chủ bút tờ Washington Post; Wallace Carroll, Chủ bút tờ Winston-Salem Journal and Sentinel ở Bắc Carolina; Otis Chandler, chủ bút tờ Los Angeles Times; Norman A. Cherniss, chủ bút tờ Riverside Press-Enterprise ở California; Edward R. Cony, chủ bút tờ Wall Street Journal; Reuyen Frank, chủ tịch phân bộ tin tức của hãng NBC; Wes Gallagher, chủ tịch hãng thông tấn The Associated Press, và John O. Koehler, tổng quản trị hãng này; Evarts A. Graham Jr., tổng thư ký tòa soạn tờ Saint Louis Post Dispatch, và David Lipman, phó tổng thư ký tòa soạn báo này; Martin s. Havden, chủ bút tờ Detroit News; James F. Hoge Jr. chủ bút từ Chicago Sun Times; John Hughes, chủ bút tờ Christian Science Monitor; Clayton Kirkpatrick, chủ bút tờ Chicago Tribune; Arthur E. Mayhew, chủ bút tờ Delaware County Times ở Pennsylvania; Bruce H. Mclntyre, chủ bút tờ Pontiac Press ở Michigan; John E. McMullan, chủ bút tờ Philadelphia Inquirer; George Merlis, trong hãng American Broadcasting Company; A.M. Rosenthal, tổng thư ký tòa soạn tờ The New York Times; Richard S. Salant, chủ tịch phân bộ tin tức hãng truyền hình CBS; H.L. Stevenson, chủ bút hãng thông tấn United Press International; Gordon Pates, tổng thư ký tòa soạn tờ San Francisco Chronicle, và Thomas Winship, chủ bút tờ The Boston Globe. Dĩ nhiên, quí vị không phải chịu trách nhiệm về những điều viết trong sách này và tác quyền về những tài liệu được in lại ở đây đã được các tổ chức liên hệ chấp thuận. Lòng tri ân sâu xa nhất, một lân nữa được gửi đến tiện nội Dorothy Lannuier Hohenherg. Đối với thế hệ ký giả mới, tôi xin chúc các bạn may mắn, mạnh khỏe và đạt nhiều thành tích. Viện Đại Học Columbia John Hohenherg Tháng Tám 1972 Mời các bạn đón đọc Ký Giả Chuyên Nghiệp: Lý thuyết và Thực hành trong các ngành Truyền Thông Đại Chúng của tác giả John Hohenberg.